Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam – thực trạng và giải pháp

Tài liệu Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam – thực trạng và giải pháp: ... Ebook Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam – thực trạng và giải pháp

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1690 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam – thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu……………………………………………………… ….3 Chương 1: Một số vấn đề chung về Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam……………………………….6 1. Vài nét về Australia……………………………………………..6 1.1. Thể chế chính trị và kinh tế…………………………….6 1.2. Vị thế của Australia trong Thương mại Quốc tế……….7 1.3. Vị thế của Australia đối với Việt Nam………………....8 2. ODA của Australia cho Việt Nam…………………………….11 2.1. Khái quát chung về ODA……………………………..11 2.2. Đặc điểm ODA của Australia cho Việt Nam…………17 Chương 2: Thực trạng ODA của Australia vào Việt Nam thời gian qua…………………………………………………………….33 1. Đánh giá chung về tình hình ODA của Australia cho Việt Nam……………………………………………………………33 2. Đánh giá cụ thể về tác động của ODA Australia cho Việt Nam…...……………………………………………………….42 2.1. ODA trong Quản lý nhà nước………………………...44 2.2. ODA trong phát triển nông thôn và cơ sở hạ tầng…….48 2.3. ODA trong giáo dục và y tế…………………………...53 2.4. ODA trong bảo vệ môi trường………………………...63 2.5. ODA trong bảo vệ quyền phụ nữ……………………...66 3. Tác động ODA của Australia tới nền kinh tế Việt Nam………68 3.1. Tác động tích cực……………………………………..68 3.2. Những vấn đề còn tồn tại……………………………...71 3.3. Nguyên nhân tồn tại…………………………………..73 Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Australia cho Việt Nam ……………………...76 1. Những giải pháp đối với chính phủ Australia…………………76 1.1. Nhóm giải pháp tăng cường đầu tư hiệu quả vào Việt Nam…………………………………………………..76 1.2. Nhóm giải pháp sử dụng, quản lý hiệu quả ODA ở Việt Nam…..……………………………………………….78 2. Những giải pháp đối với chính phủ Việt Nam………………...81 2.1. Nhóm giải pháp tăng cường thu hút ODA của Australia………………………………………………81 2.2. Nhóm giải pháp tăng cường sử dụng hiệu quả ODA của Australia………………………………………………85 3. Nhóm giải pháp khác………………………………………….88 Kết luận…………………………………………………………….90 Tài liệu tham khảo………………………………………………...91 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trên đà phát triển kinh tế trong những năm gần đây, với sự biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới,Việt Nam cũng đã và đang đổi mới đường lối phát triển kinh tế của mình. Cùng với quá trình thực hiện các chương trình cải cách kinh tế toàn diện với sự phối hợp các công cụ chính sách vĩ mô, chính sách ngoại giao cởi mở và việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đã đưa Việt Nam tới bước phát triển mạnh mẽ trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể, bộ mặt kinh tế, xã hội đã có những biến đổi rõ rệt nhưng xét một cách toàn diện, Việt Nam còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thách thức để có thể đổi mới và thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội đã đặt ra. Để vượt qua những khó khăn thách thức đó Việt Nam không chỉ phải huy động mạnh mẽ nội lực của toàn đất nước mà còn cần có sự hợp tác và trợ giúp từ các nguồn lực bên ngoài. Một trong những nguồn trợ giúp đó là Nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA). Nguồn viện trợ này đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình xây dựng đất nước hiện nay. Đóng góp một phần không nhỏ trong số ODA tương đối lớn vào Việt Nam hiện nay là nguồn ODA của Australia. ODA của Australia dành cho Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nước ta theo đà phát triển quan hệ song phương giữa hai nước. Đặc biệt, thời gian gần đây Australia có nhiều chương trình viện trợ phát triển chính thức cho Việt Nam với số vốn trung bình mỗi năm khoảng 70 triệu đô la Australia (AUD). Số lượng ODA này đóng góp một phần không nhỏ trong các lĩnh vực đời sống và kinh tế quan trọng của Việt Nam, đem lại nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, trong quá trình viện trợ cũng không tránh khỏi những khó khăn và trở ngại do chúng ta chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Xuất phát từ thực tế trên, em đã quyết định nghiên cứu đề tài “Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia cho Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. Đây thực sự là một vấn đề cần thiết và cấp bách đối với nước ta hiện nay khi mà quan hệ Việt Nam - Australia đã và đang có những bước tiến đáng kể. 2. Mục đích nghiên cứu: - Tìm hiểu chương trình viện trợ phát triển chính thức của Australia cho Việt Nam - Đánh giá thực trạng ODA của Australia vào Việt Nam trong những năm vừa qua - Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút ODA của Australia vào Việt Nam 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là những thông tin chung nhất về ODA của Australia với Việt Nam và ODA trong một số lĩnh vực viện trợ nổi bật và các đặc thù trong hoạt động ODA của Australia dành cho Việt Nam trong các lĩnh vực đó, cụ thể là hoạt động hỗ trợ phát triển ODA trong quản lý nhà nước; ODA trong phát triển nông thôn và cơ sở hạ tầng, ODA trong y tế và giáo dục; ODA trong bảo vệ môi trường; và ODA trong bảo vệ quyền phụ nữ. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận giới hạn ở các nghiên cứu tổng quan về ODA của Australia với Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại đây. 4. Phương pháp nghiên cứu: Khoá luận đã sử dụng tổng hợp các phương pháp của duy vật biện chứng, các phương pháp thống kê toán, phương pháp phân tích kinh tế, phương pháp cân đối để nghiên cứu... 5. Bố cục của khoá luận: Nội dung của khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề chung về Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Australia với Việt Nam Chương II: Thực trạng ODA của Australia vào Việt Nam thời gian qua Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Australia ở Việt Nam. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH THỨC (ODA) CỦA AUSTRALIA CHO VIỆT NAM 1. Vài nét về Australia: 1.1. Thể chế chính trị và Kinh tế: Là một quốc gia nằm ở phía Tây Nam Bán cầu, Australia là quốc gia duy nhất chiếm trọn một lục địa và có diện tích đất liền lớn thứ 6 trên thế giới với hơn 7,6 triệu km2. Với số dân hơn 19,6 triệu người (thống kê tính đến tháng 6/2002), Australia là một xã hội đa văn hóa gồm những người bản xứ và các cư dân di cư đến từ hơn 160 nước trên thế giới. Giống như các nước khác thuộc khối liên hiệp Anh, về chính trị, Australia theo thể chế Quân chủ, người đứng đầu với quyền lực cao nhất là Nữ hoàng. Tuy nhiên, do đặc thù lịch sử phát triển là 1 xã hội đa văn hoá, thực chất Australia là một nước Cộng hoà Liên Bang. Người đứng đầu là Toàn quyền Australia do Nữ hoàng bổ nhiệm. Cơ cấu bộ máy chính trị của quốc gia với người lãnh đạo là Thủ tướng. Quốc hội được chia làm 2 nhánh: Tư pháp và Toà án tối cao. Về kinh tế, trong thương mại quốc tế, nền Australia tập trung vào các dịch vụ và các sản phẩm chế tạo có giá trị cao. Chính sách kinh tế đối ngoại của Australia tập trung chính vào khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Australia rất chú trọng hoạt động Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của mình. Australia sẽ cung cấp 1 tỷ 815 triệu đô la Mỹ cho ODA trong năm 2002-2003. Đây là một mức tăng 90 triệu đô la so với con số ngân sách 2001-2002 là 1,725 tỷ đô la, thể hiện một mức tăng 3%. Hỗ trợ phát triển chính thức theo dự toán của Australia so với tỷ lệ tổng thu nhập quốc dân trong năm 2002-2003 sẽ là 0,25%. Như vậy việc này đã đưa Australia thường xuyên ở vị trí trên mức trung bình của các nước tài trợ (2001) là 0,22%. 1.2. Vị thế của Australia trong Thương mại Quốc tế: Australia là một trong số những nước có nền kinh tế phát triển cao. Tổng GDP của Australia trong năm 2002 đạt 726 tỷ USD. Cùng với việc khẳng định vị thế kinh tế của mình trên trường quốc tế bằng chính các thành tựu kinh tế đạt được, Australia vẫn không ngừng chú trọng phát triển các chiến lược kinh tế đối ngoại, các chương trình viện trợ nhằm nâng cao vị trí và ảnh hưởng của mình đối với các nước khác. Chương trình viện trợ của Australia với việc hỗ trợ các nước đang phát triển giảm đói nghèo đã đạt được những mức phát triển bền vững. Trọng tâm của chương trình tại vùng Châu Á - Thái Bình Dương thể hiện sự tham gia mạnh mẽ của Australia với khu vực và cam kết làm việc trong mối quan hệ đối tác để đáp ứng những thách thức phát triển quan trọng trong khu vực này. Australia là một trong những nhà tài trợ hàng đầu cho khu vực Thái Bình Dương. Australia cũng đáp ứng hào phóng những yêu cầu về khắc phục khủng hoảng và cứu trợ nhân đạo và đóng góp có lựa chọn cho những nhu cầu phát triển ở Nam Á, châu Phi và Trung Đông. Trên bình diện kinh tế, Australia đã và đang trở thành một đối tác kinh tế quan trọng của nhiều quốc gia trong khu vực và trên toàn thế giới. 1.3. Vị thế của Australia đối với Việt Nam Australia và Việt Nam tuy là hai đất nước thuộc hai châu lục với hai hệ thống chính trị khác nhau nhưng lại có mối quan hệ thân thiết, gắn bó. Tình hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Australia không ngừng được củng cố và phát triển qua chặng đường hơn hai tám năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao (26/12/1973). Đặc biệt 10 năm gần đây đã chứng kiến sự khởi sắc trong quan hệ hai nước với những chuyến viếng thăm của lãnh đạo cấp cao hai nước, cụ thể là chuyến thăm chính thức Việt Nam của Thủ tướng John Haward và chuyến thăm Australia của Thủ tướng Phan Văn Khải tháng 4/1999; nhiều hiệp định về kinh tế, thương mại... được ký kết; đầu tư của Australia vào Việt Nam và kim ngạch thương mại song phương không ngừng gia tăng. Hai nước đã ủng hộ và chia sẻ quan điểm trên một số diễn đàn quốc tế: Australia ủng hộ Việt Nam gia nhập ASEAN, giúp Việt Nam trong quá trình tham gia APEC, ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO; Việt Nam ủng hộ Australia gia nhập ASEM. Chính phủ Australia luôn coi trọng quan hệ và mong muốn thúc đẩy hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, thể hiện rõ và sinh động qua viện trợ phát triển chính thức dành cho Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay Australia dành cho Việt Nam 772 triệu đôla Australia (AUD) viện trợ ODA. Về thương mại, trong nhiều năm qua, kim ngạch thương mại giữa hai nước tăng trung bình 40%/ năm. Năm 1993, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 336,8 triệu AUD, trong đó Việt Nam xuất 251,3 triệu AUD, nhập 115,5 triệu AUD, so với năm 1990 tăng gấp 9 lần. Sang năm 1994, tổng kim ngạch tăng lên 23,5% đạt 452,9 triệu AUD (tăng 15%), nhập 163,5 triệu AUD (tăng 41,5%). Năm 1995, kim ngạch chung đạt 500 triệu AUD, tức là vẫn giữ nhịp độ như năm trước, trong đó hàng Việt Nam xuất sang Australia là 340 triệu AUD, hàng nhập là 210 triệu AUD. Kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng từ 32,3 triệu USD năm 1990 lên mức kỷ lục 1 tỷ AUD (trên 600 triệu USD) năm 1998 với những mặt hàng trao đổi ngày càng phong phú. Tổng kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2001 là 1.310,5 triệu đô la Mỹ, trong đó xuất khẩu của Việt Nam đạt 1.041,8 triệu đô la Mỹ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Australia là những mặt hàng có chứa hàm lượng nguyên liệu và lao động cao: dầu thô, hải sản, giày dép, quần áo, quả và hạt tươi hoặc khô, nhựa. