TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA MÁC – LÊNIN
NGUYỄN THỊ KIM HỒNG
LỚP DH5CT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
TRONG LÃNH ĐẠO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn
Ts. VÕ VĂN THẮNG
An Giang, tháng 5/2008
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................Trang 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2131 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng trong lảnh đạo cuộc đấu tranh chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.......................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................... 3
5. Đóng góp của khóa luận.................................................................... 4
6. Kết cấu khóa luận.............................................................................. 4
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG VÀ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
1.1. Phương pháp và phương pháp biện chứng
1.1.1. Phương pháp và phân loại phương pháp......................................5
1.1.2. Phương pháp biện chứng và vai trò của phương pháp biện
chứng
1.1.2.1. Phương pháp biện chứng................................................7
1.1.2.2. Lịch sử phương pháp biện chứng...................................9
1.1.2.3. Vai trò của phương pháp biện chứng........................... 10
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng
1.2.1. Nguyên tắc phản ánh.................................................................. 14
1.2.2. Nguyên tắc năng động................................................................16
1.2.3. Nguyên tắc toàn diện..................................................................17
1.2.4. Nguyên tắc lịch sử......................................................................19
1.2.5. Nguyên tắc mâu thuẫn................................................................20
1.2.6. Nguyên tắc phủ định biện chứng................................................21
CHƯƠNG 2
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG SÁNG TẠO
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG TRONG LÃNH ĐẠO
CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
Ở VIỆT NAM
2.1. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng trong lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam.................. 23
2.1.1. Xuất phát từ thực tế Việt Nam mà đề ra phương pháp, cách làm thích
hợp...................................................................................................................27
2.1.2. Có quan điểm toàn diện trong việc xem xét, giải quyết các vấn đề
của cách mạng
2.1.2.1. Đánh giá kẻ thù từ nhiều mặt để tìm ra bản chất của chúng.. .32
2.1.2.2. Huy động sức mạnh toàn dân tộc, đánh địch với mọi qui mô,
mọi cách thức, mọi phương tiện................................................................... ...34
2.1.2.3. Tranh thủ tất cả yếu tố nhằm đảm bảo cách mạng thắng lợi37
2.1.2.4. Có cách nhìn biện chứng giữa thời, thế và lực trong một cuộc
cách mạng.................................................................................................. 40
2.1.3. Linh hoạt, mềm dẻo ứng phó kịp thời với từng hoàn cảnh lịch sử
cụ thể
2.1.3.1. Dĩ bất biến, ứng vạn biến........................................................ 43
2.1.3.2. Linh hoạt, mềm dẻo sử dụng sách lược tác chiến phù hợp..... 44
2.1.4. Phân tích và giải quyết đúng mâu thuẫn của ta và mâu thuẫn của
địch, đưa cách mạng tiến lên........................................................................... 46
2.1.5. Xem xét vấn đề của cách mạng trong sự vận động, phát triển không
ngừng...............................................................................................................48
2.2. Giá trị của phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng trong giai
đoạn hiện nay...................................................................................................50
KẾT LUẬN.................................................................................................... 58
Khóa luận tốt nghiệp ngành GDCT Nguyễn Thị Kim Hồng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng
Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn đến tột bậc là làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành.
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước Việt Nam tự hào đã sản sinh ra Hồ Chí Minh, một danh nhân
văn hóa thế giới, một anh hùng giải phóng dân tộc, một vị lãnh tụ vĩ đại của
cách mạng Việt Nam, Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chí Minh, người đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao
sóng gió thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là kết quả
của quá trình kế thừa và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn
cảnh xã hội Việt Nam. Ở góc độ triết học, Người đã tiếp thu chủ nghĩa duy vật
biện chứng đặc biệt là phương pháp biện chứng; lấy nó làm nền tảng tư duy và
chỉ đạo hoạt động thực tiễn của mình. Điều đó được biểu hiện đặc sắc trong
quá trình Người lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
ở nước ta.
Như chúng ta đã biết, tư tưởng của Hồ Chí Minh rất phong phú và rất
sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, nhưng trong lĩnh vực đấu tranh cách mạng thể hiện
đầy đủ nhất, độc đáo nhất là sự vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng
mác-xít, nó được thể hiện đầy đủ bản lĩnh và nghệ thuật của một nhà tư tưởng,
nhà quân sự lỗi lạc. Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do là giá trị cao quý nhất mà
Người mong muốn đạt được và là khao khát cháy bỏng suốt cuộc đời của
Người. Chính khát khao đó là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu
nước với hành trình ngót 30 năm gian khổ ở nước ngoài và gần 30 năm trực
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn,
ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” [12;42].
Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới đang diễn ra hết sức phức
tạp. Việt Nam không nằm ngoài bối cảnh chung đó. Thực tiễn này đòi hỏi mỗi
chúng ta, nhất là những nhà lãnh đạo phải thực sự bình tĩnh, bản lĩnh và có
phương pháp tư duy biện chứng đúng đắn để lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu và phát triển đúng hướng là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng ta đề ra một trong những phương hướng cơ bản là “Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 1
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội” [11;71]. Trong Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta cũng đã xác định: “kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, vận dụng và phát triển sáng tạo trong thực tiễn hoạt động của
Đảng”[24;49]. Qua đó, chúng ta thấy rằng, Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh chiếm vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất
nước hiện nay.
Là sinh viên chuyên ngành Giáo dục chính trị, tôi nhận thấy nhiệm vụ kế
thừa và phát huy những chân giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh là rất cần
thiết. Để làm được điều đó, tôi muốn góp phần vào việc nghiên cứu một mảng
nhỏ trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh với hy vọng góp phần làm sáng tỏ
và khẳng định giá trị trong việc vận dụng phương pháp của Người, đó là vấn
đề vận dụng phương pháp biện chứng trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở nước ta. Đó là lý do để tác giả chọn vấn
đề này để nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng trong việc lãnh đạo
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam của Hồ Chí
Minh.
Khẳng định giá trị lý luận và thực tiễn trong tư tưởng triết học của Hồ
Chí Minh về lĩnh vực phương pháp không những trong đấu tranh cách mạng
thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ mà còn có ý nghĩa to lớn trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu phương pháp biện chứng và vai trò
của nó trong đời sống, những nguyên tắc cơ bản khi vận dụng phương pháp
biện chứng.
Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu việc vận dụng sáng tạo phương pháp
biện chứng của Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đồng thời,
khẳng định giá trị của nó trong giai đoạn hiện nay.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 2
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đề tài tập trung nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng
trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Hồ Chí
Minh.
Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu những giá trị hiện thực của phương
pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh từng vận dụng đối với cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn là rất phong phú. Trong khuôn khổ của một khóa
luận tốt nghiệp đại học, tôi nghiên cứu việc vận dụng phương pháp biện chứng
của Hồ Chí Minh trong lĩnh vực đấu tranh cách mạng, trong quá trình Người
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tác giả còn sử dụng các phương pháp:
* Phương pháp sưu tầm tư liệu: Tác giả đã tập hợp và chọn lọc
những thông tin cần thiết, đáng tin cậy từ những tài liệu sưu tầm được để xử lý
làm đối tượng nghiên cứu.
* Phương pháp phân tích - tổng hợp: Để làm nổi bật vấn đề nghiên
cứu, tác giả đã phân tích sự quán triệt từng nguyên tắc cơ bản của phương
pháp biện chứng ở Hồ Chí Minh, từ đó khái quát lên và chỉ ra nét độc đáo
trong quá trình Hồ Chí Minh vận dụng phương pháp biện chứng để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
* Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình tìm hiểu về việc
vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, tác giả đã có sự so sánh,
đối chiếu với phương pháp biện chứng của triết học mác-xít để thấy sự sáng
tạo, độc đáo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chúng.
* Phương pháp lôgic - lịch sử: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã
sử dụng những sự kiện lịch sử theo sự phân bố thời gian từ quá khứ đến hiện
tại để làm nổi bật sự sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp biện chứng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 3
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
của Hồ Chí Minh. Qua đó, tác giả tìm ra những giá trị của nó đối với cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
5. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, qua nghiên cứu việc vận dụng sáng tạo phương pháp biện
chứng mác-xít của Hồ Chí Minh trong đấu tranh chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ ở Việt Nam, khóa luận góp phần khẳng định vai trò của triết học
mác-xít đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội.
Thứ hai, luận văn khẳng định và góp phần làm phong phú những giá
trị khoa học trong tư tưởng Hồ chí Minh ở góc độ triết học mà đặc biệt là
trong lĩnh vực phương pháp.
Thứ ba, luận văn chỉ ra những giá trị của phương pháp biện chứng
mà Hồ Chí Minh vận dụng đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, từ đó khẳng định vai trò của công cụ tư duy lý luận đối với công tác lãnh
đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước, nhằm thực hiện thắng lợi mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
6. Kết cấu khóa luận
Phần mở đầu.
Phần nội dung.
Chương 1: Phương pháp biện chứng và một số nguyên tắc cơ bản khi
vận dụng phương pháp biện chứng.
Chương 2: Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng
trong lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt
Nam
Phần kết luận.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 4
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG VÀ MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
CỦA PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG
1.1. Phương pháp và phương pháp biện chứng
1.1.1 Phương pháp và phân loại phương pháp
Từ trước đến nay đã có nhiều định nghĩa về phương pháp. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng, phương pháp là sản phẩm thuần túy của tư duy, xuất
phát hoàn toàn từ ý muốn chủ quan của con người, chỉ những gì thuộc về nhận
thức và cải tạo thế giới khách quan.
Nhà bác học nổi tiếng T.Páp-lốp cho rằng: “Phương pháp khoa học là
những quy luật bản chất nội tại của vận động nhận thức khoa học được sử
dụng một cách có ý thức để đạt đến những thành tựu chân lý đúng đắn hơn,
nhanh chóng hơn, đầy đủ hơn” [Dẫn theo13;20].
Trong Từ điển Triết học, “Theo nghĩa chung nhất, phương pháp là cách
thức đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo một trật tự nhất định.
Theo nghĩa triết học chuyên môn, với tính cách là phương tiện nhận thức,
phương pháp là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu trong tư duy”
[23;458].
Theo tôi, phương pháp là toàn bộ những cách thức với tính chất là một hệ
thống các nguyên tắc xuất phát từ các quy luật tồn tại và vận động của khách
thể đã được nhận thức để định hướng và điều chỉnh hoạt động nhận thức cũng
như hoạt động thực tiễn của con người nhằm tác động vào khách thể để thực
hiện mục đích đã định.
Như vậy, phương pháp là phạm trù gắn liền với hoạt động có ý thức của
con người, nó là một trong những yếu tố quyết định thành công hay thất bại
trong hoạt động nhận thức và cải tạo hiện thực.
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm quan niệm khác nhau về nguồn
gốc và bản chất của phương pháp. Chủ nghĩa duy tâm coi phương pháp là
những nguyên tắc do lý trí con người tự ý đặt ra để tiện cho nhận thức và hành
động, xem nó như là một phạm trù thuần túy. Còn chủ nghĩa duy vật khẳng
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 5
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
định phương pháp hình thành không phải chủ quan, tùy tiện, không có sẵn và
bất biến mà nó phụ thuộc vào đối tượng nghiên cứu và mục đích đặt ra. Để
tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ đặt ra, chủ thể cần nghiên cứu đối
tượng và mục đích cần đạt tới một cách khách quan. Từ đó, chủ thể xác định
phải nghiên cứu và hành động như thế nào, cần phải sử dụng phương tiện,
công cụ và biện pháp nào cho thích hợp cũng như cần phải kết hợp các yếu tố
theo một trình tự như thế nào cho hợp lý. Do vậy, phương pháp bắt nguồn từ
thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan của đối tượng nghiên cứu.
