Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan những thông tin, số liệu được sử dụng trong chuyên đề này là xác thực và không bị chỉnh sửa. Các tài liệu được sử dụng để phục vụ cho quá trình xây dựng đề tài là những tài liệu được phép công khai minh bạch. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm liên quan tới tính xác thực và tính công khai của các tài liệu được sử dụng trong chuyên đề. Ngoài ra, chuyên đề này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi, vì vậy mọi đánh giá, nhận xét được đưa ra dựa trên quan điểm cá nhân của t
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1561 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôi. Tôi chịu trách nhiệm về các đánh giá này nhưng không chịu trách nhiệm về tính khách quan của các đánh giá và phân tích trong chuyên đề này do các đánh giá, phân tích được đưa ra dựa trên đánh giá chủ quan của cá nhân người viết là tôi. Tất cả các nội dung của đề tài được xây dựng dựa trên những khảo sát và đánh giá của tôi, do vậy, các thông tin trong tài liệu có thể trùng lặp với thông tin hiện có. Nhưng tôi xin cam đoan, mọi đánh giá, phân tích, nhận xét cũng như các ý tưởng, đề xuất trong chuyên đề này là do tôi tự xây dựng và nghiên cứu và cam kết không có sự sao chép từ bất cứ một nguồn tài liệu nào. Tôi xin chịu trách nhiệm cho toàn bộ những vấn đề đã được cam kết ở trên trước Nhà Trường, Khoa Kế hoạch – Phát triển và giảng viên hướng dẫn PGS.TS. Phạm Văn Vận.
Hà Nội, ngày 8 tháng 5 năm 2010
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Tuấn Việt
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm1986, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đât nước với phương châm chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà nước đã khẳng định phát huy mọi nguồn lực trong nước đồng thời kết hợp tận dụng thời cơ quốc tế tiến hành thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thành công với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Qua những đổi mới kịp thời, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành quả đáng khích lệ: Tăng trưởng kinh tế cao, quan hệ quốc tế được mở rộng, ổn định chính trị và xã hội, đẵ có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng cao...
Đạt được những thành quả đó là nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta nói chung và của các thành phần kinh tế nói riêng. Những thành quả ấy có sự đóng góp không nhỏ của loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNVVN).
DNVVN có một vai trò quan trọng trong sự nghiệp Công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Điều đó đẵ được cụ thể hoá trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII “... phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là chính, với công nghệ thích hợp, vốn đầu tư ít, tạo nhiều việc làm, thời gian thu hồi vốn nhanh. Chú trọng đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị nhằm khai thác có hiệu quả năng lực thiết bị hiên có…” ( Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, 1996, tr23). DNVVN có những ưu điểm nổi bật mà các loại hình doanh nghiệp khác không có được, đặc biệt trong thời kì chuyển đổi hiện nay ở đất nước ta như có sức năng động, có khả năng thích nghi, dễ thay đổi công nghệ, hiệu quả đầu tư tương đối cao, dễ quản lý...
Song, DNVVN hiện nay còn ít vốn, trình độ khoa học công nghệ hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao sức canh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như quốc tế, hiệu quả sử dụng vốn thấp... Nói tóm lại DNVVN chưa phát huy hết vai trò to lớn của mình, ít được sự ưu ái của các ngân hàng, khó liên doanh liên kết và còn hạn chế về chính sách hỗ trợ vĩ mô của Nhà nước. Xuất phát từ tình hình thực tế Đất nước nói chung, tình hình DNVVN ở Hà Nội nói riêng, em đã lựa chọn đề tài: “Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp” với mục đích:
- Đánh giá một cách khách quan, đúng đắn thực trạng của DNVVN ở Hà Nội và các chính sách hỗ trợ. Qua đó hiểu rõ hơn vai trò to lớn của DNVVN, các chính sách hỗ trợ DNVVN trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp một tiếng nói chung thúc đẩy sự phát triển DNVVN, đưa nền kinh tế đất nước sớm thành công trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
- Nâng cao trình độ lý luận và tư duy khoa học cho bản thân.
Bố cục của chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương sau:
Chương I: Lý luận chung về DNVVN và sự cần thiết hỗ trợ DNVVN.
Chương II: Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội.
Chương III: Một số giải pháp hỗ trợ.
Trong suốt quá trình thực hiện, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, chuyên đề có thể chưa đầy đủ và còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự thông cảm, góp ý xây dựng của quý thầy cô cùng các bạn sinh viên để chuyên đề này được thành công hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Phạm Văn Vận, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn em nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp này.
Sinh viên: Nguyễn Tuấn Việt
Lớp: Kế hoạch 48B
Chương I
Lý luận chung về DNVVN và sự cần thiết hỗ trợ DNVVN
Lý luận chung về DNVVN:
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Hầu hết các nước đều nghiên cứu tiêu thức phân loại DNVVN. Tuy nhiên, không có tiêu thức để phân loại DNVVN cho tất cả các nước và ngay trong một số nước việc phân loại cũng có sự khác nhau tuỳ theo từng thời kỳ, từng ngành nghề, địa bàn...
Có 2 nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại, đó là: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng.
Tiêu thức định tính: Dựa trên những đặc trưng cơ bản của SME như không có vị thế độc quyền trên thị trường, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít,..các tiêu thức này có ưu thế là phản ánh đúng của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó, nó chỉ được làm cơ sở để tham khảo mà ít được sử dụng trên thực tế để phân loại.
Tiêu thức định lượng: Thường sử dụng các tiêu thức như là số lao động thường xuyên và không thường xuyên trong doanh nghiệp, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó:
- Số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế...
- Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản hay vốn cố định, giá trị tài sản còn lại...
- Doanh thu có thể là tổng doanh thu trong một năm, tổng giá trị gia tăng trong một năm(hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ tiêu này).
DNVVN Việt Nam theo định nghĩa tại Nghị định số 56/2009/NĐ-CP “DNVVN là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”. Theo các tiêu chí cụ thể xác định quy mô doanh nghiệp quy định tại Nghị định này thì DNNVV có thể là các doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người hoặc tổng nguồn vốn dưới 100 tỷ đồng đối với khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản, hoặc lao động dưới 100 người hoặc tổng nguồn vốn dưới 50 tỷ đồng đối với khu vực thương mại và dịch vụ. Theo thống kê của Cục Phát triển doanh nghiệp- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến giữa năm 2009, Việt Nam có khoảng hơn 450 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, trong đó khoảng 97% là các DNNVV (phân theo quy mô lao động) và khoảng 94% (phân theo quy mô vốn).
Tiêu thức xác định DNVVN:
Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên thế giới:
Ở các nước, tiêu chí định lượng để xác định quy mô doanh nghiệp rất đa dạng. Dưới đây là một số tiêu chí phân loại DNVVN qua điều tra ở 12 nước trong khu vực APEC. Trong các nước này, tiêu chí số lao động được sử dụng phổ biến nhất (12/12 nước sử dụng). Còn một số chỉ tiêu khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện của từng nước: vốn đầu tư (3/12), tổng giá trị tài sản (4/12), doanh thu (4/12) và tỷ lệ góp vốn (1/12). Số lượng tiêu chí chỉ có từ một đến hai và cao nhất là ba chỉ tiêu. Điều này được thể hiện một cách cụ thể dưới bảng 1 như sau:
Bảng 1: Tiêu chí phân loại DNVVN ở các nước APEC.
Nước
Tiêu chí phân loại
Australia
Canada
Hongkong
Indonesia
Japan
Malaysia
Mexico
Philippines
Singapore
Taiwan
Thailand
US
Số lao động
Số lao động; Doanh thu
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động; Tỷ lệ góp vốn
Số lao động
Số lao động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Tổng giá trị tài sản
Vốn đầu tư; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu
Số lao động; Vốn đầu tư
Số lao động
Nguồn: Ban thương mại và đầu tư, tiểu ban kinh doanh vừa và nhỏ của các nước APEC, 1995.
Ở Indonesia; Tổng cục thống kê nước này phân loại dựa vào số lao động: Doanh nghiệp có dưới 19 lao động được coi là nhỏ, doanh nghiệp có trên 20 lao động được coi là vừa và lớn. Bộ công nghiệp xác định DNVVN dựa trên vốn đầu tư vào máy móc: dưới 70 triệu rupi và tính bình quân trên một lao động có dưới 625 nghìn rupi là doanh nghiệp nhỏ. Còn Ngân hàng Indonesia coi doanh nghiệp có tài sản dưới 100 triệu rupi là DNVVN. Ở Hồng kông; doanh nghiệp có lao động dưới 200 người là DNVVN. Ở Hàn Quốc; tiêu thức phân loại doanh nghiệp chủ yếu dựa vào số lao động và phân biệt theo hai lĩnh vực sản xuất và dịch vụ: trong lĩnh vực sản xuất dưới 1000 lao động, trong lĩnh vực dịch vụ dưới 20 lao động là các DNV&N. Ở Đài Loan doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người và vốn đầu tư dưới 1,5 triệu USD là DNVVN. Ở Malaysia; doanh nghiệp có vốn cổ đông dưới 500 nghìn USD hay tài sản ròng dưới 200 nghìn USD, số lao động dưới 20 người, doanh nghiệp có vốn cổ đông hay tài sản ròng từ 0,5- 2,5 triệu USD, lao động dưới 100 người là các DNVVN. Ở Thái Lan; doanh nghiệp có số lao động tối đa 250 người và vốn đầu tư không quá 99.500 USD là DNVVN.
Theo các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì các DNVVN là những công ty hạch toán độc lập không phải là các công ty con của các công ty lớn; tuyển dụng ít hơn một số lượng lao động đã được quy định. Số lượng này khác nhau giữa các hệ thống thống kê quốc gia. Giới hạn trần phổ biến nhất là 250 lao động tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (EU). Tuy nhiên, một số nước đặt ra giới hạn ở mức 200 lao động, trong khi Mỹ coi DNVVN bao gồm các công ty có ít hơn 500 lao động. Tài sản tính bằng tiền cũng được sử dụng để xác định DNVVN. Tại EU DNVVN phải có doanh thu hàng năm bằng hoặc ít hơn 40 triệu EURO và hoặc giá trị bảng cân đối tài sản không vượt quá 27 triệu EURO.
Tiêu thức xác định DNVVN ở Việt Nam:
Để xác định tiêu chí DNVVN ở Việt Nam một cách phù hợp, cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam ( là một nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý hạn chế, thị trường còn thiếu, chưa có thước đo quy mô doanh nghiệp một cách đích thực) và tính đến các yếu tố tác động tới việc phân loại nêu trên như mục đích phân loại, tính chất ngành nghề, địa bàn.
Việc phân loại DNVVN chủ yếu dựa theo 2 tiêu thức là: lao động thường xuyên và vốn sản xuất, vì lý do sau: tất cả các doanh nghiệp đều có số liệu về 2 tiêu thức này ( tính phổ dụng); có thể xác định 2 tiêu thức này ở mọi cấp độ, toàn bộ nền kinh tế, ngành, doanh nghiệp ( tính khả thi). Trong điều kiện của Việt Nam, đây là 2 tiêu thức có thể xác định được chính xác trị số của chúng (tính chuẩn xác).
Tuy vậy, 2 tiêu thức này mới chỉ thể hiện được quy mô đầu vào mà chưa phản ánh được kết quả tổng hợp thông qua kết quả kinh doanh.