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam: sữa và các sản phẩm từ sữa, ngũ cốc và các sản phẩm kể cả lúa mỳ, nhôm, thiết bị và máy điện tử, dầu thực vật, các loại thuốc, động cơ mô tô, máy phát điện. Về đầu tư, tính đến thời điểm cuối tháng 9/2001, Australia là nước đứng thứ 14 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 110 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư đăng kýí là 1.044 triệu đô la Mỹ. Số dự án còn hiệu lực là 73 dự án với tổng vốn đầu tư đăng kíý là 752 triệu USD, vốn pháp định 523,6 triệu USD, vốn đầu tư thực hiện đạt 539 triệu USD. (Nguồn: AusAID Information) Đầu tư của Australia tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghiệp nặng, công nghiệp thực phẩm, giáo dục-tài chính-y tế .v.v. Các dự án đầu tư của Australia tạo công ăn việc làm cho trên 4.700 lao động. Doanh thu năm 2000 của các dự án Australia đạt 427,4 triệu USD. Australia có nhiều dự án quy mô lớn ở những ngành kinh tế quan trọng như tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, than, sản xuất thép, viễn thông, sản xuất tân dược, ngân hàng và giao thông vận tải. Trong bối cảnh khủng hoảng khu vực mấy năm vừa qua, Australia vẫn tiếp tục đầu tư vào Việt Nam mà điển hình là tập đoàn Telstra đã tăng đầu tư vào Việt Nam 40 triệu USD và chọn Hà Nội làm trụ sở chính của Châu Á. Về hợp tác phát triển, năm tài chính 2001/2002 là năm thực hiện cuối cùng của kỳ cam kết 236 triệu đô la Australia giai đoạn 1998/1999-2001/2002. Tỡnh hỡnh giải ngõn thực tế vượt mức cam kết ban đầu khoảng 66 triệu đô la Australia (Nguồn: AusAID Information). Về mức cam kết của Chính phủ Australia dành cho Việt Nam giai đoạn tới: Theo thông báo của AusAID, do khó khăn về tài chính nhất là không dự báo được tỡnh hỡnh nờn từ nay Australia sẽ khụng cam kết theo tài khoỏ 4 năm mà việc phân bổ ngân sách hàng năm tuỳ thuộc vào tỡnh hỡnh thực hiện của từng dự ỏn, chương trỡnh cụ thể và phụ thuộc vào ngõn sỏch hàng năm của Chính phủ Australia dành cho viện trợ. Đối với Việt Nam, mức viện trợ hàng năm sẽ vào khoảng 66 triệu đô la Australia, không kể các chương trỡnh hợp tỏc khu vực. Ngoài ra, do tỡnh hỡnh ngõn sỏch bị hạn chế nờn trong một vài năm tới sẽ tạm thời chưa xem xét các đề xuất mới, trừ một số dự án nhỏ nếu phù hợp và có thể lồng ghép thực hiện trong khuôn khổ Quỹ CEG. Các dự án đó ký kết sẽ tiếp tục triển khai theo cam kết nhưng có thể sẽ kéo dài thời gian thực hiện hơn so với dự kiến. Về lĩnh vực hợp tỏc: Phỏt triển nụng nghiệp, nụng thụn và quản lý nhà nước, giáo dục và đào tạo vẫn là những lĩnh vực trọng tâm trong chương trỡnh hợp tỏc phỏt triển Việt Nam - Australia. Hợp tỏc trong lĩnh vực y tế được thực hiện thông qua việc triển khai dự án Phũng chống HIV/AIDS khu vực Châu Á. Giai đoạn 2 dự án Tăng cường năng lực theo dừi và đánh giá dự án (VAMES) được thực hiện có ý nghĩa quan trọng trong tiến trỡnh hài hoà thủ tục giữa Chớnh phủ Việt Nam với cỏc nhà tài trợ. Quan hệ hợp tác giữa hai nước đang được mở rộng sang cả an ninh, quốc phòng. Hai bên đã tiến hành hàng năm Đối thoại chính thức về an ninh khu vực; Trao đổi tùy viên quân sự và hợp tác chống tội phạm, ma túy. Hợp tác hai nước trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thanh niên, du lịch, thể thao... cũng ngày càng được mở rộng, góp phần tăng cường hiểu biết và hữu nghị giữa nhân dân hai nước. Bước vào thế kỷ 21, hai nước Việt Nam và Australia có một hành trang đáng kể để tăng cường hơn nữa tình hữu nghị và hợp tác nhiều mặt. Đó là sự chân thành, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau. Đó là ý nguyện cùng xây dựng hòa bình, hợp tác vì thịnh vượng và phát triển của mỗi nước cũng như của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và toàn thế giới. 2. ODA của Australia cho Việt Nam: 2.1. Khái quát chung về ODA: Hiện nay, một trong những vấn đề đang được quan tâm hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế của các nước đang phát triển là việc huy động vốn cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các nguồn vốn được huy động ở đây gồm có vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Trong phần vốn của nước ngoài, bên cạnh nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) với vai trò to lớn của nó, còn phải kể đến nguồn Viện trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) đó và đang góp phần không nhỏ vào công cuộc phát triển đất nước. Khái niệm về ODA: Viện trợ phát triển chính thức ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi (cho vay với thời gian dài và lãi suất thấp) của Chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên Hợp Quốc, các tổ chức phi Chính phủ (NGO), các tổ chức tài chính quốc tế (Ngân hàng thế giới - WB, Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF, Ngân hàng phát triển Châu Á - ADB...) gọi chung là các đối tác viện trợ nước ngoài dành cho Chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của các nước này. Viện trợ là việc nguồn lực được chuyển từ nước này sang nước khác dựa trên các điều khoản được thỏa thuận. Nước cấp viện trợ gọi là nước viện trợ (Donor). Nước tiếp nhận gọi là nước nhận viện trợ (Recipient). Nguồn viện trợ được cung cấp cho nhiều mục đích khác nhau thông qua nhiều kênh khác nhau. Nguồn ODA cung cấp cho các nước nhận viện trợ được hiểu là sự trợ giúp bằng tiền, vật tư, thiết bị, chuyển giao công nghệ, chuyển giao tri thức (cung cấp chuyên gia, đào tạo cán bộ...) dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc viện trợ cú hoàn lại được thực hiện theo những thỏa thuận ký kết bằng văn bản. Về cơ bản, ODA có ba hình thức: Viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại và viện trợ không hoàn lại kết hợp cho vay. Viện trợ không hoàn lại: là nguồn viện trợ cấp không, không phải trả lại. Đối với loại viện trợ này thường là hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tri thức, kinh nghiệm thông qua các hoạt động của các chuyên gia quốc tế. Đôi khi viện trợ này cũng có thể là viện trợ nhân đạo (lương thực, thực phẩm, quần áo, thuốc men...) thì chúng khó có thể huy động vào mục đích đầu tư phát triển vì ngay cả nơi vật tư cho không cũng có đơn giá rất cao. Thêm vào đó cần nhận thấy rằng các khoản viện trợ không hoàn lại thường kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, đơn giá... Đặc biệt nhiều đối tác viện trợ cung cấp với các điều kiện ràng buộc khắt khe về chính trị (xu hướng này đã ngày càng giảm đi trong những năm gần đây) mà nhiều Chính phủ không thể thỏa mãn hoặc nếu cố tình chấp nhận sẽ gây nên tình trạng lệ thuộc về chính trị hoặc mất ổn định, ảnh hưởng tới chủ quyền quốc gia, một vấn đề đang trở nên không thể chấp nhận được trong thời đại ngày nay. Viện trợ có hoàn lại: thực chất là các khoản vay tín dụng ưu đãi với điều kiện “mềm”. Với các khoản vay ưu đãi vốn ODA có thể sử dụng cho mục đích đầu tư phát triển. Tính chất ưu đãi của các khoản vay này thể hiện ở chỗ: Lãi suất của các khoản vay trong khuôn khổ ODA là lãi thấp, thường dưới 3%/ năm. Thời gian cho vay của các khoản vay này dài. Hầu hết các khoản vốn vay ODA của Chính phủ đều có thời hạn kéo dài trên 20 năm. Thời hạn thanh toán là thời hạn từ khi ký kết hiệp định vay đến khi bên vay trả hết tiền vay gốc. Thời gian ân hạn: là thời hạn từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên. Đây chính là thời gian hoàn trả nợ mà nước tài trợ dành cho nước nhận viện trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho phát huy hiệu quả của vốn vay, tạo điều kiện trả nợ. Thời gian ân hạn của các khoản vay ưu đãi tùy thuộc vào các nhà tài trợ và tùy vào đối tượng nhận viện trợ, Nhật Bản thường có thời gian ân hạn là 10 năm, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) là 3 đến 4 năm (chưa trả gốc, chỉ phải trả lãi), Ngân hàng thế giới (WB) là 10 năm, Ngân hàng phát triển Châu á (ADB) là 5 đến 7 năm. Viện trợ không hoàn lại kết hợp cho vay: Bao gồm một phần cấp không, một phần thực hiện theo hình thức vay tín dụng. Như vậy, có thể phân biệt được ODA với các nguồn vốn nước ngoài khác như đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hay vay nợ nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là quá trình kinh tế trong đó một hay nhiều tổ chức kinh tế của nước này đầu tư sang nước khác nhằm mục đích xây dựng những công trình mới hoặc hiện đại hóa mở rộng các xí nghiệp hiện có. Về nguyên tắc, doanh nghiệp đó được trực tiếp tham gia quản lý tài sản của mình, hoạt động này có nhiều hình thức như Hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập các xí nghiệp liên doanh, các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. ODA và FDI khác nhau ở chỗ cùng là nguồn đầu tư từ nước ngoài nhưng qua đầu tư trực tiếp các nước phát triển tiếp nhận được công nghệ hiện đại sau đó cải tiến, phát triển thành công nghệ của mình, mặt khác phía nhận đầu tư còn học hỏi được kinh nghiệm tổ chức quản lý của nước đầu tư. Hơn nữa các công ty nước ngoài còn giúp doanh nghiệp địa phương tiếp cận được vào thị trường thế giới thông qua liên doanh và mạng lưới thị trường rộng lớn của họ... So với nguồn vay nợ nước ngoài, ODA khác ở chỗ vay nợ nước ngoài không có các điều kiện ưu đãi về lãi suất hay thời gian ân hạn mà đó chỉ đơn thuần là khoản vay phải trả với lãi suất bình thường. Đặc điểm của ODA: Xét về bản chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại theo những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ một quốc gia giàu sang quốc gia nghèo. Mục tiêu cơ bản của ODA là thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và đóng góp vào việc cải thiện mức sống ở các nước đang phát triển. Thực tế cũng chứng minh được rằng ODA đóng một vai trò quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế của nước nhận viện trợ nếu những quốc gia này sử dụng ODA một cách hợp lý. Tuy nhiên, thực chất của việc viện trợ còn bao hàm cả những yếu tố tiêu cực. Các nước phát triển-nước viện trợ không cung cấp một cách vô tư các khoản viện trợ, đó không đơn thuần là một sự viện trợ để giúp nước nghèo thoát khỏi lạc hậu để cùng nhau phát triển. Nhìn một cách phiến diện thì việc các nước giàu cung cấp ODA cho các nước nghèo là một việc làm mang ý nghĩa tốt đẹp nhưng bên trong nó là cả một vấn đề và đó cũng chính là các đặc điểm để phân biệt ODA với các nguồn vốn khác từ nước ngoài. ODA gắn với chính trị và là một trong những phương tiện để thực hiện ý định chính trị, đồng thời nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự kiểm soát của dư luận xã hội ở cả nước tài trợ lẫn nước nhận viện trợ. