ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ ANH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2008
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
HOÀNG THỊ ANH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐÀO THUỶ NGUYÊN
THÁI NGUYÊN - 2008
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................................................
121 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2236 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.......................... 1
NỘI DUNG ............................................................................................................................................................10
Chương 1: LÝ THUYẾT VỀ HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ. NGUYỄN
KHẢI VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA ÔNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI .........10
1.1. Lý thuyết về hình tượng tác giả ..............................................................................................10
1.1.1. Tác giả và hình tượng tác giả trong văn học ....................................................10
1.1.1.1. Khái niệm tác giả văn học ...................................................................................10
1.1.1.2. Hình tượng tác giả trong văn học ..................................................................13
1.1.1.3. Nội dung và biểu hiện của hình tượng tác giả trong văn học
................................................................................................................................................................... 16
1.1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu hình tượng tác . 22
1.1.2.1. Ý nghĩa lý luận ..............................................................................................................22
1.1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn .........................................................................................................23
1.2. Nguyễn Khải và truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới .......................................24
1.2.1. Vài nét về Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn .............24
1.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới ......................................................28
Chương 2: CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
CỦA NGUYỄN KHẢI THỜI KỲ ĐỔI MỚI ..............................................33
2.1. Cái nhìn hiện thực tỉnh táo ..........................................................................................................34
2.2. Cái nhìn sắc sảo, tinh tế .................................................................................................................44
2.3. Cái nhìn giàu tính phân tích .......................................................................................................53
Chương 3: GIỌNG ĐIỆU VÀ SỰ TỰ THỂ HIỆN CỦA TÁC GIẢ
THÀNH HÌNH TƯỢNG .................................................................................................67
3.1. Giọng điệu trần thuật - nét đặc sắc của hình tượng tác giả trong
truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới ...............................................67
3.1.1. Giọng điệu xót xa, cảm thông chia sẻ ....................................................................69
3.1.2. Giọng điệu hài hước, hỏm hỉnh, tự trào ...............................................................75
3.1.3. Giọng điệu tranh biện ..........................................................................................................80
3.1.3. Giọng điệu chiêm nghiệm, triết lý ............................................................................88
3.2. Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng .................................................................95
3.2.1. Lối trần thuật ở ngôi thứ ba ............................................................................................97
3.2.2. Lối trần thuật ở ngôi thứ nhất ....................................................................................103
KẾT LUẬN .........................................................................................................................................................112
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................115
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Nguyễn Khải là cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại từ
sau Cách mạng tháng Tám. Ông thuộc số ít nhà văn sớm xác định cho mình
một quan niệm độc đáo về nghệ thuật, về vai trò của văn học và trách nhiệm
của nhà văn. Ông cũng thuộc số ít các nhà văn có sức viết dẻo dai, bền bỉ và
luôn có mặt ở những nơi "mũi nhọn" của cuộc sống. Bám sát từng bước đi của
đời sống với niềm hứng thú đặc biệt hướng vào "cái hôm nay" để nghiên cứu,
phân tích và đối thoại, sáng tác của Nguyễn Khải vừa nóng hổi tính thời sự
vừa có tầm khái quát về nhiều vấn đề thiết cốt đặt ra từ đời sống xã hội và con
người đương thời. Tác phẩm của ông, vì thế, luôn được giới nghiên cứu phê
bình quan tâm luận bàn và đông đảo bạn đọc hào hứng đón nhận. Đúng như ý
kiến của Vương Trí Nhàn trong Lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Khải:
"Ông là một trong những nhà văn dẫn đầu thời đại. Sáng tác của ông luôn
luôn đánh dấu những biến chuyển của xã hội. Với cuộc cách mạng này,
những năm tháng đấu tranh gian khổ này, tác phẩm của ông là một bằng
chứng, một tài liệu tham khảo thực sự. Và muốn hiểu con người thời đại với
tất cả những cái hay cái dở của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc
Nguyễn Khải" [32, tr.61]. Với ngòi bút hiện thực đặc sắc, năng lực quan sát và
óc phân tích sắc sảo, Nguyễn Khải đã đem đến cho người đọc những trang
văn mang hơi thở của cuộc sống đất nước và con người đương thời.
Nguyễn Khải sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, ký,
tạp văn và đều có những tác phẩm có giá trị ở tất cả các thể loại đó.
Trong nửa thế kỷ cầm bút, ông để lại cho đời khoảng bảy chục truyện
ngắn. Sự kết tinh nghệ thuật và độ "chín" của văn nghiệp Nguyễn Khải được
ghi nhận rõ rệt nhất là ở những truyện ngắn ông viết thời kỳ đổi mới. Làm nên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
đặc sắc riêng của thế giới nghệ thuật Nguyễn Khải trong truyện ngắn thời kỳ
đổi mới là hình tượng tác giả. Hình tượng tác giả là cái được biểu hiện ra
trong tác phẩm một cách đặc biệt. Nhà thơ Đức I.W.Goethe nói: "Mỗi nhà
văn, bất kể muốn hay không, đều miêu tả chính mình trong tác phẩm của
mình một cách đặc biệt". Viện sĩ Nga V.Vinôgrađôp đã khẳng định: "Hình
tượng tác giả là cơ sở, là trung tâm của phong cách ngôn ngữ". Việc nghiên
cứu hình tượng tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là một
hướng tiếp cận văn học từ phương diện thi pháp. Cách tiếp cận này giúp
chúng ta có thêm một góc nhìn mới để phát hiện và khám phá vào chiều sâu
tác phẩm của Nguyễn Khải.
Nguyễn Khải và các truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới đã được tìm
hiểu nghiên cứu ở một số phương diện. Song chưa có một chuyên luận nào đi
sâu nghiên cứu hình tượng tác giả - một trong những phương diện quan trọng
của thi pháp Nguyễn Khải. Việc nghiên cứu hình tượng tác giả trong truyện
ngắn của ông thời kỳ đổi mới là một việc làm cần thiết, góp phần thiết thực
vào việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải và làm sáng rõ hơn
những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học nước nhà.
1.2. Nguyễn Khải là một trong số các nhà văn có tác phẩm được đưa vào
giảng dạy trong nhà trường phổ thông. Trong chương trình Sách giáo khoa cũ
ông có truyện ngắn Mùa lạc và trong chương trình Sách giáo khoa mới ông
có truyện ngắn Một người Hà Nội. Việc nghiên cứu hình tượng tác giả trong
truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới càng có ý nghĩa thiết thực trong
việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những tác phẩm của ông ở nhà trường
phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
Số lượng tác phẩm và chất lượng sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Khải
suốt nửa thế kỷ đã xếp ông vào vị trí xứng đáng của nền văn học nước nhà.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
Từ những sáng tác ra đời ở thời kỳ mới vào nghề như: Xung đột, Mùa lạc,
Nguyễn Khải đã được giới nghiên cứu phê bình đánh giá là một ngòi bút
thông minh, sắc sảo trong khám phá và nắm bắt hiện thực. Sự mẫn cảm với
cái hằng ngày, với những gì đang diễn ra, với những vấn đề hôm nay đã khiến
những trang viết sắc sảo, đầy "chất văn xuôi" của Nguyễn Khải không những
luôn luôn có độc giả mà còn khơi gợi được hứng thú tranh luận, trở thành nơi
"giao tiếp đối thoại" với đông đảo bạn đọc.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt tác phẩm nghệ thuật khẳng định tài
năng sáng tác của Nguyễn Khải, người đọc còn có thể tìm thấy một số lượng
khá lớn, khá phong phú những bài nghiên cứu phê bình về Nguyễn Khải được
công bố dưới nhiều dạng khác nhau và đề cập đến nhiều phương diện khác
nhau của sáng tác Nguyễn Khải.
Nghiên cứu một cách khái quát và toàn diện về tác gia, tác phẩm Nguyễn
Khải có bài viết của Phan Cự Đệ trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975
(tập II), của Đoàn Trọng Huy trong Giáo trình văn học Việt Nam 1945 -
1975 (phần tác giả). Ngoài ra còn phải kể đến "Lời giới thiệu" của Vương Trí
Nhàn trong tuyển tập Nguyễn Khải (3 tập) và bài Nguyễn Khải: một đời
gắn bó với thời đại và dân tộc của Bích Thu...
Những công trình trên đã đưa đến cho người đọc một hình dung khá cụ
thể về Nguyễn Khải cả ở sự nghiệp sáng tác, giá trị tác phẩm cùng phong cách
riêng của ông. Hầu hết các tác giả đều khẳng định: Nguyễn Khải là một trong
những nhà văn tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam từ sau 1945.
Chiếm số lượng nhiều nhất là các bài viết về từng tác phẩm cụ thể hoặc
đi vào các phương diện sáng tác của Nguyễn Khải. Các bài viết về Nguyễn
Khải có giá trị của nhiều nhà nghiên cứu phê bình đăng trên các báo, tập san,
tạp chí... đã được tập hợp lại trong công trình Nguyễn Khải - về tác gia và
tác phẩm (do Hà Công Tài và Phan Diễm Phương tuyển chọn và giới thiệu).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Những truyện ngắn thời kỳ đổi mới của Nguyễn Khải đã tạo được sự chú
ý của công chúng độc giả. Các bài viết đã khẳng định những đặc điểm cơ bản
trong sáng tác của Nguyễn Khải: khả năng phát hiện vấn đề, ý thức tìm tòi lật
xới hiện thực, kiểu nhân vật tư tưởng, sở trường tổ chức đối thoại, nghệ thuật
kể chuyện hấp dẫn... Ở đây, chúng tôi chỉ xin được đề cập đến những bài viết
có liên quan đến vấn đề hình tượng tác giả trong những truyện ngắn Nguyễn
Khải thời kỳ đổi mới.
Trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945-1975 (tập II) nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ đã chỉ ra phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh táo trong sáng tác của
Nguyễn Khải. Theo ông, sức hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Khải là nhờ ở
những chi tiết tâm lý sâu sắc và chi tiết sự việc sống động:" Truyện ngắn và
truyện vừa có màu sắc trí tuệ của Nguyễn Khải vẫn tạo nên một sức hấp dẫn
đặc biệt nhờ ở tính thời sự nhạy bén của các sự kiện và ý nghĩa lâu dài của
các vấn đề đặt ra, nhờ ở những chi tiết tâm lý sâu sắc và chi tiết sự việc sống
động - những chi tiết đó lấp lánh rải rác trong các truyện của anh- nhờ ở lối
kể chuyện linh hoạt trong đó có sự kết hợp khiếu quan sát tinh tế của nghệ sĩ
trên mặt trận tư tưởng" [41,tr.51]. Như vậy, cái nhìn nghệ thuật thể hiện trong
hệ thống chi tiết - một trong những yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả đã
được nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ khẳng định và coi như một dấu hiệu tạo nên
sự hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Khải.
Tác giả Nguyễn Văn Hạnh trong bài Vài ý kiến về tác phẩm Nguyễn
Khải đã nhận ra hình tượng tác giả qua cái nhìn đặc trưng của nhà văn: "Nhà
văn có một cái nhìn nhạy bén, thấu suốt vào một số những mặt chủ yếu,
những vấn đề khá phức tạp của cuộc sống" [8, tr.53]. Thống nhất với ý kiến
của tác giả Nguyễn Văn Hạnh, tác giả Chu Nga trong bài viết Đặc điểm ngòi
bút hiện thực Nguyễn Khải đã khẳng định: "Với con mắt sắc sảo của mình,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
nhìn vào ngõ ngách nào của cuộc sống, Nguyễn Khải cũng có thể rất nhanh
nhạy phát hiện ra những vấn đề phức tạp" [28,tr.65].
Trong một cuộc luận bàn về sáng tác của Nguyễn Khải, hai nhà nghiên
cứu Lại Nguyên Ân và Trần Đình Sử cùng đi tìm nguyên nhân: vì sao sáng
tác của Nguyễn Khải gây được sự chú ý của độc giả. Theo Lại Nguyên Ân thì
người đọc thích Nguyễn Khải bởi " chất văn xuôi". Đó là tính hiện thực của
tác phẩm Nguyễn Khải khi viết về "những con người, những sự việc những
vấn đề của hôm nay", "đề tài nhằm thẳng vào đời sống hiện tại". Cái hiện tại,
cái hôm nay luôn luôn là trung tâm chú ý của nhà văn Nguyễn Khải. Trần
Đình Sử nhất trí với ý kiến đó và chỉ ra rằng: "Cái nhìn tỉnh táo" của Nguyễn
Khải giúp người đọc nhận thức cuộc sống và con người một cách chân thực
[2,tr.77-79].