Các tiêu thức khác như doanh thu, vốn pháp định, vốn cố định, vốn lưu động, lợi nhuận... đều có hạn chế là rất khó xác định hoặc không có nhiều ý nghĩa. Tiêu thức doanh thu (hoặc giá trị gia tăng) có nhiều ý nghĩa vì nó phản ánh quy mô doanh nghiệp qua kết quả hoạt động của nó (gắn với hiệu quả). Tuy nhiên trong điều kiện của Việt Nam, tiêu thức này rất khó xác định và không có số liệu chính xác (chẳng hạn do việc dấu doanh thu để chốn thuế).
Các tiêu thức khác như vốn pháp định, vốn cố định hay số dư vốn lưu động không phản ánh đầy đủ và thực chất quy mô của doanh nghiệp trong các ngành khác nhau. Vốn pháp định thường khác xa vốn thực tế và chỉ mang tính hình thức. Vốn cố định có sự khác biệt lớn giữa các ngành sản xuất và thương mại, vốn lưu động cũng khác biệt rất lớn giữa các lĩnh vực, ngành nghề.
Trên cơ sở những luận giải đó, nghị định 56/2009/NĐ-CP đã đưa ra định nghĩa:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 2: Tiêu thức phân loại DNVVN ở Việt Nam.
Quy mô
Khu vực
Doanh nghiệp siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
Số lao động
Tổng nguồn vốn
Số lao động
Tổng nguồn vốn
Số lao động
I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
10 người trở xuống
20 tỷ đồng trở xuống
từ trên 10 người đến 200 người
từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng
từ trên 200 người đến 300 người
II. Công nghiệp và xây dựng
10 người trở xuống
20 tỷ đồng trở xuống
từ trên 10 người đến 200 người
từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng
từ trên 200 người đến 300 người
III. Thương mại và dịch vụ
10 người trở xuống
10 tỷ đồng trở xuống
từ trên 10 người đến 50 người
từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng
từ trên 50 người đến 100 người
Nguồn: NĐ 56/2009/NĐ-CP
Tiêu chí đánh giá doanh nghiệp phát triển bền vững
Chính sách phát triển của mọi quốc gia trên thế giới hiện nay đều hướng đến sự phát triển bền vững.
Mặc dù thuật ngữ phát triển bền vững đã xuất hiện vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước nhưng hiện tại đang trở thành một vấn đề mang tính toàn cầu. (Thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong Chiến lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới và Chương trình môi trường do Liên hiệp quốc đề xuất vào năm 1980).
Tuy nhiên, bài toán của các nhà cấp quản lý nhà nước hiện nay là làm thế nào để phát triển bền vững không chỉ là nhiệm vụ của quốc gia mà là nhiệm vụ của từng người dân thông qua hành vi tiêu dùng, ứng xử của mình cũng như của các doanh nghiệp.
Tại Việt Nam trong những năm gần đây, khía cạnh phát triển bền vững trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã được quan tâm nhiều hơn. Trong năm năm trở lại đây, mỗi năm các tờ báo ngoại ngữ của nhóm báo Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn đều tiến hành trao giải thưởng "Doanh nghiệp và phát triển bền vững" cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TPHCM và một số tỉnh miền Đông Nam bộ.
Các bộ tiêu chí đang được sử dụng nhiều trên thế giới, bao gồm bộ tiêu chí "Phát triển bền vững Dow Jones'" (Dow Jones Sustainability Indexes) và bộ tiêu chí của tổ chức Global Reporting Initiative (GRI). Riêng với các quốc gia thì có bộ tiêu chí do Liên hiệp quốc soạn thảo.
Trước hết là bộ tiêu chí Dow Jones được công bố vào năm 1999. Đây là bộ tiêu chí đầu tiên trên thế giới được thiết lập nhằm đánh giá thành tích trên ba chiều kích của phát triển bền vững là kinh tế, môi trường và xã hội của các doanh nghiệp lớn. Dưới đây là nội dung của bộ tiêu chí này:
Các chiều kích của phát triển bền vững
Các chỉ tiêu
Trọng số của các chỉ tiêu (%)
Kinh tế
- Qui tắc ứng xử/ tuân theo luật lệ/ hối lộ-đút lót.
- Quản trị doanh nghiệp
- Quản tri rủi ro và khủng hoảng
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
5.5
6.0
6.0
Tùy theo ngành nghề
Môi trường
- Thành tích về môi trường
- Có bản báo cáo về môi trường
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
7.0
3.0
Tùy theo ngành nghề
Xã hội
- Hoạt động từ thiện
- Ứng dụng các qui tắc sử dụng lao động của quốc gia và quốc tế
- Việc phát triển vốn con người
- Có báo cáo về hoạt động xã hội
- Khả năng thu hút
- Các chỉ tiêu riêng của ngành nghề
3.5
5.0
5.5
3.0
5.5
Tùy theo ngành nghề
Các chỉ tiêu trên được thể hiện bằng các câu hỏi cụ thể để đo lường và người đứng đầu doanh nghiệp sẽ phải cung cấp câu trả lời.
Chẳng hạn đối với thành tích về môi trường, doanh nghiệp sẽ cho biết trong năm qua hoạt động sản xuất và kinh doanh của họ đã thải bao nhiêu lượng khí CO2, lượng nước sạch đã sử dụng, tổng lượng các loại năng lượng (điện, xăng dầu…) đã sử dụng, lượng rác thải. Doanh nghiệp cũng phải giải trình về chiến lược của mình trong tương lai xem có giảm thiểu các chỉ số trên dần dần hay không.
Về khía cạnh xã hội, doanh nghiệp sẽ phải cho biết có sự phân biệt đối xử về giới tính trong vấn đề lương bổng hay không (lương trung bình của lao động nam và lao động nữ), tỷ lệ nữ đảm trách các trách nhiệm lãnh đạo, khả năng tự do lập hội của người lao động, vấn đề đảm bảo sức khỏe và an toàn cho người lao động, tổng kinh phí mà doanh nghiệp đã dùng cho các hoạt động từ thiện.
Tuy nhiên cho đến nay, bộ tiêu chí do GRI thiết lập vào năm 2002 mới được xem là bộ tiêu chí đầy đủ và rõ ràng nhất dù nó vẫn xoay quanh ba chiều kích của phát triển bền vững giống như bộ tiêu chí Dow Jones. Cụ thể bộ tiêu chí này như sau:
Các chiều kích
Các khía cạnh
Kinh tế
- Những tác động kinh tế trực tiếp của doanh nghiệp
- Sự hiện diện trên thị trường
- Những tác động kinh tế gián tiếp
Môi trường
- Nguyên vật liệu
- Năng lượng
- Nước sạch
- Đa dạng sinh học
- Rác thải
- Sản phẩm và dịch vụ
- Vận tải
Lao động
Nhân công
Quản lý các mối quan hệ lao động
Sức khỏe và an toàn
Đào tạo và giáo dục
Sự đa dạng và cơ hội
Quyền con người
Chiến lược và quản lý
Không phân biệt đối xử
Quyền tự do lập nhóm
Lao động trẻ em
Lao động cưỡng bức
Việc tuân thủ các qui tắc lao động và an toàn
Tuân thủ luật lệ địa phương
Xã hội
Cộng đồng
Hối lộ và tham nhũng
Các đóng góp về mặt hành chính
Cạnh tranh và giá cả
Sản phẩm có trách nhiệm
Sức khỏe và an toàn của người tiêu dùng
Sản phẩm và các dịch vụ
Quảng cáo
Tôn trọng sự riêng tư
Các chỉ báo của những bộ tiêu chí trên đây chủ yếu mang yếu tố tham khảo. Bởi vì, đối với Việt Nam, có thể thêm các chỉ báo như việc trao học bổng, xây dựng nhà tình nghĩa và đóng góp cho các chương trình gây quỹ từ thiện.
Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn (do quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng với mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là loại hình sản xuất các địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén
với thay đổi của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là đã có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh gọn, có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn, bố mẹ, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ của nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn,sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu xảy ra xung đột, mâu thuẫn thì dễ dàn xếp.
Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của DNVVN nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt động.
- Cũng do tính chất vừa và nhỏ, DNVVN gặp khó khăn trong thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường.
Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân:
Các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. Họ góp phần vào sự gia tăng tổng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 70% GDP mỗi nước.
Ở Việt Nam hiện nay DNVVN vừa có diện rộng, phổ cập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Cùng với kinh tế nông nghiệp và kinh tế nông thôn, DNVVN được xem như là những nhân tố đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, khai thác tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư. Nó còn góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau; giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn; bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc.
Mức độ đóng góp của DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế
Cho đến nay, chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực SME trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy, theo ước tính, DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27- 30% GDP, thì phần còn lại là sản phẩm của khu vực DNVVN. Như vậy, các DNVVN không kể sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra khoảng 25-28% GDP. Theo báo cáo gần đây của Tổng cục Thống kê thì DNTN, Công ty TNHH, Công ty cổ phần đã tạo ra 8% GDP; Hộ kinh doanh cá thể tạo ra 8-9% GDP và các Hợp tác xã đã tạo ra khoảng 9% GDP.
- Do số lượng DNVVN tăng nhanh nên mặt hàng phong phú, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội, tính cạnh tranh tăng lên làm cho chất lượng hàng hoá và dịch vụ được nâng cao, thị trường sôi động hơn. DNVVN còn góp phần khai thác tiềm năng của đất nước để phát triển kinh tế như tài nguyên, lao động, vốn thị trường, đặc biệt là tay nghề tinh xảo và truyền thống dân tộc.
DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm
DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm, giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội. Chiếm tới 90% số doanh nghiệp cả nước, tạo công ăn việc làm cho 90% lao động, hơn nữa chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm việc trong các DNVVN chỉ bằng khoảng 3-10% so với doanh nghiệp lớn.
DNVVN làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn
Một vai trò nữa rất quan trọng của DNVVN là làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn. Do số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn nên động lực cạnh tranh làm cho nền kinh tế thêm năng động và hiệu quả. Hơn nữa, các doanh nghiệp này có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và hướng kinh doanh một cách nhanh chóng. Ngoài ra, do có nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một số mặt hàng nên sẽ giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế: khi một doanh nghiệp đổ vỡ thì có các doanh nghiệp khác thay thế.
Phát triển DNVVN, làm cho số lượng doanh nghiệp tăng lên rất lớn, làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro, đồng thời tăng số lượng chủng loại hàng hoá, thoả mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá, coi trọng công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn. DNVVN với mạng lưới rộng khắp đã có truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn sẽ là động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nông thôn phát triển. Sẽ hình thành những tụ điểm, cụm công - nông nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
DNVVN góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK
Trong những năm 1950 các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ lấy mục tiêu phục vụ thị trường trong nước là chính, đáp ứng nhu cầu trong nước và sử dung có hiệu quả nguồn nhân lực. Khi nêng kinh tế phát triển, sức mua tăng lên, nhu cầu lớn hơn, các DNVVN nhạy bén trong việc điều chỉnh cơ cấu, tăng doanh thu. Điều này rất khó thực hiện ở các doanh nghiệp lớn khi muốn đa dạng hoá các mặt hàng sản xuất. Trong khi các DNVVN số lượng đông đảo và hoạt động có hiệu quả, họ có thể tự sản xuất thay thế nhập khẩu.
Đầu thập kỷ 60, Chính phủ nhiều nước đã quyết định phát triển DNVVN theo định hướng xuât khẩu. Bên cạnh việc góp phần lưu thông hàng hoá trong nước, các doanh nghiệp đều lấy thị trường quốc tế làm thị trường chính.