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, ODA được sử dụng để lôi kéo thêm đồng minh vì có sự đối đầu Đông - Tây nhằm cân bằng lực lượng. Kể từ khi hệ thống Xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu - Liên Xô cũ tan rã, chiến tranh lạnh chấm dứt, các nhà tài trợ vẫn vận dụng ODA vào mục đích chính trị, tuy nhiên bản chất của hiện tượng đã thay đổi nhiều. Đó là lợi ích chính trị phải đi đôi với lợi ích kinh tế, thương mại, phải vì mục tiêu cuối cùng là tăng cường phát triển kinh tế song song với quan hệ chính trị trên cơ sở hợp tác đối thoại, phát triển và phồn vinh. Ngày nay, thông thường các nước tài trợ sử dụng viện trợ như là công cụ để buộc các nước đang phát triển thay đổi chính sách kinh tế - xã hội, đối ngoại để phục vụ lợi ích của bên viện trợ. Trong đó, đáng kể nhất là tự do hoá kinh tế, thương mại, mở cửa để tạo điều kiện cho Tư bản tư nhân nước viện trợ thâm nhập vào thị trường nước nhận viện trợ. Các quốc gia hoặc khước từ các điều kiện ràng buộc hoặc có thể có chế độ chính trị được coi là thù địch thì sẽ nằm ngoài diện được cấp ODA. Sự phân biệt đối xử có chủ định trong việc cấp ODA là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng phân bổ không đồng đều nguồn ODA giữa các nước đang phát triển và giữa các khu vực trên thế giới. Nước tiếp nhận ODA phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp viện trợ như là thực hiện các cải cách kinh tế theo mẫu mà bên viện trợ đưa ra. Điển hình là Ngân hàng thế giới WB, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF thường chỉ viện trợ cho các nước đang phát triển khi những nước này cam kết thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo tiến trình và tiêu chuẩn mà các tổ chức này yêu cầu. Trên thực tế, những mô hình của các tổ chức này phần lớn dựa theo mô hình nước phát triển nên ít tính khả thi, ít mang lại kết quả. Do vậy dẫn tới tình trạng nước nhận hoặc là phải nhập khẩu hàng hóa, thiết bị, nguyên vật liệu của nước tài trợ hoặc phải nhận từ nơi mà nước tài trợ yêu cầu. Nước nhận viện trợ phải chịu rủi ro đồng tiền nước viện trợ. Nếu đồng tiền viện trợ tăng giá so với đồng tiền nước tiếp nhận thu được thông qua xuất khẩu (nguồn thu nhập để trả nợ) thì nước nhận viện trợ sẽ phải trả thêm một khoản nợ bổ xung phát sinh do chênh lệch giá ở thời điểm vay và thời điểm trả nợ. Nước tiếp nhận thường không có quyền trong việc lựa chọn đồng tiền để vay ODA, cũng không có quyền sử dụng tiền địa phương để làm đơn vị viện trợ mà buộc phải vay bằng tiền nước cấp ODA. Chẳng hạn, hiến pháp Nhật Bản quy định rõ chỉ cho vay viện trợ bằng đồng JPY (Yên Nhật). Như vậy, thực chất ODA không phải là món quà biếu không, bên trong mục đích tương trợ, giúp đỡ để cùng nhau phát triển là sự đấu tranh không ngừng nghỉ vì quyền lợi của chính mình. Không thể đòi hỏi các nước phát triển phải cung cấp viện trợ một cách vô tư cho các nước nghèo mà không được gì. Chính vì vậy, việc họ đưa ra các điều kiện ràng buộc đối với các nước nhận viện trợ khi cấp ODA là điều tất yếu. Vấn đề đặt ra là các nước nhận viện trợ phải có những chính sách ngoại giao hợp lý, khéo léo để vừa thu hút được ODA cho phát triển kinh tế nhưng lại không đi lệch hướng đường lối chính trị và không làm mất lòng các nhà tài trợ. 2.2. Đặc điểm ODA của Australia cho Việt Nam: Mục tiêu chung của Chương trình hỗ trợ phát triển Việt Nam trong khuôn khổ ODA của Australia vào Việt Nam là xoá đói giảm nghèo, phát triển Kinh tế xã hội bền vững. Đặc điểm nổi bật của chương trình ODA của Australia với Việt Nam là các khoản viện trợ thường là những khoản viện trợ không hoàn lại. Các khoản viện trợ này được thực hiện thông qua các chương trình viện trợ nhằm đạt được mục tiêu lớn nhất nói trên. Phần lớn các dự án do Australia tài trợ cho Việt Nam đều có các chuyên gia hay người tình nguyện của Australia sang Việt Nam trực tiếp hướng dẫn thực hiện. Ví dụ, hơn ba trăm công nhân, kỹ sư, chuyên gia của Australia sang Việt Nam trong dự án xây dựng cầu Mỹ Thuận; sáu người tình nguyện trong “Chương trình các nhà đại sứ trẻ”. Điều này chứng tỏ Australia có quan tâm thực sự tới hiệu quả trực tiếp của các chương trình chứ không chỉ bỏ một khoản tiền tài trợ để phía nhận viện trợ tùy ý sử dụng. Ngoài ra, với quan điểm của AusAID là cần phải có sự tham gia đóng góp vốn của cả hai phía thì các dự án mới có thể mang tính khả thi và đạt được hiệu quả cao, lâu dài nên có thể nói các dự án được Australia viện trợ đều có sự tham gia đóng góp vốn từ cả hai phía Australia và Việt Nam. Một đặc điểm cơ bản nữa là tất cả các dự án do Australia tài trợ phải phù hợp với các chính sách của AusAID về giới tính, phát triển, dân số và môi trường. Quản lý Nhà nước: Phương châm của chương trình hỗ trợ ODA của Australia cho Việt Nam trong quản lý nhà nước là có giúp Việt Nam đạt được một chế độ quản lý “Trong sáng, Trách nhiệm giải trình và Công bằng”. Ngày 20/3/2002, Chính phủ Australia ký một thoả thuận với Bộ kế hoạch và đầu tư, theo đó 10 triệu AUD sẽ được cung cấp cho Dự án Xây dựng năng lực Quản lý nhà nước hiệu quả kéo dài 3 năm. Các Dự án về Quản lý Nhà nước đều hướng tới mục tiêu chung nhất là củng cố năng lực của một số bộ phận ngành và cơ quan Nhà nước có liên quan, nhằm nâng cao tính hiệu quả, công minh, chính trực trong chính sách quản lý, phát triển và dịch vụ ở Việt Nam. Các hoạt động dự án tập trung vào 4 lĩnh vực: Phát triển kinh tế tư nhân, hội nhập kinh tế, sử dụng hiệu quả những nguồn lực công cộng, thúc đẩy hệ thống tư pháp và luật pháp công minh, rõ ràng và dễ tiếp cận. Các lĩnh vực ưu tiên Các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA: 1. Vốn ODA khụng hoàn lại được ưu tiên sử dụng cho những chương trỡnh, dự ỏn thuộc cỏc lĩnh vực: a) Xoỏ đói giảm nghèo, trước hết tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; b) Y tế, dõn số và phỏt triển; c) Giỏo dục, phỏt triển nguồn nhõn lực; d) Cỏc vấn đề xó hội (tạo việc làm, cấp nước sinh hoạt, phũng chống dịch bệnh, phũng chống cỏc tệ nạn xó hội); đ) Bảo vệ môi trường, bảo vệ và phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên; nghiên cứu khoa học và cụng nghệ, nõng cao năng lực nghiờn cứu và triển khai; e) Nghiên cứu chuẩn bị các chương trỡnh, dự ỏn phỏt triển (quy hoạch, điều tra cơ bản); g) Cải cách hành chính, tư pháp, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương, địa phương và phát triển thể chế; 2. Vốn ODA vay được ưu tiên sử dụng cho những chương trỡnh, dự ỏn thuộc cỏc lĩnh vực: a) Xoỏ đói giảm nghốo, nụng nghiệp và phỏt triển nụng thụn; b) Giao thụng vận tải, thụng tin liờn lạc; c) Năng lượng; d) Cơ sở hạ tầng xó hội (cỏc cụng trỡnh phỳc lợi cụng cộng, y tế, giỏo dục và đào tạo, cấp thoát nước, bảo vệ môi trường); đ) Hỗ trợ một số lĩnh vực sản xuất nhằm giải quyết cỏc vấn đề kinh tế - xó hội; e) Hỗ trợ cỏn cõn thanh toỏn; Quy định về sử dụng và giải ngân ODA: Trước yêu cầu cấp thiết của việc phải có một khung pháp lý điều chỉnh các hoạt động ODA hỗ trợ bởi chính phủ Australia nói riêng cũng như hoạt động ODA nói chung, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các nghị định, quy chế cũng như các thông tư hướng dẫn về quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, trong đú quy định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng ODA cho từng thời kỳ, phê duyệt danh mục và nội dung chương trỡnh, dự ỏn ODA yờu cầu tài trợ và chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc thẩm quyền phờ duyệt của Thủ tướng Chính phủ, điều hành vĩ mô việc quản lý, thực hiện các chương trỡnh, dự ỏn ODA, ban hành cỏc văn bản quy phạm pháp luật về việc quản lý và sử dụng ODA. Cùng với các văn bản pháp quy khác, nghị định 17/2001/NĐ-CP đã thiết lập một hệ thống văn bản hướng dẫn khá cụ thể về việc sử dụng và giải ngân ODA. Quy định về sử dụng ODA: Các nguyên tắc cơ bản: 1. ODA là một nguồn vốn quan trọng của Ngân sách Nhà nước, được sử dụng để hỗ trợ thực hiện cỏc mục tiờu phỏt triển kinh tế-xó hội ưu tiên. 2. Chớnh phủ thống nhất quản lý nhà nước về ODA trên cơ sở phõn cấp, tăng cường trách nhiệm và bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các cơ quan quản lý ngành và địa phương. 3. Quỏ trỡnh thu hỳt, quản lý và sử dụng ODA phải tuõn thủ những yờu cầu dưới đây: a) Chớnh phủ nắm vai trũ quản lý và chỉ đạo, phỏt huy cao độ tớnh chủ động và trách nhiệm của cơ quan chủ quản và cơ quan, đơn vị thực hiện; b) Bảo đảm tớnh tổng hợp, thống nhất và đồng bộ trong cụng tỏc quản lý ODA; c) Bảo đảm sự tham gia rộng rói của cỏc bờn cú liờn quan, trong đó cú cỏc đối tượng thụ hưởng; d) Bảo đảm tớnh rừ ràng, minh bạch về quyền hạn và trỏch nhiệm của cỏc bờn cú liờn quan; đ) Bảo đảm hài hoà thủ tục giữa Việt Nam và Nhà tài trợ. Nghị định 17/2001/Né-CP của Chớnh phủ ngày 4 thỏng 5 năm 2001 về việc ban hành Quy chế Quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) (có hiệu lực từ ngày 19 tháng 5 năm 2001 thay thế Nghị định 87/CP). Với 8 chương, 46 điều, Nghị định 17/CP đó đề cập một cách tương đối chi tiết toàn bộ quá trỡnh từ thu hỳt, vận động đến thực hiện và theo dừi, đánh giá các chương trỡnh, dự ỏn ODA. Nột mới của Nghị định so với Nghị định 87/CP trước kia thể hiện ở một số điểm sau: 1. Có sự điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các lĩnh vực sử dụng ODA với định hướng ưu tiên cao nhất là xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (éiều 3.1.a, 3.2.a) 2. Tăng cường phân cấp phê duyệt dự án trên cơ sở xác định rừ trỏch nhiệm của cỏc bờn liờn quan nhằm đảm bảo việc quản lý nhà nước chặt chẽ nguồn vốn ODA. Cụ thể, mức phê duyệt của thủ trưởng các cơ quan chủ quản đối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật được nâng từ dưới 500.000USD lên dưới 1.000.000USD. (Mức phê duyệt các dự án đầu tư được điều chỉnh theo Nghị định 52/CP). Quy chế cũng quy định rằng những người có thẩm quyền phê duyệt này “phải căn cứ vào các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA và căn cứ vào hiệu quả kinh._. tế-xó hội của chương trỡnh, dự ỏn ODA, danh mục chương trỡnh, dự ỏn ODA đó được Chính phủ phê duyệt và chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mỡnh” (éiều 20.2) Ngoài ra, Quy chế cũng quy định các mức phân cấp cụ thể cho việc phê duyệt những điều chỉnh, bổ sung nội dung chương trỡnh, dự ỏn ODA trong quỏ trỡnh thực hiện. Cụ thể, tại éiều 29 cú quy định đối với các chương trỡnh, dự ỏn thuộc thẩm quyền phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ, Cơ quan chủ quản được phép phê duyệt mọi sửa đổi, bổ sung về mức vốn không vượt quá 10% tổng vốn đó được phê duyệt hoặc không quá 1.000.000 đôla Mỹ đối với dự án đầu tư và 100 nghỡn đôla Mỹ đối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật; Tương tự, đối với các chương trỡnh, dự ỏn thuộc thẩm quyền phờ duyệt của Cơ quan chủ quản, Chủ dự án được phép phê duyệt mọi sửa đổi, bổ sung về mức vốn không vượt quá 10% tổng vốn đó được phê duyệt hoặc không qúa 500.000 đôla Mỹ đối với dự án đầu tư và 50 nghỡn đôla Mỹ đối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật. 3. Ban chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA và Ban quản lý dự ỏn ODA được quy định cụ thể về tổ chức, trách nhiệm và quyền hạn. éiều 13 Quy chế về Ban chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA đó quy định một loạt các nhiệm vụ cho Ban này trong đó bao gồm việc nghiên cứu các quy định của phía Việt Nam và bên tài trợ về quá trỡnh chuẩn bị, thực hiện chương trỡnh, dự ỏn và lập kế hoạch chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA trỡnh cơ quan chủ quản phê duyệt. Những nội dung trên nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực tới tiến độ triển khai các chương trỡnh, dự ỏn ODA và khắc phục một trong những nguyờn nhõn lớn gõy chậm trễ cho việc tiến hành cỏc dự ỏn hiện nay. Cũng là một điểm mới khác của Nghị định, Quy chế có một điều khoản riêng quy định về Ban quản lý chương trỡnh, dự ỏn ODA (éiều 25). éiều khoản này cũng quy định Bộ Kế hoạch và éầu tư sẽ có hướng dẫn cụ thể về quy chế mẫu chức năng, nhiệm vụ của các Ban quản lý dự ỏn. 4. éồng bộ hoỏ với cỏc văn bản quy phạm pháp luật khác có tính đặc thù của dự án ODA. Ví dụ, tại giai đoạn thẩm định dự án, trong Quy chế có quy định rằng “trong quá trỡnh thẩm định, cơ quan chủ trỡ tổ chức thẩm định phải xem xét các nội dung đó thoả thuận với Nhà tài trợ, ý kiến thẩm định của Nhà tài trợ hoặc đại diện của Nhà tài trợ, ý kiến đồng thuận hoặc ý kiến khác nhau giữa các bên phải được phản ánh trong báo cáo thẩm định” (éiều 18.6) hoặc trong quỏ trỡnh chuẩn bị dự ỏn, Quy chế quy định rằng ngoài các nội dung bắt buộc theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi các chương trỡnh, dự ỏn ODA đầu tư phải có thêm nội dung mang tính chất đặc thù của chương trỡnh, dự ỏn cú sử dụng vốn ODA như “lý do sử dụng vốn ODA, thế mạnh của Nhà tài trợ về cụng nghệ, kinh nghiệm quản lý, tư vấn chính sách thuộc lĩnh vực được tài trợ hoặc đánh giá các điều kiện ràng buộc theo quy định của Nhà tài trợ đối với chương trỡnh, dự ỏn ODA”. 