Do đối tượng nghiên cứu rất phong phú, đa dạng nên các phương pháp
cũng phong phú, đa dạng. Tùy theo tiêu chí khác nhau mà phương pháp được
chia thành các loại khác nhau.
Nếu dựa vào mức độ phổ biến và phạm vi ứng dụng thì phương pháp
được chia ra thành phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp
phổ biến. Phương pháp riêng chỉ áp dụng cho từng bộ môn khoa học cụ thể
như phương pháp sinh học, phương pháp hóa học, phương pháp vật lí học.
Phương pháp chung là phương pháp áp dụng cho một số bộ môn khoa học như
phương pháp quan sát, phương pháp mô hình hóa, phương pháp hệ thống cấu
trúc. Phương pháp phổ biến là phương pháp áp dụng chung cho tất cả các bộ
môn, đó là phương pháp của triết học Mác-Lênin hay phương pháp biện chứng
duy vật.
Nếu dựa vào mục đích, chức năng thì có thể chia phương pháp thành
phương pháp hoạt động thực tiễn và phương pháp nhận thức. Phương pháp
hoạt động thực tiễn là phương pháp sử dụng các phương tiện vật chất để tác
động trực tiếp vào đối tượng nhằm biến đổi các đối tượng đó theo những nhu
cầu của con người như phương pháp sản xuất, phương pháp thực nghiệm,
phương pháp đấu tranh cách mạng. Phương pháp nhận thức là phương pháp sử
dụng các giác quan và tư duy để nắm bắt bản chất của sự vận động và phát
triển của đối tượng như phương pháp quan sát, phương pháp phân tích - tổng
hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể,...
Tuy nhiên, việc phân chia này chỉ mang tính chất tương đối. Mỗi phương
pháp có vị trí, vai trò khác nhau, vì vậy không nên cường điệu phương pháp
này mà hạ thấp phương pháp kia, phải biết vận dụng tổng hợp nhiều phương
pháp.
Các phương pháp tuy khác nhau về nội dung, mức độ phổ biến, phạm vi
ứng dụng, song không tách rời nhau mà có liên hệ biện chứng với nhau. Quan
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 6
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hệ giữa phương pháp biện chứng và phương pháp của khoa học cụ thể là quan
hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không chỉ
nắm vững phương pháp riêng về lĩnh vực chuyên môn của mình mà còn phải
nắm vững phương pháp phổ biến của triết học Mác-Lênin, phương pháp biện
chứng duy vật. Đây là phương pháp luận phổ biến khoa học, định hướng đúng
đắn trong công tác nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, giúp chúng ta đạt đến
chân lý khách quan và đạt hiệu quả cao trong công việc.
1.1.2. Phương pháp biện chứng và vai trò của phương pháp biện
chứng
1.1.2.1. Phương pháp biện chứng
Theo Ăngghen, phương pháp biện chứng là phương pháp nhận thức đối
tượng trong các mối liên hệ, ảnh hưởng nhau, ràng buộc nhau; nhận thức đối
tượng ở trạng thái vận động, biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát
triển. Đây là quá trình thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng mà nguồn
gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt đối lập để giải quyết mâu
thuẫn nội tại của chúng.
Như vậy, phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt.
Nó thừa nhận trong những trường hợp cần thiết thì bên cạnh cái “hoặc
là...hoặc là...” còn có cả cái “vừa là...vừa là...”; nó thừa nhận một chỉnh thể
trong lúc vừa là nó lại vừa không phải nó; thừa nhận cái khẳng định và cái phủ
định vừa loại trừ nhau lại vừa gắn bó nhau. Phương pháp biện chứng phản ánh
hiện thực đúng như nó tồn tại và phương pháp này hoàn toàn đối lập với
phương pháp siêu hình.
Phương pháp siêu hình hình thành trong thế kỷ XVII, XVIII, bị ảnh
hưởng bởi trình độ phát triển của khoa học tự nhiên trong giai đoạn sưu tập,
mô tả. Nó xem xét sự vật một cách cô lập, tách tời, cứng đờ, tĩnh tại, không
thấy sự liên hệ và sự vận động, phát triển của chúng, thiếu quan điểm lịch sử-
cụ thể; không thấy mâu thuẫn bên trong của sự vật; không thấy quá trình
chuyển hóa từ chất này sang chất mới,...đúng như Ăngghen đã viết: “Phương
pháp tư duy siêu hình chỉ thấy những sự vật cá biệt mà không thấy mối liên hệ
giữa những sự vật ấy, chỉ thấy trạng thái tĩnh của sự vật mà không thấy trạng
thái động của sự vật, chỉ thấy cây mà không thấy rừng.” [9;19]. Sự phát triển
của khoa học hiện đại đã bộc lộ tính hạn chế của phương pháp siêu hình. Do
vậy, nó phải bị phủ định bởi phương pháp khoa học hơn, đó là phương pháp
biện chứng của triết học mác-xít.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 7
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Yếu tố cơ bản trước tiên của phương pháp biện chứng là “tính khách
quan của sự xem xét”. Nghĩa là, khi nghiên cứu sự vật, hiện tượng phải xuất
phát từ thực tế khách quan, tránh thiên kiến chủ quan, phải phản ánh trung
thành những quá trình, những quy luật tồn tại hiện thực.
Phương pháp biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật một cách toàn
diện, phải tính đến mối liên hệ phổ biến và sự ràng buộc lẫn nhau giữa các sự
vật, hiện tượng, phải vạch ra “toàn bộ những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy
với sự vật khác”. Quan điểm toàn diện đối lập với thuật ngụy biện và chủ
nghĩa chiết trung của các học giả tư sản và bọn xét lại.
Phương pháp biện chứng còn yêu cầu xem xét sự vật trong sự vận động
và phát triển của nó, vạch ra những mâu thuẫn bên trong của sự vật ấy, tức là
tìm ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Ở đây, muốn nhận thức sự phát
triển của sự vật, hiện tượng phải vận dụng tất cả các quy luật, các cặp phạm
trù cơ bản của phép biện chứng với tư cách là những quy luật của nhận thức,
những phương pháp nhận thức.
Phương pháp biện chứng còn đòi hỏi phải có quan điểm lịch sử - cụ thể,
phải gắn với thực tiễn. Tính lịch sử - cụ thể trong việc nghiên cứu sự vật, hiện
tượng là một nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng, như V.I.Lênin
đã viết: “ Bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là: “phân tích một tình
hình cụ thể rằng phương pháp của Mác trước hết là xem xét nội dung khách
quan của quá trình lịch sử trong một thời điểm lịch sử cụ thể” [9;314]. Như
vậy, muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng, chúng ta phải quán
triệt những nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng mà chủ yếu là các
quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, thực tiễn và lịch sử - cụ thể. Khi
phân tích bất kỳ vấn đề gì, tư duy phải mềm dẻo, năng động, linh hoạt, không
cứng nhắc, một chiều; có như thế chúng ta mới phản ánh đời sống một cách
đúng đắn, sinh động; phải tuyệt đối chống lối suy nghĩ máy móc, phiến diện,
có tính hình thức chủ nghĩa, chỉ dừng lại ở kết cấu hình thức của tư tưởng mà
không đi sâu phân tích mâu thuẫn của sự vật, hoàn cảnh cụ thể của sự vật.
Tóm lại, phương pháp biện chứng với những đặc tính ưu việt của nó đã
trở thành phương pháp duy nhất khoa học để nhận thức và cải tạo hiện thực.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 8
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
1.1.2.2. Lịch sử phương pháp biện chứng
Chính nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới, ngay từ thời cổ đại, con
người đã bước đầu hình thành cho mình một phương pháp để thực hiện mục
đích đó. Nhưng do các triết gia lúc bấy giờ bị hạn chế bởi tư tưởng biện chứng
duy tâm và biện chứng tư biện mà phương pháp biện chứng của họ còn mang
tính chất thô sơ. Chẳng hạn, Platon coi phương pháp biện chứng là phương
pháp tốt nhất để thực hiện sự hồi tưởng, sự nhớ lại những “ý niệm”. Thực chất
của phương pháp này, theo Platon là khả năng đưa ra những câu hỏi và những
câu trả lời thích hợp để giải thích những vấn đề triết học, để đạt tới những tri
thức chân thực, những khái niệm chung. Những khái niệm này phản ánh đúng
đắn những ý niệm và được Platon coi là vĩnh viễn, bất biến. Phương pháp này
là phân đôi các khái niệm, những ý kiến thành các khái niệm, ý kiến đối lập
nhau. Ở đây, Platon đã xây dựng phương pháp nhận thức khái niệm một cách
biện chứng - phương pháp đối chiếu các khái niệm đối lập. Mặt khác, một số
triết gia xem phương pháp biện chứng chẳng qua chỉ là hình thức đối thoại
trực tiếp hay được thể hiện dưới hình thức các câu cách ngôn chất phát chứ
chưa thật sự vạch ra một phương pháp khoa học cho nhận thức và hành động.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử tư duy nhân loại, những nội dung
quan trọng của phương pháp biện chứng được trình bày một cách có hệ thống
bởi các nhà triết học Đức mà người khởi đầu là I.Cantơ và người hoàn thiện là
F.Hêghen.
Đối với F.Hêghen, phương pháp biện chứng được hiểu là con đường mà
tư duy phải trải qua khi muốn quy tri thức về thế giới như cái trọn vẹn tới sự
thống nhất trực quan của trí tuệ. Do đó, có được nhận thức như vậy về thế giới
và vị thế của chúng ta trong đó mà người ta sống một cách biết suy tư, biết
làm cho cuộc sống phù hợp với những ý nghĩa nội tại của chính thế giới.
Phương pháp biện chứng của Ông là phương pháp suy ngẫm triết học về thế
giới chứ không chỉ là nhận thức khoa học. Kết quả của phương pháp đó là trực
quan thế giới, là hình ảnh suy tư về thế giới chứ không giản đơn là bức tranh
thế giới có thể thu được, tổng hợp được từ các kết quả của khoa học cụ thể.
Trong lô-gich học-học thuyết về các phạm trù, F.Hêghen phân biệt tồn tại với
tư cách là cái hiện diện, là cái thực tại và tồn tại thực tế. Ông cho rằng, không
phải mọi cái tồn tại hiện diện đều là tồn tại của cái thực tại và không phải mọi
cái thực tại đều là thực tế. Thực tại chỉ là những đối tượng mà ở chúng sự tồn
tại trùng hợp với bản chất và đối tượng, đó là tự do tức là sự biểu hiện cần
thiết của đời sống khái niệm, đó là cơ sở đích thực và bản chất của mọi thực
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 9
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
tại đang tồn tại trên thực tế. Cái thực tế với tư cách là khái niệm thể hiện hợp
lý. Vì vậy, sống một cách hợp lý cũng có nghĩa là sống có định hướng tới cái
thực tế trong cái hiện diện. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng triết học cổ điển Đức
nói chung và triết học F.Hêghen nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó
là tiền đề cho các nhà kinh điển mác-xít kế thừa một cách có chọn lọc để xây
dựng nên phương pháp khoa học của mình.