Để công và dồn khá nhiều tâm huyết nghiên cứu về con người và văn
chương Nguyễn Khải là nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn. Với bài viết
Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách mạng từ sau năm 1945 ,
nhà nghiên cứu đã giúp người đọc nhận ra nét căn bản trong sáng tác của
Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới là: "Cái nhìn sắc sảo vốn có từ sớm và khao
khát có mặt trong ngày hôm nay. Đối thoại với chính mình và tự phát hiện trở
lại - một phong cách vừa dân dã vừa hiện đại" [31,tr.114]. Trong bài viết, nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng: "Những truyện ngắn của Nguyễn Khải viết từ
1988 - 1999 đến thời gian gần đây, khơi vào hai cái mạch chính: Một là cuộc
sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè đồng nghiệp quen biết,
cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận của những người thân trong gia đình
họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu, bà mợ mà tâm tư tình cảm của
Nguyễn Khải còn nhiều quyến luyến" [31,tr.116]. Viết về những người thân
trong gia đình họ hàng, Nguyễn Khải gửi gắm trong đó nhiều tâm tư tình cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
của mình. Thông qua những nhân vật này, hình tượng tác giả hiện lên rõ và
sâu sắc.
Tác giả Đào Thuỷ Nguyên trong cuốn Phương pháp tiếp cận sáng tác
của Nguyễn Khải trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại [29] đã lưu ý
tới cái nhìn xoáy sâu vào nhiều vấn đề của đời sống con người đương thời:
con người trong thời gian và lịch sử; con người trong các khả năng lựa chọn
và thích ứng; con người trong quan hệ gia đình; con người trong mâu thuẫn và
tiếp nối giữa các thế hệ...
Cũng đề cập đến hình tượng tác giả, Nguyễn Thị Bình trong bài viết
Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết đã chỉ ra một hình tượng người kể
chuyện đặc biệt trong sáng tác của Nguyễn Khải: "Có một người kể chuyện
đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là "chú Khải", "ông Khải"...cùng với rất
nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về mình,muốn
coi mình là đối tượng của văn chương(...) Nhân vật này góp phần tạo ra
giọng điệu tự nhiên, chân thành mà vẫn phóng túng trên các trang văn
Nguyễn Khải" [4,tr.141]. Vương Trí Nhàn cũng cho rằng: "Trong những
trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể
chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui buồn khi
quan sát việc đời" [31,tr.120].
Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy trong bài viết Vài đặc điểm phong
cách nghệ thuật Nguyễn Khải đã nhận ra tính chất đa giọng điệu trong sáng
tác Nguyễn Khải: "Ngôn ngữ của Nguyễn Khải giàu chất sống, chất văn xuôi
là ngôn ngữ hiện thực. Đặc biệt là tính chất nhiều giọng điệu. Nhà văn
thường đứng ở nhiều góc độ, nhiều bình diện để tả và kể. Không chỉ kể bằng
giọng của mình, bằng lời của người dẫn truyện, tác giả còn biết biến hoá
thành nhiều giọng điệu phong phú khác nhau" [9,tr.92-93]. Như vậy, yếu tố
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
giọng điệu - một trong những yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả đã được
nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy đề cập đến.
Trong chuyên luận Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn
Khải những năm tám mươi đến nay, nhà nghiên cứu Bích Thu đã tập trung
sự chú ý vào một yếu tố quan trọng tạo nên phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Khải, cũng là một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả. Theo Bích
Thu: "Sức chinh phục của truyện ngắn Nguyễn Khải những năm gần đây một
phần đáng kể là do nghệ thuật kể chuyện, trong đó giọng điệu trần thuật là
một trong những yếu tố quan trọng làm nên sức hấp dẫn trong các sáng tác tự
sự của nhà văn" [39,tr.122]. Tác giả đã chỉ ra sự phức hợp giọng điệu được
thể hiện trong sáng tác của Nguyễn Khải như: giọng triết lý, tranh biện; giọng
điệu thể hiện sự trải nghiệm cá nhân, tâm tình, chia sẻ; giọng hài hước hóm
hỉnh... Kết thúc bài viết, tác giả khẳng định: Sáng tác của Nguyễn Khải từ
những năm tám mươi cho đến nay không "chệch ra khỏi quy luật tiếp nối và
đứt đoạn của quá trình văn học. Một giọng điệu trần thuật chịu sức hút của
chủ nghĩa tâm lý, kết hợp kể, tả, phân tích một cách linh hoạt, thông minh và
sắc sảo. Lời văn nghệ thuật Nguyễn Khải là lời nhiều giọng, được cá thể hoá,
mang tính đối thoại của tự sự hiện đại" [39,tr.132].
Trên cơ sở khảo sát các bài viết, các bài nghiên cứu về nhà văn Nguyễn
Khải và các sáng tác của ông thời kỳ đổi mới, chúng tôi có thể sơ bộ rút ra
những nhận xét sau:
1. Số lượng các bài viết, những ý kiến đánh giá về Nguyễn Khải và tác
phẩm của ông rất phong phú. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều khẳng định
Nguyễn Khải là một nhà văn sắc sảo, đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống,
có nhiều tìm tòi, sáng tạo và đổi mới trong cách viết.
Các bài viết, các ý kiến đề cập đến truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi
mới đều chỉ ra những điểm mới trong cách thể hiện của tác giả từ cách nhìn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
giọng điệu cho đến ngôn ngữ. Nhìn chung các bài viết đều khẳng định:
Truyện ngắn thời kỳ đổi mới của Nguyễn Khải góp phần quan trọng trong
việc đổi mới nền văn học nước nhà.
2. Mặc dù các nhà nghiên cứu đã đề cập đến một số khía cạnh của thi
pháp hình tượng tác giả trong tác phẩm của Nguyễn Khải nhưng vẫn chưa có
một chuyên luận nào đi sâu tìm hiểu hình tượng tác giả trong truyện ngắn thời
kỳ đổi mới của Nguyễn Khải. Trên tinh thần tiếp thu, phát triển ý kiến của
những người đi trước, chúng tôi mạnh dạn góp phần nghiên cứu làm sáng tỏ
vấn đề: Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ
đổi mới.
3. Mục đích nghiên cứu
Đi sâu tìm hiểu và lý giải nét riêng về hình tượng tác giả trong truỵện
ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới như: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, sự tự
thể hiện của tác giả thành hình tượng, chúng tôi hy vọng góp một phần nhỏ
vào việc nghiên cứu văn chương nghệ thuật Nguyễn Khải và khẳng định vị trí
của ông trong nền văn học hiện đại Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu hình tượng tác giả trong truyện
ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu,
chúng tôi cũng đề cập đến một số tác phẩm Nguyễn Khải ở giai đoạn trước để
so sánh và khẳng định những luận điểm của mình.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê
5.2. Phương pháp hệ thống
5.3. Phương pháp phân tích
5.4. Phương pháp tổng hợp, khái quát
5.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết về hình tượng tác giả. Nguyễn Khải và truyện
ngắn của ông thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Cái nhìn nghệ thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Khải thời
kỳ đổi mới.
Chương 3: Giọng điệu và sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
NỘI DUNG
Chương 1
LÝ THUYẾT VỀ HÌNH TƯỢNG TÁC GIẢ. NGUYỄN KHẢI
VÀ TRUYỆN NGẮN CỦA ÔNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Lý thuyết về hình tượng tác giả
1.1.1. Tác giả và hình tượng tác giả trong văn học
1.1.1.1. Khái niệm tác giả văn học
Tác giả là một trong những khái niệm cơ bản được sử dụng nhiều nhất
trong lịch sử văn học và phê bình văn học. Cho đến nay, vấn đề tác giả còn
chưa được nghiên cứu nhiều. "Có thể nói, lý luận về tác phẩm và tác giả đang
trong giai đoạn xây dựng và cho đến nay chưa có một lý luận có đầy đủ cơ sở
về hai khái niệm này" [37,tr.125]. Trong Từ điển thuật ngữ văn học các tác
giả đã đưa ra định nghĩa về tác giả văn học: "Nhìn bề ngoài, tác giả làm ra
văn bản ngôn từ: bài thơ, bài văn, bài báo, tác phẩm văn học. Về thực chất
tác giả văn học làm ra cái mới, người sáng tạo ra các giá trị văn học mới. Sự
bắt buộc mô phỏng, theo đuôi thời thượng hoặc sáng tác không có bản sắc
không làm nên tác giả văn học đích thực" [5, tr.235]. Tác giả là người làm ra
tác phẩm. Về mặt xã hội, tác giả văn học là người có ý kiến riêng về đời sống
và thời cuộc. Đó là người phát biểu một tư tưởng mới, quan niệm mới về các
hiện tượng đời sống. Về đặc trưng, tác giả văn học là người xây dựng thành
công các hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động, có khả năng tồn tại được
trong sự cảm thụ thích thú của người đọc. Về mặt nghề nghiệp, tác giả văn
học là người xây dựng được một ngôn ngữ nghệ thuật mới, có phong cách
riêng, giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng trong thể loại, có hệ thống hình ảnh
biểu tượng đặc trưng riêng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
Mọi hoạt động của văn học, từ hoạt động tiếp nhận, thưởng thức đến
nghiên cứu, phê bình... chỉ thực sự bắt đầu khi tác phẩm của nhà văn ra đời.
Cho nên nhà văn là người khởi đầu của nhiều hoạt động văn chương, giữ vai
trò đặc biệt quan trọng trong đời sống văn học. Ta gọi tác phẩm văn học là
một công trình sáng tạo nghệ thuật bởi lao động của người nghệ sĩ đúng là lao
động sáng tạo. Tác phẩm văn học không thể sản xuất đồng loạt theo những
khuôn mẫu có sẵn như sản xuất công nghiệp. Nghệ thuật luôn đòi hỏi nhà văn
phải sáng tạo ra những tác phẩm mới mẻ cả về nội dung lẫn hình thức. Vì vậy,
tác giả văn học phải là người tài năng, có văn hoá, có quan điểm nghệ thuật
riêng. Tác giả văn học thực sự phải là người có nhân cách, có bản lĩnh vững
vàng và có ý thức sâu sắc về nghề nghiệp. Nhà nghiên cứu Đông Hoài trong
cuốn Nhận thức và thẩm định đã từng khẳng định: "Tác giả văn học phải có
một kỹ năng miêu tả điêu luyện, một bút pháp độc đáo lành nghề trong đó
năng khiếu bẩm sinh là có thật, cần được kịp thời phát hiện và không ngừng
vun bồi bảo vệ" [7,tr.8].
Sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi nhà văn phải có năng khiếu, có tài tư duy
bằng hình tượng, có khả năng suy ngẫm về các vấn đề của hiện thực thông
qua một thế giới hình tượng gồm những cảnh vật và những nhân vật cụ thể,
sống động, tồn tại trong những mối quan hệ xã hội phong phú và đa dạng.
Văn học là một quá trình sáng tạo bao gồm ba thành tố: nhà văn, tác phẩm và
công chúng. Vai trò của người đọc rất quan trọng. Nhà văn sáng tạo ra tác
phẩm nhưng tác phẩm chỉ thực sự có giá trị khi nó được người đọc tiếp nhận.
Giữa người viết và người đọc có sự tri âm. Cao Bá Quát từng nói: "Xưa nay
nỗi khổ của người ta không gì bằng chữ tình, mà cái khó ở đời không gì bằng
sự gặp gỡ".
Nhưng nhiều khi điều tác giả nói ra và điều người đọc tiếp nhận không
phải lúc nào cũng trùng hợp. Đôi khi vẫn xuất hiện hiện tượng người đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
đánh giá tác phẩm hoàn toàn theo cảm nhận chủ quan của mình. Nhiều trường
hợp như vậy đã từng xảy ra trong văn học nhiều nước trên thế giới, thậm chí
đối với cả sáng tác của các nhà văn lỗi lạc. Chính vì vậy mà trong tiểu luận
Tác giả là gì? Michel Poucatult đã cho rằng: "Song song với sự biến hoá
không ngừng của xã hội, chức năng tác giả được ngoại hiện vào một khoảnh
khắc của quá trình ấy sẽ biến mất". Theo ông, tác giả chẳng qua là "một biện
pháp dùng để ngăn trở sự tự do hư cấu, tự do chi phối và cấu tạo lại tác phẩm
mà thôi" [37,tr.126]. Một khi các quy ước ấy thay đổi thì tác giả cũng như
một người đọc.
Việc cảm thụ tác phẩm văn học theo kiểu cảm nhận của cá nhân là điều
bình thường. Thực ra, sự đọc sáng tạo của người đọc có thể mở ra những cách
giải thích ý nghĩa khác nhau, nhưng không làm biến mất văn bản và khách thể
thẩm mỹ ở trong ấy, và do đó không xoá bỏ được yếu tố tác giả như là người
tham gia sự kiện nghệ thuật qua tác phẩm. Bởi vì "Tác giả là trung tâm tổ
chức nội dung và hình thức cái nhìn nghệ thuật trong tác phẩm, là người
mang cảm quan thế giới đặc thù và là trung tâm tổ chức lại ngôn từ theo
nguyên tắc nghệ thuật. Do vậy, hình tượng tác giả, kiểu tác giả là những
phạm trù của thi pháp học hiện đại" [37,tr.126].