5. So với Nghị định 87/CP, Nghị định 17/CP đó bổ sung thờm cỏc quy định về vốn bao gồm vốn chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA (éiều 5.12.a và 12), vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện chương trỡnh, dự ỏn ODA (éiều 5.12.b và 26), vốn ứng trước để thực hiện chương trỡnh dự ỏn ODA (éiều 27) làm cơ sở cho việc lên kế hoạch và giải ngân nguồn vốn đối ứng cần thiết cho dự án. Việc thể chế hoá các quy định liên quan đến các loại vốn này vào trong Nghị định mới thực chất là tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định nguồn, lập kế hoạch và giải ngân các loại vốn này từ các nguồn thích hợp đó được đưa vào kế hoạch, kể cả từ Ngân sách nhà nước, tránh tỡnh trạng nhiều dự ỏn vỡ thiếu hoặc gặp khú khăn về vốn đối ứng của phía Việt Nam mà bị chậm trễ so với tiến độ. Ví dụ, điều 26 Quy chế có ghi rằng “Các chương trỡnh, dự ỏn ODA đều phải được đảm bảo đủ vốn đối ứng để chuẩn bị thực hiện và thực hiện. Nguồn vốn và cơ chế sử dụng vốn đối ứng phải được quy định trong quyết định phê duyệt văn kiện chương trỡnh, dự ỏn ODA. Vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc diện ngõn sỏch Nhà nước cấp phát do Cơ quan chủ quản bố trí đầy đủ, kịp thời, phù hợp với tiến độ quy định trong văn kiện chương trỡnh, dự ỏn ODA đó được cấp có thẩm quyền phê duyệt, phù hợp với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước và điều ước quốc tế về ODA đó ký kết” và “éối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA khụng kịp bố trớ vốn đối ứng trong kế hoạch ngân sách hàng năm hoặc có nhu cầu đột xuất về vốn đối ứng, Chủ dự án và Cơ quan chủ quản phải có văn bản gửi Bộ Kế hoạch và éầu tư, Bộ Tài chính yêu cầu xem xét, quyết định tạm ứng vốn đối ứng từ nguồn dự phũng ngõn sỏch Trung ương và sau đó sẽ khấu trừ vào kế hoạch vốn đối ứng của kỳ kế hoạch tiếp theo”. Tương tự như vậy, quy định về vốn ứng trước trong Quy chế (éiều 27) xỏc định rằng “Trường hợp có nhu cầu cấp thiết về vốn ứng trước để thực hiện một số hạng mục của chương trỡnh, dự ỏn đó được cam kết tài trợ từ nguồn vốn ODA, Bộ Tài chính chủ trỡ phối hợp với Bộ Kế hoạch và éầu tư xem xét, quyết định tạm ứng vốn từ nguồn ngân sách Nhà nước trên cơ sở văn bản giải trỡnh của Cơ quan chủ quản và văn bản thoả thuận của Nhà tài trợ. Phần vốn này sẽ được Bộ Tài chính thu hồi lại khi giải ngân vốn ODA phân bổ cho hạng mục đó”. 6. Bổ sung thờm cỏc nhiệm vụ cú tớnh chất quản lý vĩ mụ cho cỏc cơ quan quản lý nhà nước về vốn ODA. éõy là cỏc chức năng có tính hướng dẫn và hỗ trợ cơ quan các cấp trong quá trỡnh vận động, thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA, như chức năng biên soạn và hướng dẫn thực hiện các tài liệu nghiệp vụ cho quá trỡnh thực hiện cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA đối với các nội dung cụng việc mà ngành mỡnh quản lý. Vớ dụ, Bộ Kế hoạch và éầu tư có nhiệm vụ "biên soạn và phổ biến các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về vận động, chuẩn bị, thẩm định, quản lý thực hiện cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA cú tớnh đến yêu cầu hài hoà thủ tục với các nhà tài trợ" (éiều 38.10) hay Bộ Tài chớnh cú nhiệm vụ "Biờn soạn và phổ biến cỏc tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về giải ngân và quản lý tài chớnh đối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA" (éiều 39.5) 7. Theo dừi, đánh giá chương trỡnh, dự ỏn ODA. Khắc phục khõu yếu trong cụng tỏc theo dừi và đánh gía chương trỡnh, dự ỏn ODA trước đây, Nghị định 17/2001/Né-CP đó cú riờng một chương VI với 4 éiều quy định về chế độ báo cáo, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan liên quan cũng như của Ban quản lý chương trỡnh, dự ỏn ODA trong cụng tỏc này. éõy là bước tiến đáng kể so với các Nghị định 20/CP và 87/CP trước đây. Hoạt động theo dừi, đánh giá dự án đó được thể chế hoá trong chương này có tính chất bắt buộc với mọi chương trỡnh dự ỏn thụng qua quy định “kế hoạch, tổ chức thực hiện và kinh phớ theo dừi, đánh giá trích từ nguồn vốn ODA hoặc nguồn vốn đối ứng phải được xác định trước trong văn kiện chương trỡnh, dự ỏn ODA và phải phự hợp với tớnh chất của từng loại chương trỡnh, dự ỏn” (éiều 33.3). Quyết định 64/2001/Qé-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn viện trợ phi chớnh phủ nước ngoài (VTPCP) (thay thế Quyết định số 28/1999/Qé-TTg ngày 23 thỏng 2 năm 1999) So với Quyết định 28, Quyết định 64 đó nõng mức phân cấp phê duyệt các khoản VTPCP, theo đó các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thủ trưởng cơ quan Trung ương của các tổ chức nhân dân (hoặc cấp có thẩm quyền quyết định thành lập đối với các tổ chức không có cơ quan Trung ương) được quyền phê duyệt các chương trỡnh, dự ỏn cú mức vốn dưới 500.000 USD, các khoản viện trợ phi dự án có giá trị dưới 200.000 USD và mọi khoản cứu trợ khẩn cấp đó cú địa chỉ cụ thể. Quy trỡnh thu hỳt, quản lý, sử dụng ODA được tiến hành theo các bước chủ yếu sau: 1. Xây dựng danh mục các chương trỡnh, dự ỏn ưu tiên vận động và sử dụng ODA. 2. Vận động ODA. 3. Đàm phỏn, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA. 4. Thụng bỏo điều ước quốc tế khung về ODA. 5. Chuẩn bị văn kiện chương trỡnh, dự ỏn ODA. 6. Thẩm định, phê duyệt nội dung chương trỡnh, dự ỏn ODA. 7. Đàm phỏn, ký kết, phờ chuẩn hoặc phờ duyệt điều ước quốc tế cụ thể về ODA. 8. Thực hiện chương trỡnh, dự ỏn ODA. 9. Theo dừi, đánh giá, nghiệm thu, quyết toán và bàn giao kết quả chương trỡnh, dự ỏn ODA. Quy định về giải ngân ODA: Giải ngân ODA là một vấn đề quan trọng và nhạy cảm, không chỉ là mối quan tâm của nước nhận viện trợ mà ngay cả đối với các nhà tài trợ. Chính vì vậy, quy trình quản lý kế hoạch giải ngân ODA liên quan đến nhiều Ban, ngành chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Ngoại giao và đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan này. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ quan đầu mối trong việc thu hỳt, điều phối, quản lý ODA, cú nhiệm vụ: 1. Chủ trỡ phối hợp với Bộ Tài chớnh tổng hợp và lập kế hoạch giải ngõn vốn ODA, bố trớ đầy đủ và kịp thời vốn chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA, vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện đối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc diện được Nhà nước cấp phát từ ngân sách trong kế hoạch vốn hàng năm; cựng với Bộ Tài chớnh chủ trỡ, phối hợp với cỏc cơ quan có liên quan xác định phần dự phũng hợp lý trong ngõn sỏch Trung ương khi xây dựng dự toán ngân sỏch hàng năm trỡnh Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội để giải quyết những nhu cầu đột xuất về vốn đối ứng cho chương trỡnh, dự ỏn ODA. 2. Chủ trỡ việc theo dừi, đánh giỏ, kiểm tra tỡnh hỡnh quản lý, thực hiện và hiệu quả hoạt động các chương trỡnh, dự ỏn ODA; đôn đốc, hỗ trợ việc thực hiện các chương trỡnh, dự ỏn ODA; làm đầu mối trong việc xử lý cỏc vấn đề cú liờn quan đến nhiều Bộ, ngành; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định biện phỏp xử lý cỏc vấn đề về ODA thuộc thẩm quyền quy định. 3. Xõy dựng, vận hành và hoàn thiện hệ thống thụng tin theo dừi, đánh giỏ hiệu quả sử dụng, tỡnh hỡnh giải ngõn cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA; tạo điều kiện chia xẻ thụng tin và khai thỏc cú hiệu quả hệ thống này. 4. Bỏo cỏo tổng hợp theo định kỳ (6 thỏng, một năm) và theo yờu cầu đặc biệt của Đảng và Nhà nước về tỡnh hỡnh quản lý, thực hiện cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA và hiệu quả thu hỳt, sử dụng, giải ngõn ODA. Bộ Tài chớnh cú nhiệm vụ: 1. Phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng chiến lược, quy hoạch thu hút, sử dụng ODA và điều phối các nguồn vốn ODA; hướng dẫn chuẩn bị nội dung chương trỡnh, dự ỏn ODA cú liờn quan đến điều kiện sử dụng vốn, quản lý tài chớnh, phõn tớch và đánh giỏ hiệu quả sử dụng, giải ngõn vốn ODA. 2. Chuẩn bị nội dung đàm phán chương trỡnh, dự án ODA vốn vay với Nhà tài trợ; theo uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ, tiến hành đàm phỏn cỏc điều ước quốc tế cụ thể về ODA vốn vay. 3. Đại diện chính thức cho “người vay” là Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hoà Xó hội chủ nghĩa Việt Nam trong cỏc điều ước quốc tế cụ thể về ODA, kể cả trong trường hợp Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền cho một cơ quan khác chủ trỡ đàm phỏn cỏc điều ước quốc tế nêu trên. 4. Quản lý tài chớnh đối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA: a) Chủ trỡ, phối hợp với cỏc cơ quan liên quan xây dựng quy chế quản lý tài chớnh đối với chương trỡnh, dự ỏn ODA trỡnh Thủ tướng Chính phủ quyết định; b) Chủ trỡ, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan có liên quan chuẩn bị trỡnh Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cơ chế tài chính trong nước áp dụng cho các chương trỡnh, dự ỏn ODA; c) Quy định cụ thể thủ tục rỳt vốn và quản lý rỳt vốn của cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA trờn cơ sở quy định của phỏp luật hiện hành và quy định tại cỏc điều ước quốc tế về ODA đó ký với Nhà tài trợ; d) Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp và lập kế hoạch giải ngân nguồn vốn ODA, bố trí đầy đủ và kịp thời vốn chuẩn bị chương trỡnh, dự ỏn ODA, vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện và thực hiện đối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc diện được Nhà nước cấp phát từ ngân sách trong dự toán ngân sách hàng năm; cấp phỏt đầy đủ, đúng tiến độ vốn đối ứng cho các chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc diện được Nhà nước cấp phát từ ngân sách; cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trỡ, phối hợp với cỏc cơ quan cú liờn quan xỏc định phần dự phũng hợp lý trong ngõn sỏch Trung ương khi xây dựng dự toán ngân sách hàng năm trỡnh Thủ tướng Chính phủ và Quốc hội để giải quyết những nhu cầu đột xuất về vốn đối ứng cho chương trỡnh, dự ỏn ODA.Tổ chức cho vay lại và thu hồi phần vốn cho vay lại của các chương trỡnh, dự ỏn ODA thuộc diện được Nhà nước cho vay lại. d) Bố trí vốn ngân sách Nhà nước để trả nợ cỏc khoản ODA vốn vay khi đến hạn. e) Theo dừi, kiểm tra cụng tỏc quản lý tài chớnh trong việc sử dụng vốn ODA; tổ chức hạch toán kế toán ngân sách Nhà nước đối với nguồn vốn ODA; tổng hợp số liệu rỳt vốn, thanh toỏn và trả nợ đối với chương trỡnh, dự ỏn ODA bỏo cỏo Chớnh phủ và thụng bỏo cho cỏc cơ quan liên quan 5. Biên soạn và phổ biến các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ về giải ngõn và quản lý tài chớnh đối với các chương trỡnh, dự ỏn ODA. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có nhiệm vụ: 1. Phối hợp với các cơ quan liên quan chuẩn bị nội dung đàm phán; theo sự uỷ quyền của Chủ tịch nước hoặc Thủ tướng Chính phủ, tiến hành đàm phỏn cỏc điều ước quốc tế cụ thể về ODA với tổ chức tài trợ, bàn giao vốn và toàn bộ các thông tin liên quan đến chương trỡnh, dự ỏn ODA cho Bộ Tài chớnh sau khi cỏc điều ước quốc tế cụ thể về ODA có hiệu lực. 2. Phối hợp với Bộ Tài chớnh lựa chọn và chỉ định các ngân hàng thương mại để uỷ quyền thực hiện việc giao dịch thanh toỏn đối ngoại đối với nguồn vốn ODA, uỷ quyền cho vay lại và thu hồi vốn trả nợ ngân sách trong trường hợp cần thiết. Tổng hợp theo định kỳ (6 thỏng, một năm) và thụng bỏo cho Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan về tỡnh hỡnh rỳt vốn và thanh toỏn thụng qua hệ thống tài khoản của cỏc chương trỡnh, dự ỏn sử dụng vốn ODA mở tại cỏc ngõn hàng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ODA CỦA AUSTRALIA VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 1. Đánh giá chung về tình hình ODA của Australia cho Việt Nam: Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, nguồn viện trợ dành cho Việt Nam từ các nước này chấm dứt. Việt Nam phải triển khai tích cực hơn chính sách mở cửa nền kinh tế, tăng cường hơn nữa các mối quan hệ hợp tác với thế giới bên ngoài nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và ODA nói riêng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội. Australia là nhà tài trợ sớm nhất, ủng hộ các chương trình phát triển của Việt Nam với số chương trình viện trợ phát triển từ năm 1973 và hiện nay là một trong những nước viện trợ lớn nhất. Sau đó, do lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam hầu hết các nước công nghiệp phát triển cắt viện trợ cho Việt Nam nhưng Australia là một trong những nước sớm nối lại viện trợ phát triển cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến năm 2001 Australia cam kết dành cho Việt Nam 536 triệu AUD viện trợ không hoàn lại cho các chương trình và dự án về giáo dục và đào tạo, y tế, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng. Năm 2002 là năm kỷ niệm 10 năm quan hệ hợp tác phát triển Việt Nam - Australia . Trong 10 năm qua, viện trợ của Australia cho Việt Nam được cung cấp theo chu kỳ 4 năm và được định hướng theo các ưu tiên của Việt Nam và theo Chiến lược hợp tác phát triển Việt Nam - Australia trong từng chu kỳ này. Giai đoạn 1994-1998, Australia đó cung cấp cho Việt Nam 200 triệu đô la Australia . Trong giai đoạn 1998 - 2002, Australia cam kết viện trợ 236 triệu đô la Australia . Riêng năm 2002, viện trợ của Australia dành cho Việt Nam đạt khoảng 73,3 triệu đôla Australia (60,126 triệu viện trợ song phương và 13,074 triệu viện trợ khu vực). Hoạt động viện trợ của Australia tập trung vào việc giúp Việt Nam giảm nghèo đói, phát triển bền vững và cụ thể nhằm vào các lĩnh vực ưu tiên sau đây: - Giáo dục, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực - Phát triển nông nghiệp và nông thôn (bao gồm cả lĩnh vực cấp nước và vệ sinh môi trường), - Quản lý nhà nước - Y tế Với sự hỗ trợ của Chính phủ Australia , trong những năm qua, nhiều dự án ODA đó được triển khai và mang lại hiệu quả thiết thực điển hỡnh như dự án Cầu Mỹ Thuận và dự án cấp nước 5 thị xó (Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Vĩnh Long và Trà Vinh). Australia là nước cung cấp cho Việt Nam nhiều học bổng du học nhất thông qua chương trỡnh Học bổng phỏt triển Australia (ADS) được thực hiện liên tục hàng năm. Trong tương lai, Australia sẽ không cam kết viện trợ theo từng giai đoạn 4 năm mà sẽ tiến hành phân bổ ngân sách hàng năm tuỳ thuộc vào tỡnh hỡnh thực hiện của từng dự ỏn, chương trỡnh cụ thể và phụ thuộc vào ngân sách hàng năm của Chính phủ Australia dành cho viện trợ. éối với Việt Nam, mức viện trợ hàng năm sẽ vào khoảng 66 triệu triệu đô la Australia , không kể các chương trỡnh hợp tỏc khu vực. Hiện nay, hai phớa Việt Nam và Australia đang tích cực chuẩn bị cho việc hoàn thiện bản Chiến lược hợp tác phát triển Việt Nam - Australia giai đoạn 2002-2006. Các lĩnh vực phát triển nông nghiệp, nông thôn, quản lý nhà nước, giáo dục và đào tạo vẫn là những lĩnh vực trọng tâm trong chương trỡnh hợp tỏc phỏt triển Việt Nam - Australia . Hợp tỏc trong lĩnh vực y tế sẽ tiếp tục với cỏc dự ỏn đang triển khai và dự án hợp tác khu vực. Phù hợp với xu hướng phân cấp mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam trong công tác quản lý các dự án đầu tư, các dự án do Chính phủ Australia tài trợ cũng sẽ được giao cho các địa phương trực tiếp quản lý. Một số dự án lớn được cam kết triển khai trong giai đoạn tới gồm dự án Cấp nước và vệ sinh môi trường cho 3 thị xó đồng bằng sông Cửu Long, Chương trỡnh phỏt triển nụng thụn tại tỉnh Quảng Ngói và Quỹ Quản trị quốc gia. Cơ quan Phát triển Quốc tế Australia (AusAID) là tổ chức quản lý và điều hành các chương trỡnh viện trợ phỏt triển. Tổ chức này cú nhiệm vụ đưa ra các khuyến nghị về chính sách và hỗ trợ cho hoạt động của Bộ trưởng phụ trách các vấn đề phát triển và hợp tác với các quốc gia đang phát triển, các doanh nghiệp Australia , các tổ chức phi chính phủ (NGOs) và các tổ chức quốc tế nhằm xây dựng và quản lý cỏc chương trỡnh xoỏ đói giảm nghèo một cách có hiệu quả. AusAID là một cơ quan hành chính độc lập trực thuộc Bộ Ngoại giao và Thương mại, có trách nhiệm báo cáo trực tiếp cho Bộ trưởng Bộ này về mọi khía cạnh của các hoạt động và chính sách viện trợ. Bảng: Dòng ODA của Australia vào Việt Nam 1991-2002 Đơn vị: Triệu AUD Năm 1991-1993 1993-1994 1994-1995 1995-1996 1996-1997 LượngODA 51,5 49,5 63,7 63,8 65,3 Năm 1997-1998 1998-1999 1999-2000 2000-2001 2001-2002 LượngODA 67,2 70,2 72,4 73,2 73,3 Nguồn: Australia's Overseas Aid Program 2001-2002 Nhỡn Bảng 1 cho thấy, số lượng ODA cam kết của Australia vào Việt Nam tăng dần lên qua các năm và không hề có sự suy giảm nào. Nếu đem so sánh với Indonesia, nước nhận viện trợ lớn thứ hai của Australia sẽ thấy mặc dù số lượng viện trợ vào nước này tương đối lớn nhưng con số viện trợ này tăng giảm một cách thất thường (Năm 1995-1996: 129,9 triệu AUD; năm 1996-1997 xuống còn 104,2 triệu AUD; sang năm 1997-1998 chỉ nhận được 99,6 triệu AUD; 1998-1999 lại tăng lên 126,5 triệu AUD...). Phép so sánh nhỏ này nhằm mục đích chỉ ra rằng Việt Nam đã từng bước đạt được những tiến bộ đáng kể, tạo được niềm tin cho Chính phủ Australia. Nếu chia khoảng thời gian 1999-2001 ra làm ba giai đoạn viện trợ: 1991-1994; 1994-1997; 1997-2001, ta có thể thấy lượng ODA của Australia vào nước ta đã tăng lên gần gấp đôi trong giai đoạn 1994- 1997 (gần 200 triệu AUD) so với cùng một khoảng thời gian 1990- 1994 (100 triệu AUD). Năm 1998, tuy có khó khăn về tài chính và phải giảm viện trợ cho nhiều nước, Australia vẫn quyết định tăng viện trợ phát triển cho Việt Nam lên 236 triệu AUD trong giai đoạn 1998-2001 so với 200 triệu AUD giai đoạn 1994-1997. ODA mà Australia dành cho Việt Nam tài khóa 2001-2002 là 73,3 triệu AUD (tương đương 40 triệu USD), tương đương với mức ODA Australia dành cho Việt Nam tài khóa 2000-2001 là 73,2 triệu AUD (Bảng 1). Việt Nam là một trong bốn nước được Australia viện trợ ODA lớn nhất. Các dự án ODA của Australia trong năm 2001-2002 tập trung cho các chương trình và dự án: “Phát triển nông thôn mới để giúp khu vực này hưởng các dịch vụ y tế (300.000 USD cho phòng chống AIDS), nông nghiệp (dự án 74,45 triệu AUD- tương đương 38 triệu USD cho phát triển trồng các loại quả mới phù hợp với điều kiện khí hậu và đất đai ở Tây Nguyên, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang trong 3 năm 2001-2003 thông qua Thông tin nghiên cứu nông nghiệp quốc tế của Australia) và cơ sở hạ tầng tốt hơn”, cải cách thể chế trong các khu vực tư nhân, hội nhập kinh tế, sử dụng các nguồn lực và cải cách hệ thống luật pháp, cải cách thể chế và chính sách đối với các cơ quan hành chính của Việt Nam, ưu tiên cho lĩnh vực hội nhập kinh tế (giúp cho Việt Nam rút ngắn khoảng cách với các nước ASEAN khác) và hỗ trợ mạnh mẽ cho ngành giáo dục (dự án 700.000 USD thành lập Viện ngôn ngữ Australia liên doanh với trường đại học Ngoại ngữ Hà Nội)... Ngoài số lượng ODA cam kết nêu trên, mỗi năm Việt Nam còn nhận được khoảng 11 triệu AUD từ chương trình viện trợ của Australia cho khu vực, từ các tổ chức phi Chính phủ và từ các chương trình viện trợ khẩn cấp. Như vậy, trung bình mỗi năm Việt Nam nhận được khoảng 70 triệu AUD và trở thành nước nhận viện trợ phát triển lớn thứ ba của Australia. Đây là một thành công lớn không phải chỉ là những con số mà còn là sự ghi nhận của Australia đối với những thành quả đổi mới của Việt Nam. Trong bối cảnh khủng hoảng khu vực, thiên tai ở trong nước và những yếu tố bất lợi khác nhưng năm 1998 kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, chính trị xã hội ổn định, kinh tế vĩ mô ổn định, đây là các điều kiện cực kỳ quan trọng để các nhà tài trợ trong đó có Australia công nhận và tiếp tục cam kết hỗ trợ phát triển chính thức cho Việt Nam với số lượng lớn. Chính phủ Australia nhận thấy, mặc dù là một trong những nước nghèo nhất khu vực Nam Á nhưng Việt Nam có một tiềm năng tương đối lớn. Kể từ khi Chính phủ Việt Nam đưa ra chính sách đổi mới năm 1986, đời sống nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, nửa số dân Việt Nam đặc biệt là những người dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa vẫn phải sống trong cảnh khó khăn, nghèo nàn, họ cần và rất cần sự giúp đỡ, quan tâm, đầu tư để thay đổi cuộc sống. Tổ chức phát triển quốc tế của Australia (Australia Agency for International Development-gọi tắt là AusAID) là cơ quan thực hiện các chương trình viện trợ phát triển quốc tế của Australia. AusAID phối hợp một cách chặt chẽ với các cơ quan tiếp nhận viện trợ của Việt Nam để đảm bảo chắc chắn rằng nguồn viện trợ đến được nơi có nhu cầu lớn nhất đồng thời đáp ứng được các nguyên tắc phát triển của Australia. AusAID thường xuyên duy trì giám sát các chương trình viện trợ của mình và phối hợp với các nhà tài trợ chính khác để đảm bảo rằng các chương trình viện trợ của Australia được thực hiện một cách có hiệu quả nhất, mang lại kết quả khả quan nhất. Để giúp Việt Nam xóa đói giảm nghèo AusAID đặt ra các mục tiêu sau: Thứ nhất, tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực để nâng cao khả năng phát triển của đất nước từ trung hạn lên dài hạn. Thứ hai, tăng cường cung cấp các dịch vụ tốt hơn cho khu vực nông thôn, đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm cải thiện đời sống cho dân nghèo. Thứ ba, ủng hộ chương trình cải cách của Chính phủ Việt Nam, đưa ra các hoạt động mang tính chiến lược, tăng cường khả năng quản lý, phát triển các hệ thống tư vấn về xây dựng chính sách... nhằm nâng cao tính hiệu quả và trách nhiệm của Chính phủ. Các hoạt động trợ giúp rất đa dạng của AusAID đã làm thay đổi cuộc sống của hàng triệu dân Việt Nam. Dù đôi khi có những khó khăn trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua được nhưng trên thực tế đã đạt được những tiến bộ thực sự. ODA của các nước nói chung và của Australia nói riêng đã phần nào giúp nâng cao tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam lên trên 63 tuổi và giảm một nửa tỷ lệ tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi trong ba thập kỷ qua. Đây là một bằng chứng rõ ràng rằng các chương trình viện trợ này có tác dụng trực tiếp tới đời sống người dân Việt Nam. Các chương trình viện trợ song phương của Australia tập trung vào bốn lĩnh vực: Phát triển nguồn nhân lực; Phát triển khu vực nông thôn và cơ sở hạ tầng; Chăm sóc sức khỏe; Quản lý Nhà nước. AusAID luôn khẳng định một điều rằng các chương trình viện trợ này không phải là giải pháp tạm thời mà là giải pháp mang tính dài hạn. Tất cả các chương trình viện trợ của Australia đều đề cập, xem xét, phân tích nguyên nhân gây ra sự nghèo đói để từ đó đề ra hướng giải quyết nhằm mục tiêu thay đổi cuộc sống cho người dân nghèo đói, khổ cực. Ngoài ra trong các chương trình viện trợ phát triển của Australia có hai vấn đề mấu chốt luôn được quan tâm và Australia coi đó là những yêu cầu cơ bản đối với sự phát triển bền vững là vấn đề cải thiện quyền của phụ nữ và vấn đề bảo vệ môi trường. Vấn đề cải thiện quyền của phụ nữ, theo AusAID, mặc dù quan niệm về phụ nữ đã thay đổi và dù đã có những thành tựu lớn lao trong việc thiết lập các điều luật đảm bảo quyền lợi cho phụ nữ cũng như bình đẳng về địa vị xã hội song phụ nữ vẫn là những người chịu nhiều thiệt thòi, đặc biệt là phụ nữ ở những vùng nông thôn và các dân tộc thiểu số. Phụ nữ ít khi được đề bạt vào những vị trí có tính chất quyết định hay lãnh đạo trong lực lượng lao động, tiền lương của họ thường thấp hơn của nam giới, họ được đi học ít hơn và phải làm hầu hết các công việc thấp kém trong xã hội. Chính vì vậy các dự án của AusAID cam kết ủng hộ phụ nữ tham gia vào việc ra quyết định và tham gia vào các hoạt động của dự án cũng như giúp phụ nữ đạt được sự bình đẳng trong xã hội. Vấn đề bảo vệ môi trường: Sự gia tăng dân số, việc phát triển mở rộng trong nông nghiệp và công nghiệp, quá trình đô thị hóa gia tăng không ngừng kết hợp với khả năng quản lý còn yếu kém đang đặt ra một sức ép lớn đối với môi trường tự nhiên của Việt Nam. AusAID mong muốn giúp người dân Việt Nam tăng cường hơn nữa sự hiểu biết về môi trường, về nguy cơ đang đe dọa môi trường sống của chúng ta, ngoài ra, AusAID còn cung cấp cho Việt Nam vốn, kỹ thuật cho các hoạt động bảo vệ môi trường. Các chương trình viện trợ của Australia vào Việt Nam rất đa dạng, hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều có mặt ODA dưới dạng cấp vốn, kỹ thuật, chuyên gia hay người tình nguyện... Phớa Việt Nam và Australia cũng thường xuyên tiến hành họp kiểm điểm hàng tháng giữa Bộ KH&ĐT và Văn phũng Cơ quan phát triển quốc tế Australia (AusAID). Cụ thể, tại cuộc họp gần đây ngày 21/1/2003 tại Bộ KH & ĐT, hai bên trao đổi về tỡnh hỡnh thực hiện cỏc dự ỏn ODA của Australia , đặc biệt là một số dự án mới sẽ triển khai trong năm 2003 như dự án Đào tạo tiền du học Australia , dự án Tăng cường năng lực theo dừi và đánh giá dự án - giai đoạn 2, dự án Phũng chống thiờn tai tại Quảng Ngói. Ngoài ra, hai bờn cũng đó trao đổi về dự thảo bản Chiến lược Quốc gia về Chương trỡnh hợp tỏc phỏt triển Việt Nam - Australia giai đoạn 2003 - 2007. Về cơ bản, bản chiến lược mới này sẽ được xây dựng có mục tiêu phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế – xó hội của Việt Nam và Chiến lược về Tăng trưởng Toàn diện và Xoá đói Giảm nghèo (CPRGS), hoạt động theo dừi và đánh giá được tăng cường hơn nhằm đánh giá được tác động và ảnh hưởng của chương trỡnh viện trợ của Chớnh phủ Australia dành cho Việt Nam. Một số chương trỡnh sẽ được điều chỉnh để nâng cao hiệu quả và chất lượng như các hoạt động trong khuôn khổ chương trỡnh hỗ trợ cho cỏc tổ chức phi chớnh phủ Australia (NOVA) với quy mụ khoảng 4 triệu đô la Australia /năm sẽ tập trung vào hai lĩnh vực chính là phũng chống thiờn tai và y tế; Chương trỡnh học bổng phỏt triển Australia (ADS) sẽ được thảo luận kỹ giữa AusAID với các bộ ngành liên quan theo hướng có tính ưu tiên cao hơn. Bộ KH&ĐT đang phối hợp tích cực với AusAID để hoàn thiện bản Chiến lược này để hai phía phê duyệt tại Hội nghị tư vấn cấp cao về hợp tác phát triển Việt Nam - Australia lần thứ 10 sắp tới tổ chức tại Việt Nam. Sau cuộc họp này, ngày 28/3, hai bên cũng đó tổ chức họp kiểm điểm và thảo luận về các nội dung chính sau đây: (i) Chuẩn bị cho Hội nghị tư vấn cấp cao thường niên dự kiến tổ chức vào cuối tháng 5 năm 2003; (ii) Chiến lược hợp tác phát triển Việt Nam – Australia giai đoạn 2003-2007; và (iii) Báo cáo đánh giá ảnh hưởng của Chương trỡnh học bổng Australia (ADS) tại Việt Nam. (Nguồn: AusAID Information) 2. Đánh giá cụ thể về tác động của ODA Australia cho Việt Nam: Viện trợ phát triển của Australia dành cho Việt Nam nhằm xóa đói giảm nghèo và đạt được sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững. Australia rất quan tâm tới vấn đề nhân đạo và mối quan tâm lớn nhất là trợ giúp cho sự phát triển của các quốc gia láng giềng. Sự ổn định của các quốc gia góp phần đem lại sự ổn định cho khu vực và tăng cường thương mại và đầu tư. Để Việt Nam đạt được sự phát triển bền vững, điều quan trọng là có sự phối hợp, cộng tác chặt chẽ giữa Chính phủ hai nước Australia và Việt Nam. Các chương trình phát triển được đưa ra và thực hiện dưới sự hợp tác chặt chẽ của hai nước, nhiều hoạt động được Chính phủ hai nước tài trợ. Điều này có nghĩa là cả hai nước cùng thực hiện một cam kết chung nhằm mang lại thành công cho các hoạt động này. Mặc dù là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới với thu nhập bình quân đầu người là 450 USD/ năm nhưng Việt Nam có một tiềm năng rất lớn. Kể từ năm 1986, việc Chính phủ Việt Nam quyết định mở cửa nền kinh tế đã đem lại những cải thiện đáng kể cho mức sống của người dân. Tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 70% trong những năm 80 xuống còn 50% trong những năm gần đây. Sức khỏe của trẻ em được nâng cao, kinh tế gần như tăng trưởng gấp ba lần. Tuy nhiên, vẫn còn khoảng một nửa dân số, tức là 40 triệu dân, sống trong cảnh nghèo đói, Việt Nam phải đối mặt với một thách thức lớn để có thể giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay và giảm sự chênh lệch về phát triển giữa các vùng. Các dân tộc thiểu số và những người dân sống ở vùng sâu, vùng xa phải chịu mức sống thấp hơn rất nhiều so với những người dân sống ở các thành phố. Thông qua chương trình viện trợ của mình, Australia đang làm việc với phía Việt Nam trong một nỗ lực nhằm xóa đói giảm nghèo, cải thiện mức sống của người dân Việt Nam. Chương trình viện trợ giúp Việt Nam tăng cường khả năng phát triển thông qua việc hỗ trợ cho giáo dục v._.stralia đã cam kết và bắt tay vào thực hiện 5 dự án lớn về xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển nông thôn cho Việt Nam với tổng số vốn khoảng 127,8 triệu AUD. Cho đến nay, tổng số vốn này đã giải ngân được khoảng 90%, bước đầu đã thu được những kết quả khả quan: hơn 67% dân số ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đà Nẵng đã được dùng nước sạch, một số thiết bị vệ sinh đã được nâng cấp, hệ thống đê điều, kênh rạch ở huyện đảo Bắc Nam Vao đã bước đầu được nâng cấp sửa chữa và xây mới. Các chương trình viện trợ của Australia trong lĩnh vực y tế cũng có những đóng góp không nhỏ, cải thiện sức khỏe của người dân ở một số tỉnh của Việt Nam. Trong vài năm gần đây (1995- 2002) Australia đã giúp Việt Nam trong việc nâng cấp sửa chữa trang thiết bị y tế, cung cấp thuốc men, đào tạo thêm kiến thức y tế cho y bác sĩ. Nhiều chương trình đã được thực hiện trong vài năm gần đây với tổng số vốn khoảng 33,1 triệu AUD. Ngoài ra, các tổ chức phi Chính phủ của Australia còn giúp đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phòng chống các căn bệnh do thiếu Iôt gây ra. Trong số những thành quả đạt được từ nguồn ODA của Australia không thể không nhắc đến việc Australia ủng hộ chúng ta trong công cuộc cải cách thể chế quản lý hành chính với số vốn viện trợ chỉ vào khoảng 4 triệu AUD song bên cạnh đó chúng ta nhận được nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu... Nhìn chung, ODA của Australia vào Việt Nam đã mang lại kết quả rõ rệt và đánh dấu quan trọng trên chặng đường phát triển của Viêt Nam. Australia đã giúp Việt Nam khi thiên tai bão lụt tàn phá cũng như góp phần giúp đỡ chúng ta trong chiến lược phát triển bền vững, kết quả của các chương trình viện trợ của Australia thể hiện tương đối rõ và có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống của những người dân nơi chương trình được thực hiện. Tuy nhiên, mặc dù hầu hết các dự án có vốn ODA của Australia hiện nay là các dự án mang tính lâu dài nhưng Australia chỉ cam kết thực hiện trong một vài năm, đến năm 2002 hầu hết các dự án đều kết thúc. Việc Australia có tiếp tục cam kết tài trợ nữa hay không phụ thuộc phần lớn vào phía Việt Nam, vào khả năng hấp thụ ODA trên cơ sở xem xét việc phân bổ và sử dụng ODA có hiệu quả không và kết quả thực sự của nguồn ODA của Australia đem lại ra sao. Ngoài ra điều đó còn phụ thuộc vào những cải cách thực sự trong quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA từ Australia nói riêng và các nhà tài trợ khác nói chung. 3.2. Những vấn đề còn tồn tại: Trong quá trình cấp viện trợ cho Việt Nam, phía Australia cũng gặp phải rất nhiều khó khăn do việc tiếp nhận và sử dụng ODA đối với chúng ta còn mới mẻ. Trước hết, đó là những khó khăn mà bất cứ nhà tài trợ nào cũng gặp phải khi cung cấp ODA cho Việt Nam như: Thứ nhất, chúng ta vẫn còn những tồn tại về cơ chế chính sách. Các nhà tài trợ của Australia cho rằng việc quy hoạch ODA của chúng ta còn rất kém, điều này làm giảm tính chủ động trong việc chuẩn bị trước dự án. Chính đây là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh những ách tắc về quy trình và thủ tục ODA trong nước, về cơ chế tài chính, sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý. Đồng thời vấn đề này làm cho việc hình thành các chương trình, dự án ODA thời gian qua mang tính tự phát, xuất phát từ những nhu cầu riêng của các bộ, ngành và địa phương theo gợi ý của các nhà tài trợ, do đó chất lượng dự án chưa cao. Thứ hai, hầu hết các nhà tài trợ trong đó bao gồm cả Australia đều cho rằng việc giải ngân của chúng ta còn quá chậm. Khâu chuẩn bị đề án tiền khả thi và khả thi, thiết kế thậm chí là thi công, cơ chế chính sách còn chưa hoàn chỉnh, thủ tục phải qua nhiều khâu, nhiều cấp làm chậm tiến độ phê duyệt dự án. Thứ ba, qua quá trình thực hiện các dự án sử dụng ODA còn cho thấy, vốn đối ứng cho các dự án này cũng đang là vấn đề bức xúc. Trong hoàn cảnh eo hẹp về nguồn vốn trong nước, nhiều dự án còn thiếu vốn đối ứng và việc cấp vốn còn chưa phù hợp với tiến độ thực hiện dự án. Đặc biệt, nguồn vốn ODA của Australia lại có đặc điểm là thường kết hợp vốn cả hai phía nhận viện trợ và viện trợ. Ví dụ, trong chương trình “ Chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em” và chương trình “ Phòng chống bệnh sốt rét” chúng ta phải rất khó khăn mới huy động được một triệu rưỡi AUD vốn đối ứng cho mỗi chương trình, trong khi đó vốn tài trợ của Australia cho hai dự án này tương ứng là 15,1 triệu AUD và 12,5 triệu AUD. Thứ tư, một số khó khăn trong hợp tác thực hiện dự án ODA vẫn tồn tại do đội ngũ cán bộ Việt Nam làm việc trong lĩnh vực này nhiều khi còn thiếu cả về kiến thức và kinh nghiệm cũng như phương tiện làm việc và giao tiếp. Nhiều cơ quan hành chính ở các cấp chưa hiểu rõ về đặc điểm, tính chất, mục đích của ODA dẫn tới họ hiểu sai và hiểu nhầm. Thứ năm, tệ nạn hối lộ, tham nhũng vẫn còn tồn tại, nhiều khi tới mức nghiêm trọng. Một số lượng vốn ODA không nhỏ đã không đến được tay người đáng ra được nhận mà thay vào đó đã rơi vào túi một số các quan chức hành chính cao cấp. Một số chủ thầu Việt Nam đã hối lộ để nhận được quyền thực hiện dự án. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cải cách trong vấn đề này nhưng những chuyển biến mới đang còn ở bước đầu. Ngoài những khó khăn chung đối với tất cả các nhà tài trợ cho Việt Nam, Australia còn có gặp phải những trở ngại riêng như Cộng đồng người Việt Nam tỵ nạn tại Australia đã tạo ra nhiều ấn tượng không tốt đối với dư luận ngay trong nước. Với nhiều vụ án buôn lậu, ma tuý, tệ nạn xã hội....đã làm cho dư luận Australia không có cảm tình với bộ phận người Việt Nam này và cũng ảnh hưởng đến tình cảm tốt đẹp mà họ có được trước đó với Việt Nam. Đây cũng là một khó khăn trong việc chính phủ Australia ra quyết định viện trợ cho Việt Nam vì viện trợ phát triển chính thức luôn bị ảnh hưởng và tác động lớn của dư luận tại nước đó. Tại Australia vừa qua cũng có những biến động về chính trị với việc Đảng “Ngôi nhà chung” tích cực tham gia tranh cử và tuyên truyền mạnh mẽ chính sách nước Australia một dân tộc và tẩy chay người châu Á, chống lại chính sách quan hệ và ủng hộ châu Á. Mặc dù Đảng này đã thất bại nặng nề trong cuộc bầu cử vừa rồi nhưng nó cũng ảnh hưởng ít nhiều tới suy nghĩ của nhiều người dân Australia. 