mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề con người và giải phóng con người là vấn đề muôn thủa, một đề tài tưởng chừng đã cũ nhưng luôn luôn mới, một đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, bởi lẽ thế giới xung quanh con người, và bản thân con người luôn vận động, biến đổi. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con người ngày càng sâu rộng thì những vấn đề con người đặt ra cũng ngày càng phức tạp, đa dạng hơn. Con người và giải phóng con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành khoa học, đúng như C.Mác đã dự báo, trong tương lai mọi khoa học đều gặp nhau ở một khoa học cao nhất - đó là khoa học về con người. Trong giai đoạn hiện nay, con người và giải phóng con người đang trở thành một vấn đề thực tiễn sống động, có ảnh hưởng đến các nền tảng của nhân loại. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề con người, giải phóng con người là một trong những nhiệm vụ cấp thiết đặt ra.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Thực chất đó chính là mong muốn đi tới giải phóng triệt để người Việt Nam. Giải phóng con người là một trong những nội dung quan trọng, là vấn đề cốt lõi chi phối mọi tư duy và hành động của Hồ Chí Minh từ lúc ra đi tìm đường cứu nước cho đến khi về nơi vĩnh hằng. Giải phóng triệt để con người thực sự là ước mơ, khát vọng cháy bỏng, đồng thời là sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Việc tác giả lựa chọn đề tài này để nghiên cứu với mong muốn làm rõ những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng người Việt Nam (trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn), từ đó khẳng định vai trò nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để sự nghiệp đó nhanh chóng đi đến thành công, điều có ý nghĩa quyết định là phải tiếp tục coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi cuộc cách mạng. Giải phóng triệt để con người là mục tiêu của sự phát triển, tạo ra động lực của sự phát triển, thể hiện bản chất của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt Nam làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng về con người và giải phóng con người là nội dung trọng tâm chi phối toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, vì vậy đã được đông đảo các nhà hoạt động chính trị, hoạt động văn hoá và hoạt động lý luận quan tâm nghiên cứu.
Thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991), đã có nhiều công trình nghiên cứu tư tưởng về giải phóng con người của Hồ Chí Minh ở nhiều cấp độ và giác độ khác nhau. Các sản phẩm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến vấn đề này bao gồm:
- Các đề tài khoa học: Chương trình khoa học cấp nhà nước KX02 (1991-1995) gồm có hai đề tài có liên quan đến vấn đề này, đó là: KX02.05: Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người, do PGS.TS Lê Sỹ Thắng làm chủ nhiệm; KX02.12: Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, do PGS.TS Trịnh Nhu làm chủ nhiệm.
Các đề tài trên đây đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Qua việc nghiên cứu, các tác giả đã khẳng định những đóng góp lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực quan trọng như: Mục tiêu con đường của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội; vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng; về sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân; về chính sách xã hội đối với con người, v.v..
- Trong chương trình KHXH.04 (1996-2000) có một số đề tài đề cập đến chủ đề này: KHXH.01: Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng con người mới, do GS. Đặng Xuân Kỳ làm chủ nhiệm.
Liên quan đến nội dung này có một đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và vận dụng nó trong điều kiện nước ta hiện nay, (2003), do TS. Phạm Ngọc Anh làm chủ nhiệm.
Về sách, các luận văn, luận án, đáng chú ý là các sản phẩm: Đỗ Huy: Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá mới Việt Nam, Nxb KHXH Hà Nội, 1999; Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên): Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục cán bộ đảng viên hiện nay, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; Lê Quang Hoan (2001): Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học.
Các sản phẩm khoa học trên đây đã tập trung nghiên cứu làm rõ những vấn đề về quyền con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh; cơ sở hình thành và những nội dung cơ bản tư tưởng của Người về văn hoá, về con người, xây dựng nền văn hoá mới, con người mới; về nhân tố con người và vận dụng nó trong sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
- Liên quan đến vấn đề giải phóng con người có một số bài viết đăng trên các tạp chí, đáng chú ý là các bài của Nguyễn Văn Tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người”, Tạp chí Triết học, số 2 (2-2004); Lại Quốc Khánh: “Bản chất nhân đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người “, Tạp chí Cộng sản, số 14 (tháng 7/2005); Thành Duy: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người”, Tạp chí Lịch sử Đảng (12) năm 2005 v.v..
Đề cập đến vấn đề Đảng ta tiếp tục sự nghiệp giải phóng con người của Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới có nhiều công trình khoa học, các bài viết, đáng lưu ý là các bài của Nguyễn Trọng Chuẩn: “Để phát triển con người một cách bền vững”, Tạp chí Triết học (01-2005); Nguyễn Thị Tuyết Mai: “Về chiến lược con người ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Tạp chí Triết học (9), năm 2002; Đỗ Nguyên Phương: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trước những yêu cầu mới”, Tạp chí Cộng sản (11), năm 2005,v.v..
Qua các công trình nghiên cứu trên đây cho thấy, các tác giả đã đứng trên các giác độ khác nhau khi nghiên cứu về vấn đề con người. Song, đó mới chỉ là sự đề cập gián tiếp, chứ chưa trực tiếp đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống tư tưởng và sự nghiệp của Hồ Chí Minh về giải phóng con người; chưa khái quát được những cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng người Việt Nam - sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Người.
Tuy nhiên, kết quả của các công trình nghiên cứu trên đây làm cơ sở để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu sự nghiệp giải phóng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
+ Hệ thống hoá những cống hiến to lớn của Hồ Chí Minh (cả về lý luận lẫn thực tiễn) trong sự nghiệp giải phóng người Việt Nam.
+ Nghiên cứu quá trình Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục sự nghiệp giải phóng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về con người và sự giải phóng người Việt Nam.
+ Làm rõ những cống hiến chủ yếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự giải phóng người Việt Nam trong thực tiễn.
+ Nghiên cứu quá trình Đảng cộng sản Việt nam tiếp tục sự nghiệp giải phóng con người của Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về con người và giải phóng con người.
- Vận dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, các phương pháp: lịch sử - lôgíc; quy nạp - diễn dịch; phân tích - tổng hợp, so sánh; khái quát hoá… để làm rõ nội dung cơ bản của đề tài.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Góp phần làm rõ những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng con người.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm mục tiêu giải phóng con người trong sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.
6. ý nghĩa của luận văn
Với những kết quả đạt được, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy môn tư tưởng Hồ Chí Minh ở bậc đại học và cao đẳng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Vấn đề con người và giảI phóng người việt nam trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh
1.1. Vấn đề con người Việt Nam trong nhận thức của Hồ Chí Minh
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, vấn đề con người cũng như bản chất con người đã được bàn nhiều ở cả phương Tây và phương Đông. Tuỳ thuộc vào thế giới quan, lập trường giai cấp, phương pháp luận của các nhà tư tưởng mà có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc, bản chất con người.
Chỉ đến khi học thuyết C.Mác ra đời, vấn đề con người mới được lý giải một cách thực sự khoa học trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một người Việt Nam điển hình, một nhà lý luận mác xít của thế kỷ XX, Người đã có nhiều cống hiến lớn lao cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa, giải phóng những người thuộc địa nói chung và người Việt Nam nói riêng. Trong di cảo của Hồ Chí Minh, tuy không có (có thể chúng tôi chưa tìm thấy) những bài viết, những chuyên luận bàn sâu, bàn riêng về con người, song, có thể khẳng định hầu hết bài viết, bài nói của Người đều bàn (trực tiếp hoặc gián tiếp) đến những vấn đề thuộc về con người Việt Nam. Trong số đó, chúng tôi xin nêu một số vấn đề cơ bản sau:
1.1.1. Sự cùng khổ của người Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là những năm có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong tiến trình phát triển của xã hội loài người.
Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản đang trong quá trình chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền - chủ nghĩa đế quốc, ra sức xâm chiếm các nước nhỏ yếu làm thuộc địa. Theo số liệu điều tra của Hồ Chí Minh: 9 nước: Anh, Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha, ý, Nhật Bản, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan “với tổng số dân 320.657.000 người và với diện tích 11.407.600 km2 bóc lột các nước thuộc địa gồm hàng trăm dân tộc với số dân 560.193.000 người và với diện tích 55.637.000 km2” [43, tr.277]. “Toàn bộ lãnh thổ của các nước thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của các chính quốc, còn số dân của các chính quốc chưa bằng 3/5 số dân của các nước thuộc địa”[43, tr.277].
Tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Khi đó, triều đình phong kiến nhà Nguyễn đang suy tàn, bên trong thì ra sức đàn áp những người dân vô tội, bên ngoài thực hiện chính sách bảo thủ, khép kín, bế quan, toả cảng, khước từ mọi đề án cải cách kinh tế - xã hội. Chính thái độ ươn hèn trước nạn ngoại xâm của quan, quân triều Nguyễn mà đất nước Việt Nam từng bước rơi vào tay thực dân Pháp xâm lược qua việc ký Hiệp định Hác Măng (l883), Hiệp ước Patơnốt (1884) đã chính thức công nhận sự bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam.
Sau khi hoàn thành sự xâm chiếm Việt Nam, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách cai trị thuộc địa: độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, nô dịch về văn hoá. Chúng biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến, làm cho nền kinh tế thuần nông, đời sống xã hội - giai cấp bị phân hoá sâu sắc. Bên cạnh mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với địa chủ phong kiến, đã xuất hiện mâu thuẫn mới là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Là người dân của một nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đi nhiều, tiếp xúc với nhiều tầng lớp xã hội, Người hiểu hơn ai hết sự cùng khổ của người Việt Nam dưới ách thống trị, bóc lột tàn bạo của thực dân, phong kiến trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Sự cùng khổ về mặt chính trị:
Dưới chế độ thống trị của thực dân, phong kiến, mọi người dân Việt Nam đều bị tước bỏ quyền tự do, độc lập - quyền cơ bản của mỗi một quốc gia dân tộc và quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc - quyền thiêng liêng của mỗi con người. Đa số người dân Việt Nam, nhất là những người lao động phải chịu một kiếp đời nô lệ, cuộc sống của họ là những chuỗi tháng ngày đấu tranh và khổ nhục không ngừng.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, trong nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh đã phân tích nỗi cực khổ của người dân bản xứ về nhiều mặt, trong đó bao trùm nhất là nỗi khổ cực khi những giá trị nhân phẩm con người bị trà đạp một cách nghiêm trọng.