Trước đây việc tiêu thụ sản phẩm ở nước ngoài phải do trung gian ngoại thương làm môi giới, nhưng trong những năm gần đây DNVVN đã có khả năng tự thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá trên thế giới. Đây cũng là sự tương đồng ở Việt Nam, các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, khả năng lưu thông trong nước lẫn ngoài nước đều hết sức khó khăn, đặc biệt là lưu thông trong nước do bị ép giá). Nhưng với các cơ sở doanh nghiệp tổ chức xuất khẩu, giá thu mua dù sao cũng tốt hơn so với thị trường trong nước dã buộc các DNVVN phải tính tới các hoạt động xuất khẩu.
Các DNVVN dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh
Sự tự do cạnh tranh là con đường đúng nhất để phát huy tiềm lực vốn có của doanh nghiệp. Một quốc gia nào muốn tạo nên các DNVVN đều phải có chế độ tư hữu và tự do cạnh tranh. Các doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo trợ của Chính phủ và phải có sự độc quyền.
Còn ở DNVVN thì tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn, DNVVN có tính tự chủ cao, họ không ỷ lại sự giúp đỡ của Nhà nước. Vì mưu lợi họ sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi ro. Ở các nước trong khu vực mỗi năm bình quân có khoảng 2-3% số DNVVN bị phá sản và cũng có khoảng 3% loại doanh nghiệp này mới được hình thành.
Loại hình DNVVN có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung vốn, tiếp nhận đầu tư nước ngoài. Sự phát triển của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không chỉ cho phép các DNVVN cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế trong một số ngành.
Các DNVVN có khả năng ứng biến nhanh nhạy
Những biến động kinh tế xã hội trên thị trường quốc tế và trong nước đã nhiều lần gây cú sốc lớn cho nền kinh tế nhiều nước, như hai cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thập niên 80, 90, nạn lạm phát, ô nhiễm,... Nhưng các DNVVN đã thích nghi nhanh chóng, thay đổi hoàn cảnh, tự điều chỉnh tổ chức sản xuất. Với tư thế nhỏ gọn, năng động, dễ quản lý, không cần thiết quá nhiều vốn, các DNVVN rất linh hoạt trong việc đòi hỏi, phát triển và tránh những thiệt hại to lớn do môi trường khách quan tác động. Trong những năm gần đây, các DNVVN của các nước phải ứng phó với sự tăng giá của đồng tiền trong nước, sự thiếu lao động tạm thời và vấn đề ô nhiễm môi trường. Do dễ dàng quản lý, các DNVVN rất linh hoạt trong việc điều chỉnh kết cấu sản xuất, chuyển kênh tiêu thụ ở nước ngoài để tránh sự mất mát ngoại hối do đồng tiền trong nước tăng giá. Khả năng ứng biến của DNVVN đối với sự đột biến của hoàn cảnh không thể không kể đến vai trò trợ giúp tích cực của Chính phủ.
Các DNVVN dễ dàng tạo nên sự phát triển cân đối giữa các vùng và góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp. Vấn đề phát triển cân đối giữa các vùng không thể thành công nếu nước đó chỉ chú trọng đến việc phát triển cân đối giữa các doanh nghiệp đại quy mô. Ở nhiều nước, tính phổ biến các DNVVN rất có lợi thế trong việc tuyển dụng nhân công tại địa phương và tận dụng các tài nguyên, tư liệu sẵn có của địa phương. Lợi nhuận của các DNVVN góp phần tái sản xuất, đầu tư cho địa phương, do đó hiệu quả kinh tế của các DNVVN cũng là hiệu quả về ổn định và phát triển kinh tế ở địa phương. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ là khu vực kinh tế thu hút nhiều lao động, có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm,góp phần giảm bớt nạn thất nghiệp của mỗi địa phương nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Theo tư liệu mấy năm gần đây, các DNVVN trong ngành thương nghiệp là các doah nghiệp tạo việc làm nhiều nhất cho công nhân. Bởi vì số lượng các doanh nghiệp loại này rất lớn, phân bố rộng rãi khắp các cùng nên có vai trò rất lớn trong việc phát triển công bằng giữa các thành thị và nông thôn.
Các DNVVN là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp
Thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh trong các DNVVN nhiều nhà quản lý cấp thấp khi thấy mình đã có đầy đủ kinh nghiệm liền tự mình tạo lập nên một cơ nghiệp k._.hác, bỏ doanh nghiệp mình đã từng làm việ. Nguồn gốc của sự thành công là ở chỗ: hộ sẵn sàng học hỏi, chịu gian khổ trong thời gian còn là công nhân làm thuê để tích luỹ thành quả cho riêng mình. Chính phủ nhiều nước đã khuyến khích quá trình tự lập sáng tạo của mỗi cá nhân. Khác với doanh nghiệp lớn, các nhà doanh nghiệp thường là những người có học vị cao, đào tạo chính quy để trở thành các nhà doanh nghiệp. Các DNVVN là một nơi sàng lọc đào tạo các nhà doanh nghiệp thông qua kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm tiếp thu lĩnh vực có thể phát triển được của mình.
Với vai trò to lớn trong sự nghiệp phát triển kinh tế như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế để góp phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam trong thời gian qua, các DNVVN đã không ngừng tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cho khu vực này nói riêng và cả nước nói chung. Để đạt được những kết quả đó, là sự nỗ lực của mỗi bản thân các doanh nghiệp.
Sự cần thiết phải hỗ trợ các DNVVN:
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê đối với 155 doanh nghiệp trong năm 2007 thì có tới 97% số doanh nghiệp được điều tra là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) nếu phân theo số lao động (dưới 300 người) và 95% nếu phân theo vốn đăng ký (dưới 10 tỷ đồng) Tính toán của nhóm nghiên cứu.
. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là các DNNVV đã và đang đóng góp vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đây là khu vực phát triển nhanh nhất trong khu vực doanh nghiệp. Các DNNVV có vai trò tạo việc làm mới Suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở DNNVV chỉ bằng khoảng từ 3-10% của doanh nghiệp lớn.
, sử dụng gần 4 triệu lao động, chiếm gần 50% lao động trong khu vực doanh nghiệp, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, khoảng 14,8% tổng thu ngân sách Nhà nước. Và điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những đóng góp quan trọng trong việc xoá đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội, nhất là ở khu vực nông thôn.
Mặc dù có những đóng góp quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân, các DNNVV với đặc trưng riêng của mình thường gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển như: đất đai, vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường,... Những khó khăn này có chiều hướng gia tăng trong điều kiện kinh tế toàn cầu suy giảm, nền kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn với tốc độ tăng trưởng chỉ khoảng gần 4% trong 6 tháng đầu năm 2009. Những khó khăn của nền kinh tế sẽ tác động đến các hoạt động của DNNVV trong đó đáng kể nhất là đối với các khía cạnh tài chính (nguồn tín dụng sẽ bị hạn chế, khả năng chi trả của doanh nghiệp thấp nên sẽ khó vay), thị trường bị thu hẹp, đặc biệt là thị trường quốc tế, giải quyết lao động cho người lao động. Mặc dù đã có những dấu hiệu phục hồi của kinh tế thế giới cũng như kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo ước tính những khó khăn, thách thức vẫn còn ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của các doanh nghiệp. Ước tính có khoảng 20% số các doanh nghiệp sẽ bị phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, 60% doanh nghiệp bị đình trệ hoặc thu hẹp sản xuất, kinh doanh trong năm 2009. Hệ quả là các doanh nghiệp nói chung, đặc biệt là các DNNVV khó có thể tránh khỏi xảy việc cắt giảm số lượng lao động và từ đó làm tăng số lượng thất nghiệp đối với người lao động, nhất là lao động phổ thông làm tăng số người thất nghiệp trong toàn xã hội ảnh hưởng lớn đến tình hình trật tự, an toàn xã hội.
Hỗ trợ cho các DNVVN không chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà còn có lợi cho cả Nhà nước và xã hội. Đó là những lợi ích cơ bản sau:
- Hỗ trợ cho các DNVVN là cách thức để nuôi dưỡng những nguồn thu cho ngân sách Nhà nước bởi vì thực tế số lượng DNVVN chiếm chủ yếu trong các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ DNVVN là một hình thức đầu tư gián tiếp của Nhà nước. Bởi vì, thay vì Nhà nước đầu tư trực tiếp để thành lậph các doanh nghiệp nhà nước thì nay chuyển sang hỗ trợ các doanh nghiệp đã có, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Bằng việc hỗ trợ DNVVN, Nhà nước cũng có thể giải quyết những vấn đề xã hội mà bất cứ Nhà nước nào cũng phải đương đầu. Đó là giải quyết nạn thất nghiệp, tạo việc làm rất hiệu quả với nguồn vố rất hạn hẹp của Nhà nước (thay vì thành lập các doanh nghiệp nhà nước, thì số vốn có thể hỗ trợ cho rất nhiều các doanh nghiệp sẵn có - điều đó rõ ràng hiệu quả hơn).
- Thông qua các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, việc đầu tư phát triển sản xuất sẽ hiệu quả hơn vì huy động được tiềm năng sáng tạo trong dân, vừa thực hiện tốt chức năng quản lý của Nhà nước.
Kinh nghiệm hỗ trợ xuất nhập khẩu cho DNVVN của một số nước:
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đặt ra những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung đặc biệt là DNVVN ngoài quốc doanh nói riêng trong mọi lĩnh vực và quan trọng nhất là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Với những khó khăn đó DNVVN ngoài quốc doanh sẽ phải quyết tâm rất lớn, bên cạnh đó thì sự hỗ trợ của Nhà nước trong hoàn cảnh đó là một điều rất cần thiết đối với họ.
Một trong những biện pháp có ý nghĩa lúc này là những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước đi trước có thành tựu lớn trong phát triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá nhanh, có điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hoá tương đồng với chúng ta.
Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan
Đài Loan là một quốc gia điển hình có nhiều DNVVN. Sự thần kỳ của kinh tế Đài Loan cũng gắn với mức tăng trưởng cao và sự phồn vinh của các DNVVN. Quá trình phát triển này cũng gắn liền với nỗ lực của các xí nghiệp nhỏ và vừa trong sản xuất, tiết kiệm nhằm tăng sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu.
Về chiến lược kinh doanh
Sự phát triển kinh tế Đài Loan luôn gắn chặt với hoạt động ngoại thương. Ngoại thương thực sự là động lực thúc đẩy các ngành sản xuất vươn lên, đáp ứng nhu cầu phong phú và đa dạng. Do nhận thức được những giới hạn của thị trường nội địa, từ những năm 60 Đài Loan đã coi mở rộng xuất khẩu như một chính sách chỉ đạo, một phương châm chiến lược. Ngay trong những năm đầu thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu", ngành ngoại thương Đài Loan đã trở thành lực lượng nâng đỡ và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp
Cuối những năm 50, công nghiệp tư nhân của Đài Loan đã phát triển khá mạnh, thị trường nội địa đã tới mức bão hoà, công nghiệp Đài Loan chuyển từ "thay thế nhập khẩu" sang "đẩy mạnh xuất khẩu". Lúc này khu vực tư nhân đã có cơ sở khá vững, chính quyền Đài Loan đã khuyến khích họ phát triển ngoại thương, xâm nhập thị trường quốc tế qua hàng loạt các biện pháp cải cách kinh tế như chuyển thống nhất tỷ giá hối đoái, nới lỏng những hạn chế nhập khẩu... Năm 1965 Đài Loan đã mở "khu chế biến xuất khẩu" với nhiều ưu đãi về ngoại thương. Đồng thời các biện pháp tăng cường thực lực kinh tế và khả năng cạnh tranh, chính sách bảo hộ mậu dịch cũng dần được thay thế bằng chính sách tự do mậu dịch.