3.3. Nguyên nhân tồn tại: Những bất cập và những tồn tại nêu trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật lên là nguyên nhân về cơ chế chính sách: Về cơ chế chính sách, việc lập các tài liệu chuẩn bị đầu tư (nghiên cứu tiền khả thi, khả thi) các dự án ODA, về phía ta, còn thiếu chủ động, chưa có sự phối hợp giữa chủ dự án và bên tài trợ. Chưa có chiến lược thực sự hợp lý đối với hoạt động ODA. Cụ thể là thiếu chiến lược thu hút và sử dụng ODA dẫn đến việc chuẩn bị dự án còn bị động, chưa có hiệu quả và chưa có tính thuyết phục cao nên gặp nhiều khó khăn khi giải ngân. Thực tế cũng chỉ ra rằng: các quy định pháp lý của Việt Nam về quản lý, triển khai các dự án ODA chưa rõ ràng. Thêm vào đó là sự thiếu thống nhất giữa các cơ quan liên quan với các Bộ và các Ban quản lý dự án. Có một thực tế vẫn tồn tại là cách điều hành dự án của mỗi Bộ có sự khác nhau, trong khi đó một nhà tài trợ thường chỉ có một quy chế duy nhất. Quyền hạn của các Ban quản lý chưa được xác định đầy đủ dẫn đến việc các Ban thường bị động trong việc xử lý công việc, mất nhiều thời gian xin phụ thuộc vào ý kiến cấp trên. Ngoài ra, thủ tục xem xét và trình duyệt dự án còn phức tạp, nhiều cấp nhất là ở khâu đấu thầu và chấm thầu. Đây cũng là nguyên nhân góp phần cản trở quá trình thực thi dự án và làm chậm tiến độ giải ngân. Thêm vào đó, chúng ta cũng chưa có chính sách hợp lý cũng như chưa chú trọng đúng mức đối với vấn đề đào tạo nguồn nhân lực hoạt động trong lĩnh vực tiếp nhận và quản lý dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ thiếu năng lực, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết và là một trong những nguyên nhân giảm hiệu quả của các dự án. Còn một số vấn đề khác được phát hiện thực sự rất đa dạng và thuộc trách nhiệm giải quyết của nhiều cơ quan khác nhau, không chỉ của bên Việt Nam mà của cả các nhà tài trợ. Chúng có thể là sự phức tạp trong giải phóng mặt bằng, tái định cư và đấu thầu đến việc thiếu kinh phí chuẩn bị dự án và không đủ vốn đối ứng, từ những bất cập trong chính sách thuế và chậm trễ trong thực hiện các thủ tục thanh toán cho đến những yếu kém trong năng lực của các Ban quản lý dự ỏn và việc thiếu vắng một khuụn khổ phỏp lý hoàn chỉnh cho sự tồn tại và hoạt động của các đơn vị này (liên quan đến biên chế, tổ chức, ngân sách hoạt động và nhu cầu đào tạo, vv...). éú là sự thiếu hài hoà giữa thủ tục của bờn Việt Nam và cỏc nhà tài trợ cũng như những bất cập trong quá trỡnh phờ duyệt dự ỏn, vv... và vv. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA AUSTRALIA CHO VIỆT NAM Chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tồn tại trong việc tiếp nhận và sử dụng vốn ODA của Australia ở Việt Nam, vì vậy cần phải có những biện pháp nhằm thay đổi tình hình. Sau đây là một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA của Australia ở Việt Nam: 1. Nhóm giải pháp đối với chính phủ Australia: 1.1. Nhóm giải pháp tăng cường đầu tư hiệu quả vào Việt Nam Hài hoà thủ tục: “Hài hoà thủ tục” là thuật ngữ được đặt ra cho quá trỡnh điều chỉnh các thủ tục viện trợ lẫn thủ tục nhận viện trợ với mục tiêu tỡm kiếm sự ủng hộ và cam kết từ những người đứng đầu các tổ chức viện trợ đa phương và song phương trên thế giới cũng như từ lónh đạo các quốc gia tiếp nhận viện trợ phát triển đối với các nỗ lực hài hoà thủ tục nhằm giảm bớt chi phí giao dịch, nâng cao hiệu quả viện trợ nhằm tạo sức hút mạnh mẽ hơn đối với hoạt động hỗ trợ phát triển chính thức, thu hút viện trợ từ các nhà tài trợ và từ đó đạt được các mục tiêu đề ra. Với tư cách là một nhà tài trợ, chính phủ Australia cũng cần quan tâm đến vấn đề hài hoà thủ tục một cách sát sao. Cụ thể, tiến hành tham gia các diễn đàn cấp cao về Hài hoà thủ tục, như Hội nghị do Nhóm Các Ngân hàng Phát triển Đa phương và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tổ chức, hay Hội nghị Nhóm Tư vấn các Nhà tài trợ (Hội nghị CG)… Cải thiện môi trường đầu tư: Hội nghị Nhóm Tư vấn các Nhà tài trợ cho Việt Nam lần thứ 10 được tổ chức từ 10- 11 tháng 12 năm 2002 với mức cam kết hỗ trợ 2,5 tỷ USD trong năm 2003 cho Việt Nam, tăng 4,5% so với cam kết năm 2001 từ phía cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế. Đồng chủ toạ Hội nghị Bộ trưởng BKHĐT đó khẳng định: Chính phủ Việt Nam đỏnh giỏ cao những cam kết hỗ trợ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế tại hội nghị lần này với mức tài trợ cao hơn năm trước, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, nguồn viện trợ của nhiều nước bị cắt giảm. Điều này thể hiện thiện chí của các nhà tài trợ và sự tin tưởng của cộng đồng quốc tế vào công cuộc đổi mới mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện. Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện đổi mới, cải thiện môi trường đầu tư, tạo sân chơi bỡnh đẳng cho các thành phần kinh tế cùng phát triển; chú trọng phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh xóa đúi giảm nghèo, cải cách thủ tục để tạo nền hành chính công lành mạnh theo một lộ trỡnh phự hợp với nền kinh tế đang chuyển đổi. Thông qua những hội nghị như hội nghị CG 10, chính phủ Australia có thể hiểu sâu sát hơn tỡnh hỡnh hoạt động ODA của Việt Nam cũng như những nỗ lực của chính phủ Việt Nam nhằm đẩy mạnh hoạt động viện trợ ODA thật hiệu quả, từ đó có các hướng thúc đẩy đầu tư, viện trợ cho Việt Nam. Tăng cường các cuộc gặp gỡ giữa 2 chính phủ Ngoài ra, cũng cần tăng cường các cuộc họp, gặp gỡ song phương giữa phía Việt Nam và phía Australia, như Cuộc thảo luận về dự thảo khung logic kết quả chiến lược quốc gia của Australiađối với Việt Nam Ngày 23 tháng 10 năm 2002 tại Hà Nội, hay cuộc họp kiểm điểm hàng tháng giữa Bộ KH&ĐT và Văn phũng Cơ quan phát triển quốc tế Australia (AusAID), tại đó hai bên đó trao đổi về tỡnh hỡnh thực hiện cỏc dự ỏn ODA của Australia vào Việt nam. Những cuộc họp song phương như vậy sẽ góp phần thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa phớa Việt Nam và phớa Australia, từ đú tăng hiệu quả của hoạt động ODA và tạo sức hỳt cho phớa Australia đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ phỏt triển chớnh thức cho phớa Việt Nam của mỡnh. 1.2. Nhóm giải pháp tăng cường sử dụng, quản lý cú hiệu quả ODA ở Việt Nam Tăng cường quản lý dự ỏn chặt chẽ Cần tiến hành các cuộc kiểm điểm chung về tỡnh hỡnh thực hiện dự ỏn. Để nắm rừ hơn về tỡnh hỡnh thực hiện dự ỏn, phớa Australia cần thường xuyên gặp gỡ trao đổi, kiểm điểm lại tiến trỡnh thực hiện dự ỏn với phớa Việt Nam, trao đổi ý kiến từ đú kịp thời nhận biết những vướng mắc trong quá trỡnh thực hiện, và cú biện phỏp xử lý kịp thời, sỏt sao. Ngoài ra, cũng cần tiến hành kiểm điểm riêng nội bộ phía nhà tài trợ, hoặc giữa các nhà tài trợ với nhau trong các dự án có sự tham gia của các nhà tài trợ khỏc. Quỏ trỡnh này cũng gúp phần giỳp cỏc nhà tài trợ kịp thời nhận biết cỏc tồn tại trong quỏ trỡnh thực hiện dự ỏn, về cỏch quản lý vốn, về tiến độ, thủ tục .v.v. từ đú cú biện phỏp xử lý và điều chỉnh kịp thời. Tăng cường công tác quản lớ xột thầu Phớa Australia cần đưa ra kế hoạch hành động liên quan đến việc đỏnh giá hệ thống đấu thầu quốc gia của Việt Nam. Phối hợp xây dựng các tài liệu áp dụng chung cho hoạt động đấu thầu cạnh tranh trong nước. Áp dụng chung các ngưỡng giới hạn trên để xác định cơ sở cho việc tiến hành đấu thầu cạnh tranh trong nước. Áp dụng chung các tiêu chuẩn trong việc đỏnh giá (trước/sau) hoạt động đấu thầu cạnh tranh trong nước. Áp dụng chung các nguyên tắc đối với vấn đề xác định tính hợp lệ của các doanh nghiệp nhà nước khi tham gia đấu thầu các dự án do cơ quan chủ quản tổ chức. Tăng cường công tác quản lý tài chớnh: Xõy dựng hệ thống bỏo cỏo chung về tài chớnh ỏp dụng cho cỏc Ban quản lý dự ỏn. Xây dựng hệ thống đỏnh giá chung về năng lực quản lý tài chớnh. Thiết lập cỏc tiêu chí chung để chấp thuận dịch vụ của các công ty kiểm toán. Xây dựng mẫu Điều khoản tham chiếu áp dụng chung cho việc kiểm toán các dự án tài trợ. Áp dụng chung một phương pháp tiếp cận trong việc xử lý cỏc thụng tin và kiến nghị do cụng ty kiểm toỏn đưa ra. Tăng cường các biện pháp làm giảm thiểu các tác động về môi trường và xó hội Về vấn đề môi trường, mỗi dự án cần áp dụng các yêu cầu Environmetal Influence Assessment (EIA), như phạm vi của hoạt động EIA, quá trỡnh tham vấn cần cú khi tiến hành EIA, cỏc tài liệu liờn quan đến EIA, các biện pháp làm giảm thiểu các tác động về môi trường, kế hoạch Quản lý Mụi trường, phạm vi công bố báo cáo EIA và thời gian thực hiện báo cáo đỏnh giỏ này. Việc phối hợp thực hiện tốt cỏc EIA sẽ gúp phần nõng cao tớnh hiệu quả của dự ỏn nhờ giảm thiểu cỏc tỏc động đối với môi trường. Đối với các vấn đề xó hội, cần ỏp dụng cỏc phương pháp tiếp cận chung đối với vấn đề đền bù giải phóng mặt bằng hay tái định cư bắt buộc, cung cấp cỏc ý kiến tư vấn chung về vấn đề này cho Chính phủ, xây dựng một cơ sở dữ liệu chung và các cơ chế hành động chung liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng. 2. Nhóm giải pháp đối với chính phủ Việt Nam: 2.1. Nhóm giải pháp tăng cường thu hút ODA của Australia Thứ nhất, để nâng cao hiệu quả thu hút ODA chúng ta cần giải quyết vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Các cơ quan quản lý viện trợ cần phải phổ biến rõ mục đích, tính chất, các điều kiện của khoản vay... cho những địa phương, đơn vị tiếp nhận ODA thông qua các lớp huấn luyện, các văn bản có liên quan đến các đơn vị tiếp nhận giúp họ hiểu rõ vấn đề, họ sẽ có khả năng xây dựng những dự án, chương trình có tính khả thi cao, tạo niềm tin từ phía nhà tài trợ cũng như cộng đồng quốc tế. Muốn vậy ban quản lý viện trợ ODA cần phải thường xuyên mở các lớp huấn luyện, tập huấn để nâng cao nhận thức đúng đắn về ODA của các cán bộ. Điều này có nghĩa là cần phải có những người có chuyên môn, tinh thông về nghiệp vụ, ngoại ngữ, có kinh nghiệm. Hiện nay, Australia cũng như các nhà tài trợ khác rất băn khoăn về trình độ cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực này. Vì vậy trong những năm tới chúng ta cần phải tăng cường công tác đào tạo cán bộ cả về chuyên môn và đạo đức để có thể đảm đương công việc một cách độc lập, có hiệu quả, cũng như giảm bớt tệ hối lộ và tham nhũng. Chúng ta cần tranh thủ sự giúp đỡ của các nhà tài trợ và các tổ chức quốc tế thông qua việc gửi các chuyên gia đi đào tạo ở nước ngoài. Những người này phải được sàng lọc, có tuyển chọn, có tâm huyết, có khả năng tiếp thu tri thức, thông thạo ngoại ngữ. Mặt khác, người cán bộ tham gia quản lý ODA phải có và không ngừng nâng cao nhận thức về các mặt sau: - Các loại hình viện trợ có thể vận dụng và các chi phí liên quan để hấp thụ viện trợ. - Lợi ích và chính sách của các nhà tài trợ. - Chu kỳ của dự án và các công việc, sự phối hợp giữa các cơ quan cũng như trách nhiệm, quyền hạn của mỗi cơ quan ở mỗi khâu và chu trình của dự án. - Thiết kế, thẩm định và quản lý dự án. Một vấn đề hết sức quan trọng và cốt yếu, đó chính là phải tạo ra cho các cán bộ tham gia quản lý cũng như các cán bộ trực tiếp tham gia dự án khả năng độc lập, sáng tạo. Các cán bộ của chúng ta phải hiểu rằng không nên quá trông chờ và ỷ lại vào chuyên gia. Nếu không do chúng ta làm bằng chính con tim và khối óc của mình cho đất nước mình thì các chuyên gia dù giỏi đến mấy cũng khó có thể khiến dự án thành công và đem lại hiệu quả thiết thực. Thứ hai, chúng ta cần phải tạo niềm tin, nâng cao uy tín và hình ảnh đất nước Việt Nam đối với nhân dân và Chính phủ Australia qua các hoạt động giao lưu về văn hóa, kinh tế, chính trị. Mặt khác, bằng đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chúng ta tiếp tục đổi mới để phát triển kinh tế-xã hội bền vững. Những thành tựu của chúng ta đạt được trong những năm qua là cơ sở tốt nhất để khẳng định niềm tin của Australia đối với Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Thứ ba, chúng ta cần có sự ổn định vĩ mô để thu hút hơn nữa nguồn viện trợ ODA. Sự ổn định về chính trị là một nhân tố quyết định để các nhà tài trợ cung ứng ODA. Thực tế chỉ ra rằng, Việt Nam nhận được sự ưu ái của cộng đồng quốc tế hơn một số nước Đông Á là do có lợi thế về một nền chính trị ổn định. Một sự ổn định về chính trị-xã hội là yếu tố đầu tiên giúp cho các nhà tài trợ yên tâm và trợ giúp cho chúng ta những dự án tương đối lớn và đây cũng là lý do khiến cho viện trợ của các nước đổ vào Việt Nam không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua. Chúng ta có thể thấy mức độ ổn định chính trị có ảnh hưởng rất lớn tới các nước nhận viện trợ. Sự mất ổn định của một số nước Đông Nam Á mà nguyên nhân sâu xa là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ làm cho tình hình chính trị tại các nước này xấu đi. Tình hình tại Indonesia trong thời gian qua đã có tác động mạnh mẽ tới thái độ của một số nhà tài trợ, đặc biệt là IMF, tổ chức cam kết cho Indonesia vay 40 tỷ USD để ổn định kinh tế với những điều kiện rất ngặt nghèo, phải cải cách kinh tế theo hướng mà IMF đưa ra.... là