Vì lẽ trên, việc tìm hiểu những vấn đề có liên quan đến thời đại sống,
quá trình sáng tác của nhà văn là một việc làm cần thiết. Hoàn cảnh xuất thân,
quê quán, thời gian sống và hành trạng góp phần làm rõ các khía cạnh tư
tưởng, tâm lý trong tác phẩm. Tìm hiểu tác giả trong nghiên cứu văn học như
là một khái niệm của thi pháp học là nghiên cứu "người xây dựng được ngôn
ngữ nghệ thuật mới, có phong cách, có giọng điệu riêng, có bộ mặt riêng
trong thể loại, có hệ thống hình ảnh biểu tượng, đặc trưng riêng" [5,tr242].
Đó là người nghệ sĩ luôn luôn hiện hình trong tác phẩm văn học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
1.1.1.2. Hình tượng tác giả trong văn học
* Khái niệm chung về hình tượng tác giả
Ở bất kỳ thể loại nào, tự sự, trữ tình hay kịch, chủ thể sáng tạo bao giờ
cũng xuất hiện, dù có thể là đậm nhạt khác nhau. Với trí tưởng tượng phong
phú, khả năng lựa chọn đề tài, chủ đề, sự vận dụng khéo léo các thủ pháp
nghệ thuật và ngôn từ, người nghệ sĩ đã sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật để
thể hiện những tư tưởng tình cảm của mình. Do vậy, " Tác phẩm là sự kết tinh
quá trình tư duy nghệ thuật của tác giả, biến những biểu tượng, ý nghĩ, cảm
xúc bên trong của nhà văn thành một sự thực văn hoá , xã hội khách quan cho
mọi người soi ngắm, suy nghĩ" [22,tr.241]. Dấu ấn của chủ thể sáng tạo để lại
trong tác phẩm văn học thể hiện rất rõ nét trong hình tượng tác giả.
* Hình tượng tác giả trong văn học
Hình tượng tác giả hiện hình trong tác phẩm mới là phạm trù của thi
pháp học. Nghiên cứu hình tượng tác giả xuất hiện trong tác phẩm văn học
với tư cách là một phạm trù của thi pháp học là việc làm cần thiết đối với
nghiên cứu văn học. Bởi vì, thông qua tác phẩm văn chương, người nghệ sĩ
thể hiện sự nhìn nhận đánh giá của mình đối với cuộc sống và con người. Cơ
sở tâm lý của hình tượng tác giả là hình tượng cái "tôi" trong nhân cách mỗi
người thể hiện trong giao tiếp. Cơ sở nghệ thuật của hình tượng tác giả trong
văn học là tính chất gián tiếp của văn bản nghệ thuật: văn bản của tác phẩm
bao giờ cũng là lời của người trần thuật, người kể chuyện hoặc nhân vật trữ
tình. Nhà văn xây dựng một văn bản đồng thời với việc xây dựng ra hình
tượng người phát ngôn văn bản ấy với một giọng điệu nhất định. Theo Từ
điển Thuật ngữ văn học thì hình tượng tác giả là: "Phạm trù thể hiện cách tự
ý thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác
phẩm, một vai trò được người đọc chờ đợi (...). Hình tượng tác giả trong tác
phẩm văn học gắn với ý thức của tác giả về vai trò xã hội, tư thế văn học rất
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
đa dạng của mình" [5,tr.124]. Như vậy, phạm trù tác giả là một trong những yếu
tố quyết định phong cách cá nhân nhà văn và phong cách tác phẩm nghệ thuật.
Hình tượng tác giả cũng là một hình tượng được sáng tạo ra trong tác
phẩm như hình tượng nhân vật nhưng theo một nguyên tắc khác: "Nếu hình
tượng nhân vật xây dựng theo nguyên tắc hư cấu, được miêu tả theo một quan
niệm nghệ thuật về con người và theo tính cách nhân vật, thì hình tượng tác
giả được thể hiện theo nguyên tắc tự biểu hiện sự cảm nhận và thái độ thẩm
mĩ đối với thế giới nhân vật" [37,tr.127].
Nếu như trong giao tiếp, người ta có nhu cầu muốn biểu hiện cái "tôi "
của mình với người đối thoại như là người uyên bác, trí tuệ, giàu lòng vị tha...
theo yêu cầu của xã hội, thì trong văn học cũng vậy, các nhà văn bao giờ cũng
muốn biểu hiện mình như người khám phá cái mới, người có nhãn quan cấp
tiến, có cá tính nghệ sĩ. L.Tônxtôi đã từng nói, đại ý: Nếu trước mắt ta là một
tác giả mới, thì câu hỏi tự nhiên đặt ra là liệu anh ta có thể nói điều gì mới đối
với bạn đọc ? L.Tônxtôi cũng khẳng định rằng, khi đọc tác phẩm văn học,
hứng thú chủ yếu chính là tính cách của tác giả thể hiện trong đó. Một nhà
văn không có gì mới, không có sự sáng tạo nghệ thuật, không có nét riêng, cái
mới thì tác phẩm không gây được sự chú ý của người đọc.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hình tượng tác giả là yếu tố quyết định
nên phong cách nhà văn. Chúng ta biết rằng, hình tượng tác giả trong văn học
là cái được biểu hiện trong tác phẩm một cách đặc biệt, không giống với nhân
vật. Vì vậy, nhà thơ Đức I.W.Goethe đã nhận xét: Mỗi nhà văn bất kể muốn
hay không, đều miêu tả chính mình trong tác phẩm của mình một cách đặc
biệt. Có nghĩa là trong tác phẩm văn học, cái tôi nghệ sĩ của nhà văn biểu hiện
cảm nhận của mình về thế giới, cách suy nghĩ, cách diễn đạt của mình. Cảm
nhận đó quyết định cách thức tổ chức tác phẩm, tạo thành sự thống nhất nội
tại của tác phẩm, và đó cũng là sự thống nhất của tác phẩm về mặt phong cách học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Tác giả A.Chichêrin trong Nhịp điệu của hình tượng cũng cho rằng:
"Hình tượng tác giả được sáng tạo ra như hình tượng nhân vật. Đây cũng là
sự chân thật nghệ thuật, không phải là chân lý của sự kiện, mà là chân lý của
ý nghĩa, tư duy, như chân lý của thi ca" [36,tr.107- 108]. Việc tìm hiểu hình
tượng tác giả phải bắt nguồn từ chính tác phẩm nghệ thuật
M.Bakhtin hiểu vấn đề hình tượng tác giả có hơi khác hơn. Ông không
tán thành gọi sự biểu hiện tác giả là hình tượng tác giả vì sợ lẫn lộn: "Không
có hình tượng tác giả ngoài tác phẩm, tư tưởng nghệ thuật nhà văn chỉ tồn tại
trong tác phẩm" [3,tr.78]. Nhân vật thuộc một không gian thời gian, còn tác
giả thuộc một không gian thời gian khác, bao quát và cảm thụ không gian thời
gian nhân vật. Tác giả nhập vào rồi thoát ra khỏi không gian thời gian nhân
vật. Ông cho rằng tác giả nằm ngoài thế giới nhân vật, tiếp giáp với mặt ngoài
của biểu hiện nhân vật: "Tác gi._.ả nên ở trên đường ranh giới của thế giới do
anh ta sáng tạo (...) lập trường của tác giả có thể xác định qua cách mà anh
ta miêu tả bề ngoài thế giới đó" [37,tr.129]. Như vậy, tác giả hiện diện tại
hình thức tác phẩm như là một nguyên tắc thẩm mĩ tạo hình cho thế giới nghệ
thuật. Ông còn khẳng định: Tác giả hiện diện như một điểm nhìn, cái nhìn.
Tác giả L.Ghindơbua khi nghiên cứu tác giả trong thơ trữ tình đã nhìn
thấy nhà thơ thường xuyên hình dung về mình, tự giới thiệu về mình. Nhà lý
luận Văn học Mỹ W.Booth thì gọi là "tác giả hàm ẩn", xem đó là cái tôi thứ
hai của tác giả hiện diện trong tác phẩm. Nhiều nhà lý luận hiện đại hiểu đó là
tác giả được suy ra, là sản phẩm do người đọc phát hiện.
Như vậy có thể nói rằng, vấn đề hình tượng tác giả đã được tiếp cận ở
nhiều góc độ trong lý luận văn học. Đó chính là sự biểu hiện của cái "tôi" thứ
hai của tác giả trong tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
1.1.1.3. Nội dung và biểu hiện của hình tượng tác giả trong văn học
Cho đến nay, sự biểu hiện của hình tượng tác giả trong sáng tác văn học
là một vấn đề đã và đang được nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau. "Có
người xem hình tượng tác giả biểu hiện ở phương diện ngôn ngữ, có người
xem hình tượng tác giả biểu hiện trên tất cả các yếu tố và cấp độ tác phẩm: từ
cách quan sát, cách suy nghĩ, thích cái gì, ghét cái gì trong lập trường đời
sống, đến giọng điệu lời văn. Trong giọng điệu thì không chỉ giọng điệu
người trần thuật mà cả trong giọng điệu nhân vật" [37,tr.129]. Có người cho
rằng hình tượng tác giả biểu hiện ở: cái nhìn nghệ thuật của tác giả, sức bao
quát không gian thời gian, cấu trúc, cốt truyện, nhân vật và giọng điệu.
Như vậy, chúng ta có thể tìm hiểu hình tượng tác giả biểu hiện chủ yếu
ở một số phương diện như: Cái nhìn riêng, độc đáo, nhất quán có ý nghĩa tư
tưởng, đạo đức thẩm mĩ ; giọng điệu của tác giả thâm nhập vào cả giọng điệu
nhân vật và ở sự miêu tả; sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng.
* Cái nhìn nghệ thuật
Cái nhìn nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của sự biểu
hiện hình tượng tác giả trong văn học. "Cái nhìn là một năng lực tinh thần
đặc biệt của con người, nó có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện đặc điểm
của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mĩ của sự vật, do đó
cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật. Nghệ thuật không thể thiếu
cái nhìn" [37,tr.130].
Nói về cái nhìn nghệ thuật, M.B Khrapchencô nhận xét: "Chân lý cuộc
sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có
tính cá nhân đối với thế giới, vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ". Đối với nghệ
thuật dân gian, tính cá nhân có đổi thay nhất định thì cái nhìn cũng là một
điều kiện quyết định. Nhà văn Pháp M.Proust đã nói: "Đối với nhà văn cũng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
như đối với nhà hoạ sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn
đề cái nhìn " [37,tr.1301 ]. Do vậy, cái nhìn là một biểu hiện của tác giả.
Cái nhìn thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, do đó nó có thể phát
hiện cái xấu, cái đẹp, cái hài, cái bi. Cái nhìn có khi lại xuất phát từ một cá
thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Có khi cái nhìn gắn với liên tưởng,
tưởng tượng, cảm giác nội tâm, biểu hiện trong ví von, ẩn dụ, đối sánh. Cái
nhìn có thể đem các thuộc tính xa nhau đặt cạnh nhau, hoặc đem tách rời khỏi
sự vật một cách trừu tượng. "Cái nhìn thể hiện trong chi tiết nghệ thuật, bởi
chi tiết là điểm rơi của cái nhìn" [37,tr.106]. Chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc thể hiện cái nhìn của nhà văn. Nghiên cứu các chi
tiết nghệ thuật, ta có thể khám phá được cái nhìn nghệ thuật của nhà văn. Khi
nhà văn trình bày cái họ nhìn thấy cho ta cùng nhìn thấy thì ta đã tiếp thu cái
nhìn của họ, tức là đã bước vào phạm vi ý thức của họ, chú ý cái mà họ chú ý.
Khi ta nhận thấy nhà văn này chú ý cái này, nhà văn kia chú ý cái kia, tức là
ta đã nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả.
Chẳng hạn, cùng viết về miếng ăn nhưng cái nhìn của Nam Cao khác
với cái nhìn của Nguyên Hồng, của Nguyễn Tuân và cái nhìn của Thạch
Lam... Ví như Nguyên Hồng cũng là một cây bút viết rất hay về miếng ăn,
ông tiếp cận miếng ăn từ khẩu vị của những người nghèo khổ. Miếng ăn trong
văn Thạch Lam, Vũ Bằng thì lại được tiếp cận từ khẩu vị của lớp thị dân Hà
Nội. Còn Nguyễn Tuân lại có một cách tiếp cận riêng không giống ai. Ấy là vì
Nguyễn Tuân không nhấm nháp miếng ăn bằng vị giác, nghĩa là tiếp cận nó
chỉ như một của ngon. Ông đánh giá chén trà buổi sớm, hạt cốm mùa thu, bát
phở mùa đông, miếng giò ngày Tết... ở bình diện văn hoá - lịch sử, và thưởng
thức những món vị ấy một cách đầy tự hào như những công trình nghệ thuật
tuyệt vời mà ông gọi là "đỉnh cao của một dạng văn hoá dân tộc". Nam Cao
trong một loạt truyện: Một bữa no, Trẻ con không được ăn thịt chó, Quên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
điều độ, Sống mòn... viết về miếng ăn với tất cả tâm huyết của mình. Nhưng
ông không bàn luận về miếng ăn như là một thứ thực phẩm. Ông đau đớn đề
cập đến cái phương diện: miếng ăn là miếng nhục. Nhân vật của Nam Cao
thường bị cái đói, cái nghèo đẩy tới chỗ phải vứt bỏ nhân cách, phải chịu bị
lăng nhục vì miếng ăn.