Những năm 40 của thế kỷ XIX, Các-Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, về sau được
V.I.Lênin phát triển. Riêng chủ nghĩa duy vật biện chứng, Mác và Ăngghen đã
kế thừa phép biện chứng của F.Hêghen, lột bỏ cái “vỏ thần bí” của nó để xây
dựng nên lý luận mới của phép biện chứng - phép biện chứng duy vật. Nó là
sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng. Với tính
cách là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học Mác, chủ
nghĩa duy vật và phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc
của chúng. Mác đã cải tạo cả chủ nghĩa duy vật cũ, cả phép biện chứng của
F.Hêghen để xây dựng nên triết học duy vật biện chứng. Từ đó, Ông đã xây
dựng nên phương pháp biện chứng khoa học hoàn toàn đối lập với phương
pháp biện chứng của F.Hêghen. Mác viết: “Phương pháp biện chứng của tôi
chẳng những khác về căn bản với phương pháp biện chứng của F.Hêghen mà
còn đối lập hẳn với phương pháp đó. Đối với F.Hêghen, quá trình tư duy mà
Ông đã đặt cho cái tên là ý niệm, là đấng sáng tạo ra hiện thực còn hiện thực
chỉ là biểu hiện bề ngoài của ý niệm mà thôi. Đối với tôi thì trái lại, sự vận
động của tư duy chỉ là phản ánh của sự vận động hiện thực, di chuyển và biến
hình vào trong đầu óc con người” [Dẫn theo 3;4].
1.1.2.3. Vai trò của phương pháp biện chứng
Trước hết, như chúng ta đã biết, phương pháp là con đường nhận thức
khách quan có hiệu quả nhất trong lịch sử; thiếu phương pháp con người sẽ rơi
vào tình trạng “mò mẫm”. Thiếu phương pháp, con người sẽ nhận thức sự vật
hiện tượng một cách rời rạc, tản mạn, nó giống như việc làm của những con
kiến (theo cách so sánh của nhà triết học Anh Ph.Bêcơn), tri thức thu được
như là sự góp nhặt một đống tư liệu để xây thành tổ kiến, chứ không phải như
con ong. Ph.Bêcơn xem phương pháp là ngọn đèn soi đường cho người lữ
hành đi trong đêm tối. Còn trong đấu tranh cách mạng, đồng chí Lê Duẩn có
nói: “Phong trào cách mạng có khi dậm chân tại chỗ thậm chí thất bại nữa,
không phải vì thiếu một phương hướng và mục tiêu rõ ràng mà chủ yếu vì
thiếu một phương pháp cách mạng phù hợp”[4;41]. Vì vậy, khi làm bất cứ
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 10
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
chuyện gì, dù nhỏ hay lớn cũng phải vạch ra những phương pháp thích hợp,
đồng thời phải biết vận dụng nhiều phương pháp khác nhau thì công việc mới
đạt hiệu quả cao.
Trong lịch sử, có rất nhiều loại phương pháp: Phương pháp chung,
phương pháp riêng nhưng phương pháp phổ biến nhất là phương pháp của triết
học Mác-Lênin - phương pháp biện chứng. Để nhận thức sâu sắc và đúng đắn
một sự vật, hiện tượng, một quá trình nào đó trong tự nhiên hay xã hội, chúng
ta phải xuất phát từ thực tế khách quan đồng thời phải so sánh, phân tích, tổng
hợp, khái quát lên thành lý luận. Điều đó đòi hỏi phải có tư duy đúng đắn
không thể nào khác là tư duy lô-gich biện chứng, là phương pháp nhận thức
của triết học Mác-Lênin - phương pháp biện chứng.
Với tư cách là phương pháp nhận thức khoa học được rút ra từ phép
biện chứng duy vật, phương pháp biện chứng là cơ sở chỉ đạo chủ thể xác định
phương pháp cách mạng và khoa học, là công cụ sắc bén cho nhận thức và
hành động như Mác đánh giá “Nó là thứ công cụ lao động tốt nhất của chúng
tôi và là một thứ vũ khí sắc bén nhất của chúng tôi” [22;238]. Do đó, đối với
mọi người cách mạng, phương pháp biện chứng là công cụ quan trọng bậc
nhất không thể thiếu được của nhận thức và hành động để cải tạo hoàn cảnh và
cải tạo bản thân. Điều quan trọng là chủ thể phải quán triệt các nguyên tắc cơ
bản của phương pháp biện chứng, nếu xa rời các nguyên tắc đó chủ thể sẽ phải
trả giá.
Cách mạng là quá trình xóa bỏ cái cũ lỗi thời, xác lập cái mới tiến bộ
hơn nên cách mạng không phải là quá trình dễ dàng, thẳng tắp, trơn tru mà là
một quá trình khó khăn, phức tạp, quanh co, thậm chí có sự thụt lùi tạm thời
nhưng cuối cùng cái mới tiến bộ hơn. Điều quan trọng là chủ thể phải xác định
phương pháp cách mạng phù hợp để thúc đẩy cái mới ra đời; phương pháp
cách mạng nhất thiết phải dựa trên cơ sở những nguyên tắc của phương pháp
biện chứng - một phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, khoa học nhất.
Xta-lin viết: “Đối với phương pháp biện chứng, điều quan trọng trước hết
không phải là cái mà trong một lúc nào đó có vẻ vững chắc nhưng đã bắt đầu
tiêu tan; điều quan trọng trước hết là cái đang phát sinh và phát triển, ngay cả
nếu trong một lúc nào đó cái ấy có vẻ không vững chắc thì đối với phương
pháp biện chứng những cái đang phát sinh, đang phát triển là cái không có gì
thắng nổi” [3;78].
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 11
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Các-Mác là người đầu tiên vận dụng tài tình phương pháp biện chứng để
phân tích mọi vấn đề, xây dựng một học thuyết khoa học, hoàn chỉnh làm lý
luận soi đường cho giai cấp vô sản thế giới đứng lên đấu tranh cách mạng để
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tiếp thu tư tưởng của Mác, V.I.Lênin đã giành
nhiều thời gian để tự nghiên cứu phép biện chứng và điều đó được thể hiện
trong “Bút kí triết học”. Trong “Bút kí triết học”, V.I.Lênin đã ghi chép tỉ mỉ
và Người đã tìm thấy “cái nhân hợp lý” rút ra từ những nguyên lý phong phú
của phép biện chứng cũng như những nguyên tắc cơ bản của phương pháp
biện chứng. V.I.Lênin viết: “Tổng cộng và tóm tắt, tiếng nói cuối cùng và bản
chất của lô-gich của F.Hêghen , đó là phương pháp biện chứng - cái này thật là
tuyệt diệu”[3;75].
V.I.Lênin nghiên cứu phương pháp biện chứng một cách sâu sắc, nắm
vững nó, dùng nó làm công cụ để phân tích vấn đề đương thời và thực tiễn xã
hội vô cùng phức tạp. Nhờ có phương pháp khoa học mà V.I.Lênin đã viết
những tác phẩm nổi tiếng như: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở nước ._.
Nga”, “Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư
bản”...V.I.Lênin đã sử dụng phương pháp biện chứng một cách điêu luyện để
phân tích tình hình, đề ra đường lối chiến lược, sách lược tài tình đưa đến
thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười và đẩy mạnh phong trào cách
mạng trên thế giới.
Trong khoa học tự nhiên, nếu không có phương pháp biện chứng duy
vật thì những nhà khoa học nhất định không thể trả lời đúng đắn những vấn đề
mà cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang đặt ra. Trong khoa học xã hội
cũng vậy, nếu không có phương pháp biện chứng con người sẽ không thể có
cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất của sự vật, hiện tượng, từ đó không thể
có những định hướng đúng cho những cách thức để cải tạo hiện thực khách
quan một cách hiệu quả, con người sẽ rơi vào bệnh chủ quan duy ý chí và
bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Bệnh chủ quan duy ý chí là thể hiện về sự hạn
chế của chủ thể nhận thức ở một mức độ nào đó không thể có được tư duy
biện chứng do ý thức sai lầm về vai trò của lý luận, hạn chế về trình độ lý luận
dẫn đến lúng túng về biện pháp khắc phục, sửa chữa nên sai lầm càng nghiêm
trọng. Còn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là do sai lầm trong phương pháp tư
duy cũng như trong cải tạo hiện thực, tuyệt đối hóa kinh nghiệm nên trong
hoạt động thực tiễn họ rơi vào tình trạng mò mẫm, sự vụ, tùy tiện, tự ty, không
nhất quán trong các chính sách của Nhà nước làm ảnh hưởng đến tiến trình
phát triển kinh tế - xã hội và bản thân người bị mắc căn bệnh này cũng trở nên
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 12
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
bảo thủ, lạc hậu, trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ và hậu quả sẽ trở
nên nghiêm trọng hơn khi căn bệnh này đan kết chặt chẽ với bệnh chủ quan
duy ý chí.
Ngày nay, phương pháp biện chứng được quan tâm nhiều hơn và việc áp
dụng nó ngày một rộng rãi hơn vào các lĩnh vực khác nhau. Nhưng chúng ta
cần lưu ý rằng, nó không phải là cái “khóa vạn năng” và hoàn toàn không có
kỳ vọng giải thích tất cả, đưa ra câu trả lời “duy nhất” đúng cho mọi vấn đề.
Song, trong phạm vi tác động của mình (trước hết do tính phổ biến của nó quy
định), đặc biệt là khi phân tích các hệ thống toàn vẹn đang vận động, phát triển
thì phương pháp biện chứng có thể đạt hiệu quả cao.
Tóm lại, với tư cách là phương pháp được rút ra từ phép biện chứng,
phương pháp biện chứng là phương pháp khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới, nó là công cụ của tư duy khoa học giúp chủ thể trong nhận thức và cải
tạo thực tiễn, điều chỉnh hành vi của con người đi đúng hướng.
Có thể nói, từ sau chiến tranh thế giới lần II đến nay, chưa bao giờ tình
hình thế giới lại diễn ra hết sức phức tạp như ngày nay. Trong bối cảnh ấy, sự
nghiệp đổi mới trên đất nước ta lại gặp nhiều khó khăn và phức tạp. Đây là
một thử thách lớn đối với Đảng và dân tộc ta. Chính sự nghiệp đổi mới ngày
càng đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải
quyết. Nhưng chính tình hình càng phức tạp lại càng đòi hỏi chúng ta phải
nắm vững linh hồn của phép biện chứng, phương pháp biện chứng; cần mài
sắc tư duy biện chứng để nhận thức đúng những biến đổi sâu sắc của tình hình
thế giới, những vấn đề lý luận và thực tiễn để đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
1.2. Một số nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng
Nguyên tắc của phương pháp biện chứng là luận điểm được đề ra trên
cơ sở một hình thức tồn tại phổ biến hay một tính quy luật biện chứng nào đó
và bao hàm những yêu cầu nhất định đối với chủ thể tư duy, hướng dẫn chủ
thể trong hoạt động nhận thức.
Các sách báo mác-xít chưa có ý kiến thống nhất về những nguyên tắc
của phương pháp biện chứng, do vậy, có sự khác nhau về cách diễn đạt, về sự
phân loại, về số lượng nguyên tắc đưa ra. Chẳng hạn, F.I.Ghe-ooc-ghi-ep phân
biệt năm nguyên tắc cơ bản, còn Mi-tin cho rằng có bốn nguyên tắc; P.V.Dô-
pốp và V.C.Vi-nô-gra-đốp phân biệt bảy nguyên tắc, còn An-đre-ep phân biệt
mười nguyên tắc. Trong khi đó, W.Xê-ghet phân loại các nguyên tắc của
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 13
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
phương pháp biện chứng phù hợp với sự sắp xếp các yếu tố của phép biện
chứng trong “Bút kí triết học” của V.I.Lê-nin. Mặc dù có sự bất đồng ý kiến
trong nhận thức và diễn đạt các nguyên tắc của phương pháp biện chứng
nhưng các tác giả đã có một sự thống nhất tương đối khi giải thích bản chất
của phép biện chứng.