những điều kiện mà Indonesia cũng phải miễn cưỡng chấp nhận... Tổ chức này cũng cảnh báo Indonesia nếu Chính phủ không chấm dứt được tình trạng mất ổn định về kinh tế và thực hiện các điều kiện nêu trên thì sẽ cắt cho vay và viện trợ... Qua sự việc này, Việt Nam cần nỗ lực hết sức mình làm trong sạch bộ máy quản lý, cùng nhau giải quyết những khó khăn làm tăng mức độ ổn định xã hội, gia tăng lòng tin của cộng đồng thế giới. Một sự ổn định về chính trị đồng nghĩa với việc thực hiện chính sách đối ngoại đúng đắn, theo những mục tiêu lành mạnh, mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài. Hiện nay, chính sách ngoại giao của Việt Nam là “làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới không phân biệt chế độ chính trị, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, cùng có lợi” đã mang lại những hiệu quả tích cực. Vì vậy cần phải có đường lối ngoại giao đúng đắn, khéo léo, tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tạo điều kiện thu hút vốn. Để nguồn vốn được sử dụng một cách có hiệu quả và vô tư nhất, chúng ta cần kiên trì kiên quyết loại bỏ các ràng buộc chính trị ra khỏi quan hệ của viện trợ phát triển chính thức. Bên cạnh đó cũng cần quan tâm tới lợi ích của các nhà tài trợ khi họ mở rộng quan hệ hỗ trợ cũng như đầu tư, thương mại với nước ta. Một sự ổn định về kinh tế cũng được duy trì bằng việc giữ cho giá trị đồng tiền ổn định (hay nói cách khác là ổn định tỷ giá hối đoái với một số đồng tiền mạnh khác). Đồng tiền càng mất giá thì khả năng trả nợ nước ngoài càng khó và nền kinh tế lại rơi vào tình trạng nợ nần, kém phát triển, lãi mẹ đẻ lãi con làm tăng thêm gánh nặng nợ nần. Sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng được duy trì bằng cách cân đối thu chi ngân sách, cán cân thương mại cũng như tích lũy, tiêu dùng. Nhà nước cần có chính sách về thị trường bao gồm thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường bất động sản, thị trường vốn... để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư vào làm ăn tại Việt Nam. Mặt khác, Chính phủ cũng cần tăng chi ngân sách cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng... để nâng cao sự phát triển của kinh tế, thu hút các nhà tài trợ. Đặc biệt Chính phủ cũng cần có sự thống nhất đồng bộ giữa các văn bản tạo sự ổn định vững chắc của hành lang pháp lý, tránh những nhiêu khê phiến diện, thiếu đồng bộ... Những điều này gây ra sự chậm trễ trong việc đệ trình, phê duyệt cũng như tiếp nhận, sử dụng và quản lý vốn ODA. Tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước là một việc cần làm bởi vì những người này thực sự muốn có quan hệ tốt đẹp với Việt Nam. 2.2. Nhóm giải pháp tăng cường sử dụng hiệu quả ODA của Australia Thứ nhất, đối với những vấn đề tồn tại về cơ chế chính sách trong việc quản lý sử dụng ODA. Để khắc phục điều này chúng ta nên lưu ý tập trung vào những điểm sau: - Nhanh chóng hoàn tất công việc chuẩn bị để tiếp nhận nguồn viện trợ. Cần quy định rõ là Nhà nước chỉ phê duyệt những dự án khi đã hoàn thành đầy đủ những luận chứng, sau đó mới tích cực tìm kiếm thị trường vay để hưởng lãi suất thấp. - Cố gắng đàm phán để tiếp nhận tài sản bằng tiền mặt là tốt nhất. Nếu các nhà tài trợ không chấp nhận thì nhanh chóng chuyển hóa hàng hóa và vật tư thiết bị thành tiền đưa vào cân đối sử dụng vốn ODA. Tránh để tình trạng hàng hóa ứ đọng tại các cảng, bảo quản kém dẫn đến chất lượng hàng viện trợ bị giảm sút. - Việc sử dụng ODA cần dựa trên các lĩnh vực ưu tiên đã xác định trong từng thời kỳ nhất định. - Để quản lý ODA hiệu quả thì công tác hướng dẫn và giúp đỡ lập dự án, triển khai dự án ODA là rất cần thiết. Thứ hai, về vấn đề đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA. Giải ngân nguồn vốn ODA được coi là thước đo năng lực tiếp nhận và sử dụng viện trợ phát triển chính thức, do vậy nó thường xuyên được quan tâm. Trong thời gian qua tỷ lệ vốn ODA được giải ngân còn chậm so với vốn được cam kết. Mặc dù tốc độ giải ngân ODA của Australia trong những năm qua ở vào khoảng 70% nhưng đó chưa phải là con số khả quan và chưa làm hài lòng cũng như tạo niềm tin cho các nhà tài trợ của Australia đối với chúng ta. Sở dĩ có điều này xảy ra là do phía Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tiếp nhận vốn ODA, nhất là thực hiện các thủ tục có liên quan đến đấu thầu, thanh toán, chế độ báo cáo định kỳ, bố trí vốn đối ứng kịp thời. Và dù các vấn đề lập pháp, hành pháp, thủ tục hành chính có đầy đủ, đơn giản hơn ở cấp Trung ương thì ở cấp cơ sở vẫn còn nhiều ách tắc, đặc biệt là việc đền bù giải phóng mặt bằng. Những nhân tố này đã ngăn cản khá nhiều đến việc đẩy nhanh quá trình giải ngân vốn ODA. Để khắc phục tình trạng này và đẩy nhanh tốc độ giải ngân ODA chúng ta cần phải: Đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm bớt các khâu, các cấp trong việc phê duyệt dự án đặc biệt trong việc đấu thầu và chấm thầu và giải phóng mặt bằng, phối hợp quy trình thực hiện dự án. Mặt khác, chúng ta cần phải tiếp tục điều chỉnh hoàn thiện cơ chế chính sách, tiêu chuẩn hóa quy trình thủ tục phê duyệt, thẩm định... thành những nguyên tắc, những quy định cụ thể, rõ ràng thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu thầu, phê duyệt dự án. Bên cạnh việc cần có sự thống nhất về cơ chế chính sách cũng cần có sự thống nhất giữa các cơ quan với các bộ ngành và các ban quản lý dự án. Bên cạnh đó chúng ta cần xây dựng quy trình thẩm định các dự án ODA sao cho phù hợp giữa yêu cầu trong nước và yêu cầu của các nhà tài trợ. Có kế hoạch sử dụng vốn trong nước, bố trí vốn đối ứng một cách kịp thời nhằm theo kịp tiến độ thực hiện dự án. Tổ chức hệ thống thông tin hai chiều đối với các Bộ, tỉnh, thành phố và các nhà tài trợ với các chủ dự án. Chính phủ cần lập một chương trình, chiến lược thu hút ODA có hiệu quả trong đó tập trung vào những ngành, lĩnh vực cần thiết. Từ đó tạo điều kiện để xây dựng đề án có hiệu quả cao, có tính khả thi cao, rút ngắn thời gian phê duyệt dự án, đảm bảo thuận lợi cho đàm phán ký kết. Điều này làm cho việc thực hiện dự án trở nên có hiệu quả nhanh hơn, kéo theo sự thuận lợi cho các dự án sau. Thứ ba, việc giải quyết vấn đề vốn đối ứng. Nguồn vốn này thực sự cần thiết để các dự án đầu tư được thực hiện theo đúng kế hoạch. Trên thực tế, nhiều dự án đã được giải ngân nhưng chưa đáp ứng được tỷ lệ % về vốn đối ứng nên không có hiệu quả. Khả năng có được nguồn vốn này là do huy động từ nền kinh tế cũng như chính sách của Chính phủ. Chính phủ nên kết hợp giữa việc trực tiếp trợ giúp cho các chương trình có vốn ODA và huy động nguồn vốn từ trong dân, trong các thành phần kinh tế, các đơn vị trúng thầu. Có như vậy tiến độ triển khai dự án mới nhanh và đảm bảo được thời gian. 3. Nhóm giải pháp khác: Ngoài các giải pháp cụ thể trên đây, nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA của Australia với Việt Nam, cần kết hợp thêm một số giải pháp khác như: Do cụng tỏc quản lý và sử dụng ODA ở Việt Nam cũn cú những mặt yếu kộm và đứng trước những khó khăn, thách thức, nhất là ở cỏc khõu chuẩn bị, tổ chức thực hiện và theo dừi đánh giá dự án, để cải thiện tỡnh hỡnh ở cỏc khõu yếu núi trờn, trong thời gian tới, Chớnh phủ cần triển khai cỏc cụng tỏc sau: - Ban hành Thông tư liên tịch Bộ Kế hoạch và éầu tư- Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện các Thông tư, Nghị định về những nội dung liên quan tới tài chính của các chương trỡnh dự ỏn ODA. - Sớm xúc tiến xây dựng để trỡnh ban hành Nghị định mới về Tái định cư và giải phóng mặt bằng, nhằm giải quyết cơ bản những vướng mắc về vấn đề này đối với các dự án ODA có xây dựng cơ bản. - Tiếp tục tiến trỡnh làm hài hoà thủ tục tiếp nhận và thực hiện cỏc chương trỡnh, dự ỏn ODA giữa Việt Nam và cỏc nhà tài trợ. - Thông qua nhiều phương thức và quy mô đào tạo và các hỡnh thức hỗ trợ khỏc nhau nhằm tăng cường năng lực quản lý và thực hiện ODA ở cỏc cấp - Kiện toàn hệ thống theo dừi và đánh giá dự án từ các Bộ, ngành trung ương tới địa phương nhằm thúc đẩy quá trỡnh thực hiện và sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA; đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác quản lý và theo dừi dự ỏn.. Trên đây là một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ODA phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tất nhiên, khi chúng ta bỡ ngỡ với cách tiếp cận viện trợ mà trước đây chưa hề làm thì những tồn tại và khó khăn là điều không thể tránh khỏi. Hiện nay, chúng ta đang vừa học, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm cho nên biết tìm ra những mặt tồn tại và tìm ra giải pháp để hạn chế cũng đã là một cố gắng lớn và điều này chắc chắn sẽ được cộng đồng quốc tế ghi nhận. KẾT LUẬN Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, ODA có một vai trò hết sức to lớn, nó như một mắt xích quan trọng trong chặng đường phát triển của Việt Nam, nguồn ODA vào Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội của đất nước. Đóng góp một phần không nhỏ trong số ODA của các tổ chức song phương và đa phương vào Việt Nam là nguồn viện trợ phát triển chính thức của Australia mà chủ yếu là nguồn viện trợ không hoàn lại với các chương trình, dự án phục vụ cho phát triển bền vững. Quá trình tiếp nhận và sử dụng ODA của Austrlia ở Việt Nam đã vượt qua những khó khăn ban đầu và đã có được những thành quả nhất định. Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng ODA ở Việt Nam vẫn còn những mặt tồn tại nhất định đòi hỏi chúng ta phải khắc phục và đề ra chính sách hợp lý để những thành quả này được phát huy và trở thành những thành công lâu dài. Chính vì vậy việc nhận thức được vai trò to lớn của ODA để từ đó sử dụng một cách hiệu quả nhất tạo niềm tin cho các nhà tài trợ cũng như đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng ODA chính là điều hết sức quan trọng đối với chúng ta hiện nay. Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo, PGS, TS, NGƯT Nguyễn Thị Mơ đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này và các thầy cô giáo của trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội, những người đã trang bị cho em những kiến thức quý báu trong thời gian học tập tại trường. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt: 1. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996. 2. Nghị định 17-2001-ND-CP, Thông tư 06-2001-TT-BKH 3. Văn bản hướng dẫn thực hiện quy chế quản lý và sử dụng ODA - Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại, Nhà xuất bản Lao động, 1998. 4. Chính sách kinh tế đối ngoại - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 1995. 5. Thực trạng của viện trợ 1996 - Một sự đánh giá độc lập về viện trợ quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1997. 6. Giáo trình đầu tư nước ngoài - Tiến sĩ Vũ Chí Lộc, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997. 7. Những điều cần biết về viện trợ phát triển chính thức - Trần Đình Tuấn, Đặng Văn Nhiên. 8. Kinh tế Việt Nam 2001 - 2002, Thời báo kinh tế Việt Nam. 9. Thời báo Kinh tế Việt Nam, năm 2001 - 2002 - 2003. 10. Thời báo Tài chính, năm 2001 - 2002 - 2003. Tiếng Anh: 1. AusAID Information - Australian Embassy in Hanoi. 2. Website: 3. Australia’s Overseas Aid Program, 1997-1998, 1998- 1999, 1999-2000, 2000-2001, 2001-2002. 4. Better Aid for a Better Future - Australian policy document, November 1997. 5. Aid Budget Summary 1998-1999. 6. Australia’s Aid Program (Memorandum for the DAC Peer Review of Australia 2000). 7. Statistical Summary 2001-2002 (Australia’s Overseas Aid Program). 8. Vietnam and Australia governance, 2000). - Supporting effective 9. Australia and Vietnam - partnership 1999-2001. A better future through 10. Australia and Vietnam - Program 1999-2001. Development Cooperation ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8403.doc
Tài liệu liên quan