Theo Hồ Chí Minh, dưới con mắt của những kẻ xâm lược núp dưới danh nghĩa “ khai hoá văn minh”, thực dân Pháp coi người Việt Nam bản xứ chỉ là những tên “Annamít”, là bọn “nhà quê” bẩn thỉu, nhân phẩm của họ không đáng giá một đồng xu. Vì vậy, họ không cần đến một thứ công lý nào hết, cách tốt nhất để cai trị thuộc địa là thống trị bằng sức mạnh: ba toong, súng ngắn, súng dài. Những thứ đó - theo bọn thực dân - mới là những thứ xứng đáng với lũ “ròi bọ” - những người bản xứ.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, dưới chế độ thực dân, phong kiến, bản chất con người bị đối lập hoàn toàn với tính cách, nhân tính vốn có của họ trong hiện thực đến mức mâu thuẫn quyết liệt với hiện thực ấy. Sự áp bức đối với người Việt Nam về mặt dân tộc và về mặt giai cấp, suy cho cùng là sự áp bức về mặt con người. Hồ Chí Minh viết: “ Chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta lại vi phạm mọi quyền làm người một cách độc ác trơ tráo đến thế” [43, tr.383]. Người dân An Nam bị coi như súc vật “ bị bịt mõm và bị buộc dây dắt đi, chỉ có quyền phục tùng, không được kêu ca”[43, tr.7]. “Mọi nguời dân từ 18 đến 60 tuổi, đều phải nhất loạt đóng 5 đồng thuế thân”[43, tr.408]. Các quyền tối thiểu của con người như: quyền tự do tư tưởng, tự do đi lại, quyền hội họp, quyền học tập, lao động … đều bị vi phạm nghiêm trọng. Người Pháp thì có công lý của người Pháp, còn đối với người An Nam thì chỉ có thứ công lý của vũ lực, “Công lý được tượng trưng bằng một người đàn bà dịu hiền, một tay cầm cân, một tay cầm kiếm”[44, tr.90]. Nghịch lý ấy còn thể hiện ở chỗ, khi người có màu da trắng thì nghiễm nhiên người đó là một nhà khai hoá. Mà khi đã là một nhà khai hoá thì người ta có thể làm những việc dã man mà vẫn cứ là người văn minh. Cho nên, chẳng những bọn thống đốc, công sứ - những kẻ nắm giữ quyền lực muốn làm gì thì làm, mà cả các nhân viên, nhà đoan, cảnh binh và tất cả những ai dù có một chút quyền hành trong tay đều sử dụng và lạm dụng quyền hành mà thả sức làm bậy, vì chúng biết chắc rằng sẽ không một ai bị tội vạ gì hết, thậm chí còn được khuyến khích làm càn.
- Sự cùng khổ về mặt kinh tế:
Chế độ thực dân, phong kiến duy trì sự tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột với hai hình thức sở hữu chủ yếu: sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và sở hữu về ruộng đất địa chủ phong kiến. Hai tầng áp bức bóc lột đó đè nặng lên đôi vai người dân Việt Nam bởi các hình thức bóc lột lao động làm thuê, bởi các thứ “thuế máu” vô lý khác, làm cho người dân Việt Nam vốn nghèo đói càng bần cùng hơn.
Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã thủ tiêu hình thức chiếm hữu công cộng về ruộng đất và thay thế bằng hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, đồng thời nó cũng tìm mọi cách thủ tiêu quyền chiếm hữu nhỏ của nông dân để tập trung làm lợi cho quyền chiếm hữu tư nhân của đồn điền lớn. Bản thân người Pháp với tư cách là những kẻ đi xâm lược cũng phải thú nhận rằng: “Chúng ta tới đây không làm cho người An Nam giàu lên chút nào mà còn gây nên khủng hoảng để di hại lâu dài. Cạnh tranh của người âu đã bóp chết một số công nghiệp, thuế má nặng nề làm phá sản một số công nghiệp khác”[43, tr.426].
Dưới chế độ thực dân, phong kiến, người dân Việt Nam bị biến thành những “công cụ biết nói”, thân phận họ chỉ là những người lao động làm thuê cho giai cấp địa chủ phong kiến và tư sản mại bản, luôn bị bóc lột, đánh đập giã man. Lao động không còn là mục đích tự thân mà thực sự biến thành khổ nhục, thông qua nghĩa vụ, trách nhiệm của người nô lệ đối với những kẻ thống trị. Người Việt Nam đã từng sinh hoạt, lao động trong những điều kiện tự nhiên thuận lợi, có đức tính cần cù chịu khó trong lao động, họ rất thông minh và sáng tạo, “ấy thế mà người dân An Nam lại sống đời sống nghèo nàn nhất. Sự phồn thịnh ấy do bàn tay họ làm nên nhưng không phải để cho họ hưởng”[43, tr.359] và “dân An Nam không bao giờ được thấy những đồng bạc của mình trắng đen ra sao”[43, tr.362].
- Sự cùng khổ về văn hoá - xã hội:
Xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã mang đến xứ này thứ văn minh độc hại được bao bọc bởi một lớp sơn mỹ miều “Tự, do, bình đẳng, bác ái”, mà Hồ Chí Minh gọi mỉa mai là “Nền văn minh thượng đẳng”. Chính cái văn minh Tây học này làm cho văn minh Nho học, với nền tảng tư tưởng Nho giáo đã từng chi phối đời sống xã hội Việt Nam bị lung lay tận gốc rễ. Dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, người Việt Nam không những không được “khai hoá” bởi những tư tưởng tiến bộ: tự do, bình đẳng, bác ái của thời kỳ Khai sáng Pháp mà đại biểu là Vônte, Môngtexkiơ, Rutxô, Huy Gô …, trái lại, họ luôn “ bị dìm trong cảnh dốt nát và suy yếu bởi một hệ thống tinh khôn nhằm nhồi sọ, đầu độc hoá, không lấp liếm hết được dưới một dạng giáo dục bịp bợm”[43, tr.8].
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong nhận thức của kẻ xâm lược, “Truyền học vấn cho bọn annamít hoặc cho phép chúng tự chúng có học vấn, tức là một mặt cung cấp cho chúng những súng bắn nhanh để chống lại chúng ta, và mặt khác đào tạo những con chó thông thái gây rắc rối hơn là có ích”[43, tr.7]. Vì vậy, người An Nam đều bị biến thành đối tượng tiêu thụ, bị đầu độc bởi ruợu cồn, thuốc phiện, “có một nghìn năm trăm ty rượu và thuốc phiện cho một nghìn làng trong khi chỉ có mười trường học cũng cho bấy nhiêu làng”[43, tr.26]. Hồ Chí Minh đã đưa ra số liệu: ở Đông Dương có dân số 19.000.000 nhưng chỉ có 2.965 trường học với 148.000 học sinh [43, tr.314].
Trường học do thực dân Pháp lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một học vấn tốt đẹp và chân thực, nhằm mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng của họ; trái lại, càng làm cho họ đần độn thêm. Thực dân Pháp đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng “trung thực” giả dối, “chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu Tổ quốc không phải là Tổ quốc mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình”[43, tr.399-400]. Nền giáo dục thực dân “đã dạy cho người bản xứ biết thế nào là bác ái, cái đức quý đó vốn là nền tảng của mọi chế độ cộng hoà được khắc bằng chữ lớn trên khắp các công trình kỷ niệm và trên tất cả các cửa… nhà lao”[43, tr.115].
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chế độ thực dân, phong kiến, sự “tha hoá” diễn ra đồng thời đối với kẻ xâm lược, thống trị và người bị xâm lược, thống trị. Điều này là hoàn toàn thống nhất với quan điểm của C.Mác và Ph.ăngghen, khi các ông cho rằng trong chế độ tư hữu, cả giai cấp tư sản lẫn giai cấp vô sản đều là những hình thức tha hoá của con người.
Dưới xã hội phong kiến Việt Nam thuộc Pháp, bọn thực dân, phong kiến càng ra sức đàn áp, bóc lột người bản xứ tàn bạo bao nhiêu thì càng làm cho chính nó trở thành kẻ độc ác, vô nhân đạo, phi nhân tính bấy nhiêu. Trong bài Vấn đề bản xứ, (tháng 8 - 1919), Nguyễn ái Quốc viết: “nay cũng như trước kia, kẻ chinh phục và nhân dân bị chinh phục đều sống mặt đối mặt, trong một không khí nghi kỵ lẫn nhau” [43, tr.7], “Về tâm lý, ở bên kia là thái độ hiềm nghi và khinh miệt; còn ở phía bên này lại là tâm trạng bực dọc và tuyệt vọng”[43, tr.7]. Sự “tự tha hoá” của kẻ xâm lược được Hồ Chí Minh chỉ rõ thông qua những lời tự sự của chính những tác giả người Pháp:
Chúng ta thấy ở đây cả một nền văn minh, mọi thứ đều xây dựng từ lâu. Nghệ thuật, khoa học, kể cả khoa học quản lý Nhà nước đều đã phát triển mạnh mẽ. Luật pháp, cổ phong, tôn giáo, văn học, tất cả đều đã hoàn chỉnh và hoà hợp với nhau, trải qua bao nhiêu thế kỷ, đã được điều hoà và ngày càng hoàn hảo thêm…Yêu mến quê hương, quyến luyến gia đình, tôn kính tổ tiên, yêu chuộng công lý, tôn trọng chính nghĩa, ham thích khoa học, coi trọng lời nói thánh hiền, thương yêu nòi giống, tôn kính lẽ phải, ghét xa hoa, không hám tiền tài, khinh ghét vũ lực, không sợ gian khổ, hy sinh…là những đặc điểm về bản tính của người An Nam hình thành từ bao thế hệ [43, tr.425-426].
Vậy mà “Chúng ta đến đây không làm cho người An Nam giàu lên chút nào mà còn gây nên khủng hoảng để di hại lâu dài” [43, tr.426-427]. “Xã hội cũ An Nam tổ chức tốt như thế đã bị chúng ta phá huỷ…Khắp nơi, người ta vi phạm luật lệ của người An Nam, coi thường phong tục, cướp bóc tài sản; mượn cớ đi chấn áp, nên quân lính “được thể” lại tha hồ cướp phá, giết chóc; thú tính xấu xa nhất lại hoành hành; đến cái vẻ công lý cũng không còn [43, tr.426-427].
Từ những điều trình bày ở trên, chúng ta thấy rất rõ, Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề con người Việt Nam trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến bằng cách truy tìm nguyên nhân gây nên mọi nỗi khổ, sự cùng cực, thậm chí mất nhân tính của người dân Việt Nam là do sự tồn tại của chế độ tư hữu. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi đến quan niệm về một cuộc cách mạng triệt để nhất để giải phóng con người là cách mạng vô sản. Tuy nhiên, Người cũng thấy rõ sự nghiệp vĩ đại ấy là cả một quá trình rất lâu dài, gian khổ, đầy những bước thăng trầm. Không có chủ nghĩa nhân đạo tự nó, cũng không có tự do dân chủ tự nó mà phải biến thành chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, tức là phải làm cuộc cách mạng vô sản nhằm thủ tiêu chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất- mầm mống của sự tha hoá con người.