Khi xem xét các nguyên tắc của phương pháp biện chứng, điều quan
trọng là khi xem xét chúng trong mối liên hệ hữu cơ với nhau, cũng như với
những bậc thang phát triển tương ứng của nhận thức khoa học và thực tiễn xã
hội. Theo quan điểm của A.P.Sep-tu-lin, tác giả xin nêu khái quát một số
nguyên tắc cơ bản của phương pháp biện chứng, trình bày chúng trong sự liên
hệ lẫn nhau và phụ thuộc nhau một cách tất yếu, xác định vị trí của mỗi
nguyên tắc trong toàn bộ hệ thống những yêu cầu biện chứng đề ra đối với chủ
thể tư duy và trong hành động.
1.2.1. Nguyên tắc phản ánh
Nguyên tắc phản ánh được đề ra trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học theo quan điểm duy vật, đặc biệt là mặt thứ hai của nó. Theo cách giải
quyết ấy, vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, phụ thuộc vào vật
chất, do vật chất quy định. Tính thứ hai của ý thức trong quan hệ với vật chất
biểu hiện ở chỗ: Không phải bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu cũng tồn tại ý
thức, nó chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển đặc biệt của vật chất, ở
những vật chất có tổ chức cao. Mặt khác, nó là tính thứ hai vì nó phản ánh thế
giới bên ngoài, là hình ảnh của những sự vật tồn tại khách quan, của những
thuộc tính và quan hệ của chúng. Là sự phản ánh của những sự vật của thế giới
bên ngoài, ý thức không thể tồn tại độc lập đối với các sự vật, bởi vì phản ánh
không thể tồn tại độc lập đối với cái được phản ánh.
Vật chất là tính thứ nhất so với ý thức, vật chất tồn tại vĩnh viễn và sản
sinh ra ý thức vào một giai đoạn phát triển nhất định của nó. Ý thức về mặt nội
dung (và hình thức), phản ánh của hiện thực ở bên ngoài ý thức, của những sự
vật có thực, những thuộc tính và quan hệ của sự vật. Vậy, khi nghiên cứu
khách thể không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về
khách thể mà phải xuất phát từ bản thân khách thể, từ bản tính riêng của nó;
không được bắt đối tượng phụ thuộc vào tư duy mà phải để tư duy phụ thuộc
vào đối tượng. Không được gán cho khách thể những sơ đồ chủ quan hay một
lô-gich phát triển nào đó mà phải rút ra những sơ đồ ấy từ khách thể; tái hiện
lại lô-gich phát triển riêng của bản thân khách thể trong ý thức, trong sự vận
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 14
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
động của các hình tượng lý tưởng. Nói cách khác, trong việc nhận thức bất kỳ
lĩnh vực nào của hiện thực cũng phải tuân thủ yêu cầu về tính khách quan, việc
giải thích đối tượng nghiên cứu phải xuất phát từ bản thân đối tượng, từ những
thuộc tính và quan hệ mà nó vốn có. Yêu cầu này được V.I.Lê-nin diễn đạt
trong “Bút kí triết học” như sau: “Tính khách quan của sự xem xét (không
phải thí dụ, không phải dài dòng mà bản thân vật tự nó)” [1;10].
Ý thức là hình thức cao nhất của phản ánh và chỉ xuất hiện trong xã hội
trên cơ sở của hoạt động lao động sản xuất, làm biến đổi hiện thực xung quanh
vì lợi ích của con người. Vì vậy, ý thức là sự phản ánh của hiện thực, nó phản
ánh hiện thực một cách có ý thức, là sự hiểu biết của chủ thể về tồn tại của
mình và quan hệ của mình với hoàn cảnh; ý thức gắn liền với tính mục đích và
sự hoạt động nhằm thực hiện mục đích đồng thời biến đổi hiện thực hay nó là
điều kiện cần thiết của hoạt động sáng tạo.
Phản ánh hiện thực là một thuộc tính cơ bản của ý thức, nó quy định sự
tồn tại của những thuộc tính khác của ý thức. Mất khả năng phản ánh hiện
thực thì không tránh khỏi đi đến việc mất tất cả các thuộc tính khác của ý thức.
Ý thức phản ánh sáng tạo thực tại khách quan mà thực tại khách quan hiện ra
trước mắt con người dưới dạng những hình ảnh chủ quan nhưng nguyên tắc
phản ánh bao hàm yêu cầu về tính khách quan của sự xem xét. Yêu cầu này có
tầm quan trọng đặc biệt đối với nhận thức. Nguyên tắc xem xét khách quan
bao hàm yêu cầu con người không những phải xuất phát từ bản thân khách thể,
từ quy luật hoạt động và phát tiển của nó, không gán ghép cho nó bất kỳ cái gì
của chủ thể, mà còn phải phân biệt rạch ròi quan hệ vật chất và quan hệ tinh
thần; nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan; thừa nhận nhân tố vật chất
quyết định nhân tố tinh thần, tư tưởng.
Việc giải thích khách thể phải xuất phát từ chính bản thân nó, từ những
thuộc tính và liên hệ mà nó vốn có, phải tính đến những quy luật hoạt động và
phát triển của nó. Như vậy, nguyên tắc khách quan còn bao hàm cả nguyên tắc
cụ thể, buộc chủ thể nhận thức phải tính đến những đặc điểm của khách thể
được nghiên cứu và những điều kiện đặc thù của khách thể ấy. V.I.Lê-nin viết:
“Trước hết là xem xét nội dung khách quan của quá trình lịch sử trong một
thời điểm cụ thể nhất định, trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định...” [Dẫn theo
1;25].
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 15
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Nói tóm lại, nguyên tắc phản ánh là nguyên tắc nền tảng có tính quyết
định của phương pháp biện chứng, một phương pháp dựa vào những hình thức
tồn tại phổ biến, những thuộc tính và mối liên hệ phổ biến của hiện thực.
1.2.2. Nguyên tắc năng động
Khi nói về nguyên tắc phản ánh quy định yêu cầu khách quan của sự
xem xét thì một điều không thể không nói đến là: Ý thức không phản ánh hiện
thực một cách giản đơn, thụ động mà phản ánh năng động, có những biến đổi
và cải tạo nhất định, không phải máy móc mà phản ánh một cách sáng tạo.
Tính năng động của chủ thể trong quá trình nhận thức là điều kiện tất yếu để
phát hiện bản chất của khách thể nghiên cứu; để làm sáng tỏ các mối liên hệ,
quan hệ và thuộc tính vốn có của nó. Nếu chủ thể đóng vai trò là người quan
sát trực quan giản đơn đối với khách thể nghiên cứu thì chỉ có thể phản ánh
một vài thuộc tính bên ngoài trong những điều kiện tự nhiên sẵn có của nó mà
thôi. Những thuộc tính này không cho ta quan niệm về bản chất của đối tượng.
Để phát hiện bản chất của chúng cần phải tác động lên nó, đặt nó trong những
mối liên hệ và quan hệ khác với điều kiện mà trong đó khách thể đang tồn tại,
biến đổi trạng thái tự nhiên của khách thể; từ đó con người đi sâu và phát hiện
ra những thuộc tính và những mối liên hệ tất yếu vốn có của nó, những quy
luật chi phối sự hoạt động và phát triển của khách thể.
Ngoài yêu cầu làm biến đổi khách thể, nó còn bao hàm yêu cầu làm biến
đổi một cách tương ứng những hình tượng lý tưởng nảy sinh trong quá trình
nhận thức khách thể; những hình tượng phản ánh như thế này hay thế khác
những thuộc tính và những mối liên hệ của khách thể. Để làm điều này, con
người cần có tri thức về cái chung được lặp lại trong nhiều đối tượng hoặc
hiện tượng tương tự, về cái tất yếu xảy ra không thể tránh khỏi trong những
điều kiện phù hợp. Cuối cùng, con người cần hiểu biết về những quy luật chi
phối sự hoạt động, phát triển và qua đó biết được bản chất của nó, đồng thời
phải sửa một cách căn bản những hình tượng cảm tính thu được do kết quả của
sự tri giác trực tiếp về khách thể, phải tách biệt cái chung với cái đơn nhất, cái
tất yếu với cái ngẫu nhiên, phải tạo ra những hình tượng lý tưởng, những khái
niệm phản ánh những mối liên hệ chung, tất yếu; lập ra những mô hình lý
tưởng tái hiện lại các mặt và những mối liên hệ tất yếu bên trong và bản chất
của khách thể.
Vậy, nhiệm vụ của nhận thức là từ những yếu tố bên ngoài đi vào yếu tố
bên trong, từ hiện tượng đi đến bản chất. Vì cái bên ngoài và cái bên trong,
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 16
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hiện tượng và bản chất không trùng hợp nhau nên nhận thức đi đến bản chất
cần có tiền đề làm biến đổi các hình tượng lý tưởng, cải tạo các tài liệu cảm
tính để đi đến bản chất của khách thể nghiên cứu.
Tóm lại, nguyên tắc năng động đòi hỏi phải biến đổi khách thể nhận
thức và cải tạo một cách sáng tạo các dữ liệu cảm tính vạch ra bản chất của
khách thể là có căn cứ khách quan. Những sự biến đổi, cải tạo được thực hiện
phải phù hợp với tính quy luật có thực của lĩnh vực được nghiên cứu; phải
phản ánh những thuộc tính và mối liên hệ có thực của lĩnh vực ấy.
1.2.3. Nguyên tắc toàn diện
Yêu cầu xem xét khách quan đòi hỏi quá trình nhận thức phải coi đối
tượng là thực tại tồn tại độc lập bên ngoài và không phụ thuộc vào ý thức của
chủ thể; là vật tự nó trong những điều kiện tồn tại tất yếu của nó. Nhưng
những điều kiện tất yếu tồn tại hiện thực của sự vật lại chính là những mối liên
hệ đa dạng của sự vật với các sự vật khác, là một hệ thống nhất định bao gồm
các quan hệ của sự vật đó với các sự vật khác. Từ đó, chúng ta thấy rằng, vật
tự nó phải được xem xét không tách rời những điều kiện tồn tại tất yếu của nó
mà trong các mối liên hệ và quan hệ của nó hay nói cách khác là xem xét một
cách toàn diện.
Mối liên hệ trước hết là quan hệ giữa các đối tượng và hiện tượng của
hiện thực, nhưng không phải bất kỳ quan hệ nào cũng đều là mối liên hệ. Khái
niệm “quan hệ” rộng hơn so với khái niệm “liên hệ”. Liên hệ là quan hệ giữa
hai hiện tượng mà sự thay đổi của sự vật hiện tượng này nhất thiết dẫn đến sự
thay đổi của sự vật kia. Thí dụ công cụ lao động có liên hệ qua lại với đối
tượng lao động, những thay đổi nào đó của công cụ lao động dẫn đễn những
thay đổi được quy định chặt chẽ trong đối tượng chịu tác động của công cụ đó.
Đến lượt nó, sự thay đổi đối tượng lao động nhất thiết đòi hỏi những thay đổi
nhất định về công cụ lao động,...Ngược lại với liên hệ là tính biệt lập (tách
biệt) là một quan hệ giữa các hiện tượng khi sự thay đổi của một hiện tượng
này không ảnh hưởng gì đến các hiện tượng khác, không kèm theo những thay
đổi nhất định của các hiện tượng đó. Chẳng hạn, sự thay đổi những nguyên lý
đạo đức không dẫn đến những thay đổi trong thiên nhiên và ngược lại.
Trong thế giới, tất cả các hiện tượng đều ở trong tình trạng liên hệ lẫn
nhau và biệt lập nhau. Chúng liên hệ trong mối liên hệ này nhưng lại không
liên hệ trong mối liên hệ khác. Vì vậy, liên hệ và biệt lập luôn tồn tại bên
nhau, đó là những mặt tất yếu của bất kỳ một quan hệ cụ thể nào giữa các sự
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 17
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
vật, hiện tượng. Để nhận thức được sự vật, hiện tượng và vạch ra các thuộc
tính đặc trưng của nó cần xem xét nó không phải ngay trong bản thân nó, tách
rời các sự vật khác mà phải xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các sự vật
khác, tính tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật
khác. Chỉ như vậy mới bảo đảm được nhận thức thực sự về sự vật, hiện tượng.