Việc sử dụng từ ngữ trong truyện Kiều của đại thi hào dân tộc Nguyễn
Du cũng thể hiện cái nhìn nghệ thuật của nhà văn. Chúng ta thấy cái cách mà
Nguyễn Du để cho các nhân vật tự xưng với nhau: "Trách lòng hờ hững với
lòng...", "Lấy lòng gọi chút sang đây gọi lòng". Đó là cách xưng hô kiểu nhân
vật của Nguyễn Du. Ông cũng nhìn thấy qua chữ "ai" những con người cá thể
bình thường đầy nhân tính: "Đêm xuân ai dễ cầm lòng cho đang ", "Tấm lòng
ân ái ai ai cũng lòng ". Ông nhìn con người như những giá trị mong manh dễ
hư nát qua từ "chút ": "Thưa rằng chút phận ngây thơ ", "Được rày nhờ chút
thơm rơi", "Rằng tôi bèo bọt chút thân...". Có thể nói Nguyễn Du hiện diện
qua những từ ngữ độc đáo chỉ riêng ông sử dụng một cách có hệ thống. Như
vậy, thông qua cái nhìn nghệ thuật, người đọc sẽ nhận ra con người nghệ sĩ
của tác giả. Mỗi một nhà văn lại có một cái nhìn riêng độc đáo thể hiện một
phong cách riêng. Đi tìm hiểu cái nhìn nghệ thuật của nhà văn biểu hiện trong
thế giới nghệ thuật cũng tức là nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả ấy.
* Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu là một trong những yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả
trong tác phẩm. Nếu như trong đời sống có khi ta chỉ nghe giọng nói mà nhận
ra con người, thì trong văn học cũng vậy, giọng điệu giúp ta nhận ra tác giả.
Theo Từ điển văn học thì giọng điệu là "Thái độ, tình cảm, lập trường
tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong
lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm
thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm (...)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ
của tác giả, có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác
dụng truyền cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định, nhà văn
chưa thể viết ra được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ
thống nhân vật [5,tr.111- 112].
Giọng điệu không đơn giản là một tín hiệu âm thanh có âm sắc đặc thù
để nhận ra người nói, mà là một giọng điệu mang nội dung tình cảm, thái độ,
ứng xử trước các hiện tượng đời sống. "Hệ số tình cảm của lời văn... được
biểu hiện trước hết ở trong giọng điệu cơ bản " [37,tr.132]. Giọng điệu trong
văn học không chỉ biểu hiện bằng cách xưng hô, trường từ vựng, mà còn bằng
cả hệ thống tư thế, cử chỉ biểu cảm trong tác phẩm.
Khrapchencô khẳng định: "Giọng điệu không phải là sự trang sức,
không phải là yếu tố thứ yếu mà là đặc tính hữu cơ của cấu tạo tác phẩm, của
những khái quát hình tượng trong tác phẩm" [11,tr.188].
Giọng điệu có cấu trúc của nó. Xét lời văn trong quan hệ với các chủ đề
thì ta có giọng điệu cơ bản. Xét lời văn trong quan hệ với người đọc ngoài văn
bản thì ta có ngữ điệu. Sự thống nhất của hai yếu tố này tạo ra giọng điệu.
Nền tảng của giọng điệu trần thuật là cảm hứng chủ đạo của nhà văn.
V.Biêlinxki đã từng nói: "Cảm hứng là một sức mạnh hùng hậu. Trong cảm
hứng nhà thơ là người yêu say tư tưởng, như yêu cái đẹp, yêu một sinh thể,
đắm đuối vào trong đó và anh ta ngắm nó không phải bằng lý trí, lý tính,
không phải bằng tình cảm hay một năng lực nào đó của tâm hồn, mà là bằng
tất cả sự tràn đầy và toàn vẹn của tâm hồn mình, và do đó tư tưởng xuất hiện
trong tác phẩm không phải là những suy nghĩ trừu tượng, không phải là hình
thức chết cứng, mà là một sáng tạo sống động" [37,tr.108].
Cảm hứng có mối liên quan mật thiết với giọng điệu. Nếu cảm hứng là
cao cả thì giọng điệu là cao cả, nhà văn sẽ sử dụng các từ cao cả, những từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
ngữ cổ kính có âm hưởng biểu hiện thống thiết... Nếu nhà văn có cảm hứng
chính luận, phê phán, thì tác phẩm sẽ có giọng điệu lên án, tố cáo và nhà văn
sẽ sử dụng các biện pháp châm biếm, mỉa mai. Yếu tố tình thái, biểu hiện sự
đánh giá của tác giả đối với phát ngôn của mình cũng là yếu tố quan trọng của
hình tượng tác giả. Như vậy giọng điệu tác phẩm phụ thuộc vào cảm hứng
chủ đạo như: anh hùng, bi kịch, cảm thương, lãng mạn. Chẳng hạn, trong
Vang bóng một thời nhà văn Nguyễn Tuân đã tạo được giọng điệu riêng đầy
hấp dẫn. Giọng điệu chủ đạo là giọng điệu trang trọng, cổ kính, thiêng liêng.
Giọng điệu ấy được bắt nguồn từ chính con người cũng như cái nhìn của nhà
văn đối với cuộc đời cho nên lắng sâu. Ẩn sâu bên trong là một tình cảm nồng
ấm, là niềm hoài niệm, tiếc nhớ về một thời xa xưa nay chỉ còn vang bóng.
Chính nhờ giọng điệu này mà Vang bóng một thời có một sức sống vĩnh
viễn với thời gian. Trong Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, tác giả M.B.khrapchencô khẳng định: "Những đặc tính cơ bản của
lĩnh vực giọng điệu trong những tác phẩm nghệ thuật của nhà văn, sự ưu tiên
của phong cách cũng có liên quan mật thiết với cảm hứng chủ đạo trong sáng
tác của nhà văn" [10,tr.172].
Như vậy, giọng điệu là một phương diện rất quan trọng của tác phẩm
nghệ thuật. Cùng với những yếu tố nghệ thuật khác, giọng điệu là chìa khoá
để mở cánh cửa văn học đích thực. Nhiều nhà văn thường xây dựng cho mình
một hệ thống giọng điệu độc đáo, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ của mình.
Các nhà nghiên cứu đã nói đến giọng điệu của Tônxtôi trong Chiến tranh và
hoà bình "một giọng điệu mềm mại, tỉnh táo, đôn hậu của một người vững tin
vào đạo đức và chân lý. Giọng điệu của L.Tônxtôi vang lên khắp nơi trong tác
phẩm của ông từ Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, đến Phục sinh và các tác
phẩm sau đó. Người ta nhận ra giọng của ông trong cậu Nicôlenca, trong
Anđrây, trong Lêvin, trong Nêkhliuđôp. Ngôn ngữ giản dị, mặn mà, dễ thương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
của đại uý Tusin, giọng điệu vui vẻ, âm vang của Natasa đều thể hiện những
tình cảm trong sáng, chân thành, là những tình cảm mà tác giả yêu mến, bảo
vệ" [37,tr.134].
Có thể nói giọng điệu là một trong những thước đo chuẩn mực đánh giá
tài năng nghệ thuật của nhà văn. Nếu chưa tạo được cho mình một giọng điệu
riêng thì nhà văn chưa được coi là một nghệ sĩ chân chính, có tài năng đích
thực. Tạo ra trong tác phẩm của mình một hệ thống giọng điệu vừa độc đáo
vừa phong phú, chính là cách nhà văn khẳng định vị trí của mình trên
văn đàn.
* Sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng
Bên cạnh các yếu tố như cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu trần thuật thì sự
tự thể hiện của tác giả thành hình tượng đã mang đến cho người tiếp nhận
nhiều hứng thú trong quá trình cảm thụ văn học. Trong tác phẩm, có nhiều
trường hợp tác giả tự hình dung hình tượng của mình. Các tác giả tuỳ bút, bút
ký, ký sự hoặc tiểu thuyết cũng không ít trường hợp miêu tả mình trong tác
phẩm. Chẳng hạn, M.Gorki trong bộ ba tự thuật: Thời thơ ấu, Kiếm sống,
Những trường đại học của tôi. Nguyên Hồng trong Những ngày thơ ấu.
Nam Cao trong Đời thừa, Sống mòn, Đôi mắt. Ví dụ, khi Nguyễn Tuân viết:
"Tôi muốn mỗi ngày cho tôi cái say của rượu tối tân hôn", "Rồi tôi vẫn vênh
váo đi giữa cuộc đời như một viễn khách không có quê hương nhất định".
Khi Thế Lữ viết:
Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi
Hoặc khi Xuân Diệu viết:
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hót chơi...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
thì người đọc nhận ra hình tượng tác giả hiện ra trong tác phẩm. Tuy nhiên,
không được đồng nhất hình tượng tác giả với bản thân tác giả ngoài đời.
Cái nhìn, giọng điệu và sự tự thể hiện của tác giả thành hình tượng là ba
yếu tố cơ bản tạo thành hình tượng tác giả trong thế giới nghệ thuật của người
nghệ sĩ mà người đọc luôn luôn bắt gặp trong quá trình giao tiếp, thưởng thức.
Khi tìm hiểu hình tượng tác giả cần chú ý đến quan điểm nghệ thuật mà nhà
văn gửi gắm. Có những trường hợp, nhà văn đã đi ngược lại quan điểm của
giai cấp mình để có cái nhìn đúng dắn, đầy cảm phục với tầng lớp quần chúng
như các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã vượt qua những ảnh hưởng
của quy tắc đạo đức Nho gia phong kiến để có cái nhìn cảm phục đối với
người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ.
Khi nghiên cứu hình tượng tác giả trong tác phẩm, cần chú ý không nên
đồng nhất hình tượng tác giả với cuộc đời và cá tính của nhà văn. Nhiều khi
cuộc đời và cá tính bên ngoài như thế này nhưng người trần thuật trong tác
phẩm lại thế kia. Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng trong cuộc đời thực là một con
người bình dị, con người của khuôn phép, nền nếp nhưng đọc tác phẩm của
nhà văn ta thấy người trần thuật ở đây nhiều khi nổi loạn và phẫn uất.
Tóm lại, hình tượng tác giả trong tác phẩm là một phạm trù của thi pháp
do nhà văn sáng tạo ra. Hình tượng tác giả được tạo thành bởi những yếu tố
cơ bản sau: cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu và sự tự thể hiện của tác giả thành
hình tượng. Những thể loại văn học khác nhau thì biểu hiện của hình tượng
tác giả sẽ khác nhau.
1.1.2. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu hình tượng tác giả
1.1.2.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, nghiên cứu hình tượng tác giả có ý nghĩa quan trọng đối
với việc nghiên cứu văn học. Nghiên cứu hình tượng tác giả giúp người đọc
nhận ra phong cách cá nhân của nhà văn. Chính nhờ phong cách riêng này mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
người đọc có thể nhận ra sự khác nhau giữa nhà văn này với nhà văn khác.
Chẳng hạn cùng là nhà văn hiện thực phê phán viết về đề tài nông thôn Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám nhưng nhà văn Nam Cao khác với Ngô Tất
Tố, khác với Nguyễn Công Hoan, khác với Vũ Trọng Phụng... Mỗ i nhà văn
có cách thể hiện riêng. Đó là sự khác nhau về cá tính sáng tạo của nhà văn.
Nghiên cứu hình tượng tác giả không chỉ giúp người đọc nhận ra phong
cách cá nhân của nhà văn mà còn giúp người đọc tìm hiểu tính hệ thống của
văn bản tác phẩm như cái nhìn nghệ thuật, giọng điệu, sự tự thể hiện thành
hình tượng của tác giả... để từ đó tìm hiểu được tư tưởng nghệ thuật của tác
phẩm văn học. "Văn học là một hình thái hoạt động tư tưởng, vậy nghiên cứu
một nhà văn, xét đến cùng là nghiên cứu tư tưởng của ông ta" [25,tr.9].