Thống nhất với quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh nhận thức rõ việc xoá bỏ chế độ tư hữu ở đây không phải là chế độ sở hữu nói chung mà là chế độ sở hữu tư sản và sở hữu phong kiến. Xoá bỏ chế độ sở hữu tư sản và sở hữu phong kiến không phải là thủ tiêu nó với tư cách là một giai cấp mà chính là chế độ áp bức, thống trị về chính trị, bóc lột về kinh tế và nô dịch về văn hoá, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và đi đến giải phóng triệt để con người.
1.1.2. Con người là vốn quý nhất, là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng
Đây là một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, có ý nghĩa như một tiền đề xuất phát, mục đích của tư tưởng: bắt đầu từ con người, vì con người, do con người - con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng, của sự nghiệp giải phóng.
Trước khi chủ nghĩa Mác ra đời, triết học duy tâm và duy vật nhân bản đều đánh giá không đúng vị trí, vai trò của con người đối với lịch sử.
Tư tưởng tôn giáo cho rằng mọi sự thay đổi trong xã hội là do ý chí của đấng tối cao, là do “mệnh trời”, ý chí đó được các cá nhân thực hiện. Những nhà duy vật trước C.Mác tuy không tin vào thượng đế, thần linh, nhưng cũng không thấy được hết vị trí, vai trò của con người - quần chúng nhân dân trong lịch sử. Con người thường được hiểu như là con người - công cụ, con người - phương tiện. Pascal ví con người như “một cây sậy, nhưng là một cây sậy biết suy nghĩ”. Còn L.Phoiơbắc khi đánh giá cao vai trò của con người đối với lịch sử cũng chỉ hiểu con người dùng sức mạnh của bản thân mình, sức mạnh của cơ bắp tác động vào thế giới vật chất - trong hành vi lao động sản xuất - giành lấy những vật phẩm trong tự nhiên để nuôi sống mình. ông hạ thấp vai trò của sức mạnh tinh thần, yếu tố tri thức, đạo đức, tình cảm của con người với tư cách con người - động lực, con người - mục tiêu. Do bị chi phối bởi phương pháp siêu hình mà con người được xem như là những “công cụ biết nói”, chỉ là “phương tiện”, hay “trò chơi” trong tay các vĩ nhân, chịu sự chi phối của các lực lượng thần bí, siêu nhiên. Con người không bao giờ được coi là động lực, là mục tiêu của lịch sử mà chỉ đi tìm các động lực, mục tiêu ở các yếu tố bên ngoài con người, bên ngoài lịch sử.
Triết học Mác khẳng định rõ vai trò vị trí của con người đối với sự phát triển của lịch sử, là động lực của mọi cuộc cách mạng. Chính con người là chủ thể sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần, đến lượt nó, các giá trị vật chất và tinh thần lại góp phần làm cho con người tồn tại và phát triển đúng với bản chất người. Hướng tới giải phóng triệt để con người là mục tiêu cuối cùng của cách mạng vô sản, bản chất nhân đạo mác xít là giải phóng triệt để con người.
Thấm nhuần tư tưởng nhân văn, nhân ái của dân tộc Việt Nam và chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý nhất, thể hiện ở cả ba cấp độ: cộng đồng dân tộc quốc gia (quần chúng nhân dân nói chung); giai cấp, tầng lớp (công nhân, nông dân, trí thức) và cá nhân. Người khẳng định: “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”[50, tr.276], “Chúng ta phải quý trọng con người, nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội” [51, tr.373]; “phải biết quý trọng sức người là vốn quý nhất của ta” [52, tr.313].
Coi con người là vốn quý nhất, Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi người phải biết yêu thương đồng loại. Người cách mạng phải có đức “Nhân”, tức là “phải có lòng bác ái - yêu nước, yêu đồng bào, yêu bộ đội của mình” [47, tr.224]. Yêu thương con người theo Hồ Chí Minh, phải là một tình cảm rộng lớn, trước hết giành cho những người cùng khổ bị áp bức bóc lột; đó phải là một tình cảm đặc biệt không giống với tình thương kiểu tôn giáo; không phải từ trên trông xuống, từ ngoài nhìn vào mà ở trong lòng mỗi con người khổ đau bất hạnh để cảm thông, chia sẻ.
ở Hồ Chí Minh, tình yêu thương con người không chung chung trừu tượng mà thực sự biến thành động cơ, mục đích, thành khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, ham muốn tột bậc của Hồ Chí Minh chỉ là đất nước được hoàn toàn độc lập, tự do, nhân dân ta ai cũng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Khi về nơi vĩnh hằng, trong Di chúc để lại cho hậu thế, vấn đề đầu tiên Người đề cập đến là vấn đề con người.
Do vậy, Mô-ha-mét La-ma-ri (Mohamed Lamari) - đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước cộng hoà dân chủ nhân dân An-giê-ri tại Việt Nam đã nhận xét:
ưu điểm lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là không chỉ đấu tranh cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người muốn tiến hành một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi của toàn dân và nhờ thế mà cuộc cách mạng Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới [73, tr.49-50].
Coi con người là vốn quý nhất, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải biết trân trọng sinh mệnh, phẩm giá con người, tin tưởng vào khả năng tiến bộ của con người; biết khơi dậy khả năng tiềm tàng của họ, thức tỉnh, giáo dục họ tự giác đứng lên đấu tranh tự giải phóng; phải biết nâng đỡ con người, làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị héo mòn đi.
Coi con người là vốn quý nhất, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội và mỗi cán bộ đảng viên phải kính trọng nhân dân, lấy dân làm gốc, thực hiện tốt công tác dân vận và thực hành dân chủ; phải biết phát huy nhân tố con người, coi sự nghiệp “trồng người” là một chiến lược lâu dài của Đảng và của cách mạng. Trong bài Dân vận, Hồ Chí Minh viết:
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [47, tr.698].
ở Hồ Chí Minh, con người không chỉ là vốn quý mà còn là yếu tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
Nho giáo đề cao tư tưởng “thân dân” nhưng thực chất chữ “dân” đồng nghĩa với “thần dân”, “thứ dân”, “tiện dân” chỉ là đối tượng cần phải “chăn dắt” mà không có vai trò gì đối với lịch sử. Đối với Hồ Chí Minh, con người -quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng, là động lực làm nên lịch sử. Chữ “ DÂN” luôn chiếm vị trí trung tâm, là tiền đề xuất phát chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Hồ Chí Minh.
Thấm nhuần quan điểm của C.Mác về vai trò của quần chúng nhân dân đối với lịch sử, Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, trong mọi thời đại quần chúng nhân dân luôn giữ vai trò chủ thể quyết định sự vận động phát triển của lịch sử chứ không phải là các vĩ nhân. Người nói: “Vì chúng ta quên một lẽ rất đơn giản dễ hiểu: tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra, từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” [47, tr.241]. “Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển”[49, tr203]. “Quần chúng còn là người sáng tác nữa (các giá trị văn hóa tinh thần)”[51, tr.250].
Hồ Chí Minh đánh giá cao những giá trị những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là truyền thống yêu nước, đoàn kết, ý chí tự lực tự cường... Người đã khái quát:
Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cuớp nước [48, tr.171].
Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân khi được tập hợp tổ chức và giáo dục theo một đường lối đúng đắn. Người khẳng định: “Ai làm cách mạng? - Nhân dân! Ai kháng chiến thắng lợi? - Toàn dân” [51, tr.506]. “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ mấy, làm cũng không xong; có lực lượng nhân dân, thì việc khó mấy, to mấy cũng làm được” [48, tr.292]. “Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó” [46, tr.20].
Vai trò của con người còn được Hồ Chí Minh xác định rõ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên, “đó là công trình tập thể của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng” [51, tr.291].
1.1.3. Con người và bản chất con người
1.1.3.1. Khái niệm “ con người” trong nhận thức của Hồ Chí Minh
Trước đây, khi đưa ra quan niệm về con người, C.Mác cho rằng, con người được hiểu là phương thức tồn tại đặc thù của con người, phương thức sinh hoạt tộc loại đặc thù của con người. Bằng việc “sáng tạo ra một cách thực tiễn thế giới đối tượng”, bằng “việc cải tạo gi._.ới tự nhiên vô cơ”, con người trở thành một thực thể mang tính tộc loại, có ý thức, một thực thể đối xử với tộc loại như với bản chất của chính mình, hoặc đối xử với bản thân mình như với một thực thể có tính chất tộc loại. Qua việc phân tích sự khác nhau giữa hoạt động của con người với hoạt động của con vật, C.Mác đi đến kết luận: hoạt động sinh sống của con người là hoạt động sinh sống có ý thức, hoạt động theo phương thức “xây dựng”vật chất theo quy luật của cái đẹp. Do con người là một thực thể tộc loại, là một sinh vật có tính loài có ý thức, “đời sống của bản thân con người là một đối tượng đối với con người”, nên “hoạt động của con người là hoạt động tự do” [37, tr.36].
Trong quan niệm của C.Mác, con người - đó là những con người riêng biệt, là những cá nhân hiện thực với hoạt động lao động của họ. ông viết: “Con người là một cá nhân đặc thù nào đó và chính tính đặc thù của nó làm cho nó thành ra một cá nhân và một thực thể xã hội cá thể hiện thực” [37, tr.171].
Theo C.Mác, con người là một mẫu hình lý tưởng về sự tồn tại và phát triển của chính nó, một mẫu hình mà khi đối chiếu với những hoạt động sinh hoạt hiện thực của con người sẽ cho thấy những hoạt động ấy có mang tính người hay không mang tính người. C.Mác nhận xét, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, người lao động chỉ nhận được nhận đủ cái cần thiết để họ duy trì sự sống, song không phải sống như một con người mà như một người lao động làm thuê và để tạo ra không phải loại người, mà ra giai cấp những người nô lệ, những người lao động làm thuê.
Trong quan niệm của C.Mác, con người còn được xem xét với tư cách là con người tự nó - con người được trừu tượng hoá bởi các mối quan hệ, các điều kiện, các hình thức và phương tiện hoạt động hiện thực của nó, là “sự tồn tại trừu tượng của con người với tính cách chỉ là con người lao động” và do vậy, hàng ngày nó có thể “bị đẩy từ cái hư không đầy đủ của mình vào cái hư không tuyệt đối”, vào lĩnh vực “không tồn tại có tính chất xã hội” của nó” [38, tr.150].
Như vậy, thuật ngữ “con người” đã được C.Mác sử dụng với một nội dung phong phú: con người là phương thức tồn tại của con người trong thế giới, là một cá nhân riêng biệt, là mẫu hình sinh hoạt của con người, con người với tư cách con người tự nó, là đại biểu điển hình cho nhân loại.
Là nhà mác xít chân chính, cách tiếp cận vấn đề con người của Hồ Chí Minh có sự thống nhất với cách tiếp cận của C.Mác. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, không có con người trừu tượng mà chỉ có con người cụ thể. Tuỳ theo từng thời kỳ lịch sử gắn với từng thời điểm cách mạng, Hồ Chí Minh dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ con người.
Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa con người giai cấp, dân tộc và nhân loại. Những năm đầu thế kỷ XX, khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến “người phương Đông”, “người châu á”, “người châu âu”…, mà còn đề cập một cách cụ thể hơn “người bản xứ”, “người bản xứ bị áp bức”, “người da vàng”, “người da đen”, “người vô sản thuộc địa”, “người vô sản ở chính quốc”, “người cùng khổ” v.v.. Như vậy, với Hồ Chí Minh, con người bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, thuộc về một quốc gia nhất định. Người khẳng định mọi người dù khác nhau như thế nào thì vẫn có điểm chung là sinh ra phải được tự do, bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, mỗi người dân Việt Nam đã thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, bản chất xã hội đã thay đổi, Hồ Chí Minh thường sử dụng các thuật ngữ như: “đồng bào”, “quốc dân”, “nhân dân”,v.v, qua đó đặt con người trong sự gắn bó mật thiết với cộng đồng dân tộc.
Bên cạnh việc nói đến con người dân tộc, Hồ Chí Minh còn đặc biệt chú ý đến con người giai cấp trong quan niệm về con người. Trong những năm đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh thường dùng các thuật ngữ “người bị áp bức”, “người bị bóc lột”, “tên tư sản”, “nhà độc tài” …để chỉ con người. Trong thời kỳ miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh dùng các thuật ngữ “người làm chủ”, “người làm chủ tập thể”, “lao động trí óc”, “lao động chân tay”… cho phù hợp với các quan hệ xã hội mới.
Hồ Chí Minh chỉ dùng khái niệm “con người” ở hai thời điểm: Trong Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa (1921), Người viết rằng nhân dân thuộc địa bị tước đoạt mất các quyền lợi gắn liền với “phẩm giá con người”. Trong Lời kêu gọi đăng trên trang nhất, số đầu tiên báo Người cùng khổ - cơ quan ngôn luận của hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết rằng sứ mệnh của tờ báo là “giải phóng con người”. Năm 1968, trong bản bổ sung cho Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.
Đặc biệt, năm 1947, Hồ Chí Minh đã nêu một quan niệm khá độc đáo về con người, “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người” [46, tr.644]. Con người trong quan niệm của Hồ Chí Minh vừa là mỗi thành viên cụ thể, vừa là những cộng đồng người trong xã hội. Con người vừa là một chỉnh thể đơn nhất mang những phẩm chất riêng, vừa là một thực thể xã hội mang những phẩm chất của một hệ thống các quan hệ xã hội trong sự thống nhất biện chứng giữa cái chung với cái đặc thù, cái riêng. Trong cộng đồng con người Việt Nam, rõ ràng, quan hệ gia đình, anh em, họ hàng là rất quan trọng. Hơn nữa, nét độc đáo trong cộng người Việt Nam là quan hệ “đồng bào”, cộng đồng đó có cùng nguồn gốc “con lạc, cháu hồng”, “con Rồng, cháu tiên”.
Qua cách định nghĩa chữ “người” và cách hiểu về “con người” trên đây cho thấy, quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề con người dựa trên cơ sở thế giới quan mác xít, không duy tâm, thần bí khi xem xét nguồn gốc, bản chất con người. Con người không phải là sản phẩm của thần thánh hay bất cứ lực lượng siêu nhiên nào, mà là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài. Không có con người chung chung trừu tượng mà chỉ có những con người sống, hoạt động trong một xã hội nhất định, một thời đại nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, nghĩa là những con người cùng với xã hội mình khai thác thiên nhiên, sinh hoạt xã hội và phát triển ý thức. Con người chính là người cộng đồng người theo nghĩa lô gíc hình thức, được phân biệt theo những dấu hiệu xác định từ vô số các khách thể tồn tại trên trái đất. Với cách hiểu này, cho phép gạt bỏ mọi khác biệt giữa cá nhân con người và mỗi con nguời cụ thể, luôn có điểm tương đồng với con người thuộc mọi thời đại, mọi quốc gia dân tộc.
1.1.3.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bản chất con người
Là nhà mác xít chân chính, Hồ Chí Minh nhận thức vấn đề bản chất con người trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bản chất con người theo quan niệm của Hồ Chí Minh thể hiện qua một số nội dung sau:
Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh con người mang bản chất xã hội - lịch sử.
Trước đây khi bàn về con người, C.Mác đã chỉ rõ: “Con người không phải là một sinh vật trừu tương, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là nhà nước, là xã hội” [35, tr.569]. Bàn về bản chất con người, C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [36, tr.11]. ông phê phán L.Phoiơbắc đã coi con người như những cá nhân trừu tượng, cô lập, “bản chất con người chỉ có thể được hiểu là “loài”, là tính phổ biến nội tại, câm, gắn bó một cách thuần tuý tự nhiên đông đảo cá nhân lại với nhau” [36, tr.11]. Đối với con người đứng đầu nhà nước mà Hêghen gọi là “con người đặc thù”, thì bản chất của nó, như C.Mác đã phân tích, cũng “không phải là râu của nó, không phải là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó, mà là phẩm chất xã hội của nó” [35, tr.337]. Như vậy, bản chất con người không phải là trừu tượng mà là cụ thể, không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là cái vốn có trong mỗi cá nhân riêng biệt, cô lập, mà là tổng hoà của toàn bộ các quan hệ xã hội.
Trong thực tế, con người là con người xã hội, con người gắn với xã hội, là những cá thể nằm trong các quan hệ xã hội nhất định. Nếu tách con người khỏi các quan hệ xã hội thì con người chỉ còn là một loài sinh vật giống như mọi loài sinh vật khác; và lúc đó sự gắn bó giữa những cá nhân chỉ mang tính chất bầy đàn sinh vật chứ không có xã hội của con người.
Khi nói bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội cũng có nghĩa là tất cả các quan hệ xã hội đều tham gia vào việc hình thành bản chất con người. Các quan hệ xã hội vô cùng phong phú, đa dạng, luôn đan xen, tác động lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò chi phối, quyết định các quan hệ xã hội khác. Nếu quan hệ sản xuất thể hiện bản chất tầng một của con người, thì các quan hệ xã hội khác thể hiện bản chất tầng hai của con người và lại được thể hiện thông qua cái bản chất tầng một, tạo nên những khác biệt giữa con người với con người. Tính chi phối, quyết định của quan hệ sản xuất đối với các quan hệ xã hội khác là ở chỗ đó.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh luôn đặt con người và xem xét nó trong các mối quan hệ xã hội nhất định. Con người mang bản chất xã hội, là thành viên của một cộng đồng xã hội, đó là cộng động năm cấp độ: gia đình - họ tộc - làng - nước - nhân loại. Con người không phải là những cá thể biệt lập giống như Rôbinxơn ngoài hoang đảo. Chỉ có trong quan hệ xã hội, trong hoạt động thực tiễn con người mới có hoạt động lao động, có ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy, mới thực sự trở thành con người để có thể phân biệt với mọi loài động vật khác.
Những quan hệ xã hội mà Hồ Chí Minh quan tâm, trước hết là những quan hệ đã gắn bó giữa người với người tạo thành cộng đồng từ nhỏ đến lớn, từ hẹp đến rộng. Từ cộng đồng gia đình, họ tộc, cộng đồng làng xã cho đến cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại. Đối với người Việt Nam, những cộng đồng gia đình, họ tộc, làng xã, dân tộc đã tạo thành tính cộng đồng bền vững được bồi đắp qua trường kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước góp phần hình thành chủ nghĩa yêu nước truyền thống, chủ nghĩa dân tộc chân chính mà có lúc Hồ Chí Minh coi là “động lực vĩ đại”, thậm chí là “động lực duy nhất” thúc đây sự phát triển của đất nước.
Hồ Chí Minh đặt con người, mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: quan hệ với một cộng đồng xã hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội nhất định, trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột; quan hệ với tự nhiên trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời, nhưng lại luôn “người hoá” tự nhiên trong những cộng đồng xã hội nhất định và bị quy định bởi những chế độ xã hội nhất định. Con người sống và tồn tại trong lòng xã hội, chịu sự chế ước của các quan hệ xã hội. Các quan hệ ấy lại không nhất thành bất biến: có loại thay đổi nhanh, có loại thay đổi chậm, có loại tồn tại tương đối lâu dài, có loại bị thay thế bởi cái khác, khi những điều kiện lịch sử cụ thể cho sự tồn tại của nó không còn. Sự vận động liên tục của các quan hệ xã hội quy định bản chất con người. Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì bản chất con người cũng thay đổi theo. Điều này hoàn toàn phủ nhận các quan điểm duy tâm siêu hình cho rằng, bản chất hay bản tính của con người là bất biến.
Khẳng định con người mang bản chất xã hội, song Hồ Chí Minh không tuyệt đối hoá mặt “xã hội” của con người giống như quan điểm siêu hình của một số nhà triết học cùng thời hoặc sau C.Mác, khi đưa ra những tiêu chí để phân biệt con người với động vật. Chẳng hạn, Phranklin cho rằng con người khác con vật ở chỗ con người biết sử dụng công cụ lao động, còn Aristote đã gọi con người là “một động vật có tính xã hội”. Hồ Chí Minh quan niệm con người không chỉ là thực thể xã hội mà còn là một thực thể sinh học. Điều này là hoàn toàn thống nhất với quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Hồ Chí Minh nhận thức rõ con người muốn sống và tồn tại được thì cũng cần phải có ăn, có mặc, “có thực mới vực được đạo”, nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả, “Dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời. Đó là nhu cầu tự nhiên của con người, nhưng những nhu cầu bản năng ấy đã được “người hoá” trở thành những hành vi mang tính xã hội. Những nhu cầu tự nhiên ấy của con người được đáp ứng hay không lại tuỳ thuộc vào chế độ xã hội, vào hình thái kinh tế - xã hội trong đó con người đang sinh sống và hoạt động. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin, cùng với con đường phát triển của nhân loại đã chứng minh rõ điều đó.
Thứ hai, theo Hồ Chí Minh con người mang bản chất giai cấp.