V.I.Lê-nin nói: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và
nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự
vật đó” [Dẫn theo 1;48]. Thí dụ, để làm rõ bản chất của tư bản cần phải nghiên
cứu các quan hệ tiền tệ - hàng hóa, việc chuyển hóa sức lao động thành hàng
hóa và quan hệ giữa sức lao động với người sở hữu các tư liệu sản xuất,...Tuy
nhiên, V.I.Lê-nin nói: “Không bao giờ chúng ta đạt đầy đủ yêu cầu đó, nhưng
dù sao cần phải tuân theo yêu cầu đó, yêu cầu đó hướng chủ thể nghiên cứu
phải sưu tầm lượng thông tin về đối tượng ở mức nhiều nhất có thể được và
nhờ đó mà tránh được sai lầm và cứng nhắc” [Dẫn theo 1;49].
Trên con đường làm rõ các tính chất và bản chất của chúng cũng xuất
hiện yêu cầu phải tách ra một tính chất nào đó để nghiên cứu nghĩa là yêu cầu
xem xét toàn diện chuyển sang yêu cầu xem xét phiến diện thông qua lăng
kính của một mặt, mặt này là chủ yếu, quyết định trong tổng thể cần nghiên
cứu và thể hiện thành nền tảng của sự vật. Nhưng sau khi các mặt quan hệ quy
định trong tổng thể cần nghiên cứu đã được tách ra thì nó lại chuyển hóa thành
điểm xuất phát để xây dựng nên hệ thống các khái niệm. Nhờ hệ thống này mà
người ta lý giải được về mặt lý luận bản chất của đối tượng và lần lượt suy ra
các mặt (thuộc tính), quan hệ tất yếu và mối liên hệ qua lại giữa chúng. Thế là,
trong quá trình phát triển tiếp theo của nhận thức, cách xem xét phiến diện lại
chuyển sang toàn diện cho phép tái hiện về mặt lý luận tất cả các mặt và quan
hệ tất yếu gắn liền với đối tượng trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của
chúng. Đến giai đoạn tái hiện bản chất của đối tượng trong hệ thống khái niệm
thì yêu cầu về tính toàn diện được thực hiện gần như triệt để.
Tóm lại, nguyên tắc toàn diện là một trong những nguyên tắc quan
trọng của phương pháp biện chứng, nó xuất hiện và tác động trong tất cả các
giai đoạn tiếp theo trong sự phát triển nhận thức. Tuy nhiên, ở các giai đoạn đó
cũng cần phải phối hợp với các nguyên tắc khác của phương pháp biện chứng
để quá trình tư duy được hoàn thiện hơn.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 18
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
1.2.4. Nguyên tắc lịch sử
Như chúng ta đã biết, mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều ở trong
trạng thái vận động và biến đổi không ngừng. Trong thực tế, nếu vận động là
thuộc tính, là phương thức tồn tại của vật chất; nếu tất cả các vật chất đều là
những hệ thống vận động tương đối ổn định, hình thành và phát triển theo
những quy luật nhất định và nếu hình thức vận động quy định bản chất của
chúng thì muốn nhận thức được sự vật, hiện tượng phải xem xét nó trong sự
vận động, trong sự hình thành và phát triển của nó, bởi vì, chỉ khi nào làm rõ
được các giai đoạn phát triển cơ bản mà sự vật, hiện tượng trải qua mới có thể
hiểu được, giải thích được các thuộc tính và mối liên hệ tất yếu, các đặc điểm
về chất và lượng của sự vật.
Yêu cầu xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển của
nó là nhân tố quan trọng bậc nhất trong nội dung của nguyên tắc lịch sử.
Thông thường người ta lấy yêu cầu đó làm đặc trưng cho chủ nghĩa duy vật.
Phương pháp lịch sử coi như là một trong những phương pháp nhận thức hiện
thực khách quan, đặc biệt là các phương pháp nhận thức xã hội. Yêu cầu này
được F.Bêcơn nhấn mạnh rằng: “Muốn nhận thức được những biến hóa và quá
trình của vật chất, cần phải hiểu rõ toàn bộ cái đang tồn tại, cái đã qua, cái
hiện có và cả cái sẽ có” [Dẫn theo 19;117]. Quan niệm này cũng gần giống
như Xpi-nô-da đã từng quan niệm: “Phương pháp giải thích tự nhiên chủ yếu
là ở chỗ trình bày lịch sử thật sự của tự nhiên cũng như từ các dữ kiện đã biết,
chúng ta rút ra cách xác định các sự vật tự nhiên...” [Dẫn theo 19;117].
Nguyên tắc lịch sử yêu cầu xem xét khách thể trong sự tự vận động và
phát triển của nó. Nguyên tắc lịch sử đòi hỏi chúng ta không chỉ miêu tả
những biến đổi trong khách thể, chỉ ra những trạng thái về chất thay thế lẫn
nhau mà còn phải tìm ra mối liên hệ tất yếu khách quan giữa các hiện tượng
nối tiếp nhau; tìm ra các quy luật khách quan chi phối sự hoạt động và phát
triển của khách thể, của cái hiện tồn và khả năng chuyển hóa của nó sang một
chất mới, chất mới đó vừa là cái phủ định vừa là cái nối tiếp của chất cũ tức là
duy trì nó dưới dạng đã cải tạo. Nếu vạch ra được mối liên hệ tất yếu giữa các
trạng thái về chất tạo ra lịch sử hình thành và phát triển của chỉnh thể cần
nghiên cứu thì có thể hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Quan điểm lịch sử ước định không chỉ tái hiện trong nhận thức sự phát
triển của khách thể cần nghiên cứu mà còn vạch ra mối liên hệ tất yếu giữa các
hiện tượng, các quy luật thay thế nhau, chi phối sự quá độ từ một giai đoạn
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 19
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
hình thành và phát triển này của khách thể sang một giai đoạn khác. Vì vậy,
trong phương pháp, bản chất cái lịch sử không loại trừ cái lô-gich mà có quan
hệ hữu cơ với cái lô-gich. Ở đây, lịch sử thể hiện dưới dạng đã gột sạch hết cái
ngẫu nhiên được uốn nắn cho phù hợp với các quy luật của bản thân quá trình
lịch sử. Khi nêu lên đặc trưng này trong phương pháp mà Mác đã vận dụng
trong bộ “Tư bản”, Ăngghen viết: “Về thực chất, phương pháp này chẳng qua
cũng chỉ là phương pháp lịch sử, chỉ có khác là đã thoát khỏi hình thái lịch sử
và khỏi những hiện tượng ngẫu nhiên gây trở ngại mà thôi” [Dẫn theo 1;135].
Tóm lại, nguyên tắc lịch sử hướng người nghiên cứu xem xét đối tượng
trong sự vận động và phát triển, vạch ra mối liên hệ tất yếu giữa các hiện
tượng thay thế nhau, những quy luật chi phối bước quá độ của một chỉnh thể
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Trong tiến trình vận dụng, nó lại đòi hỏi
đề ra những yêu cầu mới, nguyên tắc mới của phương pháp biện chứng.
1.2.5. Nguyên tắc mâu thuẫn
Muốn xem xét khách thể trong sự vận động và phát triển, phát hiện ra
các quy luật quyết định sự chuyển hóa từ trạng thái chất này sang trạng thái
chất khác, từ giai đoạn này sang giai đoạn khác cần phải vạch ra nguồn gốc
những sự biến đổi xảy ra trong khách thể. Nguồn gốc vận động và phát triển là
sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. V.I.Lênin viết: “Điều kiện
của một sự nhận thức về tất cả các quá trình của thế giới trong “sự tự vận
động” của chúng, trong sự phát triển của chúng, trong đời sống sinh động của
chúng, là sự nhận thức của chúng với tính cách là sự thống nhất của các mặt
đối lập” [Dẫn theo 1;139].
Nguyên tắc mâu thuẫn có vai trò quan trọng không chỉ trong việc nhận
thức các sự vật, hiện tượng như những khách thể đang vận động và phát triển
mà cả trong việc giải thích tính đa dạng của các thuộc tính và các trạng thái về
chất khác nhau và đối lập nhau mà sự vật vốn có trong việc vạch rõ mối quan
hệ qua lại tất yếu giữa chúng với nhau, sự chuyển hóa của cái này thành cái
kia và thành mặt đối lập của mình.
Khi phân tích về bản chất của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ
nghĩa, Mác đã phân đôi khách thể nhận thức thành các mặt đối lập đã bảo đảm
cho việc tái hiện sự phát triển của khách thể, sự quá độ của nó từ trạng thái
chất này sang trạng thái chất khác. Sau khi tách ra quan hệ cơ bản của xã hội
tư bản tức là sự trao đổi hàng hóa, Mác vạch ra những mâu thuẫn gắn liền với
nó và tồn tại bên trong nó; sau đó lần theo sự phát triển của những mâu thuẫn
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 20
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
ấy, Mác đã tái hiện dưới dạng một hệ thống phạm trù tất cả các mâu thuẫn
khác và thuộc tính bắt nguồn từ sự phát triển ấy. Nhờ vậy, Ông đã trình bày
được hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, chỉ ra sự xuất hiện, phát triển
và cả bản chất của xã hội ấy.
Tính tất yếu của việc phân đôi chỉnh thể được nhận thức thành các mặt
đối lập và vạch ra mối liên hệ qua lại giữa chúng, bắt nguồn từ cơ sở vật chất
là sự thống nhất của các mặt đối lập. Là một hệ thống vận động tương đối ổn
định do sự tác động qua lại giữa các nhân tố hợp thành cũng như tác động qua
lại với các sự vật khác, sự vật luôn vận động, biến đổi đồng thời vẫn tự duy trì
tính chất của mình - nghĩa là trong cùng một lúc, trong cùng những quan hệ ấy
sự vật vừa là nó vừa không phải là nó, còn sự đồng nhất của các mặt của sự
vật tồn tại đến một giai đoạn phát triển nhất định của mâu thuẫn, việc phá vỡ
sự đồng nhất dẫn tới sự vật cũ mất đi và sự vật mới xuất hiện. Sự vật này cũng
sẽ là sự thống nhất của biến đổi và ổn định nghĩa là sự thống nhất của các mặt
đối lập. Như vậy, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hình thức
tồn tại phổ biến của vật chất, là nguồn gốc của vận động và phát triển thông
qua tác động qua lại của các mặt đối lập.
Trong triết học Mác-Lênin, yêu cầu phân đôi chỉnh thể thống nhất
thành các mặt đối lập và nhận thức mối liên hệ qua lại giữa chúng với nhau là
kết luận rút ra từ tính phổ biến của mâu thuẫn, từ quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập - quy luật nói lên nguồn gốc vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng.
1.2.6. Nguyên tắc phủ định biện chứng
Đặc trưng của phủ định biện chứng là ở chỗ nó bắt nguồn từ sự phát
triển của các khuynh hướng đối lập bên trong; nó là sự tự phủ định, một sự
phủ định không chỉ đơn thuần thủ tiêu cái bị phủ định mà duy trì phần tích cực
phù hợp với trình độ phát triển mới, nó là sự thống nhất giữa thủ tiêu và duy
trì, một hình thái liên hệ giữa cái thấp với cái cao trong quá trình phát triển.