1.1.2.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu hình tượng tác giả sẽ giúp người đọc hiểu được quan điểm
nghệ thuật, lập trường tư tưởng tác giả thể hiện trong tác phẩm. Tuy hình
tượng tác giả không hoàn toàn trùng với nhà văn ở ngoài đời nhưng sự đối
chiếu giữa tư tưởng nhà văn trong nghệ thuật với con người trong đời sống
vẫn có ý nghĩa rất lớn. Thông qua hình tượng tác giả, người nghiên cứu sẽ có
những căn cứ đáng tin cậy để kiểm nghiệm sự chính xác của những kết luận
về thế giới nghệ thuật của nhà văn, hiểu được sâu sắc các cấp độ biểu hiện và
sự phối hợp trong hình thức tác phẩm, tạo điều kiện cần thiết cho việc phân
tích và cảm thụ văn chương có hiệu quả cao.
Vì vậy, tìm hiểu hình tượng tác giả trong tác phẩm văn học còn có ý
nghĩa quan trọng trong giảng dạy văn chương ở nhà trường. Người giáo viên
khi hướng dẫn học sinh tiếp cận và cảm thụ tác phẩm văn học rất cần thiết
phải có hiểu biết về phạm trù hình tượng tác giả, bởi dấu ấn của chủ thể sáng
tạo hiện hình rõ trong tác phẩm. Việc nghiên cứu hình tượng tác giả trong
truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới sẽ giúp người đọc hiểu sâu sắc về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
quan niệm nghệ thuật của nhà văn, có cái nhìn sâu sắc và đầy đủ hơn truyện
ngắn Nguyễn Khải ở một thời kỳ quan trọng trong quá trình lao động sáng tạo
nghệ thuật của nhà văn. Từ đó, tìm ra nét riêng trong phong cách nghệ thuật
cùng những đóng góp của Nguyễn Khải trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.2. Nguyễn Khải và truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới
1.2.1. Vài nét về Nguyễn Khải và hành trình sáng tác của nhà văn
Nguyễn Khải tên khai sinh là Nguyễn Mạnh Khải. Ông sinh ngày 3
tháng 12 năm 1930 tại Hà Nội trong một gia đình quan lại, nhưng ông không
được thừa hưởng cái giàu sang, no đủ của gia đình mình do thân phận là con
của vợ lẽ. Chính vì thế mà tuổi thơ Nguyễn Khải đã phải trải qua nhiều phen
khốn nhục, sống trong sự ghẻ lạnh, khinh bỉ của gia đình, họ hàng, thậm chí
của cả người cha đẻ ra mình. Từ bé đến năm 15 tuổi, Nguyễn Khải chưa một
lần được nhìn rõ mặt cha, một ông quan tri huyện. Lúc nào gặp cha, Nguyễn
Khải cũng khúm núm, len lén, sợ hãi như một kẻ có tội. Ông sống với mẹ và
em trai trong cuộc sống tẻ nhạt và thiếu thốn cả về vật chất lẫn tình cảm. Cha
Nguyễn Khải làm quan, nhưng chỉ là một ông quan tri huyện đã hết thời nên
chẳng thể "trợ cấp" được gì cho cuộc sồng khốn quẫn của ba mẹ con Nguyễn
Khải thoát khỏi cảnh đói nghèo. Nguyễn Khải sớm phải lăn lộn giữa đời để
kiếm sống, nuôi mẹ và nuôi em. Có thể nói, chính những trải nghiệm cay
đắng, đầy éo le, tủi nhục đó khiến cho cuộc đời cũng như văn chương của ông
sớm có đặc điểm riêng. Đó là sự hiểu đời, hiểu người, là sự khôn ngoan, tỉnh
táo, là tình cảm, yêu ghét, khinh trọng rạch ròi. Và cũng từ sớm, ông đã có
một giọng văn trải đời.
Năm 17 tuổi, Nguyễn Khải cùng mẹ và em về thị xã Hưng Yên sống với
gia đình một người họ hàng bên ngoại. Ở đây, ông gia nhập đội dân quân tự
vệ Hưng Yên. Năm 1949, nhờ viết bài cho tờ báo dân quân Hưng Yên mà ông
được điều lên làm phóng viên cho tờ báo này. Đến năm 1956, ông chuyển hẳn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
công tác về tờ Sinh hoạt văn nghệ của Tổng cục chính trị (từ năm 1957 là tạp chí
Văn nghệ Quân đội). Cuộc đời viết báo, viết văn của Nguyễn Khải bắt đầu từ đó.
Là một nhà văn- chiến sĩ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ xâm lược, Nguyễn Khải có một quan niệm hết sức đúng đắn
về vai trò, sứ mệnh của văn học nghệ thuật. Ông là người rất có ý thức dùng
ngòi bút của mình làm vũ khí chiến đấu phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân
tộc và góp phần xây dựng cuộc sống mới. Điều đó trước hết thể hiện ở việc
ông luôn là người đi tiên phong, tìm đến những vùng đất nóng bỏng, gian khổ
và đầy sôi động của đất nước. Ông nổi tiếng là người chịu khó đi thực tế.
Bước chân nhà văn đã đặt tới nhiều miền đất nước: Một vùng nông thôn công
giáo toàn tòng, một nông trường Điện Biên ở miền Tây Bắc xa xôi, một hợp
tác xã tiên tiến, một hòn đảo anh hùng kiên cường trong chiến tranh phá
hoại... Ông miệt mài đi và miệt mài viết.
Có thể nói, Nguyễn Khải là người có sức mạnh tinh thần to lớn, có khả
năng làm việc bền bỉ với một bút lực phi thường. Văn của ông càng viết càng
duyên, "cái duyên dáng dân dã chứ không phải làm điệu, làm dáng mà có"
(Vương Trí Nhàn).
Tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự xuất hiện của ngòi bút hiện thực -
Nguyễn Khải là tác phẩm Xung đột. Đó là kết quả chuyến thâm nhập thực tế
của nhà văn về vùng đạo gốc thuộc huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, khoảng
cuối năm 1956, khi Đảng ta tiến hành sửa sai cải cách ruộng đất và bắt đầu
cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp. Với một nhãn quan chính trị nhạy
bén, nhà văn đã ghi lại cuộc đấu tranh quyết liệt của cán bộ, bộ đội và nhân
dân ta - cuộc đấu tranh gay gắt, căng thẳng, phức tạp - chống lại bọn phản
động đội lốt tôn giáo nổi lên chống phá cách mạng. Không chỉ phản ánh cuộc
đấu tranh giai cấp, Xung đột còn là bức tranh sinh động về đời sống nông
thôn vùng công giáo toàn tòng. Với những trang viết nóng hổi hơi thở của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
cuộc sống đầy phức tạp và sôi động, với những nhận xét sắc sảo, tinh tế,
Xung đột đã báo hiệu một "phong cách văn xuôi hiện thực tỉnh táo đầy hứa
hẹn" (Phan Cự Đệ).
Tiếp theo Xung đột là hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải viết về
những vấn đề thời sự của cuộc đấu tranh giữa hai con đường để tiến lên
CNXH ở miền Bắc như Mùa lạc, Đứa con nuôi, Người trở về, Tầm nhìn
xa, Chuyện người tổ trưởng máy kéo, Anh đội phó và người thợ mộc,
Hãy đi xa hơn nữa... Nguyễn Khải hăm hở đến nông trường Điện Biên,
mảnh đất Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc, nơi ngày đêm đang diễn ra công cuộc
lao động, xây dựng CNXH - gieo mầm xanh trên những bãi chiến trường đẫm
máu năm xưa. Ông viết về một cuộc sống mới đang được dựng xây, về tình
yêu, sự đổi thay và trách nhiệm của con người trong xã hội mới. Nhà văn đến
với nhân vật bằng tình yêu thương và thái độ trân trọng, vừa ca ngợi con
người nhưng cũng lại khám phá thế giới tinh thần vốn phức tạp để cải hoá con
người. Nguyễn Khải đi sâu vào miêu tả công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc nước ta. Thời kỳ này, cả miền Bắc là một công trường lớn, đâu
đâu cũng thấy xuất hiện những cá nhân tiên tiến và những tập thể anh hùng.
Khắc hoạ thành công những cá nhân tiên tiến là những điển hình cho những
con người mới trong xã hội XHCN là bước đi quan trọng của Nguyễn Khải
giai đoạn này. Ngòi bút của Nguyễn Khải không chỉ ca ngợi một chiều mà
ông đã sớm nhìn ra cái phức tạp, khó khăn của cuộc sống. Bên cạnh những cái
tốt đang sinh thành thì còn cả những điều xấu xa, tiêu cực và ông đã phê phán
nó một cách quyết liệt. Đó là y tá Giao trong Một cặp vợ chồng với lối sống
cá nhân vị kỉ; đó là tổ trưởng Khôi trong chuyện Người tổ trưởng máy kéo
tuy tháo vát, thông minh, có thành tích nhưng thiếu hẳn lòng tin yêu con
người, hay cái nhìn hạn hẹp ranh ma, lúc nào cũng chăm chắm lo vun vén tư
hữu kiểu nông dân cá thể như lão Tuy Kiền trong Tầm nhìn xa...Những tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
phẩm thời kỳ này của Nguyễn Khải đều hướng tới một câu hỏi lớn: Làm thế nào
để con người được giải phóng ? Làm thế nào để con người có tự do hạnh phúc ?
Khi đế quốc Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, Nguyễn Khải đã có mặt ở
những nơi nóng bỏng của cuộc chiến đấu. Đến với các chiến sĩ ở đảo Cồn cỏ,
nhà văn cho ra đời thiên ký sự Họ sống và chiến đấu. Những chuyến đi đến
với các chiến sĩ công binh đang trấn giữ một địa điểm cực kỳ ác liệt ở trường
Sơn, ông viết Đường trong mây. Vào đất lửa Vĩnh Linh, đến với những con
người xông pha mọi hiểm nguy để đưa hàng tiếp tế ra Cồn cỏ, nhà văn viết
Ra đảo. Ông viết Chiến sĩ khi đi chiến dịch Đường Chín - Nam Lào, viết
Tháng ba ở Tây Nguyên khi tham gia chiến dịch giải phóng miền Nam.
Nguyễn Khải là nhà văn mặc áo lính nên khi viết về những người anh hùng,
ngòi bút của ông đầy hào hứng và nhiệt huyết. Cuộc chiến tranh ác liệt của
nhân dân và quân đội ta được ông phản ánh rõ nét vào trong những tác phẩm
thời kỳ này. Âm hưởng chủ đạo của tác phẩm Nguyễn Khải cả giai đoạn này
là ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng và ca ngợi những con người sống có
lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Giải phóng miền Nam, đất nước thống nhất, cả dân tộc hân hoan bước
vào một chặng đường lịch sử mới. Sự nhạy bén giúp Nguyễn Khải khám phá
ra một hiện thực mới mẻ - hiện thực cuộc sống miền Nam sau ngày giải
phóng. Các tác phẩm: Cách mạng, Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của
người... đề cập đến những thay đổi của cuộc sống sau chiến tranh, nhất là đổi
thay trong nhận thức, tư tưởng, tình cảm của những con người vốn đã gắn bó
với chế độ Sài Gòn cũ.
Tác phẩm của Nguyễn Khải giai đoạn này chuyển từ tính ham tranh luận
sang chiêm nghiệm, triết lý. Có lẽ tuổi đời và sự từng trải đã làm cho suy nghĩ
của nhà văn "già" đi, văn của ông theo đó cũng có những chuyển biến trong
tư tưởng và trong phong cách viết. Sự chuyển biến ấy thể hiện sự vận động
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
của ngòi bút Nguyễn Khải và cũng nằm trong sự vận động của cả một nền văn
học trước và sau đổi mới. Tuy nhiên, sự chuyển biến của phong cách Nguyễn
Khải là thống nhất, không đứt đoạn.
Đất nước tiến hành sự nghiệp đổi mới, sự xuất hiện của nền kinh tế thị
trường đã đem lại nhiều biến chuyển lớn lao cho xã hội. Nguyễn Khải vẫn
tiếp tục đi và viết. Dù đến với nhiều miền đất lạ hay trở lại những mảnh đất
mà ông đã từng qua, Nguyễn Khải đều khắc khoải với những con người,
những số phận đau khổ, éo le trong cuộc sống xô bồ hiện tại. Ông ghi lại
những đổi thay nhanh chóng của đời sống, nói lên những trải nghiệm của cá
nhân, những suy nghĩ về thời gian, về giới hạn của cuộc đời, về khả năng
vượt qua những giới hạn đó ở mỗi con người, mỗi thế hệ. Nguyễn Khải bắt
nhịp nhanh với hơi thở của cuộc sống hiện tại, nhiều truyện ngắn của ông thời
kỳ này đã phát hiện nhiều vấn đề nhân sinh ẩn giấu sau những cuộc đời,
những quan niệm về đạo đức truyền thống, lợi ích kinh tế, giá trị đồng tiền...:
Cái thời lãng mạn, Hai ông già ở Đồng Tháp Mười, Anh hùng bĩ vận,
Người kể chuyện thuê, Tiền, Chúng tôi và bọn hắn...So với những sáng tác
thời trẻ, truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ này đằm thắm, bao dung hơn
trong cách nhìn đời, nhìn người.