Ban đầu, Hồ Chí Minh cũng như phần đông người Việt Nam đều quan niệm một cách giản đơn rằng loài người được phân biệt bởi những màu da khác nhau. Khi đặt chân đến nước Pháp trên hành trình tìm đường cứu nước, Người nhận ra rằng ở một nước được coi là trung tâm văn minh của châu Âu không phải chỉ toàn những người giàu có, mà ở đó cũng có những người nghèo khổ như Việt Nam, “những người Pháp ở Pháp phần nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân rất hung ác, vô nhân đạo” [72, tr.23].
Vượt qua ranh giới về màu da - một lý thuyết khá thịnh hành về “đồng văn đồng chủng” ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh nhận ra rằng: đã là người dân bị nô lệ, thì dù da là màu gì đi chăng nữa cũng đều là những người “cùng khổ”; đã là kẻ đi bóc lột, thì dù cho da trắng hay da vàng ở phương Tây hay phương Đông đều có chung bản chất giống nhau - bản chất xấu xa, độc ác. Người kết luận: “Vậy là, dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ai là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” [43, tr.266]. “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người Thiện và người ác”[47, tr.643].
Sau khi tiếp cận được với học thuyết Mác-Lênin, nhận thức của Hồ Chí Minh về bản chất con người dựa trên cơ sở thế giới quan khoa học. Đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân biệt giữa người với người không đơn thuần chỉ là vấn đề chủng tộc, dân tộc, mà chủ yếu trên cơ sở nhận thức đúng đắn vấn đề giai cấp, tức là con người đó đứng về phía giai cấp nào: giai cấp bóc lột hay giai cấp bị bóc lột? Giai cấp thống trị hay giai cấp bị trị? Sự phân biệt ấy được Hồ Chí Minh gọi là giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Từ nhận thức về màu da, chủng tộc, dân tộc rồi đi đến nhận thức về giai cấp là quá trình vận động tuân theo quy luật tư duy của Hồ Chí Minh về vấn đề bản chất con người.
Trong xã hội có giai cấp, tính giai cấp của con người được thể hiện thông qua các quan hệ xã hội, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò chi phối. Quán triệt sâu sắc quan điểm của C.Mác và Ph.ăngghen về bản chất con người, Hồ Chí Minh khẳng định quan hệ sản xuất đã phân chia con người thành giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, đồng thời lại thấy rõ sự tổng hoà tất cả các quan hệ xã hội tạo thành bản chất con người. Hồ Chí Minh không tuyệt đối hoá hoặc xem nhẹ bất cứ yếu tố nào, vì vậy tránh rơi vào hai xu hướng: một là, coi bản chất con người chỉ còn là bản chất giai cấp, đồng nhất bản chất con người với bản chất giai cấp mà không thấy được sự tổng hoá các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người như C.Mác đã nói; hai là, chỉ thấy bản chất con người là tổng hoà tất cả những quan hệ xã hội nói chung, mà không thấy trong xã hội có giai cấp, quan hệ sản xuất giữ vai trò chi phối các quan hệ xã hội khác.
Từ quan điểm lịch sử cụ thể của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh thấy rõ sự phân tầng giai cấp ở Việt Nam chưa triệt đề, không giống phương Tây. Trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi Quốc tế cộng sản năm 1924, Người đã nêu lên những nhận xét của mình: ở Việt Nam, ngay đến những kẻ được gọi là đại địa chủ “thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”, “đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa”; còn tư sản ở Việt Nam thì “chỉ là những kẻ thực lợi khá giả”, chứ không phải là “những tên trọc phú”, “tỷ phú”, tư sản có bóc lột lao động làm thuê nhưng cũng “vừa phải trong sự tham lam của mình”; có “Hoàng đế trị vì nhưng chẳng lo cai trị gì” và không thể so sánh với chúa phong kiến ở châu âu được. Chính vì vậy, Người đã chỉ ra một điều “không thể chối cãi được” là “sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu” và “cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra gay gắt, quyết liệt như ở phương Tây” [43, tr.464]. Đây là cơ sở xã hội quan trọng để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân nhằm mục tiêu chung giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở Việt Nam
Thứ ba, theo Hồ Chí Minh trong mỗi con người luôn có sự thống nhất tồn tại đan xen giữa hai mặt đối lập: tốt - xấu (thiện - ác).
Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sự kế thừa có phê phán tư tưởng Nho giáo (Trung Quốc) khi bàn về bản tính con người mà đại biểu là Mạnh Tử và Tuân Tử.
Theo Mạnh Tử, bản tính con người ta vốn thiện, không một người nào sinh ra tự nhiên bất thiện, đã là con người thì ai cũng có trong lòng cái mầm thiện. ông chỉ rõ sự khác nhau giữa con người và con vật là ở chỗ, trong mỗi con người đều có phần quý trọng và phần bỉ tiện, có phần cao đại và phần thấp hèn. Chính cái phần quý trọng và cao đại mới là tính người, mới là cái phân biệt giữa người và thú. Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử lại cho rằng bản tính con người vốn ác, đó là kết quả của thói hiếu lợi và đố kỵ trong mỗi con người khi mới sinh ra. Để sửa tính ác thành tính thiện, ông chủ trương cần có sự giáo hoá, dùng lễ nghĩa và lễ nhạc. Điểm giống nhau giữa Mạnh Tử và Tuân Tử là ở chỗ đã tuyệt đối hoá tính “thiện” hay tính “ác” trong mỗi con người mà không thấy được sự chuyển hoá giữa chúng khi các quan hệ xã hội thay đổi.
Sử dụng những thuật ngữ của văn hoá phương Đông nhưng dựa trên cơ sở thế giới quan khoa học và phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh khẳng định bản chất con người có cả thiện và ác, hai mặt đó luôn tồn tại đan xen trong mỗi con người. Không thể có sự phân biệt rạch ròi giữa người này “thiện”, người kia “ác”, có chăng chỉ là tương đối do trạng thái biểu hiện nhiều hay ít của tính “thiện” và tính “ác” trong mỗi con người. Tốt hay xấu không phải là bản tính vốn có, con người ta sinh ra không phải tự nhiên thành người tốt hay người xấu. Sự khác nhau đó bị chi phối phần lớn bởi điều kiện hoàn cảnh xã hội và sự tương tác giữa con người với môi trường xã hội, phần nhiều do giáo dục mà nên.
Quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh về bản chất con người hoàn toàn xa lạ với những quan điểm duy tâm siêu hình cho rằng, bản chất của con người là bất biến đổi với những loại người khác nhau: quân tử hay tiểu nhân, thượng trí hay hạ ngu, sinh ra để trị người hay để người trị. Về điều này, C.Mác đã từng khẳng định: Toàn bộ lịch sử chỉ là sự biến đổi liên tục của bản tính con người; nhiệm vụ của chúng ta không phải chỉ là tìm hiểu bản chất con người nói chung, mà còn phải thấy bản chất đó thay đổi như thế nào trong mỗi thời đại lịch sử nhất định. Chính điều này đã giải thích tại sao không ít người thuộc các giai cấp bóc lột lại có thể từ bỏ giai cấp xuất thân của mình để đi với giai cấp bị bóc lột, tham gia đấu tranh để giải phóng các giai cấp bị bóc lột, thậm chí trở thành lãnh tụ của giai cấp vô sản như trường hợp của C.Mác, Ph.ăngghen, V.Lênin và bao nhiêu lãnh tụ cộng sản khác. Cũng chính từ điều này mà chúng ta hiểu được tại sao C.Mác, Ph.ăngghen, V.Lênin, Hồ Chí Minh lại đặc biệt coi trọng vấn đề cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới; xây dựng chế độ mới, đời sống mới cho con người, vì con người.
1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về sự giải phóng người Việt Nam
1.2.1. Về con người được giải phóng
Trong tư tưởng giải phóng con người, Hồ Chí Minh đề cập đến con người được giải phóng trên cả hai bình diện: con người xét trên bình diện cộng đồng và con người với tư cách là cá nhân.
Thứ nhất, giải phóng con người trên bình diện cộng đồng.
Mỗi con người không thể sống riêng lẻ mà phải sống với xã hội, sống trong lòng quốc gia dân tộc. Vì vậy, quyền của mỗi con người phụ thuộc vào quyền tối cao của dân tộc đó là độc lập tự do. Từ thực tiễn khách quan của các dân tộc bị nô dịch, từ chủ nghĩa dân tộc truyền thống của cha ông ta và tiếp thu sáng tạo tư tưởng nhân quyền và dân quyền của các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Hồ Chí Minh phát triển thành quyền của dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [47, tr.1].
Như vậy, con người được giải phóng trên bình diện cộng đồng theo Hồ Chí Minh là toàn thể dân tộc Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi… Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc tại lễ Quốc khánh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày 2/9/1945, Hồ Chí Minh đã mở đầu bằng những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [47, tr.1], đó là các quyền thiêng liêng nhất của mỗi con người. Việt Nam là một quốc gia có chủ quyền, vì vậy, nhân dân Việt Nam “có quyền hưởng tự do và độc lập” như những dân tộc khác.
Độc lập tự do theo Hồ Chí Minh là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc dù dân tộc đó là “thượng đẳng” hay “hạ đẳng”; “văn minh” hay “lạc hậu”. Độc lập, tự do phải thực sự hoàn toàn và được biểu hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Các quyền dân tộc, quyền con người phải được thực hiện trên thực tế, chứ không phải là thứ độc lập giả hiệu giống như “cái bánh vẽ” mà chủ nghĩa đế quốc nêu ra. Độc lập phải gắn liền với tự do, nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc, thì độc lập ấy cũng chẳng có nghĩa lý gì. Nền độc lập thực sự hoàn toàn phải được thực hiện một cách triệt để theo nguyên tắc: nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về quyền quốc gia đều do nhân dân Việt Nam tự giải quyết.
Không có gì quý hơn độc lập tự do là lẽ sống và là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh, là nguồn động lực ý chí chiến đấu tuyệt vời của Người; đồng thời, là mục tiêu cấp bách và nóng bỏng nhất của dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh bị đế quốc thực dân thống trị. Không có gì quý hơn độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh hàm chứa nội dung tổng hoà biện chứng, độc đáo và mang đậm bản sắc dân tộc về ba cuộc cách mạng của thời đại: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Độc lập tự do cho dân tộc là khát vọng cháy bỏng của Hồ Chí Minh, chi phối mọi tư duy và hành động của Người. Suốt cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là đất nước được hoàn toàn độc lập, dân tộc được hoàn toàn tự do, đồng bào sung sướng hạnh phúc. Đó là mục tiêu và động lực của Hồ Chí Minh, của dân tộc Việt Nam trong tiến trình cách mạng, kháng chiến và dựng xây đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” làm cho nước Việt Nam trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
Cùng với việc giải phóng con người trên bình diện cộng đồng quốc gia dân tộc, Hồ Chí Minh còn đề cập đến giải phóng con người với tư cách là một giai cấp, tầng lớp xã hội cụ thể, trong đó Người đề cập nhiều nhất đến giải phóng nông dân và người phụ nữ - những giai cấp, tầng lớp chịu nhiều nỗi khổ cực nhất của xã hội Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến.