Trong “Bút kí triết học”, V.I. Lênin vạch ra bản chất của phủ định biện
chứng: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy
nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự cũng không phải
sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng” [Dẫn theo
1;116]. Sự phủ định trong tư duy phản ánh những biến đổi xảy ra trong hiện
thực khách quan nên trong cái hiện thực đó sự phủ định cũng tồn tại độc lập
với con người. Có thể nói, phủ định biện chứng trước hết mang tính khách
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 21
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
quan, đó là một quy luật được thực hiện do kết quả đấu tranh của các mặt đối
lập mà sự vật vốn có, nó là kết quả giải quyết một mâu thuẫn nhất định. Trong
tiến trình phủ định diễn ra sự cải tạo sự vật, chất này mất đi, chất mới xuất
hiện cũng tức là sự vật chuyển từ một giai đoạn phát triển này lên một giai
đoạn phát triển khác phù hợp với các quy luật tự nhiên khách quan.
Ph.Ăngghen chỉ rõ: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên còn biện chứng gọi là chủ quan tức là tư duy biện chứng thì chỉ
là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên của sự vận động thông qua
các mặt đối lập” [Dẫn theo 1;173]
Từ những đặc trưng này của phủ định biện chứng, nó đề ra yêu cầu đối
với chủ thể nhận thức là trong quá trình nhận thức, khi lấy một luận điểm này
phải định ra một luận điểm khác, cần kết hợp việc làm rõ sự khác biệt giữa
luận điểm khẳng định và luận điểm phủ định với việc làm rõ mối liên hệ giữa
hai phía, với việc tìm ra cái phủ định trong cái được khẳng định. Tóm lại,
nguyên tắc phủ định biện chứng dựa vào quy luật phổ biến trong sự phát triển
của hiện thực khách quan và của nhận thức. Về mặt phương pháp luận, nguyên
tắc này đòi hỏi chủ thể khi xây dựng một luận điểm mới liên quan đến khách
thể nghiên cứu phải lý giải một cách có phê phán luận điểm hiện có, vạch rõ
rằng, cái mới khác cái hiện có ở chỗ nào, rút ra từ cái hiện có tất cả những gì
đã được kinh nghiệm và thực tiễn khẳng định và dành cho những cái đó một vị
trí thích đáng trong quan niệm mới. Như thế là nguyên tắc này đã hướng dẫn
chủ thể theo một hướng nhất định trong hoạt động nhận thức.
Tóm lại, phương pháp có vai trò rất quan trọng trong đời sống con
người, nó là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong hoạt động cải tạo
hiện thực. Bất cứ việc gì dù to hay nhỏ nếu biết vạch ra phương pháp đúng
đắn, chủ thể sẽ đạt hiệu quả cao trong công việc. Ngày nay, có rất nhiều loại
phương pháp được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng phương
pháp phổ biến nhất, khoa học nhất là phương pháp biện chứng. Nó là giải pháp
tối ưu trong mọi hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội. Do đó, nó được Hồ
Chí Minh sử dụng làm công cụ rèn giũa tư duy ngày càng tinh xảo để chỉ đạo
cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 22
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
CHƯƠNG 2
HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG SÁNG TẠO
PHƯƠNG PHÁP BIỆN CHỨNG TRONG LÃNH ĐẠO
CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ
Ở VIỆT NAM
2.1. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng trong lãnh
đạo cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam
Trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới, loài người xây dựng rất
nhiều phương pháp và cũng trong quá trình đó, các phương pháp sẽ được kiểm
nghiệm, hoàn thiện. R.Đêcáctơ đánh giá cao tầm quan trọng của phương pháp.
Với ông, thiếu phương pháp thì người tài cũng phạm lỗi, có phương pháp thì
người bình thường cũng làm được việc phi thường. F.Hêghen coi phương
pháp là sức mạnh tuyệt đối, duy nhất, tối cao, vô cùng tận, không có một vật
nào có thể cưỡng lại nổi. Với Mác thì Ănghen nhận định rằng, toàn bộ quan
điểm của Mác thì không phải là một học thuyết mà là một phương pháp; nó
không đưa ra những giáo điều định sẵn mà là điểm xuất phát cho việc nghiên
cứu. V.I.Lênin thì khẳng định: “Phương pháp của Mác là phương pháp quý
báu mà nếu không có thì không thể hiểu được những quan hệ xã hội …”
[17;239]. Riêng Hồ Chí Minh, Người đã sớm ý thức được tầm quan trọng của
phương pháp ngay khi còn là thanh niên. Khi quyết định ra đi tìm đường cứu
nước, Người nói rõ mục đích của mình là: “Tôi muốn ra nước ngoài xem nước
Pháp và các nước khác làm như thế nào tôi sẽ trở về giúp đồng bào ta”
[21;14]. Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước, tháng 7/1920, Người đọc
được sơ thảo Luận cương của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, từ đây
đánh dấu mốc quan trọng trong sự chuyển biến tư tưởng của Người, từ chủ
nghĩa yêu nước Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin một học thuyết đúng đắn
nhất, Người nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa nhất là chủ
nghĩa Lê-nin” [14;268]. Người tìm thấy ở chủ nghĩa ấy ưu điểm lớn nhất là
phương pháp biện chứng và người căn dặn chúng ta phải nắm lấy tinh thần và
phương pháp của chủ nghĩa Mác mà hơn ai hết Người đã nắm vững tinh thần
và phương pháp đó để áp dụng trong quá trình hoạt động cách mạng của mình.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phương pháp biện chứng để
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 23
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ._.ây dựng quan hệ sản xuất mới không có
áp bức bóc lột. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước
nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Chúng ta phải dần tập thể
hóa nông nghiệp. Chúng ta phải tiến hành cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với
công thương nghiệp tư nhân, đối với thủ công nghiệp. Chúng ta phải biến một
nước dốt nát thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc.”
[2,64]. Với Hồ Chí Minh, đi lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá trình lâu dài,
phức tạp, khó khăn, do vậy chúng ta phải tiến hành dần dần, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm, không được nóng vội. Bởi vì, nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, từ điểm xuất phát rất thấp,
chứ không phải đi từ một nước tư bản phát triển cao như C.Mác và Ph.Ănghen
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 50
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
dự báo. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất, chủ yếu nhất của cách mạng xã hội
chủ nghĩa nước ta là phải chiến thắng lạc hậu, nghèo nàn, sớm thoát khỏi tình
trạng kém phát triển.
Sau năm 1975, đất nước độc lập thống nhất, nước ta tiến lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhưng phạm sai lầm vì nhận thức không đúng, một bộ phận
đảng viên lúc bấy giờ chưa vận dụng được phương pháp biện chứng trong
nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn, do vậy xem xét vấn đề thiếu tính
khách quan, rập khuôn máy móc; không xuất phát từ thực tế khách quan của
đất nước nên đã gặp thất bại. Bắt đầu từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12/1986), Đảng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước với phương châm
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, nghiêm khắc
kiểm điểm và đã tìm ra sai lầm cụ thể trong phương pháp thực hành là:
- Xem xét sự vật không tuân thủ nguyên tắc khách quan nên mắc bệnh
chủ quan duy ý chí, nóng vội muốn đưa quan hệ sản xuất đi trước một bước
trong khi lực lượng sản xuất không phù hợp.
- Do không xuất phát từ thực tế khách quan nên rơi vào chủ nghĩa giáo
điều kinh nghiệm, rập khuôn mô hình của Liên Xô và Trung Quốc.
- Kéo dài nền kinh tế bao cấp quá lâu.
- Do yếu kém về lý luận nên ngộ nhận kinh tế thị trường với kinh tế tư
bản chủ nghĩa, kinh tế bao cấp với kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Phát hiện sai lầm, kịp thời sửa chữa đổi mới và nâng cao tư duy lý luận,
đổi mới toàn diện nên sau hai mươi năm nước ta từng bước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế, xã hội, đạt được những thành tựu đáng kể. Để đạt được những
thành tựu đó có nhiều nguyên nhân, trong đó chúng ta thấm nhuần tư tưởng
Hồ Chí Minh về quan điểm thực tiễn, nắm vững lý luận khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin; bám sát thực tiễn, đổi mới toàn diện nhưng có trọng tâm
trọng điểm, biết xác định nhiệm vụ trước mắt trong từng thời điểm lịch sử cụ
thể và nhiệm vụ chiến lược lâu dài. Đổi mới phát triển trên tinh thần phủ định
có kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm của cách mạng trong những năm
qua.
Chính nhờ đi sâu, bám sát thực tiễn cách mạng Việt Nam mà Đảng ta
đã vạch ra những nhiệm vụ, phương hướng phấn đấu phù hợp, đất nước có
những chuyển biến tích cực và trên thực tế đã thu được thành tựu to lớn sau
hai mươi năm đổi mới. Nhưng, chúng ta biết rằng, thực tiễn luôn vận động,
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 51
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
biến đổi, luôn đặt ra những vấn đề mới, có cả thời cơ nhưng cũng đầy thách
thức. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một thời đại có nhiều biến đổi
sâu sắc và nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử. Sự phát triển siêu tốc của
cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy
mạnh mẽ quá trình xã hội hoá và quốc tế hoá lực lượng sản xuất, đang tác
động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với quá trình toàn
cầu hoá, nhân loại đang từng bước quá độ từ thời đại kinh tế công nghiệp sang
thời đại “kinh tế tri thức” và “nền văn minh trí tuệ”. Trên thế giới, bên cạnh xu
thế chủ đạo hoà bình, hợp tác, phát triển thì cuộc đấu tranh dân tộc, giai cấp,
xung đột sắc tộc, khủng bố, chạy đua vũ trang...tất cả những điều đó là bối
cảnh về thực tế thế giới mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Vấn đề quan trọng
là làm sao để hạn chế sự ảnh hưởng đó trong khi thực tế cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay được nêu ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc của
Đảng lần thứ X là những khuyết điểm, yếu kém tồn tại sau hai mươi năm thực
hiện công cuộc đổi mới, cụ thể là:
- Mặc dù đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau hai
mươi năm đổi mới nhưng do điểm xuất phát thấp, sự nghiệp đổi mới được bắt
đầu khi nước ta đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài nhiều năm,
cộng thêm những yếu kém, khuyết điểm chủ quan, đến nay nước ta vẫn trong
tình trạng kém phát triển, kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong khu vực
và thế giới.
- Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị còn nhiều
yếu kém.
- Trong lĩnh vực lý luận hiện chưa giải đáp được một số vấn đề của
thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đó là những mặt tồn tại cần có giải pháp khoa học, hợp thực tế để giải
quyết. Muốn có các giải pháp thì tư duy của người lãnh đạo phải thật sự khoa
học, nắm vững phương pháp biện chứng mác-xít, vận dụng sáng tạo phương
pháp luận của Hồ Chí Minh trong việc đề ra nhiệm vụ, giải pháp và phương
hướng phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Mặt khác, hiện nay tình hình thế
giới diễn ra rất phức tạp, các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn hết sức gay gắt.
Nhiều vấn đề mới, bức xúc trên thế giới lan rộng trên phạm vi toàn thế giới,
đặc biệt là quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều thời cơ cho các nước đang
phát triển nhưng cũng đầy nguy cơ, thách thức. Đó cũng là thực tế khó khăn
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 52
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
đang đặt ra cho toàn dân tộc ta. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định,
hiện nay, chúng ta phải đối diện với bốn nguy cơ lớn:
- Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực.
- Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một
bộ phận đảng viên, gắn với tệ nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm
trọng.
- Những biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
- Âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch.
Thực tế đó đòi hỏi Đảng ta phải thật sự bình tĩnh, bản lĩnh trên cơ sở
nắm vững phương pháp biện chứng trong nhận thức để phân tích đúng tình
hình xem xét đúng thế và lực của ta hiện nay, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách
thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, đưa đất nước phát triển
nhanh và bền vững hơn.