Men theo thời gian chúng ta đã phác hoạ chặng đường nghệ thuật hơn
nửa thế kỷ cầm bút của đời văn Nguyễn Khải. Ông là nhà văn của lý tưởng,
của những triết lý nhân sinh, của những khát khao vô tận được sống để sáng
tạo nên nhiều tác phẩm văn chương đích thực phục vụ cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc cũng như nhiệm vụ xây dựng con người mới cho xã hội.
1.2.2. Truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới
Nguyễn Khải không chỉ là nhà tiểu thuyết tài năng với Xung đột, Gặp
gỡ cuối năm, Điều tra về một cái chết, Một cõi nhân gian bé tí, Cha và
con và..., Thời gian của người, Vòng sóng đến vô cùng ..., Nguyễn Khải còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
là cây bút truyện ngắn rất có duyên. Đặc biệt truyện ngắn thời kỳ đổi mới của
ông có một sức hấp dẫn kì lạ.
Nhà văn tự phân chia quá trình sáng tác của mình thành hai thời kỳ: "Từ
1955 đến 1977 tôi sáng tác theo một cách. Từ 1978 đến nay sáng tác theo
cách khác". Thực ra sự chuyến biến về tư tưởng và nghệ thuật từ sau 1975 là
hiện tượng chung của nhiều cây bút, không chỉ riêng Nguyễn Khải. Tuy nhiên
mức độ chuyển biến ở mỗi cây bút có khác nhau, tuỳ theo bản lĩnh và sự nhạy
cảm với thời thế của mỗi người. Đại hội lần thứ VI của Đảng với tinh thần
dân chủ và khẩu hiệu: "nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật" dường như
đã đáp ứng nhu cầu tự thân của Nguyễn Khải. Sáng tác của Nguyễn Khải thời
kỳ này đặc biệt nở rộ, trong đó có sự thành công ở thể loại truyện ngắn.
Đất nước tiến hành đổi mới, đăc biệt sự xuất hiện của nền kinh tế thị
trường đem lại nhiều biến đổi tốt đẹp cho xã hội. Bên cạnh đó nó cũng làm
biến dạng hàng loạt những quan hệ xã hội, những quan niệm, tình cảm đẹp đẽ
trước đây của con người. Con người quan niệm rất khác về cuộc sống, về đạo
đức cá nhân và cách ứng xử của họ về đồng tiền cũng khác trước... Đây là
thời gian Nguyễn Khải đi thăm lại những nơi, những con người mà ông đã có
dịp qua, đã có dịp viết về họ. Ông cũng gặp lại những người quen cũ, bạn bè,
người thân, họ hàng. Và cùng với sự từng trải của một người đi nhiều, viết
nhiều, cảm xúc hiện thực đã giúp Nguyễn Khải tái hiện trong các truyện ngắn
của mình chất liệu đời sống "ngổn ngang, bề bộn" ấy. Nguyễn Khải có khả
năng sống và chớp lấy sự thật, sự thật tiềm ẩn trong cái bình thường, trong
những sự việc hàng ngày của đời sống thực.Những sự việc ấy tưởng chừng
như chẳng có gì, nhưng dưới con mắt của Nguyễn Khải đều trở thành những
sự việc "có vấn đề". Điều hấp dẫn ở ngòi bút Nguyễn Khải là qua những sự
việc đời thường, ông đã tìm thấy chân lý ở bề sâu của nó. Cuộc sống và cuộc
đời trong con mắt ông không đơn lặng, phẳng chiều, không êm đẹp mà thô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
nhám, xù xì, đầy cam go và thử thách như nó vốn có. Như vậy, giá trị sáng tác
của Nguyễn Khải là sự gắn bó giữa sáng tác và cuộc sống.
Sáng tác của Nguyễn Khải thời kỳ này tập trung vào hai đề tài chủ yếu:
"Một là cuộc sống hôm nay của những người chung quanh, bạn bè đồng
nghiệp quen biết, cùng tuổi tác và tâm sự. Hai là số phận của những người
thân trong họ hàng nội ngoại của tác giả, những ông cậu bà mợ mà tâm tư
tình cảm Nguyễn Khải còn quyến luyến" [41,tr116]. Đây là thời kỳ cảm hứng
triết lý, tranh biện của tác giả có cơ hội thể hiện. Triết lý là một ưu thế tạo ra
phong cách rất riêng cho văn Nguyễn Khải. Người ta ví ông là một "Chế Lan
Viên trong văn xuôi" quả không sai, bởi ông là một người rất tỉnh táo, tỉnh táo
trước Thời và Thế và giàu khả năng triết lý trước các vấn đề của đời sống thế
sự nhân sinh.
Thế giới nhân vật của Nguyễn Khải thời kỳ này thực sự phong phú: từ
già đến trẻ; từ thông minh, tháo vát đến vụng về; từ lạc thời, bế tắc đến gặp
thời; từ chân thật đến xảo trá... Mỗi nhân vật là một vẻ nhưng họ đều chứa
đựng một triết lý sống của "thì hiện tại". Trong Chút phấn._. ông Trắc:
"Tôi, vâng chính tôi, một thằng nhà báo già thiếu tài năng nhưng không thiếu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
102
tâm huyết (...) Nhưng họ đã quên tôi rồi. Tôi ngồi sờ sờ ở đây mà họ vẫn
muốn quên, một lời mời cho tử tế cũng chả có. Mà quen biết tôi, bầu bạn với
tôi, các vị ấy chẳng được một chút lợi lộc gì. Tôi không có tiền lại không có
danh, có khi còn gây phiền. Nhưng tôi có tấm lòng trung thực (...) chỉ tiếc cái
tấm lòng ấy không thể bày lên bàn tiệc mà nhắm rượu. Bây giờ người ta chỉ
nhắm rượu với cái lợi, cái danh thôi, với người sang hoặc người có tiền thôi.
Tôi nói thế có đúng không các vị? Buồn nhỉ? Tôi buồn quá các người ơi!"
[19.tr.355-356].
Ngòi bút uyển chuyển linh hoạt của nhà văn đã kết hợp khéo léo giữa
ngôn ngữ độc thoại nội tâm và ngôn ngữ tác giả, sự hoà trộn tinh vi đến mức
người đọc khó lòng nhận biết nhân vật đang nói hay nhà văn đang nói. Như
vậy, dù người kể vẫn ở ngôi thứ ba nhưng đến đây hoàn toàn nhập vào nhân
vật để nó kể, suy nghĩ bằng ngôi thứ nhất. Nhờ sự kết hợp tài tình này, chân
dung tính cách nhân vật và tư tưởng tác phẩm được khắc hoạ rõ nét.
Mở đầu chuyện ngắn Ông cháu, cái nhìn khách quan giúp người đọc có
thể hình dung phần nào cảnh ngộ éo le của nhân vật. Người trần thuật đã phác
hoạ đôi nét về cuộc sống của hai ông cháu trong những ngày tha phương cầu
thực. Dõi theo mạch trần thuật, chúng ta có thể nhìn thấy điểm nhìn từ bên
ngoài ở phần đầu câu chuyện đã di chuyển vào bên trong nhân vật nhằm tái
hiện lại cuộc đời cay đắng, nhọc nhằn của một con người đã bị số phận "đùa
giỡn" ."Trời bắt ông khoẻ để hầu vợ và chôn vợ, để hầu con và chôn con".
Nhìn câu văn bề ngoài đó là ngôn ngữ người trần thuật, nhưng nội dung thông
báo lại là của nhân vật. Lúc nào trong ông cũng vang lên câu hỏi như cứa
thêm vào trái tim vốn đã tan nát của ông: "Tại sao ông lại khoẻ thế mà con
ông lại bệnh tật thế ? Tại sao ông không chết mà con ông lại chết để vợ con
nó chịu cảnh goá bụa sớm? Tại sao ông lại nghèo thế, con chết rồi, nhà cửa
tan tành, vợ con nó biết trông cậy vào đâu" [19,tr.315]. Đây là lời người trần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
103
thuật nói về nhân vật hay là lời tự vấn lương tâm của chính nhân vật ? Câu
văn chứa đựng nhiều ý nghĩa, vừa là tâm trạng đau đớn đến tột cùng của
người cha, vừa là niềm thương cảm của tác giả gửi gắm vào trong câu văn,
hay nói đúng hơn là sự hoá thân của Nguyễn Khải vào nhân vật của mình để
lột tả những diễn biến nội tâm đang giằng xé của một trái tim yêu thương và
nhân hậu. Ngòi bút Nguyễn Khải khi thì đứng tách ra quan sát các nhân vật
trong thái độ, hành vi đối với nhau, khi lại nhập hẳn vào nhân vật trong ý
nghĩ, trong tình cảm để bình xét, để phân tích. Nguyễn Khải đã đưa lại một
hiệu quả đặc sắc cho lối trần thuật vốn thông dụng và cổ điển này.
3.2.2. Lối trần thuật ở ngôi thứ nhất
M.Gorki đã từng nói: "Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người
được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả. Tác giả luôn
ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ thế nào, giải thích
cho người đọc hiểu những ý nghĩ thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau các
nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu
tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực
hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất
khéo léo mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời nói,
những việc làm, những mối tương quan của họ" [5,tr.247]. Trong truyện ngắn
thời kỳ đổi mới, Nguyễn Khải không dừng lại ở việc trần thuật khách quan
những sự việc, sự kiện mà còn hoá thân vào nhân vật, trở thành một nhân vật
Tôi nào đó trong tác phẩm để quan sát và miêu tả, kể chuyện theo cách nhìn
và quan điểm cá nhân. Trong truyện ngắn Nguyễn Khải, nhân vật người kể
chuyện xưng Tôi xuất hiện khá nhiều. Không phải kiểu nhân vật đặc biệt do
nhà văn sáng tạo ra (ví dụ như người điên trong Nhật kí người điên của Lỗ
Tấn), nhân vật người kể chuyện trong sáng tác Nguyễn Khải phần nhiều là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
104
hình tượng của chính tác giả. Tất nhiên không nên đồng nhất hoàn toàn nhân
vật người kể chuyện dạng này với con người thật của tác giả ngoài đời.
Nguyễn Khải nhập vai cái Tôi này một cách thật đa dạng, sinh động, khi
thì với tư cách người chứng kiến, xác nhận (Đàn ông, Phía khuất mặt
người, Một bàn tay và chín bàn tay, Lãng tử, Chuyện tình của mỗi
người), khi khác là người trong cuộc, tự nếm trải giãi bày (Người ngu, Mẹ và
bà ngoại, Một chiều mùa đông, Chút phấn của đời). Với sự nhập vai này,
nhà văn đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phân tích và phát hiện vấn
đề. Với cái Tôi riêng tư, nhân vật được soi chiếu ở nhiều góc cạnh và nhờ đó
được tự do bình luận, bày tỏ quan điểm theo ý nghĩ chủ quan của mình. Sử
dụng lối trần thuật theo ngôi thứ nhất, cái Tôi trong truyện ngắn Nguyễn Khải
thường được thể hiện ở hai dạng:
3.2.2.1."Tôi" là nhân chứng, là người quan sát kể lại câu chuyện
Với tư cách người chứng kiến, người kể chuyện xuất hiện trong truyện
ngắn ngay từ đầu. "Tôi về xã Đồng Tiến là do sự rủ rê của một người bạn"
(Cái thời lãng mạn), "Mỗi lần ra Hà Nội tôi thường dùng bữa ở quán cơm
nhìn sang bãi xe khách Bến Nứa" (Chuyện tình của mỗi người), "Chúng tôi
gọi cô là cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi" (Một người Hà
Nội)... Đấy là cách mở đầu quen thuộc từ điểm nhìn trần thuật của nhân vật
người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ Đổi mới.
Cùng với sự mở đầu như vậy, câu chuyện được dẫn dắt theo mạch kể của
người kể chuyện. Bởi nội dung kể là những sự việc, sự kiện đã từng xảy ra và
nhân vật được kể là người thân, bạn bè, đồng nghiệp, xóm giềng của người kể
chuyện nên câu chuyện cũng được soi chiếu từ nhiều phía, dưới nhiều góc độ,
từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại trở về quá khứ. Trong vai một người
hàng xóm, Nguyễn Khải đã kể tỉ mỉ cuộc sống của chị Vách (Đời khổ), từ sự
phục tùng tuyệt đối của chị đối với ông chồng vô tích sự, sự chăm lo hết lòng,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
105
hết sức cho cái gia đình vốn không lấy gì làm bé nhỏ lắm và trên hết dưới mắt
tác giả, chị là người đàn bà "vô lo, vô nghĩ". Dõi theo từng đoạn đời chị Vách,
người kể luôn luôn ngạc nhiên và cũng khâm phục sức chịu đựng, hy sinh vì
người khác của chị. Đứng ở một vị trí quan sát vô cùng tiện lợi - một người
hàng xóm, người kể có thể nhận thấy rõ ràng mọi sự kiện trong cuộc đời chị
Vách, và cuộc sống riêng tư của chị đã được nhân vật Tôi miêu tả bằng giọng
kể chân thực khách quan. Ẩn sau lời văn ấy là sự chua xót, thương cảm của
người kể về nỗi khổ đeo đẳng suốt cuộc đời chị Vách. Và nỗi xót thương đối
với nhân vật đã đồng vọng trong lời bình luận của Tôi: "Vâng tại chị cả, trăm
tội, ngàn tội phải đổ lên đầu chị nếu ông chồng siêu đẳng của chị còn sống thì
chúng nó đâu đến nỗi (...) chính tôi cũng muốn bật khóc".