Về chính sách thuế
Trong những năm cuối thập kỷ 50, đầu thập kỷ 60, Đài Loan đã áp dụng phương châm "hy sinh thuế cao, đẩy mạnh kinh tế, bồi dưỡng nguồn thuế", liên tục ban hành các pháp lệnh "khuyến khích đầu tư", "đầu tư hoa kiều"...Với nhiều ưu đãi dành cho các SME thực hiện tái sản xuất mở rộng và đổi mới thiết bị. Chẳng hạn, Chính phủ miễn thuế 5 năm cho các xí nghiệp mới xây dựng, miễn thuế 4 năm cho các xí nghiệp đổi mới thiết bị tính từ lúc bắt đầu bán sản phẩm. Bên cạnh đó, Đài Loan còn thực hiện biện pháp "hạn chế lập xưởng", nghĩa là trên cơ sở đánh giá thị trường, chính quyền hạn chế khắt khe đầu tư vào một số ngành nào đó để đảm bảo có thị trường cho các DNVVN trọng điểm, tránh tình trạng sản xuất trùng lặp, gây lãng phí tiền lương, lao động và vốn.
Trong thời gian 1970-1977 Đài Loan đã miễn giảm thuế, việc giảm thuế đã kích thích đầu tư. Do đó, số DNVVN mới không ngừng tăng lên, các DNVVN cũ không ngừng gia tăng tài sản, khiến cho mức thuế cơ bản tăng lên, và giá trị tuyệt đối của thuế cũng không ngừng tăng lên. Cho tới những năm 80, Chính quyền Đài Loan ban hành một hệ thống chính sách tổng hợp hỗ trợ SME và ngay lập tức đã có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của khu vực này, tạo nên một nàn sóng phát triển các DNVVN. Hệ thống chính sách hỗ trợ SME của Đài Loan hiện nay bao gồm:
1. Chính sách hỗ trợ về tài chính tín dụng
2. Chính sách hỗ trợ về công nghệ
3. Chính sách nghiên cứu và phát triển
4. Chính sách về kiểm soát chất lượng sản phẩm
5. Chính sách quản lý đào tạo
6. Chính sách an toàn công nghiệp
7. Chính sách hỗ trợ nghiên cứu thị trường quốc tế
8. Chính sách trợ giúp các SME hợp tác lẫn nhau cùng phát triển
9. Chính sách trợ giúp các DNVVN thích ứng với hệ thống pháp luật
Với hệ thống chính sách này, Đài Loan đã thành công trong phát triển DNVVN. Các DNVVN của Đài Loan đóng góp bình quân mỗi năm tới 40% GNP, 60% kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm cho khoảng 68% lực lượng lao động cả nước.
Ngoài những điểm nêu trên, về các phương tiện khai thác thăm dò tài nguyên, cung ứng nguyên liệu, mở rông thị trường, chuyển giao công nghệ, chính quyền Đài Loan đều căn cứ vào nhu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế, trực tiếp tham gia dẫn dắt, nâng đỡ khu vực DNVVN ở các khu vực khác nhau.
Về ngoại thương
Đài Loan tổ chức đặt trụ sở và mạng lưới mậu dịch ở hơn 50 nước và khu vực. Đồng thời còn tham gia triển lãm, hội trợ quốc tế, thường xuyên mời khách nước ngoài và các nhà kinh doanh đến Đài Loan tham quan, cử người đi nước ngoài để chào hàng. Để mở rộng mạng lưới mậu dịch quốc tế, Đài Loan đã xây dựng các trạm "phục vụ mậu dịch quốc tế"cung cấp cho DNVVN các đường dây điện thoại và khuyến khích các cơ sở DNVVN đặt đại lý ở nước ngoài. Chính phủ còn thưởng ngoại thương cho các DNVVN xuất khẩu được nhiều.
Với những biện pháp nâng đỡ điển hình như trên, trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, kết hợp với sự nỗ lực của bản thân các DNVVN, viện trợ của Mỹ... Đã góp phần giúp Đài Loan đạt được những thành tựu lớn trong ngoại thương. Cụ thể xin xem dưới bảng sau:
Bảng 3: Tỷ lệ xuất khẩu của DNVVN thời kỳ 1976-1988.
Đơn vị:100%
Thời kỳ
Tổng
DN lớn
DNV&N
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
100
43,2
41,8
40,9
40,2
33,3
25,2
24,1
26,7
28,2
34,2
33,4
38,2
53
56,8
58,2
59,2
59,8
66,7
74,8
75,9
73,3
71,8
65,8
66,5
61,9
47
Nguồn:Vụ nghiên cứu kinh tế ngân hàng Đài loan.
Nhìn vào bảng trên ta nhận thấy xuất khẩu của các DNVVN ở Đài Loan có vai trò to lớn trong thương mại của công cuộc thực hiện chiến lược "hướng về xuất khẩu".
Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia.
Các biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư của Malaysia được quy định chủ yếu trong Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1986 (the promotion of investmen act) và Luật thuế thu nhập công ty năm 1967. Malaysia quy định chế độ ưu đãi đầu tư cho từng lĩng vực như: công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Trong ưu đãi từng ngành có biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư chung, và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu.
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với công nghiệp.
Thứ nhất: Hệ thống tái cấp vốn tín dụng xuất khẩu. Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, Ngân hàng Trung ương Malaysia và Ngân hàng Negara đã thực hiện hệ thống tái cấp vốn tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi cho các nhà xuất khẩu nói chung và các DNVVN Malaysia nói riêng, tạo điều kiện cho họ cạnh tranh hữu hiệu hơn trên thị trường quốc tế. Các đặc tính chính của hệ thống này là:
- Hệ thông này do các Ngân hàng thương mại thực hiện, và Ngân hàng Negara sẽ tái cấp vốn cho Ngân hàng thương mại để tăng tín dụng xuất khẩu cho nhà xuất khẩu. Nhà xuất khẩu có thể có hoá đơn xuất khẩu ghi bằng ngoại tệ, nhưng việc cấp vốn chỉ thực hiện bằng đồng ringgit Malaysia.
- Có hai loại tín dụng trong hệ thống này, đó là tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng được sử dụng để cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu trực tiếp và gián tiếp (người cung cấp các khoản đầu vào cho người xuất khẩu cuối cùng), và tín dụng xuất khẩu sau khi giao hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu Malaysia có vốn ngay sau khi xuất khẩu hàng hoá theo phương thức trả chậm.
- Để được phép nhận tín dụng xuất khẩu hàng xuất khẩu phải thoả mãn các tiêu chuẩn sau đây: Một là, sản phẩm không thuộc vào danh mục không được hưởng tín dụng xuất khẩu. Hai là, sản phẩm phải có tối thiểu 20% giá trị gia tăng, và cuối cùng là tỷ lệ sử dụng nguyên liệu vật tư trong nước tối thiểu là 30%. Tuy vậy, các tiêu chuẩn này có thể được vận dụng một cách linh hoạt có tính đến hoàn cảnh cụ thể.
- Thời hạn tối đa của tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng đối với tất cả các sản phẩm là 4 tháng, và của tín dụng sau khi giao hàng là 6 tháng.
- Số tín dụng xuất khẩu trước khi giao hàng được cấp bằng 80% giá trị đơn đặt hàng, hoặc bằng 70% kin ngạch xuất khẩu của 12 tháng dựa trên giấy xác nhận về kim ngạch xuất khẩu. Đối với tín dụng sau khi giao hàng, thì số tín dụng được cấp bằng 100% giá trị xuất khẩu ghi trên hoá đơn.
Thứ hai: Tính gấp đôi số tiền chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Để khuyến khích các nhà xuất khẩu DNVVN xâm nhập vào các thị trường không truyền thống, được tính gấp đôi chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu được Bộ trưởng Bộ tài chính chấp nhận. Điều này có hiệu lực từ năm 1986.
Thứ ba: Tính gấp đôi chi phí để khuyến mại xuất khẩu. Một số chi phí nhất định mà các DNVVN bỏ ra để tìm kiếm các cơ hội xuất khẩu các sản phẩm sản xuất tại Malaysia được phép tính cao lên 2 lần. Các chi phí đó là:
- Quảng cáo ở nước ngoài.
- Đưa hàng mẫu ra nước ngoài.
- Nghiên cứu thị trường xuất khẩu.
- Cung cấp thông tin kỹ thuật ra nước ngoài.
-Triển lãm và/hoặc tham gia vào các triển lãm công nghiệp và thương mại được Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế chấp thuận.
- Các dịch vụ phục vụ công tác quan hệ xã hội liên quan đến xuất khẩu
- Cước phí đi công tác ra nước ngoài của nhân viên.
- Chi phí ăn, ở các cán bộ kinh doanh người Malaysia ra nước ngoài
Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu đối với ngành nông nghiệp.
Trợ cấp xuất khẩu bằng 5% kim ngạch xuất khẩu được thực hiện để khuyến khích xuất khẩu một số sản phẩm nông nghiệp nhất định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Khoản tiền này được cấp bằng cách khấu trừ trực tiếp từ lãi gộp của công ty. Nếu khoản này vượt quá khoản lãi gộp thì coi như bị lỗ và được chuyển sang năm tài chính tiếp theo.
Ngoài những biện pháp đã nêu ở trên, để tăng cường khả năng xuất khẩu của các DNVVN. Chính phủ Malaysia còn miễn thuế nhập khẩu toàn bộ đối với nguyên vật liệu trong trường hợp DNVVN sản xuất thành phẩm để xuất khẩu với điều kiện các vật tư nguyên liệu đó chưa được sản xuất ở trong nước, hoặc đã được sản xuất ở trong nước nhưng với chất lượng và giá cả chưa thể chấp nhận được.
Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc
Xem xét quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc từ cuối thập kỷ 50 đến nay, có thể nhận thấy nổi lên 3 giai đoạn phát triển với những ưu điểm phát triển khác nhau. Giai đoạn thứ nhất kéo dài cho đến thập kỷ 70 và trọng tâm ưu tiên phát triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu.
Giai đoạn thứ hai kéo dài trong suốt thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Giai đoạn thứ ba bắt đầu từ đầu thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực các DNVVN.
Về chiến lược kinh doanh
Các biện pháp khuyến khích và ưu đãi đầu tư ở Hàn Quốc đã thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn.
Để thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu cho đến đầu thập kỷ 70, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chiến lược thúc đẩy xuất khẩu hơn là thay thế nhập khẩu. Chính phủ Hàn Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ cho các nhà xuất khẩu, với nhiều biện pháp khác nhau, gồm đối sử ưu đãi trong cấp vốn tín dụng và trong chế độ thuế khoá.
Về chính sách tín dụng
Hệ thống cấp vốn tín dụng xuất khẩu đã đóng vai trò rất quan trọng nhằm hỗ trợ xuất khẩu cho đến giữa những năm 80 khi có được thặng dư về cán cân vãng lai. Bản chất của hệ thống này là chính sách tái chiết khấu của hệ thống ngân hàng để cung cấp tín dụng với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng thương mại cho các DNVVN đã nhận được tín dụng thư. Các khoản cho vay chiết khấu của ngân hàng Trung ương Hàn Quốc cũng được mở rộng cho xuất khẩu trước khi giao hàng nhằm hỗ trợ cho việc mua nguyên liệu và các sản phẩm trung gian để sản xuất hàng xuất khẩu.