Từ việc xác định thực tế đó, Đảng ta đã đề ra mục tiêu, phương hướng
tổng quát của năm 2006 – 2010 trên cơ sở tập trung trí tuệ của cả dân tộc là:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt
mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng an ninh, chủ
động và hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa
nước ta khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” [24;76]. Để thực
hiện được mục tiêu, phương hướng đã đề ra trong những năm tới, đưa cách
mạng phát triển tiến lên thì đòi hỏi Đảng ta phải xác định đúng các mâu thuẫn
cơ bản trong quá trình thực hiện mục tiêu đó để đề ra những giải pháp giải
quyết mâu thuẫn phù hợp góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đã đề ra, đưa
cách mạng nước ta vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đã chỉ ra bốn
mâu thuẫn lớn:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa tình trạng kinh tế xã hội kém phát triển với
yêu cầu xây dựng một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn
minh.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
với các thế lực cản trở con đường phát triển của nước ta theo mục tiêu đó.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 53
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Thứ ba, mâu thuẫn giữa khuynh hướng chủ nghĩa xã hội và tư bản chủ
nghĩa.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình
đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong đó, mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn có tính chất bức xúc ở nước
ta hiện nay. Nó biểu hiện thành các mâu thuẫn sau:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa toàn cầu hóa kinh tế nhanh chóng của nhiều
quốc gia trên thế giới và khu vực tạo nên tương quan so sánh và sự cạnh tranh
gay gắt với trạng thái và sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa trình độ lực lượng sản xuất thấp kém với yêu
cầu phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, giữa lượng sản xuất lạc hậu với việc
xác lập quan hệ sản xuất tiến bộ dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại.
Thứ ba, mâu thuẫn giữa mục tiêu hiện đại hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức và hiện trạng cơ sở vật chất nguồn nhân lực yếu kém.
Thứ tư, mâu thuẫn giữa đời sống văn hóa còn nhiều lạc hậu so với yêu
cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Giải quyết được những mâu thuẫn này sẽ tạo điều kiện thực hiện thắng
lợi mục tiêu đã đề ra, đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở
xác định những mâu thuẫn đã nêu, Đảng ta đã đề ra những giải pháp:
- Phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh thủ những yếu tố
thuận lợi của quốc tế đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; từng
bước đi vào nền kinh tế tri thức.
- Hoàn thiện cơ chế kinh tế để tiếp tục giải phóng sức sản xuất đang còn
tiềm ẩn trong nhân dân, trong các thành phần kinh tế, ở các vùng kinh tế.
- Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh
tế thị trường.
- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, sự tha hóa của một bộ
phận Đảng viên.
- Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chủ động hội nhập kinh tế
khu vực và quốc tế, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, chủ quyền quốc gia
trong sự hội nhập đó.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 54
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong việc thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là phải đấu tranh chống mọi âm
mưu phá hoại của các thế lực thù địch, kiên định con đường chủ nghĩa xã hội.
Để làm điều này đòi hỏi Đảng ta phải thật sự bình tĩnh, bản lĩnh nắm vững
công cụ tư duy của các nhà kinh điển mác-xít và Hồ Chí Minh để nhận thức
đúng những âm mưu đen tối của kẻ thù, nhận dạng các quan điểm sai trái thù
địch. Có như vậy, chúng ta mới có thể bảo vệ và xây dựng thành công Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
Tình thế bất lợi cho ta là chủ nghĩa tư bản đang thắng thế trên trường
quốc tế trong khi chủ nghĩa xã hội đang gặp nhiều khó khăn. Chủ nghĩa tư bản
luôn có ý đồ tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa xã hội hoặc lôi kéo những nước này đi
theo con đường tư bản. Họ cho rằng, đi vào chủ nghĩa xã hội là đi theo vết xe
đổ của Liên Xô; đi lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng, viễn vong hay giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cản trở sự phát triển, là lạc điệu trong
tiến trình phát triển của thế giới,…Trước những giọng điệu đó, nếu không
đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững phương pháp
biện chứng mà Hồ Chí Minh đã vận dụng để xem xét, cân nhắc thì chúng ta sẽ
dễ bị dao động, mất phương hướng. Những thành tựu mà dân tộc ta đạt được
qua hai mươi năm đổi mới là một cơ sở cho niềm tin, sự lạc quan vào sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, trong bối cảnh
chủ nghĩa xã hội đang gặp khó khăn, chủ nghĩa tư bản đang thắng thế thì việc
gieo niềm tin đó không phải là chuyện dễ dàng. Điều này đòi hỏi mỗi chúng ta
mà trước hết là Đảng phải thật sự thấm nhuần phương pháp biện chứng của
các nhà kinh điển mác-xít và thấy được ý nghĩa, vai trò phương pháp biện
chứng mà Hồ Chí Minh đã vận dụng để xem xét, giải quyết vấn đề một cách
khoa học, để từ đó hoạch định cách làm, bước đi phù hợp đúng quy luật, tạo
niềm tin và sự lạc quan cho dân tộc.
Một vấn đề đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược hiện nay là một bộ phận cán bộ, đảng viên bị tha hoá về lối sống
đạo đức, quan liêu, tham nhũng, hủ hoá. Đây là vấn đề thời sự nhức nhối được
Đảng ta liệt vào danh sách một trong bốn nguy cơ và là “quốc nạn” trên con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội,
ngay từ đầu, Hồ Chí Minh đã quan tâm và nhận ra. Theo Người, Đảng phải
chấn chỉnh về tư cách, đạo đức, tác phong của cán bộ, đảng viên. Điều này
được Bác trình bày trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (1947). Đến nay,
vấn đề này vẫn là vấn đề còn nguyên giá trị. Trong tác phẩm, Người nêu lên
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 55
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
nguyên nhân của tệ nạn nói trên đồng thời đưa ra một số giải pháp để khắc
phục. Theo Hồ Chí Minh, sự tha hoá về đạo đức, lối sống, phong cách làm
việc dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng, hủ hoá của một bộ phận cán bộ đảng
viên. Căn bệnh đó, suy cho cùng là xuất phát từ căn bệnh nguy hiểm, bệnh
“hẹp hòi”. Bệnh này xuất phát từ cách xem xét và giải quyết vấn đề một cách
phiến diện, chỉ biết lợi ích cá nhân không biết đến lợi ích tập thể, chỉ thất lợi
ích địa phương mà không thấy lợi ích toàn cục. Đây là phương pháp nhận thức
siêu hình, trái khoa học. Nó phá hoại sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, nó là nguyên nhân của thứ chủ nghĩa cá nhân – chướng ngại vật trên con
đường phát triển chung của cả dân tộc; vì vậy, phải quét sạch chủ nghĩa cá
nhân trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
Để khắc phục căn bệnh này, chúng ta phải rèn phương pháp tư tưởng,
phương pháp công tác theo tinh thần phương pháp biện chứng mà Hồ Chí
Minh đã vận dụng, xem đó là nguyên tắc tiên quyết nhất trong mọi suy nghĩ và
hành động. Phải có đầy đủ quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể để
xem xét vấn đề một cách bao quát, đúng đắn. Phải đứng trên quan điểm phát
triển mà chú trọng phê bình và tự phê bình, xem đây là quy luật phát triển của
cá nhân đảng viên và tổ chức Đảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
đủ sức chiến đấu trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Mặt khác, để hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng thành công Chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì không thể
không nhắc đến lĩnh vực an ninh quốc phòng. Đến đây, phương pháp của Hồ
Chí Minh lại tiếp tục toả sáng nhất là trong lĩnh vực quân sự. Trước kia, Hồ
Chí Minh đã sáng tạo ra các phương pháp đánh giặc rất độc đáo, hiệu quả thì
nay nó lại được vận dụng một cách sáng tạo trong nền quân sự Việt Nam hiện
đại. Hồ Chí Minh đã từng thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, mỗi người là một chiến sĩ trên chiến trường chính cả chiến trường phụ để
chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập, tự do. Ngày nay, Đảng ta chủ trương
xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, mỗi
người dân là một chiến sĩ phòng vệ, nhìn thấu và ngăn chặn kịp thời mọi âm
mưu đen tối của kẻ thù để bảo vệ vững chắc nền độc lập ấy trong điều kiện
tình hình an ninh thé giới rất phức tạp, kẻ thù luôn chống phá ta với mọi hình
thức ngày càng tinh vi và hiện đại hơn trước. Vì vậy, Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra những quan điểm chỉ đạo trong nhiệm vụ
bảo vệ an ninh quốc gia như sau:
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 56
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
- Thứ nhất, bảo vệ an ninh quốc gia là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn
dân và cả hệ thống chính trị.
- Thứ hai, kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược. Gắn nhiệm vụ phát
triển kinh tế xã hội với nhiệm vụ an ninh quốc phòng, đối ngoại, khắc phục
kịp thời sơ hở không để kẻ thù lợi dụng.
- Thứ ba, giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng quan hệ đối
ngoại. Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ đối ngoại với nhiệm vụ an ninh quốc
phòng; đa dạng hoá theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “vừa hợp tác vừa
đấu tranh”.
- Thứ tư, trong quá trình đấu tranh chống các thế lực thù địch phải chủ
động tiến công và tích cực phòng ngừa không để bị động. Chủ động vô hiệu
hoá các hoạt động của địch ngay từ nơi xuất phát, trung tâm, sào huyệt của
chúng.
- Thứ năm, trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia phải
giữ vững nguyên tắc đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, khôn khéo,
tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Ta thấy, trong quan điểm chỉ đạo, Đảng ta luôn tuân thủ và quán triệt
các nguyên tắc trong phương pháp biện chứng có kế thừa sự sáng tạo của Hồ
Chí Minh để đề ra quan điểm đúng đắn trên cơ sở xem xét tình hình quốc tế
khách quan, toàn diện, căn cứ đặc điểm dân tộc và tiềm lực quân sự của đất
nước trong thời điểm hiện tại. Điều đó cũng nói lên rằng, sự sáng tạo của Hồ
Chí Minh trong lĩnh vực phương pháp không chỉ có giá trị trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc mà nó còn có sức sống mãnh liệt trong quá trình cả
nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nó thực sự trở thành công cụ hỗ trợ đắc lực
cho Đảng ta trong quá trình nâng cao tư duy lý luận, bản lĩnh chính trị để chỉ
đạo thực tiễn một cách sáng suốt, đúng đắn, nhằm rút ngắn con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận
dụng là phương pháp đúng đắn nhất, cần thiết nhất, quan trọng nhất cho thắng
lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, không nên xem nó là
“chìa khoá vạn năng” để trả lời mọi câu hỏi của hiện thực mà chỉ xem nó như
là một trong những phương pháp hiệu quả để tìm ra lời giải đáp cho hiện thực
sinh động đang vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 57
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh, cái tên bất tử trong trái tim nhân loại, cả cuộc đời và sự
nghiệp của Người trải qua bao nhiêu gian khổ, hy sinh chỉ vì độc lập, tự do
cho dân tộc và sự tiến bộ của nhân loại. Thế giới biết đến Người như là một
danh nhân văn hoá thế giới, vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, nhà
tư tưởng, nhà văn hoá lớn, nhà hoạt động chính trị nổi tiếng và là nhà quân sự
lỗi lạc. Người là kiến trúc sư hàng đầu đã xây nền, đắp móng cho con đường
phát triển của cách mạng Việt Nam: độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để hoàn thành sứ mệnh đó, Người đã vận dụng một cách sáng tạo phương
pháp biện chứng trong điều kiện lịch sử - cụ thể ở Việt Nam qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Điều này được chứng minh
hùng hồn qua những thắng lợi rực rỡ trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
Qua nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí
Minh trong đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở Việt Nam, tôi xin
nêu ra một vài kết luận sau:
Thứ nhất, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng là một
chỉnh thể thống nhất với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Phương
pháp là điều kiện để thực hiện tư tưởng triết học và biểu hiện ra ở phong cách.