Truyện Nắng chiều với những chi tiết, hình ảnh giản dị, người kể đã
giúp người đọc hình dung cái ngọt ngào của hạnh phúc muộn mằn của những
người "xế bóng". Cả cuộc đời chị Bơ phải chịu thiệt thòi, thiếu thốn tình cảm.
Một người đàn bà tưởng con dòng cháu giống hoá ra cả đời hầu hạ các em,
các cháu, về già mới có chút hạnh phúc riêng. Tái hiện cuộc đời chị Bơ, lời kể
ẩn chứa nhiều xót xa thương cảm, nhưng cũng có niềm vui, sự xúc động trước
tình cảm mọi người dành cho chị. Niềm hạnh phúc đến với chị, theo người kể,
một phần là do "mãnh lực tình yêu" của các cụ "không tiêu xài phung phí lúc
thiếu thời" và một phần quan trọng là "ở cái tâm tốt của con người". Qua
cuộc đời, số phận và niềm hạnh phúc của người chị họ, người kể dường như
muốn khái quát lên thành vấn đề có ý nghĩa triết lý nhân sinh về hạnh phúc,
tình yêu, sự bất tử của nó cũng như mối quan hệ giữa nó với chữ " tâm" của
con người".
Nổi bật trong các truyện ngắn của Nguyễn Khải ở những truyện thuộc
dạng này là giọng điệu ngợi ca, trân trọng và kính phục đối với các nhân vật
của mình. Từ bà cô trong Nếp nhà, cô Hiền (Một người Hà Nội )... hay một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
106
nghệ nhân ở làng, đến những con người lăn lộn với thương trường hôm qua
như Hiền (Tiền) và hôm nay như Lộc (Chúng tôi và bọn hắn)... Người nào
cũng đẹp, cũng có một nhân cách, tuy nhân cách của mỗi người một khác theo
cách ứng xử trước thời thế, nhưng họ đều là tấm gương về mặt này hay mặt
kia. Tất cả các nhân vật đều sống động như trong cuộc sống thực. Chọn
phương pháp kể chuyện ở ngôi thứ nhất, nhà văn có điều kiện bày tỏ tình cảm
của mình một cách chân thành nhất, đồng thời vẫn tái hiện được những nhân
cách cao đẹp.
Ở truyện ngắn Cặp vợ chồng dưới chân động Từ Thức, nhân vật Tôi
đến thăm gia đình Toàn. Với lòng cảm thông, khâm phục trước cuộc sống của
một anh thương binh mù và người vợ tần tảo, và một niềm xúc động trước
bản lĩnh sống của họ, người kể đã có những câu văn hết sức chân thành, xúc
động: "Tôi bưng bát cơm gạo xấu lên mà lòng cứ ngậm ngùi. Những người
quá giàu lòng tự trọng, lại có tính hay xấu hổ là sống gian truân lắm. Nhưng
không có những con người gàn dở ấy, những số phận ít gặp may ấy thì cuộc
đời nhạt nhẽo biết chừng nào" [19,tr.283].
Có khi tác giả là người trần thuật ban đầu nhưng sau đó tham gia vào cốt
truyện, gia nhập vào những cảnh ngộ để nói lên tiếng nói của người nếm trải
như truyện Hai ông già ở Đồng Tháp Mười. Hai con người hoàn toàn xa lạ,
nay do thời thế họ gặp nhau và dựa vào nhau để có chỗ đứng trong cuộc sống.
Nhưng Nguyễn Khải không dừng lại miêu tả tỉ mỉ những biến cố trong cuộc
đời họ mà chỉ dừng lại miêu tả tâm lý, tinh thần của con người trước tai hoạ.
Ông Hai trải qua bi quan tuyệt vọng đã có lúc nghĩ đến cái chết nhưng nhờ có
tình cảm đùm bọc, yêu thương của con người, cuộc sống của ông dần dần hồi
sinh trở lại. Một con ngưòi từng biết "cái mặn chát của một kiếp người" nay
đã phải ứa nước mắt "vì cái khắc nghiệt của đời cũng có mà cái bao dung của
đời cũng có". Còn niềm tin của ông Ba Quốc Hội là công lao của ông dù được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
công nhận hay không, ông không cần nói ra, miễn sao khi gặp mọi người
lương tâm ông được thanh thản "không phải ngượng nghịu, xấu hổ" là được.
Trực tiếp đối thoại cùng nhân vật, người kể đã phát hiện ra tiềm lực tinh thần
của con người: "Cái tiềm lực của ông già lớn thật, người mạnh như thế cứ rẽ
sóng, rẽ gió mà đi, có tai hoạ rủi ro nào dám bén mảng" [19,tr.215]. Sâu sắc
hơn là tình cảm người kể chuyện đối với con người và cuộc đời: "Một gương
mặt rạng rỡ, tự tin, một gương mặt nhẫn nhục chịu đựng, hai gương mặt của
một kiếp người sao khéo gặp nhau để gợi nên một niềm vui, một niềm tin mà
chỉ lúc đứng tuổi mới nhận ra cái ý nghĩa thâm trầm của nó" [19,tr.223].
3.2.2.2. "Tôi" là nhân vật chính tự kể về mình
Sáng tác theo kiểu trần thuật này là cái Tôi tự bộc bạch tâm tư tình cảm
của mình, chủ thể trần thuật được "nhân vật hoá" trực tiếp làm người kể
chuyện, kể lại chuyện của chính mình. Cái Tôi của người kể chuyện nhiều khi
trùng hợp với các sự kiện đời sống và tâm tư tình cảm của bản thân nhà văn.
Nhưng cũng có khi chỉ để thể hiện "cái ngoài mình", một hiện thực cuộc sống
được "khúc xạ qua lăng kính của nhà văn". Và khi đó cái Tôi không hoàn
toàn đồng nhất với số phận, tính cách của nhà văn. Kiểu trần thuật này được
thể hiện qua các tác phẩm: Một giọt nắng nhạt, Nghề văn cũng lắm công
phu, Chút phấn của đời, Anh hùng bĩ vận... Những sáng tác trên đều là
"hình thức trần thuật có tính bộc lộ chủ quan và mang sắc thái cảm xúc cao
độ" [33,tr.150].
Người trần thuật ở đây hoàn toàn nhập vào nhân vật để quan sát, giãi
bày, tự mổ xẻ, phân tích nội tâm của mình. Tác giả là người hướng vào diễn
biến tâm lý bên trong của cái Tôi đang ở vai trò người kể chuyện. Chuyện
được kể theo trình tự thời gian, với lối nói dung dị, chân dung người kể
chuyện dần dần hiện ra trước mắt độc giả với những nét dáng và phẩm chất cụ
thể. Người vợ- người mẹ trong Chút phấn của đời tự thuật lại câu chuyện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
với một sự tự ý thức về bản thân cao độ. Đó là một người phụ nữ tuổi ngoài
40 mà vẫn đẹp, vẫn đầy sức thu hút và chinh phục người khác phái. Người
phụ nữ ấy có quyền mơ ước một cuộc sống cao sang và hoàn toàn có thể thực
hiện được niềm mơ ước ấy. Thế nhưng, không chạy theo những ảo tưởng xa
xôi. người đàn bà đẹp đã ý thức về vị thế của mình, ý thức được quy luật của
sự "cho" và "nhận" trong cuộc sống. Nhập vai vào nhân vật, thể hiện nội tâm
đầy phức tạp của người phụ nữ đẹp chấp nhận cuộc đời làm vợ, làm mẹ bình
thường với biết bao vất vả, người kể chuyện đã thể hiện sự cảm thông, chia
sẻ, thấu hiểu mọi cung bậc tình cảm và tâm hồn nhân vật. Lời tâm sự của
nhân vật trong trang sách ta nghe như lời chuyện trò, giãi bày của một người
bạn ở ngoài cuộc đời: "Tôi vẫn vui chứ! Nhưng là niềm vui của sự cho, của hy
sinh, nó là chút phấn của đời giúp mình sống yên ổn những năm còn lại. Ở
hoàn cảnh tôi, ở lứa tuổi tôi còn mong được nhận để bù lại nhiều năm đã
thiếu tức là tìm niềm vui trên gai nhọn. Tôi còn có nhiều máu đâu để hy vọng
hồi sinh. Đó là một bí mật nho nhỏ tôi muốn giữ riêng cho tới khi chết" (Chút
phấn của đời).
Trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới "có một người kể
chuyện đóng vai tác giả là nhà văn, nhà báo, là "Chú Khải", "Ông Khải..."
cùng với rất nhiều chi tiết tiểu sử như biểu hiện nhu cầu nhà văn muốn nói về
mình, muốn coi mình là đối tượng của văn chương" [4,tr.141]. Trong lời Tự
bạch, nhà văn đã từng tâm sự: "Nếu một truyện ngắn hoặc một cuốn tuểu
thuyết chỉ có chuyện của người không có chuyện của mình thì mạng sống của
nó không thể dài hơn một bài báo (...) Mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi,
nói cho cùng đều là tôi cả hoặc có thể là tôi, nên có những truyện được viết
cách đây đã trên dưới bốn chục năm, nay đọc lại vẫn đem lại cho tôi nhũng
cảm nghĩ bây giờ, những xúc động bây giờ" [26,tr.421]. Tâm lý chung của
độc giả là đã tin thì dễ yêu. Khi nhà văn đem chính chuyện đời mình, người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
thân của mình ra mà kể, chờ đợi một lời khuyên bảo, phán xét từ phía người
nghe thì giữa độc giả và tác giả tự nhiên thiết lập mối quan hệ tâm tình bè
bạn. Tâm lý đó rất thuận lợi để tiếp nhận thái độ yêu ghét của người kể thể
hiện qua giọng kể nói riêng và tác phẩm nói chung.
Người ta thấy, "Nguyễn Khải hay viết về bản thân mình, một lối hồi ký,
tự truyện" (Nguyễn Đăng Mạnh). Và trong thế giới nghệ thuật của ông, người
ta thường thấy có bóng dáng ông, hình mẫu lí tưởng của ông hay bóng dáng
những người dì, người mẹ, bóng dáng những kỷ niệm ngọt ngào và cay đắng
của tuổi thơ ông. Ông khai thác triệt để vào cái kho kinh nghiệm riêng, vốn
trải nghiệm riêng của mình để viết nên nhiều truyện ngắn mang tính chất hồi
ức. Cầm bút viết văn, Nguyễn Khải nghĩ: "Tôi đã gặp lại chính tôi, gặp lại
những người thân thiết của tôi để có dịp nhìn lại, ngẫm lại" con người và
cuộc đời (Hồi ức). Đó là những câu chuyện rất thật, rất chân thành, rất xúc
động, bởi "mọi truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi, nói cho cùng đều là tôi cả
hoặc có thể là tôi". Nhà văn chỉ có thể đặt bút viết nếu "được chạm vào việc
và những cảnh ngộ có thật trong cuộc sống" và "tôi chỉ mượn cái vỏ, cái xác
của người này, người kia, còn cái hồn phải là của chính mình" [19, tr6-7].
Đem cuộc đời của mình ra viết với một sự thành thực như 'lộn trái" bản
thân, truyện ngắn Nguyễn Khải nhiều lúc giống như tự truyện. Ở những
truyện ngắn này, người kể chuyện thường đống vai nhân vật "Tôi", là "Ông
Khải", "Chú Khải" với rất nhiều chi tiết tự truyện. Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy nhân vật này xuất hiện trong truyện ngắn Nguyễn Khải một cách
khá dày đặc, phổ biến và chiếm tới 2/3 số lượng truyện ngắn của ông. Nếu
xâu chuỗi các sự kiện mà các nhân vật kể trong truyện ngắn thì ta nhận ra
bóng dáng, tiểu sử, những mốc thời gian trong cuộc đời của bản thân nhà văn.
Chẳng hạn những ngày tháng ông cùng mẹ và em trai về sơ tán ở Hưng Yên,
những ngày tháng sống ở bãi Phúc xá, phố Đỗ Hữu Vị, gia nhập đội dân quân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
tự vệ... Nguyễn Khải rất có ý thức trong việc xây dựng cái "Tôi" tự hoạ này.