Lãi suất cho vay đối với xuất khẩu từ 6-10%, trong khi mức lãi suất chung là 17-23%. Từ cuối những năm 1980, sự chênh lệch lãi suất mới được xoá bỏ. Nếu xem xét mức lãi suất trên thị trường tài chính phi chính thức tại thời điểm đó vào khoảng hơn 30%, thì sự ưu đãi đối với xuất khẩu qua tín dụng lãi suất thấp thật lớn. Hầu như mọi khoản tín dụng xuất khẩu đều được hỗ trợ thông qua cơ chế tạo tiền của Ngân hàng Trung ương dưới hình thức chiết khấu. Trong khoảng thời gian từ 1976-1986 tỷ lệ tín dụng của Ngân hàng Hàn Quốc trong tổng số khoản vay của Ngân hàng nội địa là 79,4%, đặc biệt vào những năm 1973-1981 tỷ lệ này lên tới 90,1%.
Các biện pháp hỗ trợ khác
Ngoài ra còn có rất nhiều biện pháp hỗ trợ khác của Chính phủ đối với hoạt động xuất nhập khẩu của các DNVVN như chiết khấu thuế ra khỏi giá mua thiết bị và phương tiện đầu tư để sản xuất; trợ cấp cho việc cải tiến đóng gói và mẫu mã sản phẩm, mở rộng các phương tiện cung cấp dịch vụ kiểm tra hàng xuất khẩu, mở các trung tâm đào tạo tiếng nước ngoài, gửi các đoàn đến hội trợ triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm ở nước ngoài, tổ chức các cuộc triển lãm thương mại tại Hàn Quốc.
Chính phủ Hàn Quốc cũng theo dõi chặt chẽ kết quả hoạt động xuất khẩu và hàng tháng hoặc hàng quý cung cấp các thông tin về các vấn đề kinh tế trong nước, về xu hướng của thị trường nước ngoài. Thông qua các cuộc họp thường kỳ do Tổng thống làm chủ tọa với sự tham dự của các quan chức cấp cao của Chính phủ để thực hiện xem xét kết quả hoạt động xuất khẩu. Nếu kết quả hoạt động xuất khẩu là yếu kém, thì Tổng thống sẽ thúc giục các quan chức có liên quan của Chính phủ và các nhà ngân hàng phải cung cấp hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa đối với xuất khẩu nhằm đạt được khối lượng xuất khẩu đề ra theo kế hoạch. Bằng cách đó, những cản trở đối với xuất khẩu được xoá bỏ một cách kịp thời phục vụ cho việc hỗ trợ DNVVN.
Một đặc điểm khác trong chính sách thúc đẩy xuất khẩu của Chính phủ Hàn Quốc là sự hỗ trợ của Chính phủ cho xuất khẩu căn cứ vào kết quả xuất khẩu thực sự đạt được. Các nhà xuất khẩu được quyền nhận hỗ trợ chỉ là những doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm vượt một mức nhất định. Để nhận được sự ưu đãi lớn hơn, các nhà xuất khẩu phải làm việc chăm chỉ và chuyên cần hơn, để cạnh tranh với nhau và với nước ngoài. Chiến thuật buộc các doanh nghiệp Hàn Quốc phải cạnh tranh với các công ty nước ngoài đã mang lại những lợi ích lớn trong việc đẩy mạnh sự học hỏi, tiếp thu kiến thức mới qua làm việc, qua đó rút ngắn thời gian cần thiết cho học tập.
Chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu toàn diện nói trên đã đóng vai trò cơ bản để các DNVVN của Hàn Quốc được mở rộng nhanh chóng và thu được kết quả mong muốn.
Trên đây là những kinh nghiệm hỗ trợ cho các DNVVN trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của một số nước trong khu vực Châu Á. Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm của các nước đã trình bày ở trên, có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hỗ trợ xuất nhập khẩu cho các DNVVN trong điều kiện hiện nay, tuy nhiên, chúng ta áp dụng những bài học này một cách có chọn lọc không dập khuân máy móc.
Chương II
Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN:
Sự hình thành và phát triển DNVVN ở Hà Nội theo nhiều xuất xứ khác nhau:
Các DNVVN được hình thành từ HTX tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp có từ lâu đời, tồn tại và phát triển qua cả thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, hoặc từ các doanh nghiệp của Nhà nước thành lập trong cơ chế cũ ( các doanh nghiệp trung ương và địa phương).Hiện nay có thêm một số lượng lớn các DNVVN mới được thành lập trong thời kỳ đổi mới kinh tế, do sắp xếp lại các doanh nghiệp quốc doanh, thành lập theo các văn bản quy phạm pháp luật ban hành từ năm 1990 đến nay.
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định chế độ, chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã HTX), doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Đáng chú ý là nghị quyết 16 của Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam (1998), nghị định 27, 28, 29 của Hội đồng Bộ trưởng (1998) về kinh tế cá thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình... và một loạt các luật như Luật Công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật HTX, Luật DNNN... đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các DNVVN phát triển.
Nhiều cơ quan quản lý, cơ quan khoa học và nhiều địa phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Viện nghiên cứu quản lý trung ương, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hội đồng liên minh các HTX Việt Nam... đã có nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về chính sách hỗ trợ các DNVVN. Nhiều tổ chức quốc tế hỗ trợ về tài chính, khoa học cho các DNVVN, trong đó có Viện Fredrich Ebert (FES) của Đức.
Trước những kết quả to lớn cũng như những khó khăn, vướng mắc của các DNVVN, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nước, Chính phủ đã có Công văn số 681/CP-KTN ngày 20-06-1998 định hướng chiến lược và chính sách phát triển DNVVN.
DNVVN có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế. Trong đó phần lớn tập trung ở 3 lĩnh vực chính: Thương mại dịch vụ sửa chữa chiếm tỷ trọng lớn (46,2%); công nghiệp và xây dựng (18%); vận tải, dịch vụ kho bãi (10%). Riêng trong lĩnh vực công nghiệp đã có tới 37,3% số DNVVN hoạt động trong ngành chế biến thực phẩm; 11% trong ngành dệt, may, da; 18,6% trong ngành sản xuất các sản phẩm kim loại.
Hiện nay, DNVVN đang từng bước xử lý, củng cố lại và tiến hành cổ phần hoá, cho thuê và bán cho các thành phần khác. Đồng thời thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng (khoá VIII) theo hướng phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, DNNVN sẽ có xu hướng và điều kiện phát triển mạnh hơn nữa.
Thực trạng và những tồn tại:
Một cuộc điều tra quy mô được Cục Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tiến hành với sự tham gia của hơn 63 ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc.
Cuộc điều tra này nhằm nắm bắt tình hình các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các nhu cầu của doanh nghiệp cần trợ giúp. Thông qua đó, các cơ quan quản lý có thể xây dựng các chương trình trợ giúp, đề xuất bổ sung cơ chế chính sách khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Cuộc điều tra cho thấy, quy mô vốn của các doanh nghiệp còn nhỏ, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng; gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng.
Do quy mô sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam là rất nhỏ bé nên khả năng cạnh tranh sẽ rất kém. Việc đổi mới thiết bị, công nghệ của các doanh nghiệp là cấp thiết nhưng còn rất khó khăn.
Vốn của các DNVVN.
Hiện nay các DNVVN gặp phải tình trạng khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Thị trường cung ứng vốn cho các DNVVN chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của thân nhân, bạn bè, và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNVVN, nhất là các DNVVN ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức của ngân hàng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân như: Hệ thống ngân hàng, chủ yếu dành các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước; các DNVVN không đáp ứng được các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án khả thi, thủ tục thế chấp và mức lãi suất. Hiện nay, các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn rất phức tạp, dẫn đến chí phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các DNVVN. Thủ tục phức tạp và chi phí giao dịch cao lại cũng làm cho các ngân hàng không muốn cho các DNVVN vay. Bởi vì dưới góc độ của các ngân hàng, thủ tục cho vay các khoản vốn nhỏ cũng không kém phần phức tạp so với các khoản vốn lớn mà lợi nhuận lại ít và các quy định quá khắt khe về tài sản thế chấp và dự án khả thi cũng đội các chi phí lên cao. Chính vì thế ngân hàng thì nhận được ít lợi nhuận đi còn các DNVVN thì lại không đáp ứng được các điều kiện vay vốn, cho nên các ngân hàng không muốn cho họ vay. Trong khi đó, các DNNN thì lại vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Đây là một trong những phân biệt đối xử lớn hiện nay.
Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như các phương pháp định giá tài sản thế chấp còn không rõ ràng, thường đánh giá rất thấp giá trị của các tài sản thế chấp so với giá trị thực của nó, và các quy định của các ngân hàng về vấn đề này còn rất tuỳ tiện. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không muốn vay ngân hàng vì như vậy khó trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Các khoản hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài của các quốc gia, các tổ chức, các dự án là rất hiệu quả nhưng chưa thấm tháp vào đâu với nhu cầu của các DNVVN. Các chính sách tài chính tín dụng chưa được tiến hành đồng bộ và thực thi hiệu quả nên tác động chưa thật tốt đến nhu cầu bức xúc về vốn của các DNVVN hiện nay.
Tình hình thiết bị công nghệ
Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). doanh nghiệp trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp phía Bắc là rất thấp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số doanh nghiệp có Website là rất thấp chỉ 2,16%.
Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thương mại điện tử và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp phía Bắc còn rất thấp, chưa tương xứng với mong muốn phát triển thương mại điện tử của Chính phủ.
Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý; trong khi trình độ về kỹ thuật công nghệ còn thấp nhưng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh nghiệp có tỷ lệ rất thấp; chỉ 5.65% doanh nghiệp được điều tra có nhu cầu về đào tạo công nghệ.
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp phía Bắc nói riêng, chưa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ. Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thương trường.
Số liệu tổng hợp cũng cho thấy một sự khác biệt cơ bản giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp của các nước khác. Trong khi các doanh nghiệp trên thế giới quan tâm hàng đầu về các thông tin công nghệ và tiến bộ kỹ thuật, thị trường cung cấp và tiêu thụ thì doanh nghiệp Việt Nam lại chủ yếu quan tâm đến các thông tin về cơ chế, chính sách liên quan đến doanh nghiệp, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến các thông tin về kỹ thuật và công nghệ.
Thực trạng trên cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các DNVVN đươc định nghĩa với tiêu chí vốn tương đối thấp và gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Đặc biệt các DNVVN còn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc và thiết bị do thiếu thông tin về thị trường này. Những tồn tại căn bản trong tình hình công nghệ lạc hậu hiện nay ở khu vực DNVVN là :
- Thiếu vắng chiến lược công nghệ cho DNVVN, do đó đổi mới công nghệ diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp lớn.
- Thiếu thông tin hướng dẫn và điều kiện tiếp cận công nghệ, năng lực tài chính hạn hẹp. Việc đổi mới công nghệ vẫn chỉ là việc làm tự thân của DNVVN.
- Tiến trình thay đổi công nghệ diễn ra chậm chạp, chưa tương xứng với tốc độ gia tăng của thị trường. Việc đổi mới công nghệ chỉ tập trung vào một số ngành và chủ yếu ở các thành phố lớn, các ngành này đã đạt được những tiến bộ nhất định về công nghệ và từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường (ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ, hóa mỹ phẩm, chất tẩy rửa, sản xuất đồ nhựa, sản xuất công cụ chế biến lương thực, đồ gia dụng...).