Sinh ra và lớn lên từ một nước thuộc địa của thực dân Pháp, nơi mà nông dân chiếm đa số (hơn 90% số dân), Hồ Chí Minh hiểu rõ hơn ai hết nỗi nhục lầm than, nỗi đau nô lệ của người nông dân bị mất nước. Sau này, khi được chứng kiến nỗi khổ nhục của người nông dân các nước thuộc địa trên hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ở đâu người nông dân cũng bị áp bức và bóc lột tàn bạo bởi bốn thế lực là: Nhà nước bảo hộ, bọn thực dân, nhà thờ và những tên lái buôn. Nghiên cứu tình cảnh nông dân Đông Dương thuộc Pháp, Người thấy rõ tội ác dã man của chế độ thực dân ở thuộc địa, đó là tình trạng cướp ruộng đất một cách phổ biến và trắng trợn, chính sách thuế khoá nặng nề bóc lột tận xương tuỷ người lao động. ở Đông Dương, nông dân bao giờ cũng là đối tượng bóc lột chủ yếu để nuôi sống “nước mẹ” Pháp, phục vụ cho cuộc sống phè phỡn của kẻ xâm lược. Vì vậy, giải phóng người nông dân là khát vọng lớn lao của Hồ Chí Minh.
Không chỉ tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, Hồ Chí Minh còn chỉ ra cho quần chúng nguyên nhân của mọi sự khổ đau và con đường đúng đắn nhất trong cuộc đấu tranh tự giải phóng. Người từng bước đề cập một cách có hệ thống vị trí, vai trò của nông dân là lực lượng rất to lớn của dân tộc, có chí khí rất anh dũng, có truyền thống cách mạng, tin tưởng ở sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, chỉ ra những hạn chế của phong trào nông dân khi chưa được tổ chức lại và chưa có lực lượng tiên phong lãnh đạo. Giải phóng dân tộc thực chất là giai phóng nông dân.
Trong tư tưởng về giải phóng con người, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến giải phóng phụ nữ. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người luôn quan tâm đến vị trí, vai trò của phụ nữ trong xã hội, “phụ nữ là phân nửa của xã hội. Nếu xã hội không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người” [51, tr.523]. Khi khẳng định phụ nữ là một nửa của xã hội, Hồ Chí Minh không chỉ nhìn nhận một cách đơn thuần về số lượng, tỷ lệ của giới nữ trên tổng số dân, Người còn nói đến vị trí của giới nữ với tư cách là một bộ phận không thể tách rời trong một thể thống nhất với “nửa bên kia” để cấu thành nên nhân loại. Nói về vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định: “An Nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành công”, “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” [48, tr.432].
Tuy nhiên, sống dưới chế độ thực dân phong kiến, phụ nữ là tầng lớp bị áp bức nặng nề về tinh thần lẫn thể xác, “ách áp bức kinh tế đã nô dịch con người. Cũng ách áp bức ấy đã biến phụ nữ thành đồ vật tuỳ thuộc vào quyền sử dụng của nam giới” [43, tr.268], “Dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân ta bị áp bức, bóc lột, thì phụ nữ ta bị áp bức, bóc lột càng nặng nề” [53, tr.256]. Vì vậy, nếu giải phóng xã hội mà chưa giải phóng phụ nữ thì sự nghiệp giải phóng con người chưa triệt để; trình độ giải phóng phụ nữ là thước đo cho sự phát triển của lịch sử loài người. Trong Đường Kách mệnh (1927), Nguyễn ái Quốc đã dẫn lời của C.Mác, xem chất lượng cuộc sống của phụ nữ là tấm gương phản chiếu trình độ văn minh của nhân loại: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ ra thế nào” [44, tr.288].
Giải phóng phụ nữ theo Hồ Chí Minh cũng là một cuộc cách mạng gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; là cuộc cách mạng nhằm xoá bỏ mọi định kiến hẹp hòi và những tàn dư của xã hội cũ để lại. Đó là một cuộc cách mạng không kém phần khó khăn, đòi hỏi phải được tiến hành một cách triệt để. Giải phóng phụ nữ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và của toàn xã hội “phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân” [48, tr.433]; đồng thời, đó cũng là cuộc cách mạng của chính bản thân người phụ nữ.
Thứ hai, giải phóng con người trên bình diện cá nhân.
Khái niệm “cá nhân” dùng để chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định, với tư cách là một cá thể, một thành viên của xã hội ấy, do những đặc điểm riêng của mình mà phân biệt với những thành viên khác của xã hội.
Xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm, cộng đồng, tập đoàn xã hội khác nhau do điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Bất cứ xã hội nào cũng được cấu thành không phải bởi những con người trừu tượng mà bởi những con người cụ thể, những cá nhân sống. Mỗi cá nhân là một cái đơn nhất mang những đặc điểm riêng phân biệt với các cá nhân khác không chỉ về mặt sinh học mà chủ yếu về mặt những quan hệ xã hội, những quan hệ này vô cùng phức tạp, rất cụ thể và có tính lịch sử. Mỗi cá nhân có đời sống riêng, có những “quan hệ xã hội” của riêng mình không hoàn toàn giống quan hệ xã hội của các cá nhân khác, có kinh nghiệm riêng, có nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng riêng. Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình.
Trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mỗi người dân Việt Nam dù bất kỳ ở giai cấp, tầng lớp xã hội nào đều ít nhiều phải gánh chịu mọi hậu quả nặng nề của sự tha hoá. Kết quả hoạt động của con người ngày càng bị biến thành một lực lượng thoát ra khỏi con người, xa lạ với con người, thống trị lại con người. Trong điều kiện đó, tự do của người lao động chỉ mang tính hình thức, cá nhân con người không thể có sự phát triển hài hoà và toàn diện, người lao động không thể khẳng định mình với tư cách cá nhân.
Mục tiêu giải phóng con người của Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng con người trên bình diện cộng đồng, mà phải tiến tới giải phóng mỗi cá nhân trong cộng đồng ấy, có như vậy công cuộc giải phóng con người mới thực sự triệt để.
Theo Hồ Chí Minh, mỗi con người với tính cách là những cá thể riêng biệt đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, đó là những quyền thiêng liêng nhất của mỗi con người. Vì vậy, giải phóng cá nhân mỗi con người trước hết là phải xoá bỏ sự bất bình đẳng trong quan hệ giữa con người với con người. Dưới chế độ dân chủ cộng hoà, mọi người dân đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, đều “có quyền tự do tư tưởng, tự do tổ chức, tự do tín ngưỡng,v.v. có quyền ứng cử và bầu cử. Đàn bà có mọi quyền lợi như đàn ông”, vì vậy “mọi người cần hăng hái làm tròn nghĩa vụ của mình trong mọi công việc kháng chiến, cứu nước, xây dựng nước nhà" [49, tr.219].
Giải phóng con người trên bình diện cá nhân không chỉ dừng lại ở việc xoá bỏ ách áp bức hiện thực của đời sống xã hội đối với con người, mà còn phải làm cho con người từng bước thoát khỏi sự chế ngự của tự nhiên và hạn chế trong nhận thức, hành vi của chính bản thân mỗi con người. Ph.ăngghen từng khẳng định: Tự do là sự nhận thức được cái tất yếu. Tự do của mỗi người là điều kiện bảo đảm tự do cho tất cả mọi ng._. đẩy và là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế.
Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, không hạn chế về ngành nghề, địa bàn và lĩnh vực. Khuyến khích phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể, các loại hình doanh nghiệp của tư nhân; mọi công dân đều có quyền tự do tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội và nguồn lực kinh doanh, trong thông tin và nhận thông tin.
Huy động mạnh mẽ tiềm năng kinh tế của mọi công dân, mọi thành phần kinh tế, rỡ bỏ mọi rào cản để khơi dậy nguồn lực to lớn của nhân dân, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tiềm năng của con người vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện dân chủ hoá kinh tế trong điều kiện nước ta hiện nay, Nhà nước cần ban hành, hoàn thiện và thực thi nghiêm túc các đạo luật, bảo đảm quyền dân chủ kinh tế. Thể chế hoá các quyền dân chủ về kinh tế của người lao động bằng pháp luật; có cơ chế để nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát việc chi tiêu, sử dụng tài chính, cơ sở vật chất, tài sản của Nhà nước và phân phối phúc lợi công cộng. Cần xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong điều tiết vĩ mô, làm cho nền kinh tế thị trường phát triển mà không gây nên những hậu quả xấu về mặt xã hội.
Từng bước thiết lập và thực hiện cơ chế người lao động tham gia giữ địa vị người chủ đích thực trong kinh tế: làm chủ tư liệu sản xuất, có thực quyền sở hữu và sử dụng tư liệu sản xuất, từ đó làm chủ quá trình tổ chức, quản lý và phân phối sản phẩm.
Cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước phải tạo ra sự năng động trong đời sống kinh tế, giải phóng sức sản xuất xã hội, thúc đẩy hành vi tích cực, chủ động sáng tạo của mỗi cá nhân người lao động, của từng tập thể và toàn xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế thích hợp sẽ tạo hành lang pháp lý cho sự đa dạng của các ngành nghề, qua đó ngưòi lao động bộc lộ hết năng lực của mình trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập cho bản thân, gia đình và xã hội. Trong những năm đổi mới, cơ chế quản lý của Nhà nước ta đã hướng vào con người nói chung và người lao động nói riêng. Tổng kết 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: “Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội” [9, tr.60].
Cần có sự điều tiết của Nhà nước ở tầm vĩ mô làm cho nền kinh tế thị trường không phát triển tự phát, từ đó ngăn chặn và khắc phục những mặt trái do kinh tế thị trường gây ra có hại cho con người như: cạnh tranh không lành mạnh, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, v.v.. làm cho các quan hệ xã hội ngày càng lành mạnh.
Thứ hai, thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tương ứng với nó là sự tồn tại của các hình thức sở hữu. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở của hệ thống quan hệ sản xuất trong bất cứ xã hội nào; quan hệ đó quyết định những đặc trưng quan trọng nhất của hệ thống quan hệ sản xuất, quyết định địa vị người lao động trong hệ thống sản xuất xã hội. Sự tồn tại khách quan của các hình thức sở hữu tạo cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế. Vì vậy, cần có quan niệm đúng đắn về chế độ sở hữu tư liệu sản xuất sao cho phản ánh được sự đa dạng phong phú của tư liệu sản xuất.
ở nước ta hiện nay, lực lượng sản xuất vẫn ở tình trạng phân tán lạc hậu, đang từng buớc phát triển. Vì vậy, cần thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu bao gồm: sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp, trong đó sở hữu Nhà nước đóng vai trò chi phối.
Xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu là điều kiện bảo đảm dân chủ về kinh tế - cơ sở quan trọng thực hiện mục tiêu giải phóng con người ở nước ta hiện nay.
3.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo có vị trí vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của đất nước nói chung, sự nghiệp giải phóng con người nói riêng. Lúc sinh thời Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “dốt thì dại, dại thì hèn”. Phát triển văn hóa, nâng cao trình độ dân trí là một trong những cống hiến lớn lao của Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu giải phóng con người.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, giáo dục - đào tạo càng có vai trò vị trí quan trọng. Giáo dục - đào tạo góp phần tạo ra những công dân có đủ năng lực và phẩm chất để làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân. Thông qua kết quả của quá trình giáo dục - đào tạo, năng lực, phẩm chất trí tuệ, sự hiểu biết của con người được nâng lên. Trình độ văn hoá của con người là chuẩn mực cao nhất xác định vai trò, vị thế của con người trong xã hội; là cơ sở rất quan trọng để mỗi người có thể nhận thức và hành động đúng quy luật. Ph.ăngghen từng khẳng định: học là để giành lấy tự do, bởi vì tự do không phải ở sự độc lập tưởng tượng đối với các quy luật tự nhiên mà là nhận thức được các quy luật đó và ở cái khả năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác động một cách có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định.
Trong điều kiện hiện nay, trí tuệ có vai trò quyết định cho sự sáng tạo và phát triển. Trí tuệ là khả năng nhận thức của con người đạt đến trình độ hiểu biết có hệ thống và sâu sắc về bản chất, quy luật tự nhiên, xã hội; là khả năng nắm bắt và xử lý đúng đắn các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn; là điều kiện bảo đảm cho hoạt động của con người đạt kết quả cao; là điều kiện bên trong để mỗi người củng cố và hoàn thiện các phẩm chất đạo đức. Trên cơ sở hiểu biết các quy tắc, chuẩn mực đạo đức, các giá trị xã hội mà định hướng tích cực cho việc hoàn thiện nhân cách con người mới. Vì thế, giáo dục - đào tạo được coi là nhân tố trung tâm và cùng với các nhân tố khác làm nên nguồn lực con người, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển.
Để phát triển giáo dục - đào tạo, Đảng, Nhà nước cần tiếp tục thực sự coi giáo dục - đào tạo là “quốc sách” hàng đầu; chiến lược kinh tế - xã hội phải lấy con người làm trung tâm; con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Phải trở lại quan điểm của Hồ Chí Minh coi “trồng người” là một chiến lược lâu dài của Đảng, của cách mạng; quán triệt sâu sắc, đầy đủ các quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo như Nghị quyết Trung ương lần thứ 2 (khoá VIII) và Nghị quyết Trung ương 6, lần 2 (khoá IX) nêu ra.
Đảng và Nhà nước cần tăng đầu tư cho giáo dục - đào tạo từ ngân sách Nhà nước và từ nhiều nguồn khác. Đó là những nguồn đầu tư cơ bản để phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Bởi vì, giáo dục có phần là phúc lợi, có phần là chính sách xã hội, là thực hiện quyền được học hành của con người, nhưng chủ yếu là nhằm giải phóng và phát triển con người với tính cách là động lực chủ yếu của sự phát triển bền vững.
Trong định hướng phát triển giáo dục - đào tạo, cần đổi mới tư duy một cách nhất quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ chức, cơ chế quan lý để tạo được chuyển biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới.
Phát triển giáo dục và đào tạo phải lấy con người làm trung tâm để xây dựng các chủ trương, chính sách, giải pháp đúng đắn. Phát huy những thành tựu đạt được, đồng thời hạn chế và khắc phục những yếu kém, tồn tại của giáo dục - đào tạo vì mục tiêu cuối cùng là sự phát triển con người một cách bền vững. Phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân, vì dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.2.4. Xây dựng và từng bước hoàn thiện chính sách xã hội vì con người
Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của những chủ thể lãnh đạo và quản lý, phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng, nhằm mục đích cao nhất là thoả mãn các nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá. Chính sách xã hội đúng là một động lực quan trọng của phát triển sản xuất, tiến bộ xã hội.
Chính sách xã hội là công cụ nhằm thực hiện mục tiêu vì sự phát triển toàn diện của con người, thể hiện bản chất nhân văn, nhân đạo của một chế độ xã hội. Trước đây khi còn sống, với tư cách là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng hệ thống chính sách xã hội vì con người. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới, để tiếp tục sự nghiệp đó của Hồ Chí Minh, chúng ta cũng cần phải đổi mới và hoàn thiện chính sách xã hội theo các yêu cầu sau:
Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ cấu xã hội, quản lý xã hội và các chính sách kinh tế, văn hoá.
Bất cứ một chế độ xã hội - chính trị nào đều là một quá trình gắn liền với sự biến đổi sâu sắc của cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội, đặc biệt trong điều kiện nước ta hiện nay đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng chính sách xã hội phải gắn với cơ cấu xã hội, vì chính sách xã hội hướng vào những nhu cầu lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội.
Chính sách xã hội phải gắn với cơ cấu xã hội, phản ánh được lợi ích chung của dân tộc với lợi ích riêng của các giai cấp, tầng lớp, cộng đồng dân tộc, tôn giáo…, tạo sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của từng giai cấp, tầng lớp xã hội cụ thể; chính sách xã hội phản ánh được nguyện vọng sâu xa của từng giai cấp, tầng lớp xã hội, trên cơ sở đó tạo ra động lực thúc đẩy xã hội ngày càng tiến bộ.
Chính sách xã hội phải thể hiện nhuần nhuyễn trong quản lý xã hội. Đó là sự tác động có mục đích, có ý thức, bằng đường lối, chính sách, pháp luật vào cơ cấu xã hội, định hướng các giá trị, chuẩn mực xã hội. Chính sách xã hội phải thể hiện trong chính sách kinh tế, văn hoá, gắn liền sự tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Thứ hai, thực hiện chính sách xã hội phải trên cơ sở sự tăng trưởng của kinh tế, kết hợp sự tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Điều đó phải được thể hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi chính sách phát triển kinh tế phải đồng thời hướng tới thúc đẩy phát triển văn hoá, xã hội; mỗi chính sách phát triển văn hoá - xã hội phải tạo điều kiện thúc đẩy cao nhất cho phát triển kinh tế.
Tạo điều kiện thuận lợi cho mọi công dân đều có cơ hội tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển, các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, việc làm, thông tin, tư vấn pháp luật…để họ có thể tự lo liệu và dần dần cải thiện cuộc sống của bản thân và gia đình, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đất nước.
Thứ ba, trong việc xây dựng chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước cần quan xây dựng và thực hiện đồng bộ, nhất quán các chính sách xã hội vì sự phát triển toàn diện con người, cụ thể:
- Về việc làm và thu nhập. Đảng và Nhà nước cần có cơ chế, chính sách đúng đắn để giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, có chính sách ưu đãi với người bị thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Nâng cao dần mức thu nhập cho người lao động. Để giải quyết tốt vấn đề việc làm trong điều kiện nước ta hiện nay, cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
Một là, phải nhận thức đúng và đầy đủ quan điểm coi con người là trung tâm trong giải quyết vấn đề lao động và việc làm. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, phát triển vì con người và chính con người tạo ra sự phát triển. Coi giải quyết việc làm, nâng cao mức sống là nhiệm vụ của từng gia đình, tập thể và toàn xã hội, của các ngành và các thành phần kinh tế, từ Trung ương đến địa phương.
Hai là, mở rộng phát triển thành phần kinh tế tư nhân, dạng hoá các ngành nghề tạo nhiều việc làm cho người lao động, đồng thời huy động nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia tạo việc làm, khai thác ưu thế của mỗi ngành, mỗi thành phần kinh tế, mỗi địa phương để hỗ trợ cần thiết cho sự chênh lệch phát triển vùng và ngành, các nhóm dân cư, tạo ra nội lực phát triển nguồn nhân lực, tạo nhiều việc làm nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao dần mức thu nhập. Ngoài ra cần tiếp tục tăng cường xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Ba là, Đi đôi với giải quyết việc làm là phải đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả giảm tỷ lệ gia tăng dân số bảo đảm sự ổn định quy mô và cơ cấu dân số. Thực hiện tốt chiến lược dân số Việt Nam 2001 - 2010.
- Tiếp tục thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo, tái nghèo. Có chính sách hỗ trợ đối với những người nghèo như đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Từng bước rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị; giữa miền núi với miền xuôi; giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội.
Để thực hiện có hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo, Đảng và Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, thực hiện chiến lược tăng trưởng kinh tế nhanh, coi đây là chìa khóa để giải bài toán xoá đói giảm nghèo. Thực tế kinh nghiệm thời kỳ 1990 – 2005 cho thấy với tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 7,5% sẽ giúp cho công cuộc xoá đói giảm nghèo có được những bước đi nhanh. Cần phải bảo đảm cho các khu vực nghèo một tốc độ tăng trưởng nhanh hơn mức trung bình để người nghèo có cơ hội nâng cao mức thu nhập và chi tiêu của họ bằng cách tăng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nghèo, hộ nghèo; chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động, tạo việc làm và tăng thu nhập.
Hai là, hướng trung tâm chiến lược xoá đói giảm nghèo vào phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo đảm cho nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững. Muốn vậy cần thực hiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp nhằm giảm rủi ro cho nông dân; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng việc làm phi nông nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ nông thôn.
Ba là, tăng cường các hoạt động hỗ trợ cho người nghèo phát triển sản xuât, chuyển dịch cơ cấu kinh tế để tự vươn lên xoá đói giảm nghèo như: hỗ trợ về vốn, công nghệ, tăng đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho các địa phương đặc biệt khó khăn.
Bốn là, coi công tác xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ của toàn xã hội, thông qua công tác tuyên truyền giáo dục cho người dân nhận thức được vai trò, ý nghĩa của công tác xoá đói giảm nghèo. Nâng cao năng lực cán bộ các cấp chính quyền và đoàn thể, đặc biệt là cán bộ xã, thôn, bản; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho nhân dân. Có chính sách ưu đãi đối với người nghèo, đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt động của y tế dự phòng. Kiểm soát chặt chặt chẽ công tác vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm. Mở rộng chính sách bảo hiểm y tế. Từng bước ngăn chặn và đẩy lùi đại dịch HIV/AIDS.
- Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội bao gồm: 1) Chính sách ưu đãi xã hội, nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình cho những người có công trong quá trình cách mạng và kháng chiến trước đây; 2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp phần thu nhập của những người lao động lục bình thường để dành chi tiêu cho lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật, tuổi già…); 3) Chính sách trợ cấp xã hội để hỗ trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ…; 4) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do hậu quả của chiến tranh hoặc thiên tai mang lại; 5) Chính sách tương trợ xã hội, như phát huy truyền thống tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách”trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua lúc khó khăn, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Kết luận chương 3
20 năm trôi qua kể từ khi Đảng ta khởi xuớng đường lối đổi mới tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12 – 1986). Mục tiêu của công cuộc đổi mới xét đến cùng là vì sự phát triển đất nước, hạnh phúc của nhân dân; là sự tiếp nối sự nghiệp giải phóng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại.
Thực hiện đường lối đổi mới, 20 năm qua, nước ta đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ hoá xã hội ngày càng mở rộng; đời sống vật chất, văn hoá tinh thần, sức khoẻ của nhân dân không ngừng được nâng lên; bước đầu thực hiện có kết quả chính sách xã hội vì sự phát triển toàn diện con người; thực hiện tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội,v.v. Bên cạnh đó, còn tồn tại những hạn chế như: việc thực hiện dân chủ hoá còn nhiều bất cập; việc kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội còn nhiều hạn chế; chất lượng giáo dục - đào tạo còn nhiều bất cập,v.v. là những trở lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, làm chậm tiến trình đi đến giải phóng triệt để con người.
Để tiếp tục sự nghiệp giải phóng con người trong công cuộc đổi mới, việc tìm ra những giải pháp nhằm thúc đẩy sự nghiệp giải phóng triệt để con người - động lực của mọi cuộc cách mạng là vấn đề có ý nghĩa cấp bách hiện nay.
Kết luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới, suốt cuộc đời phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, trước lúc đi xa, Người đã kịp để lại cho Đảng và dân tộc ta một di sản tư tưởng vô giá, trong đó có vấn đề về giải phóng người.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn - ham muốn tột bậc - là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Thực chất đó là mong muốn đi tới giải phóng triệt để con người. Giải phóng người Việt Nam là sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Hồ Chí Minh. Đó là ước mơ, hoài bão; là khát vọng cháy bỏng, chi phối mọi suy nghĩ và hành động của Người, từ lúc ra đi tìm đường cứu nuớc cho đến khi về nơi vĩnh hằng.
Cảm thông sâu sắc trước sự cùng khổ của người Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến; từ nhận thức đúng đắn về con người, bản chất con người, vai trò, vị trí của con người đối với sự phát triển của lịch sử, Hồ Chí Minh đi đến nhận thức về sự nghiệp giải phóng con người: đối tượng giải phóng trên cả hai bình diện cộng đồng và cá nhân con người; giải phóng con người thống nhất với giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp; giải phóng người Việt Nam muốn thắng lợi phải có điều kiện: Do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Giải phóng người Việt Nam là sự nghiệp của chính bản thân con người Việt Nam.
Những quan điểm trên đây của Người có giá trị to lớn, không chỉ dừng lại ở tư tưởng, lý luận mà thực sự trở thành hiện thực sinh động.
Trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh quan tâm thực hiện giải phóng người Việt Nam một cách toàn diện. Cống hiến to lớn của Người là ở chỗ, đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản; lãnh đạo toàn dân vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng con người về chính trị. Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chỉ đạo thực hiện xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, góp phần giải phóng con người về mặt kinh tế. Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng nền văn hoá mới, con người mới Việt Nam, đồng thời xây dựng và từng bước thực hiện chính sách xã hội vì con người.
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, bắt đầu từ Đại hội Đại biều toàn quốc lần thứ VI (12-1986). Công cuộc đổi mới của Đảng thực chất là quá trình tiếp nối sự nghiệp giải phóng con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Qua hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nước ta đã giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Song, bên cạnh đó còn tồn tại nhiều hạn chế trong trình đi tới giải phóng triệt để con người, mang lại cuộc sống hạnh phúc cho con người.
Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng của Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách đang đặt ra, chúng ta cần:
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự thuộc về nhân dân lao động.
Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo; phát huy nhân tố con người.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện chính sách xã hội vì con người.
Theo chúng tôi, đó là những giải pháp hữu hiệu nhất để tiếp tục thực hiện có kết quả sự nghiệp giải phóng con người mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta./.
Danh mục tài liệu tham khảo
Phạm Ngọc Anh (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và vận dụng nó trong điều kiện nước ta hiện nay, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá, Hà Nội.
Nguyễn Trọng Chuẩn (2005), “Để phát triển con người một cách bền vững”, Triết học (01), tr. 5-8.
Hoàng Công (1996), “Quyền con người nhìn từ góc độ triết học”, Triết học (03), tr.40 - 43.
Thành Duy (2000), “Hồ Chí Minh với việc phát huy sức mạnh của văn hoá trong đấu tranh giữ nước, giải phóng dân tộc”, Triết học (5), tr.31 - 34.
Thành Duy (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người”, Lịch sử Đảng (12), tr.24 - 30.
Bình Dương (2003), “Tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân lao động - một tiền đề quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người”, Thông tin chính trị học (5), tr.29 - 33.
Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng (1996 – 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trần Hữu Đính (2000), “Tính chủ động, sáng tạo của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng Tám”, Nghiên cứu lịch sử (4), tr. 17-21.
Trần Kỳ Đồng (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nuớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân và việc xây dựng Nhà nước đó ở Việt Nam hiện nay”, Triết học (5), tr.16 - 21.
Hoàng Thị Hằng (1996), Chiến lược con người của Đảng cộng sản Việt Nam trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ 1975 đến nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Hằng (2005), “Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa chính sách ưu đãi xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng”, Cộng sản (14), tr.46 - 49.
Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980 và 1992 (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngọc Hồ (2003), “Phát triển giáo dục - đào tạo hỗ trợ công tác dân số”, Cộng sản (14), tr.59 - 62.
Đỗ Huy (2003), “Tư tưởng văn hoá trong triết lý phát triển của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Tư liệu chuyên đề: Văn hoá Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá (14), tr.35 - 40.
Nguyễn Quỳnh Huy (2005), “Thành tựu về tiến bộ và công bằng xã hội của Việt Nam trong những năm gần đây”, Giáo dục lý luận (3), tr. 3 - 8.
Nguyễn Hải Hữu (2005), “Định hướng tiếp cận giải quyết vấn đề nghèo đói ở nước ta”, Cộng sản (13), tr.35 - 39.
Lại Quốc Khánh (2005), “Bản chất nhân đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con ngựời”, Cộng sản (14), tr. 27 - 30.
Nguyễn Linh Khiếu (2005), “Để tiến tới quy mô dân số ổn định”, Cộng sản (18), tr. 64 - 67.
Đặng Xuân Kỳ (chủ biên), (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hoá và con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Đặng Xuân Kỳ (2005), “Động lực của phát triển”, Thông tin công tác tư tưởng lý luận (7), tr. 18 - 23.
Đinh Xuân Lâm - Bùi Đình Phong (2001), Hồ Chí Minh văn hoá và đổi mới, Nxb Lao động, Hà Nội.
V.I.Lênin (1969), Toàn tập, Tập 31, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Bá Linh (1991), “Sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc với giải phóng xã hội trong đường lối cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lịch sử Đảng (01), tr. 3 - 7.
Bùi Bá Linh (2002), “Sự phê phán của C.Mác đối với quan điểm duy tâm tư biện của Hêghen về tồn tại người và đời sống xã hội hiện thực của con người”, Triết học (7), tr. 19 – 24.
Bùi Bá Linh (2003), Quan niệm của C.Mác, Ph.ăngghen về con người và sự nghiệp giải phóng con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
C.Mác, Ph.ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia sự thât, Hà Nội.
C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Thị Tuyết Mai (2002), “Về chiến lược con người ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá”, Triết học (9), tr.10 -13.
Vũ Minh Mão – Hoàng xuân Hoà (2004), “Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế”, Cộng sản (10), tr.65 - 69.
Hồ Chí Minh về chính sách xã hội (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới (1995), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nôi.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng văn Nghĩa (2002), “Một số vấn đề về dân chủ và quyền con người”, Triết học (11), tr. 27 - 29.
Đoàn Thị Minh oanh (2000), Vấn đề giải phóng người lao động Việt Nam bị áp bức trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, Luận án tiến sỹ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đặng kim oanh (2005), “Quá trình lãnh đạo công tác dân số của Đảng cộng sản Việt Nam”, Lịch sử Đảng (9), tr.57 - 60.
Nguyễn Quốc Phẩm (2005), “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội”, Cộng sản (18), tr.6 - 10.
Đỗ Nguyên Phương (2005), “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trước những yêu cầu mới”, Cộng sản (11), tr.6 - 10.
Hồ Sỹ Quý (2002), “Con người là trung tâm: Sự khác biệt giữa hai quan điểm tiêu biểu”, Triết học (11), tr.18 - 26.
Hồ Sỹ Quý (2005), “Nghiên cứu con người Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất nước”, Cộng sản (17), tr.43 - 46.
Nguyễn Văn Tài (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người”, Triết học (2), tr.11 - 14.
Đan Tâm (2004), “Thực hiện lời căn dặn của Bác Hồ: Đảng lo cho dân”, Dân vận (5), tr.13 - 14.
Đỗ Kim Thanh (1998), Tư tưởng giải phóng con người trong triết học Mác và sự vận dụng của Đảng ta trong chiến lược phát triển con người hiện nay, Luận văn thạc sỹ triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Bùi Đình Thanh (2004), “Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước sau cách mạng tháng Tám”, Lịch sử Đảng (11), tr. 41 - 44.
Nguyễn Thị Thanh (2004), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ 1991 đến năm 2001, Luận án tiến sỹ lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Lê Sỹ Thắng (1995), “ Mấy vấn đề về “Trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Triết học (2), tr.33 - 36.
Lê sỹ Thắng (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguyễn Văn Thọ (2005), “Vấn đề bản chất con người trong Nho giáo Trung Quốc cổ đại”, Triết học (1), tr.21 - 24.
Nguyễn Văn Thường (chủ biên), (2004), Một số vấn đề về kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (2004), Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục cán bộ, đảng viên hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Trần Dân Tiên (1960), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, Hà Nội.
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, uỷ ban quốc gia Unescô của Việt Nam (1995), Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh anh hùng giải phóng dân tộc nhà văn hoá lớn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Thái Hữu Tuấn (2004), “Quan niệm của Hồ Chí Minh về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Triết học (3), tr.16 - 19.
Nguyễn Thị Vi (2005), “Thành công và thách thức trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở nước ta hiện nay, Cộng sản (21), tr.33 - 37.
Việt Nam 20 năm đổi mới (2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luan van CH Tuyen 12-9.doc
- BIA.doc