Phương pháp của Người bắt nguồn từ phương pháp biện chứng mác-xít nhưng
được nảy mầm trên mảnh đất hiện thực Việt Nam; xuất phát từ thực tế Việt
Nam mà giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó
đóng vai trò là phương pháp luận chung chỉ đạo Hồ Chí Minh trong nhận thức
và hành động trên tất cả các lĩnh vực. Tuy không để lại một tác phẩm nào nói
về phương pháp biện chứng nhưng trong phương pháp nhận thức xem xét vấn
đề và hành động cách mạng ta có thể tìm thấy ở tinh thần biện chứng sáng tạo,
do vậy nó mang một sắc thái độc đáo riêng.
Thứ hai, nguyên tắc bao trùm trong việc vận dụng phương pháp biện
chứng Hồ Chí Minh trong đấu tranh cách mạng ở Việt Nam là luôn xuất phát
từ thực tế Việt Nam, lấy đó làm tiêu chuẩn trong quá trình chỉ đạo, hoạch định
đường lối, chiến lược, cách làm, bước đi và phương pháp cách mạng. Với Hồ
Chí Minh, bất cứ việc gì to hay nhỏ cũng xuất phát từ yêu cầu thực tế thiết
thực, có ích, không phù phiếm, khoa trương hình thức. Phải bám sát thực tiễn,
nhận thức và hành động phải đạt tới chỗ thấy cho hết, nhìn cho thấu; thà biết ít
nhưng chính xác, tỉ mỉ, cụ thể, sâu sắc tận bản chất của vấn đề. Thực tiễn là
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 58
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
điểm xuất phát cũng là nơi trở về của nhận thức. Thực tiễn đó phải được phân
tích bởi lý luận khoa học, bởi vậy Người nói: “Thực hành sinh hiểu biết, hiểu
biết sinh lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành” [2,34].
Thứ ba, sự độc đáo trong việc vận dụng phương pháp biện chứng của
Hồ Chí Minh là sự linh hoạt đối phó với mọi tình huống cụ thể để đấu tranh
cho mục tiêu cuối cùng, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Đó là sự quán triệt
nguyên tắc khách quan, nguyên tắc lịch sử, nguyên tắc cụ thể,... trong mọi
hoạt động cách mạng của Người. Người rất linh hoạt trong việc đề ra biện
pháp, bước đi, cách làm; thiên biến vạn hoá cho phù hợp với mọi tình thế đang
thay đổi khó lường nhưng phải trung thành với nguyên tắc, lập trường, quan
điểm. Đó là bản lĩnh của một nhà hoạt động cách mạng đầy mưu lược, sáng
suốt, tài ba trong tiến trình cách mạng đầy phức tạp, lâu dài, gian khổ nhưng
nhất định thắng lợi.
Thứ tư, với Hồ Chí Minh, cách mạng muốn nắm chắc phần thắng thì
mọi vấn đề của cách mạng phải được xem xét một cách toàn diện, đánh giặc
bằng tất cả lực lượng, mọi hình thức, mọi phương tiện và trên tất cả các lĩnh
vực. Do đó, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng còn thể hiện
ra ở phương pháp tập hợp lực lượng, dựa chắc vào khối đại đoàn kết toàn dân
với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh,
đồng thời tranh thủ tất cả các điều kiện làm đòn bẩy cho thắng lợi của cách
mạng. Đây là tư tưởng về phương pháp “đúng quy luật, thuận lòng dân và hợp
thời đại”.
Thứ năm, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng trong
cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ không chỉ là lý luận khoa
học quân sự mà còn là nghệ thuật tác chiến. Nghệ thuật đó thể hiện là sự tinh
xảo trong xem xét thế và lực, đoán đúng và kịp thời nắm bắt thời cơ, lấy đà
thực hiện bước nhảy để đưa cách mạng đi đến thắng lợi. Binh pháp Tôn Tử có
nói rằng, “Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”. Trong cuộc chiến không
cân sức với những tên đế quốc sừng sỏ, nếu không biết dụng thế tăng lực,
tranh thủ thời cơ thì phần thắng rất “èo uột” vì quy luật đấu tranh là “mạnh
được, yếu thua”. Thế nên, Hồ Chí Minh rất chú trọng làm biến đổi tương quan
so sánh lực lượng, biết thắng từng bước cho đúng, đồng thời dụng thế làm tăng
lực lên nhiều lần và biết chọn thời cơ phát động khởi nghĩa thì nhất định thắng
lợi. Đó là nghệ thuật của nền quân sự thô sơ đối phó với nền quân sự hiện đại.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 59
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Thứ sáu, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng thể hiện
trong đấu tranh cách mạng là nghệ thuật phân tích và giải quyết đúng mâu
thuẫn. Với Hồ Chí Minh, trong khi xem xét mọi vấn đề của cách mạng thì
nguyên tắc không thể không tuân thủ là phải tìm ra mâu thuẫn trong sự vật,
hiện tượng. Xác định đúng mâu thuẫn cơ bản của cách mạng, giải quyết nó
một cách đúng đắn thì sự nghiệp cách mạng sẽ phát triển tiến lên.
Thứ bảy, Hồ Chí Minh luôn quán triệt nguyên tắc phát triển trong đấu
tranh cách mạng được thể hiện ra như là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp cách
mạng, tin vào con đường phát triển của cách mạng. Dù cuộc chiến tranh có
gian khổ, chịu nhiều hy sinh, không cân sức nhưng nhất định chúng ta sẽ thắng
lợi vì chúng ta chiến đấu cho sự chính nghĩa. Đồng thời không có một trở lực
nào có thể ngăn chúng ta tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Bác nói:
“Không có lực lượng nào ngăn được mặt trời mọc. Không có lực lượng gì
ngăn trở được lịch sử loài người tiến lên cũng không có lực lượng gì ngăn trở
được chủ nghĩa xã hội phát triển” [2;21]. Niềm tin đó tạo nên sự lạc quan, bình
tĩnh dù trong hoàn cảnh nào đi nữa. Đó là bí quyết của nhà cầm binh giỏi, một
chủ thể nắm vững quy luật phát triển, nắm vững phương pháp nhận thức và
hành động.
Thứ tám, trong giai đoạn hiện nay, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí
Minh vận dụng có một ý nghĩa, giá trị to lớn trong nhận thức và hành động
cách mạng. Tuy nhiên, nó không phải là chìa khoá vạn năng để mở được tất cả
các câu hỏi, cũng như câu trả lời của hiện thực đất nước mà nó là phương pháp
tối ưu nhất, hiệu quả nhất để tìm ra câu trả lời xác đáng cho hiện thực sinh
động của đời sống xã hội.
Từ những kết luận rút ra trên đây, chúng tôi xin đề xuất một vài ý kiến
như sau:
Thứ nhất, do phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng có
mối liên hệ chặt chẽ với tư tưởng triết học và phong cách của Người. Do đó,
khi nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh
cần nghiên cứu trong một chỉnh thể thống nhất với tư tưởng triết học và phong
cách của Người. Có như vậy mới thấy được sự độc đáo nhưng rất bình dị của
nó. Đúng như lời cố thủ tướng Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chí Minh cao
mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà
không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà ta thấy thân thiện từ lâu”
[2;298].
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 60
Khoá luận tốt nghiệp ngành DGCT Nguyễn Thị Kim
Hồng
Thứ hai, phương pháp biện chứng mà Hồ Chí Minh vận dụng thấm sâu
trong hành động, trong suy nghĩ, trong cách ứng xử với người và việc. Vì vậy,
khi nghiên cứu về phương pháp biện chứng mà Người đã vận dụng thì không
chỉ nghiên cứu qua các tác phẩm mà còn phải nghiên cứu trong quá trình thực
tiễn hoạt động cách mạng của Người.
Thứ ba, việc nhận thức đúng đắn và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành một yêu cầu bức xúc, cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Nó
còn là yêu cầu cơ bản, lâu dài, có tầm chiến lược quan trọng đối với việc xây
dựng Đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, để làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh mà đặc biệt trong đó có vấn đề phương pháp cách mạng thật sự
là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng trong công
cuộc đẩy mạnh đổi mới toàn diện đất nước, chúng tôi nghĩ rằng, hiện nay,
ngoài việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta cần
học tập ở Người phương pháp nhận thức và hành động cách mạng. Do vậy,
việc cán bộ, đảng viên phải thường xuyên theo học tập lý luận Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị, rèn luyện
phong cách làm việc khoa học theo gương Bác Hồ vĩ đại, nhạy bén linh hoạt
với mọi biến đổi của đời sống hàng ngày là việc làm quan trọng và thường
xuyên. Hơn nữa, trong tình hình hiện nay, chúng ta nên tổ chức lồng ghép nội
dung giáo dục chính trị tư tưởng trong học sinh các trường trung học phổ
thông với mức độ vừa phải để các em học sinh có thể tiếp thu và nâng cao
nhận thức của mình, từ đó làm theo tấm gương đạo đức của Người. Song song
đó, các đoàn thể, tổ chức khác ở địa phương, đặc biệt là cấp xã cũng nên
thường xuyên mở các buổi sinh hoạt, nói chuyện về Hồ Chí Minh để qua đó
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đạo đức, tấm gương của Hồ Chí Minh sâu
rộng trong nhân dân.
Thứ tư, tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh rất rộng, bao quát trên
nhiều lĩnh vực. Trong khuôn khổ đề tài này, tôi chỉ tìm hiểu trong lĩnh vực đấu
tranh cách mạng. Các tác giả khác có thể nghiên cứu các lĩnh vực khác và nếu
có điều kiện tôi cũng sẽ quay lại tiếp tục nghiên cứu vấn đề này sâu hơn.
NHD: Ts. Võ Văn Thắng Trang 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] A.P.Sep-tu-lin - Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo khoa
Mác-Lênin, 1997.
[2] Hoàng Chí Bảo - Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính
trị Quốc gia Hà Nội, 2002.
[3] Ngô Thành Dương - Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật, Nxb
Sách giáo khoa Mác-Lênin, 1986.
[4] Lê Duẩn - Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã
hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Tiền Phong, 1970.
[5] Nguyễn Đức Đạt - Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2005.
[6] Võ Nguyên Giáp - Một số vấn đề về nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb Công an nhân dân, 2004.
[7] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2006.
[8] Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (hệ lý luận chính trị cao cấp),
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
[9] Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003.
[10] Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005.
[11] Lê Mậu Hãn - Các cương lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.
[12] Trần Viết Hoàn, Lê Kim Dung - 105 lời nói của Bác Hồ, Khu di tích Phủ
Chủ Tịch, 1995.
[13] Đặng Xuân Kỳ - Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận
chính trị, 2002.
[14] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
[15] Đinh Cảnh Nhạc – Tạp chí triết học số ra ngày 5/7/2006.
[16] Lê Hữu Nghĩa - Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội,
2000.
[17] V.I.Lê-nin - Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1974.
[18] Nguyễn Ái Quốc - Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự Thật, Hà
Nội,1975.
[19] Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 2004.
[20] Song Thành - Một số vấn đề về phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
[21] Trần Dân Tiên - Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch,
Nxb Trẻ, 2007.
[22] Triết học Mác-Lênin (chương trình cao cấp), Nxb Sách giáo khoa Mác-
Lênin, 1981.
[23] Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va, 1975.
[24] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Lý luận chính trị,
2002.
Các trang web
i.
ii.
iii.
iv.
v.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1248.pdf