- Thiếu những giải pháp đồng bộ trong việc tiếp thu công nghệ ngoại nhập, thiếu thông tin tư vấn, trình độ và tổ chức đánh giá thẩm định cho nên khoảng 70% máy móc thiết bị mua về ở mức trung bình, trong đó một bộ phận đáng kể ở dạng second-hand. Việc quản lý công nghệ nhập còn nhiều sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ gây tổn thất lớn về kinh tế.
- Vai trò hướng dẫn quản lý của các ngành kinh tế- kỹ thuật, của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn về công nghệ còn thiếu và lúng túng. Cơ chế chính sách, cơ chế chuyển giao công nghệ không đồng bộ; quy trình, quy phạm, thiếu sự hỗ trợ trong chính sách tài chính tín dụng do đó DNVVN không đủ sức đổi mới công nghệ hoặc tiếp thu công nghệ mới kém hiệu quả, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ.
- Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu triển khai với các DNVVN, tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung tâm, các trường đại học chưa được khai thác phục vụ cho các chương trình đổi mới công nghệ, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ giữa các doanh nghiệp lớn với DNVVN.
- Thiếu đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, những nhà hoạch định chính sách và tổ chức ứng dụng công nghệ mới.
- Thiếu những điều kiện chuẩn bị cho quá trình thay đổi công nghệ một cách cơ bản, đồng bộ để thích ứng với sự biến đổi của thị trường khi hội nhập đầy đủ với các nước ASEAN vào năm 2006.
Kế đó, còn có một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao công nghệ cuả các DNVVN như:
- Các doanh nghiệp chưa được phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
- Việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn với các thủ tục, quy định hiện hành gây khó khăn, phiền hà và mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Và cũng các chính quy định hiện hành làm cho các DNVVN không đủ điều tài chính mua m._. hội thể hiện: một mặt, hỗ trợ nhằm đạt được mục đích làm cho các DN kinh doanh hiệu quả hơn ; mặt khác cần tính đến hiệu quả của việc hỗ trợ. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, nhu cầu hỗ trợ thì vô hạn nên cần phải xác định thứ tự ưu tiên. Dưới đây là một số nét chính:
- Hỗ trợ trước hết đối với doanh nghiệp ngành, lĩnh vực có hiệu quả kinh tế: suất sinh lợi cao cả trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
- Hỗ trợ các DN nhằm đặt hiệu quả kinh tế – xã hội cao, bao gồm cả hiệu quả kinh tế và cả ý nghĩa xã hội trong từng giai đoạn phát triển, góp phần thực hiện các mục đích xã hội như giải quyết việc làm, công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo…
- Hỗ trợ DN làm ăn hiệu quả đồng thời gắn với việc bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, hiệu quả không chỉ đơn thuần là hiệu quả kinh tế mà cả hiệu quả sinh thái ( hiện nay, khái niệm “hiệu quả xanh”- green productivity đang khá phổ biến ở nhiều nước). Qua nghiên cứu thực tế ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, tình trạng ô nhiễm môi trường đang rất nghiêm trọng, trong đó, các DN đã “góp phần to lớn” vào việc làm ô nhiễm đó (do công nghệ của các doanh nghiệp này quá lạc hậu, các sơ quan chức năng chưa có biện pháp hữu hiệu để kiểm soát nhằm hạn chế việc gây ô nhiễm). Nhà nước đã chi rất nhiều công sức, tiền của để khắc phục nhưng kết quả đạt được không đáng kể.
- Hỗ trợ theo phương thức hiệu quả nhất : xu hướng hỗ trợ ở nhiều nước là giản những tác động trực tiếp, tăng những giải pháp gián tiếp; tác động ít nhưng hiệu quả cao và hiệu ứng rộng. Hiện nay ở các nước có rất nhiều cách thức có hiệu quả: chẳng hạn, thay vì cấp vốn lãi suất ưu đãi hoặc bắt buộc các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay thì chỉ cần trợ cấp lãi suất (nhà nước bù chênh lệch lãi suất giữa lãi suất thị trường và lãi suất cho vay ưu đãi đối với DN).
- Kết hợp hỗ trợ của nhà nước với hỗ trợ của cộng đồng, thông qua các hiệp hội nghề nghiệp, sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn, sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước.
c. Hỗ trợ DN cần thiết thực và gắn với thực tế
Điều đó có nghĩa là hỗ trợ những mắt khâu mà doanh nghiệp rất cần mà tự doanh nghiệp không thể giải quyết được, đồng thời việc hỗ trợ cần gắn với điều kiện cụ thể của từng địa phương, trong từng thời kỳ nhất định. Ngoài ra, cần tìm những phương thức phù hợp để các nguồn lực hỗ trợ đến đúng đối tượng, tránh thất thoát có thể xảy ra.
d. Hỗ trợ DN nhằm phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề
Trong chính sách hỗ trợ cần có những vấn đề chung, nhưng đồng thời cần có những điểm riêng biệt để phát huy lợi thế của từng vùng, từng ngành nghề. Chẳng hạn, cần chú trọng đặc điểm phát triển và những khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp ở nông thôn ở miềm núi khác với ở các đô thị; việc khuyến khích các làng nghề truyền thống khác với việc phát triển các nghề mới, phát triển các ngành cần nhiều lao động khác với các nghề cần nhiều vốn… Hiện nay, nhiều tiềm năng trong dân, như: Vốn, lao động, tay nghề tinh xảo, trí tuệ, kinh nghiệm kinh doanh… cũng như các tiềm năng tự nhiên như khả năng phát triển du lịch, dịch vụ… chưa được khai thác tốt. Việc khuyến khích doanh nghiệp không nên dàn đều mà căn cứ vào lợi thế của từng nơi, từng ngành nghề để có giải pháp hỗ trợ đúng lúc, đúng cách.
e. Hỗ trợ doanh nghiệp nhằm làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, kinh doanh ngày càng văn minh, hiện đại.
Để thực hiện mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá , cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế… Đồng thời, cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,… Để thúc đẩy các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật, làm ăn công khai… Cùng với việc hỗ trợ, cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường.
Đổi mới phương thức hỗ trợ:
Việc lựa chọn phương thức hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng, quyết dịnh tính thực thi và hiệu quả của các hình thức hỗ trợ. Phương thức hỗ trợ doanh nghiệp trên thực tế ở Việt Nam hiện nay thường theo hai hướng: đối với các doanh nghiệp Nhà nước quy mô trong thời kỳ đầu thì thiên về hỗ trợ trực tiếp (cấp vốn, cấp mặt bằng, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp) với nhiều chính sách ưu đãi hơn; đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, phương thức hỗ trợ chủ yếu là gián tiếp dưới dạng giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi… Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ còn ít ỏi so với nhu cầu của các doanh nghiệp.
Có nhiều phương thức hỗ trợ doanh nghiệp: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ dẫn đường (đi tiên phong), hỗ trợ thông qua trung gian…
Hỗ trợ trực tiếp bao gồm:
- Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, rút giấy phép, kiểm tra.
- Cấp vốn
- Xây dựng cơ sở hạ tầng.
- Đào tạo chủ doanh nghiệp,
- Cung cấp thông tin
- Cung cấp ưu đãi về mặt bằng sản xuất kinh doanh.
Hỗ trợ gián tiếp chủ yếu là tác động thông qua môi trường kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển. Các giải pháp chủ yếu là:
- Hình thành môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp (bao gồm môi trường thể chế, môi trường luật pháp, môi trường thị trường, môi trường cơ sở hạ tầng…)
- Ưu đãi về thuế (giảm , miễn thuế).
- Bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý, chống nhập lậu hàng ngoại
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hợp tác liên doanh với nước ngoài. Hỗ trợ dẫn đường: Nhà nước có vai trò đi tiên phong trong những lĩnh vực khó để mở đường cho đến lúc các doanh nghiệp có thể đứng vững.
Hỗ trợ thông qua trung gian: thông qua các trung tâm hỗ trợ, các công ty tư vấn, các viện nghiên cứu…
Ở Việt Nam hiện nay, để hỗ trợ có kết quả tốt, cần chú trọng một số phương thức sau:
Kết hợp hỗ trợ trực tiếp với hỗ trợ gián tiếp. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng các giải pháp: Đơn giản hoá thủ tục hành chính; hỗ trợ thông qua chiến lược, chính sách đồng thời với hỗ trợ trực tiếp thông qua cung cấp cơ sở hạ tầng, trợ cấp lãi suất, miễn, giảm thuế; hỗ trợ đào tạo chủ doanh nghiệp; cung cấp thông tin về công nghệ, thị trường trong và ngoài nước, khuyến khích các hình thức hỗ trợ mang tính cộng đồng, liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp bởi cơ cấu sản xuất nhiều tầng…
Ngoài ra, cần chú ý tới cách thức hỗ trợ bằng quy hoạch phát triển, tạo lập cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở kinh tế làm tiên phong trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn như công nghệ cao; hỗ trợ thông qua các tổ chức trung gian như ngân hàng, các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp cũng như có biện pháp cụ thể, thiết thực khuyến khích hình thành và phát triển các công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp (thay vì Nhà nước phải đứng ra thành lập các cơ sở hỗ trợ thì chỉ cần hỗ trợ một phần cho các trung tâm này hoạt động).
Các giải pháp hỗ trợ DNNVV
Tháng 6-2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 56/2009/NĐ-CP quy định cụ thể chính sách trợ giúp phát triển DNNVV về tài chính, mặt bằng sản xuất; đổi mới năng lực công nghệ... Chính phủ cũng cho phép DNNVV tham gia kế hoạch mua sắm, cung ứng dịch vụ công nhằm hỗ trợ DNNVV phát triển mảng dịch vụ.
Khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây tác động tiêu cực đến Việt Nam, Chính phủ đã kịp thời ban hành những giải pháp tài chính, hỗ trợ DNNVV vượt qua khó khăn: thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng (BLTD) hỗ trợ DNNVV; thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất 4% cho DN vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ 50% lãi suất khi vay vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội,...
Nhiều tổ chức cũng đã tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn. Ngân hàng TNHH Một thành viên HSBC (Việt Nam) đã cam kết sẽ tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn khó khăn này với nhiều sản phẩm và dịch vụ ngân hàng đa dạng và được thiết kế riêng cho thị trường Việt Nam.
Tuy nhiên, dường như chưa có chính sách và chương trình hỗ trợ cụ thể nào dành riêng cho các doanh nghiệp. Thêm vào đó với các điều kiện để tiếp cận với những hỗ trợ, đặc biệt là đối với gói kích thích kinh tế thì dường như đối tượng chủ yếu lại vẫn là các doanh nghiệp lớn với đầy đủ thủ các yêu cầu hơn so với các DNNVV. Theo ông Vũ Xuân Tiền - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn quản lý và Đào tạo VFAM Việt Nam, không có những giải pháp chung nhất nhằm hỗ trợ DNNVV trước những thách thức lớn mới phát sinh. Một trong những giải pháp cụ thể nhất là thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì việc thực hiện lại rất hạn chế. Trên thực tế, mới chỉ có 9/63 tỉnh, thành trên cả nước lập quỹ BLTD. Thống kê cho thấy, đến hết quý III-2009, Ngân hàng Phát triển Việt Nam mới phát hành được 813 chứng thư bảo lãnh với giá trị 4.908 tỷ đồng, quá khiêm tốn so với nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của DNVVN trong bối cảnh nền kinh tế trên đà khôi phục tăng trưởng. Theo ông Nguyễn Hoàng Lưu, Phó Chủ tịch Hiệp hội DNNVV Việt Nam, có nhiều nguyên nhân khiến cộng đồng thờ ơ với việc thành lập quỹ như: quy định ngân sách địa phương phải đóng góp tối thiểu 30% vốn điều lệ là rất khó, bởi nhiều địa phương còn nghèo, có nhiều DNVVN cần hỗ trợ nên không đáp ứng xuể; mục đích hoạt động phi lợi nhuận cũng khiến quỹ này khó đi vào hoạt động. Bởi để quỹ có nguồn vốn dồi dào, ngoài vốn ngân sách, phải huy động vốn từ cộng đồng doanh nghiệp và các nguồn vốn khác.
2.1. Chính sách hỗ trợ gia nhập thị trường
- Đối với tên DN, cần hoàn tất kho dữ liệu tên DN và nối mạng quốc gia để mỗi khi lập hồ sơ, doanh nhân có thể tra cứu, tránh sự trùng lắp hoặc nhầm lẫn tên, tránh tình trạng chờ đợi. Triển khai thực hiện nộp hồ sơ, sửa hồ sơ qua mạng, nhà đầu tư chỉ mất một lần đến trực tiếp ký nhận giấy chứng nhận ĐKKD. Bằng cách này, người dân có thể lập hồ sơ và sửa hồ sơ tại nhà, giảm tối đa chi phí đi lại và thời gian ĐKKD.
- Đối với chi phí khắc dấu, cần thay đổi tư duy quản lý con dấu theo cơ chế như các nước khác: DN tự qui định con dấu, tự khắc dấu với những ký hiệu do mình sáng tạo, nhưng trước khi sử dụng phải đăng ký mẫu dấu với cơ quan ĐKKD và cơ quan công an để quản lý mẫu dấu. Phương pháp này chắc chắn sẽ rút ngắn được thời gian có được con dấu.
- Cuối cùng, để thực sự thúc đẩy các DN của KVKTTN phát triển, cần phải thay đổi trên nhiều mặt từ tư duy ý thức hệ, luật pháp, chính sách đến năng lực, thái độ và phương thức làm việc của bộ máy nhà nước. Yêu cầu xuyên suốt từ xây dựng chủ trương, chính sách, luật pháp đến thực thi là mở tối đa cho dân làm và phải có lòng tin ở dân, bảo đảm an toàn về lợi ích chính đáng và hợp pháp của dân.
2.2. Chính sách thuế
Ngành thuế cần triển khai thực hiện những giải pháp sau:
- Trong việc ban hành các văn bản pháp quy về thuế, cần cú cơ chế tham gia rộng rãi của các đối tượng chịu thuế. Cơ chế này phải thu hỳt sự tham gia của người dân, đặc biệt là doanh nhân và sự phản biện của xã hội, để các doanh nhân có tiếng nói của mình ngay từ quá trình lập pháp. Chỉ khi đó các văn bản pháp quy về thuế mới là sự thoả thuận xã hội mà các bên liên quan, kể cả cơ quan công quyền và DN đều phải chấp hành nghiêm chỉnh.
- Nghiên cứu bỏ chế độ khoán thuế; áp dụng rộng rãi biện pháp đăng ký và DN tự in hóa đơn, tiến tới áp dụng việc DN tự khai và tự nộp thuế trên phạm vi toàn quốc.
- Hoàn thiện thuế GTGT theo hướng giảm bớt số lượng nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh; áp dụng một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và đơn giản trong việc tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ; hoàn thiện phương pháp tính thuế, tiến tới xác định ngưỡng doanh thu chịu thuế GTGT để thực hiện một phương pháp tính thuế khấu trừ, phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Hoàn thiện thuế TNDN theo hướng giảm mức thuế suất, giảm diện miễn, giảm thuế, thống nhất mức thuế suất và ưu đãi thuế giữa các thành phần kinh tế để khuyến khích đầu tư và đảm bảo bình đẳng trong cạnh tranh.
- Sớm ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ỏp dụng đối với người có thu nhập theo hướng mở rộng đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, xoá bỏ sự khác biệt giữa đối tượng nộp thuế là người Việt Nam và người nước ngoài.
2.3. Chính sách tín dụng
Việc cần làm ngay là nhanh chóng củng cố hệ thống tài chính. Sau đây là một số biện pháp mang tính khái quát:
- Nhanh chóng hiện đại hoá mạng lưới công nghệ thông tin trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là cần triển khai việc nối mạng máy tính trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Biện pháp này giúp ngân hàng tăng hiệu quả hoạt động, giảm thiểu tối đa các rủi ro nhờ việc thu thập chính xác các thông tin cần thiết về khách hàng và hạn chế được các sai lầm khi đưa ra quyết định tín dụng.
- Xây dựng hệ thống đăng ký thế chấp, tiến tới nối mạng toàn quốc để tạo thuận lợi cho DN, phòng chống hành vi lạm dụng, lừa đảo trong hoạt động thế chấp. Thực tế đã cho thấy hình thức cho vay có đảm bảo bằng cầm cố các giấy tờ có giá như thương phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... của các TCTD là một hình thức rất linh hoạt, thuận tiện cho cả người đi vay và người cho vay vì thủ tục đơn giản, nhanh chóng. Hơn thế nữa, hình thức này tương đối an toàn và độ rủi ro được hạn chế ở mức thấp nhất. Các TCTD không cần quan tâm hay không phải quan tâm nhiều lắm đến khả năng tài chính của khách hàng mà chỉ cần tập trung đánh giá tình hình tài chính của các đơn vị phát hành.
- Nhà nước cần có những biện pháp để mở rộng, phát triển thị trường cho thuê tài chính. Tín dụng thuê mua là một hình thức quan trọng của đầu tư, là biện pháp thay thế vốn ngân hàng giúp cho các DN ít vốn hoặc không có tài sản thế chấp dễ dàng có được tài sản để tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Cần xây dựng và mở rộng hoạt động của các Quỹ đầu tư rủi ro, các công ty kinh doanh và khai thác nợ. Các định chế này có thể do tư nhân quản lý.
- Cần có Chương trình hỗ trợ vốn cho các DN thuộc KVKTTN. Trước thực trạng thiếu vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của KVKTTN Việt Nam, Nhà nước cần xác lập và triển khai càng sớm càng tốt chương trình hỗ trợ vốn cho các DN thuộc KVKTTN, trước hết là các DNVVN. Trong đó, hỗ trợ vốn cho cả hai loại: hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu để hình thành DN và hỗ trợ vốn vay khi DN kinh doanh thiếu vốn, có nhu cầu đầu tư mở rộng quy mô kinh doanh.
- Cần xem xét việc xây dựng chương trình bảo lãnh tín dụng. Chương trình này cung cấp những bảo đảm cho các khoản vay cho các ngân hàng, thực hiện mục tiêu bù đắp cho bên cho vay (ngân hàng) phần lớn chi phí rủi ro, trong trường hợp bên vay (các DN) không hoàn trả được khoản vay của mình. Việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP là một biện pháp quan trọng cần được triển khai rộng khắp.
2.4. Chính sách đất đai
Về lâu dài, các chính sách tài chính về đất đai phải được hoàn thiện tập trung vào:
- Tạo lập và hoàn thiện có chế tài chính cho thị trường bất động sản. Định hướng, điều tiết và kiểm soát thị trường bất động sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia thị trường.
- Hoàn thiện chính sách xử lý quỹ đất tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng bằng cách hướng dẫn đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với thu chi NSNN theo Luật Ngân sách Nhà nước.
- Nhà nước xây dựng kế hoạch và có biện pháp thực hiện triệt để việc thu hồi đất đã được giao hay cho tổ chức thuê đang để hoang hoá, không sử dụng, hoặc sử dụng sai mục đích, ...
- Triển khai thực hiện tốt công tác quy hoạch đất, công bố rộng rãi, công khai các hạng mục, diện tích kêu gọi đầu tư hoặc cho đấu thầu diện tích đất.
- Tách việc cho thuê đất nguyên thổ và hoạt động kinh doanh hạ tầng các KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao. Như vậy mới thực hiện được việc ưu đãi đầu tư cho DN một cách thích đáng.
- Để tạo lập và phát triển thị trường bất động sản chính thức, cần khuyến khích người sử dụng đất đăng ký, kê khai giao dịch đất đai tại cơ quan nhà nước. Các tỉnh, thành phố cần khẩn trương thành lập cơ quan quản lý quỹ đất với chức năng đăng ký, cho thuê, giao và thực hiện các giao dịch về đất như đấu giá, đấu thầu đất cũng như các giao dịch khác có liên quan.
2.5. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh
Sự phát triển mạnh mẽ của khu vực DN đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường DVPTKD. Các quy định liên quan đến DVPTKD còn thiếu và hạn chế do thị trường này phát triển muộn hơn các thị trường khác. Vì vậy, việc hoàn thiện và nâng cao hệ thống pháp lý nói chung và khu vực DVPTKD nói riêng là rất cần thiết để thị trường này phát triển phù hợp với vai trò và vị trí của nó trong nền kinh tế. Cụ thể là:
- Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến phát triển thị trường DVPTKD.
- Loại bỏ những rào cản không hợp lý làm cản trở hoặc hạn chế nhu cầu sử dụng các DVPTKD. Chẳng hạn, xem xét và loại bỏ những cản trở không hợp lý về vấn đề chi phí đối với việc sử dụng các DVPTKD; nên áp dụng mức thuế thấp hoặc miễn thuế đối với các nhà cung cấp DVPTKD.
- Nâng cao hiểu biết về chính sách đối với DVPTKD thông qua tuyên truyền, qua tổ chức các cuộc hội thảo, các khoá đào tạo, cũng như những hoạt động của các hiệp hội kinh doanh... nhằm giúp cho các doanh nhân nhận thức đầy đủ và rõ ràng hơn những lợi ích của việc sử dụng các dịch vụ bên ngoài so với hệ thống tự cung - tự cấp của DN.
- Nhà nước cần hỗ trợ cho các nhà cung cấp DVPTKD nhằm tăng cường khả năng cung cấp của họ, đặc biệt là hỗ trợ nguồn nhân lực, công nghệ, kỹ thuật và kỹ năng tiếp thị... để họ có thể đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng.
- Hàng năm, Nhà nước thông qua các tổ chức và bằng các cơ chế thích hợp cần đánh giá khả năng của các nhà cung cấp DVPTKD dựa trên các tiêu chuẩn và điều kiện đã đặt ra. Dựa trên đánh giá này Chính phủ lập ra một danh sách các nhà cung cấp đạt các yêu cầu của các khách hàng sử dụng DVPTKD và sau đó hỗ trợ cho các nhà cung cấp để họ có thể tăng khả năng cung cấp DVPTKD cho các DN, đặc biệt là các DNNVV.
- Tiến hành xây dựng các Chương trình chiến lược phát triển thị trường DVPTKD cho DNNVV ở Việt Nam sẽ là giải pháp quan trọng. Một trong những nội dung quan trọng của Chiến lược này là phải xác định được mục tiêu phát triển thị trường DVPTKD, xác định tỷ lệ tăng trưởng của thị trường này. Đồng thời trong Chiến lược này cũng phải đưa ra được các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy phát triển mạnh mẽ thị trường này trong giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020. Chỉ khi xây dựng được một chiến lược như vậy thì việc hỗ trợ phát triển các DNNVV mới thực sự có hiệu quả.
- Các chương trình thưởng xuất khẩu, trợ giá xuất khẩu cần phải được thiết kế lại theo hướng không vi phạm các cam kết quốc tế.
2.6. Chính sách hỗ trợ công nghệ
Các cơ chế chính sách của Nhà nước ban hành cần đồng bộ, phối kết hợp với các cấp, các ngành; phối hợp cơ chế chính sách liên quan tới KH&CN với cơ chế chính sách kinh tế-xã hội vĩ mô nhằm tạo những điều kiện thuận lợi cho đổi mới công nghệ. Cơ chế, chính sách thúc đẩy đầu tư đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ cao ở Việt Nam trong thời gian tới phải gắn liền với những đổi mới khác trong cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, gắn với việc nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp và năng lực công nghệ của lực lượng làm khoa học công nghệ của nước ta. Nói cách khác, có công nghệ phải đi liền với có nguồn nhân lực hợp lý để sử dụng công nghệ thì mới bảo đảm hiệu quả của yếu tố công nghệ đối với nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để cụ thể hóa hơn nữa chính sách hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ, trong thời gian tới, các Bộ, ngành cần khẩn trương xây đựng và ban hành những thông tư hướng dẫn cho những Nghị định, Quyết định đã được Chính phủ ban hành.
Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực đổi mới công nghệ cho DN, tạo điều kiện và môi trường pháp lý đầy đủ để hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp dịch vụ công nghệ, thông tin công nghệ, hình thành mạng lưới thông tin công nghệ và đổi mới công nghệ ở trung ương và địa phương phục vụ các doanh nghiệp.
Phát triển KVKTTN ở Việt Nam là một quá trình lâu dài. Nhiều chính sách mang tính khuyến khích, hỗ trợ cho sự phát triển KVKTTN mới chỉ được ban hành trong khoảng 10 năm trở lại đây. Do đó, chúng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Tuy nhiên, với sự năng động của các DN thuộc KVKTTN Việt Nam và những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thế giới, chắc chắn KVKTTN Việt Nam sẽ phát triển rất nhanh chóng và sẽ trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước sẽ phải ngày càng được hoàn thiện để có thể là “bà đỡ” cho sự phát triển của KVKTTN Việt Nam./.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Tiếp tục cụ thể hoá và đẩy mạnh việc thực thi các quy định của Nghị định 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về hỗ trợ các DNNVV liên quan đến các vấn đề: trợ giúp tài chính, trợ giúp về mặt bằng sản xuất kinh doanh, xúc tiến mở rộng thị trường, ưu tiên tham gia cung cấp các hợp đồng mua sắm, cung ứng dịch vụ công. Để triển khai các hoạt động liên quan đến việc hỗ trợ DNNVV, cần đẩy nhanh các công việc như:
Triển khai kịp thời và đồng bộ những biện pháp nhằm trợ giúp pháp lý cho các doanh nghiệp nói chung trong đó đặc biệt quan tâm tới các DNNVV. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến DNNVV, các văn bản hướng dẫn của các Bộ ngành liên quan đến các vấn đề về hỗ trợ DNNVV quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP. Thúc đẩy quá trình thực thi các quy định này một cách có hiệu quả.
Xây dựng các chương trình trợ giúp cụ thể từ cấp Trung ương đến địa phương trên cơ sở định hướng phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành, địa bàn và được bố trí trong kế hoạch hàng năm và 5 năm.
Các chương trình trợ giúp DNNVV trước khi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phải lấy ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương, cộng đồng các doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu để bảo đảm tính thống nhất, tính hiệu quả và kết hợp lồng ghép với các chương trình trợ giúp DNNVV khác của Nhà nước.
Đẩy nhanh việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương để hướng dẫn và thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Tổ chức tập huấn và đào tạo cho các cán bộ của các quỹ bảo lãnh tín dụng tại các địa phương về kỹ năng, nghiệp vụ thực hiện bảo lãnh đối với các DNNVV.
Nhanh chóng thành lập Quỹ phát triển DNNVV để thu hút nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, từ các tổ chức trong nước, các khoản viện trợ, tài trợ của các tổ chức quốc tế. Theo quy định tại Nghị định 56/2009/NĐ-CP thì mục đích của Quỹ này tài trợ các chương trình giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV, chú trọng hỗ trợ hoạt động đổi mới phát triển sản phẩm có tính cạnh tranh cao và thân thiện với môi trường; đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ tiên tiến; phát triển công nghiệp hỗ trợ; nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
Để giúp các DNNVV tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn tín dụng chính thức, cần phải thay đổi điều kiện cho vay, từ cho vay thế chấp sang cho vay tín chấp. Việc cho vay tín chấp sẽ làm tăng rủi ro đối với các ngân hàng và tổ chức tín dụng, vì vậy cần nâng cao năng lực đánh giá, thẩm định dự án của cán bộ ngân hàng nhằm đánh giá chính xác hơn khả năng sinh lời của dự án vay vốn từ đó lựa chọn cho vay đối với những dự án tiềm năng mà các DNNVV xây dựng. Việc hỗ trợ nên tập trung vào các DN đang có tiềm năng phát triển, sản phẩm tốt, thị trường tốt.
Đẩy mạnh việc xã hội hóa trong việc huy động vốn cho quỹ BLTD tại địa phương. Theo đó, ngoài nguồn vốn ngân sách như quy định, nên huy động thêm các nguồn vốn từ địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng,... tạo tiềm lực tài chính cho quỹ BLTD hoạt động. Đồng thời, cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý như thuế, cho thuê mặt bằng làm trụ sở,... nhằm khuyến khích các tổ chức tham gia hoạt động BLTD cho DNNVV hiệu quả.
Dấu hiệu phục hồi kinh tế thế giới mang đến những cơ hội mới cho các DNNVV, tuy nhiên nó cũng kéo theo những khó khăn về lạm phát và tăng giá của nhiều mặt hàng trên thế giới. Điều này sẽ làm chi phí đầu vào của các DN tăng cao. Vì vậy trong thời gian tới Chính phủ và các địa phương, trong phạm vi quyền hạn của mình dựa trên tình hình thực tế của các doanh nghiệp cần đưa ra các chính sách miễn, giảm thuế cụ thể đối với một số doanh nghiệp trong một số ngành, lĩnh vực gặp nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó việc cải cách thủ tục hành chính cũng là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Việc vay vốn của các DNNVV hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc lập dự án (cả do chuyên môn cũng như yêu cầu từ phía tổ chức tín dụng). Trong khi đó, khả năng đánh giá tính khả thi và mức độ hiệu quả của các cán bộ của các tổ chức tín dụng, ngân hàng chịu trách nhiệm cho vay còn yếu, việc đánh giá dường như chưa tuân thủ theo những quy trình tốt nên nhiều dự án có tiềm năng vẫn bị bỏ qua. Vì vậy, nếu không cải cách thủ tục hành chính thì các DNNVV vẫn còn tiếp tục gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn.
Tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV cho giai đoạn 2009 – 2013. Việc hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các DNNVV sẽ cho phép các DNNVV chuẩn bị tốt hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai khi nền kinh tế thế giới phục hồi, đi vào ổn định và tăng trưởng cao. Khó khăn về lao động có kỹ năng và tay nghề cao sẽ trở lại mạnh mẽ hơn khi nền kinh tế phục hồi, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn mở rộng sản xuất, kinh doanh vì khi đó các doanh nghiệp này sẽ thu hút một lượng lớn lao động để đáp ứng yêu cầu sản xuất mới.
Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các DNNVV tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài. Việc tham gia các hoạt động này sẽ giúp các DNNVV nâng cao kỹ năng về thương mại, mở rộng thị trường và tìm kiếm thị trường mới. Thêm vào đó các DNNVV khi tham gia các chuyến khảo sát, học tập nước ngoài sẽ tìm hiểu sâu hơn về văn hóa kinh doanh cũng như kinh nghiệm trong việc định hướng và phát triển kinh doanh theo hướng ổn định và lâu dài, giảm bớt các hoạt động kinh doanh theo sự vụ, thiếu ổn định mà nhiều doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng đã và đang áp dụng.
Kết luận
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ. GDP tăng trưởng với tốc độ bình quân 7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên 640 USD/người/năm. Có được những thành tựu này là nhờ những chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Một trong những nguồn lực được huy động chính là từ các DNVVN.
Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng 10 đã khẳng định “khu vực kinh tế tư nhân là một động lực của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Không có sự hỗ trợ nào tốt cho kinh tế tư nhân bằng việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho họ. Trong bối cảnh kinh tế thị trường trong nước và sự hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, các yếu tố khác quan của môi trường kinh doanh ngày càng có cơ hội tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tình trạng lên xuống đột biến của giá cả hàng hoá và dịch vụ, các hàng rào thương mại quốc tế dưới nhiều hình thức, sự bất ổn về chính trị và xã hội, bệnh dịch và thiên tai... luôn là các yếu tố thật khó lường đối với doanh nghiệp. Chính trong bối cảnh đó, sự nhanh nhạy trong các chính sách của chính phủ sẽ giúp doanh nghiệp phần nào khắc phục những hậu quả xấu do các yếu tố bất ngờ đó gây ra cho hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, để cho DNVVN thực sự trở thành động lực của nền kinh tế, các chính sách của nhà nước phải thực sự tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của kinh tế tư nhân thông qua việc tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi cho họ. Cụ thể là các chính sách đó phải chú trọng vào việc tạo ra một môi trường kinh doanh, trong đó các chi phí về tài chính, về thời gian và sức lực liên quan đến việc tuân thủ pháp luật, các quy định và thủ tục hành chính phải phù hợp và không làm tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp và phải giúp doanh nghiệp khắc phục được các trở ngại khách quan trong môi trường kinh doanh.
Quá trình phát triển DNVVN ở Việt Nam là một quá trình lâu dài. Nhiều chính sách mang tính khuyến khích, hỗ trợ cho sự phát triển của DNVVN mới chỉ được ban hành trong khoảng 10 năm trở lại đây. Do đó, chúng vẫn còn nhiều khiếm khuyết do chúng ta “vừa làm vừa rút kinh nghiệm”. Tuy nhiên, với sự năng động của DNVVN và những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thế giới đang không ngừng vận động, chắc chắn rằng DNVVN Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, sẽ phát triển rất nhanh chóng để trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Trong bối cảnh đó, các chính sách hỗ trợ của nhà nước sẽ phải ngày càng được cải thiện để có thể là “bà đỡ” cho sự phát triển của DNVVN Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kế hoạch kinh doanh – NXB Lao Động – Xã Hội 2005.
Tạp chí doanh nghiệp & Hội nhập.
Báo doanh nghiệp Việt Nam.
Giáo trình Quản trị doanh nghiệp – NXB Đại học kinh tế Quốc dân.
Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam đến năm 2005 – NXB Chính trị Quốc gia.
CIEM. (2009). Khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu và việc chủ động ứng phó của Việt Nam. Unpublished Thông tin chuyên đề. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
Hỗ trợ tài chính cho DNV&N của Đài Loan - Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Hà Nội, 2001 số 37.
Nghị định về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – Số: 56/2009/NĐ-CP.
Phạm Thái Quốc, Kinh tế Đài Loan - tình hình và chính sách, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội/1999.
CIEM. (2002). Một số định hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
CIEM. (2004). Báo cáo 10 năm thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
KHĐT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (2003) Báo cáo mạnh yếu Luật Doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2003.
KHĐT (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) (2004) Báo cáo bốn năm thi hành Luật Doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch Đầu tư, 2004.
Kinh tế và dự báo (2003) Kết quả thực hiện Luật Doanh nghiệp. Số 11/2003.
Lê Khắc Triết (2005) Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25690.doc