Trong nhiều truyện của ông, cái nổi bật không phải là những tình tiết li kì hay
những nhân vật khác lạ, mà chủ yếu xoay quanh những suy ngẫm, thái độ, tình
cảm hay cách đánh giá của cái "Tôi" - nhà văn về cuộc sống và con người.
Ở truyện ngắn Một giọt nắng nhạt người ta thấy Nguyễn Khải đã đưa
tất cả cuộc đời lai lịch riêng lên trang giấy, cái "cánh cửa bị đóng chặt" (theo
cách nói của nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn) đã được mở toang ra. Tác giả
đem đời tư của mình viết nên những dòng tự truyện hấp dẫn. Mạch trần thuật
trong Một giọt nắng nhạt luôn được nối tiếp, đan xen giữa quá khứ và hiện
tại. Nhân vật Tôi sau những gì mà tuổi ấu thơ của mình từng nếm trải, đã ý
thức để vượt lên chính mình. Toàn truyện là "những lời thiết tha thầm kín,
những hồi ức về một cái tôi đau khổ, tự trình bày cuộc đời riêng" của mình.
Tuổi thơ của Tôi in đậm nỗi khổ đau của một cậu bé vốn khờ khạo, vụng về,
lại là con của một người vợ lẽ, nhưng bị chồng hắt hủi, ghẻ lạnh nên cuộc
sống cơ cực phải chạy ăn từng bữa. Đó là cuộc sống ê chề, nhục nhã đến nỗi
vài chục năm sau khi nhớ lại, tác giả vẫn còn thấy "ớn rợn": "Con chẳng ra
con, đầy tớ chẳng ra đầy tớ, bỏ đi không được, cứ nhẫn nhục trơ tráo mà
sống" [15,tr.510]. Dòng tự truyện của nhân vật xoay quanh thời thơ ấu gian
khổ, đắng cay, có lẽ không có một nỗi khổ nào mà nhân vật không phải trải
qua, nhất là khi bị nghi là ăn cắp và bị đuổi ra khỏi nhà... Tôi quay trở về với
mẹ và em trong một thân hình ghẻ lở, ốm yếu và cuộc sống bi đát đến mức cả
ba mẹ con nghĩ đến chuyện cùng nhau tự tử... Tất cả được tái hiện một cách
chân thực qua lời tự truyện của người kể. Cuộc sống, như người kể từng
khẳng định: "Cái khổ cũng có giới hạn của nó, khổ quá người ta có thể chết,
mà đã chết là hết cả mọi chuyện, hết lo, hết sợ, hết nhục, hết cả đói"
[15,tr.550].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Tôi trong Nghề văn cũng lắm công phu đã kể về bước đầu "chập
chững" đến với văn học, dần dần qua trau dồi, rèn luyện đã trở nên vững
vàng, gắn bó với nó đến mức "dù nghề bạc đãi tôi, hành hạ tôi dù là thế tôi
vẫn tự nhủ quyết không bỏ" [15,tr.666]. Nhân vật Tôi trong truyện không có
sự giằng xé nội tâm, dằn vặt, mổ xẻ tâm lý như người hoạ sĩ trong truyện
ngắn Bức tranh (Nguyễn Minh Châu) mà chỉ là lời kể, dẫn dắt người đọc đến
với những kỷ niệm vui buồn trong nghề viết văn của mình.
Trong văn học thời kỳ đổi mới, nhà văn Nguyễn Minh Châu cũng hay sử
dụng lối trần thuật ở ngôi thứ nhất. Nhân vật Tôi của Nguyễn Minh Châu
cũng thường là nhân vật trí thức làm nghề viết văn, viết báo. Nhưng ở Nguyễn
Khải, "nhân vật Người kể chuyện hữu hình mang dáng dấp cái tôi tự hoạ đầy
ý thức của nhà văn" đậm nét hơn. Và đó "là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc
của Nguyễn Khải về kiểu con người tự ý thức trong văn học, đặc biệt là văn
học thời kỳ Đổi mới" [29,tr.190]. Trên một vài phương diện có thể nói, kiểu
chân dung tự hoạ của Nguyễn Khải có những điểm tương đồng với kiểu chân dung
tự hoạ của Nam Cao ở khát vọng nhận thức và nhu cầu giãi bày, chiêm nghiệm.
Trong sáng tác của Nguyễn Khải, các điểm nhìn trần thuật được nhà văn
lựa chọn rất phù hợp với từng kiểu loại nhân vật để gửi gắm tình cảm, tư
tưởng và ý đồ nghệ thuật của mình. Các điểm nhìn trần thuật này, một mặt,
tạo nên chiều sâu cho bối cảnh, cho nhân vật, mặt khác góp phần quan trọng
vào việc tạo ra giọng điệu. Tuy nhiên, "dù có xuất hiện hay không xuất hiện
nhân vật Người kể chuyện (hữu hình hay vô hình), người đọc vẫn thấy ám ảnh
bóng dáng và tư tưởng của hình tượng tác giả - nhà văn Nguyễn Khải"
[29,tr.192]. Đúng như ý kiến của nghiên cứu Vương Trí Nhàn: "Trong những
trường hợp thành công nhất của mình, Nguyễn Khải hiện ra như một người kể
chuyện thông minh, la cà khắp nơi chia sẻ với mọi người mọi vui buồn khi quan
sát việc đời. Đó là một phong cách vừa dân dã, vừa hiện đại" [31,tr.120].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
KẾT LUẬN
Với hơn nửa thế kỷ sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Khải đã thể hiện một tài
năng, một cá tính sáng tạo của một nhà văn có phong cách. Ông vẫn khiêm
tốn tự cho cuộc đời mình chỉ là "một giọt nắng nhạt", chỉ là cuộc đời viết văn
của một công chức, nhưng thực ra đó là cuộc đời của một con người không
ngừng hướng tới sáng tạo và tự hoàn thiện mình. Những công trình nghệ thuật
của Nguyễn Khải đã khẳng định vị trí và đóng góp lớn lao của ông trong sự
phát triển của nền văn chương Việt Nam thời hiện đại.
Luận văn Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải
thời kỳ đổi mới là một đóng góp nhỏ bé của chúng tôi vào tiến trình tìm hiểu
các giá trị của sáng tác Nguyễn Khải. Qua việc nghiên cứu hình tượng tác giả
trong truyện ngắn Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới, chúng tôi có thể rút ra một
số kết luận sau đây:
1. Truyện ngắn của Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới đã thực sự được bạn
đọc mến mộ. Truyện ngắn của ông đã nắm bắt và thể hiện bao đổi thay của
con người, của cuộc sống trong thời kỳ đổi mới của đất nước. Ngòi bút sắc
sảo, đầy "chất văn xuôi" của nhà văn luôn hấp dẫn đối với độc giả vì họ tìm
thấy "cái mình cần" trong chiêm nghiệm của một tác giả luôn bám sát từng
bước đi của đời sống xã hội và quan tâm đặc biệt tới số phận con người trước
những thay đổi của lịch sử.
2. Trong những truyện ngắn thời kỳ đổi mới của Nguyễn Khải, hình
tượng tác giả được thể hiện trong cách khai thác, khám phá sự vật, con người
ở rất nhiều chiều thông qua một nhãn quan sắc sảo. Cái nhìn về con người, về
cuộc đời không còn giản đơn, một chiều, "chỉ nhìn thấy cái nửa mà ai cũng
thấy" như trước nữa mà giờ đây là một cái nhìn đầy trăn trở, suy nghiệm, đa
chiều, vận động theo hướng đi gần hơn với cuộc sống. Chính vì vậy, cái nhìn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
nghệ thuật của nhà văn về con người và cuộc đời trở nên đa dạng, phong phú
và sâu sắc hơn: vừa hiện thực tỉnh táo, vừa sắc sảo tinh tế lại vừa giàu tính
phân tích.
3. Cảm hứng nghiên cứu, khám phá chiêm nghiệm đời sống đã chi phối
giọng điệu trong tác phẩm của nhà văn, một giọng điệu trần thuật đa thanh,
phức điệu, mang đậm chất tiểu thuyết: chia sẻ với nỗi niềm của con người
trước cuộc đời; hài hước, hóm hỉnh, thâm trầm trong lối diễn đạt; tranh biện
để kiếm tìm, chân lý đời sống; chiêm nghiệm, triết lý về một vấn đề, một hiện
tượng nào đó trong cuộc đời...
4. Đến thời kỳ đổi mới, lối trần thuật của nhà văn có nhiều biến đổi, từ
cái nhìn khách quan gần như tuyệt đối nay chuyển sang cái nhìn chủ quan.
Nhà văn không đứng ngoài quan sát miêu tả nhân vật một cách lạnh lùng mà
thâm nhập sâu hơn vào thế giới nội tâm nhân vật, thăm dò khám phá chiều
sâu bí ẩn trong đời sống tinh thần con người.
Nhân vật người kể chuyện là sáng tạo độc đáo nhất của Nguyễn Khải.
Hình tượng người kể chuyện ngôi thứ nhất có tham dự là nhà văn, nhà báo có
khi mang tên là Kh, là Khải với rất nhiều yếu tố tiểu sử cũng là một nét mới
trong truyện ngắn Nguyễn Khải. Ở đây, ta thấy hiện lên một người kể thông
minh, chịu đi, chịu tìm tòi, hay nhận xét, la cà khắp nơi, chia sẻ với mọi người
mọi suy nghĩ, vui buồn khi quan sát việc đời.. Sự xuất hiện của một người kể
từng trải, hiểu đời, hiểu người, với những triết lý thông minh, sắc sảo trong
truyện ngắn Nguyễn Khải luôn cuốn hút bạn đọc. Bởi người kể hôm nay
không phải là người truyền phán chân lý mà chủ yếu kích thích bạn đọc cùng
bàn bạc tìm kiếm chân lý đời sống. Mong muốn đối thoại chính là biểu hiện
của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và bạn đọc.
5. Bóng dáng và tư tưởng của hình tượng tác giả - nhà văn Nguyễn Khải
hiện lên rõ nét trong truyện ngắn của ông thời kỳ đổi mới. Người đọc thấy:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
"Ông đang mải miết đi giữa dòng đời xuôi ngược, chăm chú nhìn ngắm con
người và cuộc sống xung quanh, thỉnh thoảng dừng lại khen người này một
câu, bình luận về sự việc kia một chút, rồi tự giễu mình, nhạo đời, cứ tưng
tửng đùa mà thật ra ông đã phát hiện ra bao điều nghiêm túc về nhân sinh và
thế sự. Ông nhìn đi rồi ông nhìn lại, ông chiêm nghiệm rồi ông triết lý"
[29,tr.192]. Đó là một con người nhìn cuộc sống và con người với cái nhìn
nhiều chiều, trong nhiều mối quan hệ, một cái nhìn mang tính toàn vẹn của
Nguyễn Khải.
6. Trải qua hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Khải đã để lại một dấu ấn
riêng qua những truyện ngắn viết cuối thế kỷ XX. Mỗi trang văn của ông là
một trang đời của người cầm bút suốt đời không thôi trăn trở, nghĩ suy, mả i
mê kiếm tìm sự thật ở bề sâu của cuộc sống. Những trang đời không một chút
hổ thẹn với danh dự và danh phận của người cầm bút, bởi lẽ đi qua những
năm tháng cuộc đời, ông đã sống và viết như một người chiến sĩ trên mặt trận
tư tưởng, đã đem ngòi bút của mình trọn đời cống hiến cho sự nghiệp cách
mạng của dân tộc, của nhân dân. Cuối cùng, chúng tôi xin lấy lời nhận xét của
Vương Trí Nhàn làm lời kết cho luận án của mình: "Muốn hiểu con người
thời đại với tất cả cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ,
đời sống tinh thần của họ phải đọc Nguyễn Khải" [32]. Đó là lời khẳng định
vị trí quan trọng của Nguyễn Khải trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1994), "Đổi mới văn học vì sự phát triển", Tạp chí Văn học, (4).
2. Lại Nguyên Ân (1984), "Văn học và phê bình", Nguyễn Khải về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục.
3. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề về thi pháp Đôxtôiepxki, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Bình (1998), "Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết", Văn học, (7).
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ Văn
học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
6. Hà Nội trong mắt tôi (1998), Nxb Hà Nội.
7. Đông Hoài (1983), Nhận thức và thẩm định, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Hạnh (2002), "Vài ý kiến về tác phẩm của Nguyễn Khải",
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
9. Đoàn Trọng Huy (1990), "Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn
Khải", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
10. M.B. Khrapchenco (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển
văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam.
11. M.B. Khrapchenco (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu khoa học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Khải (1996), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, H.
13. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Tập I, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Tập III, Nxb Văn học, Hà Nội.
15. Nguyễn Khải (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải, Nxb Văn học, Hà Nội.
16. Nguyễn Khải (1997), Một thời gió bụi, tập truyện ngắn, Nxb Lao động.
17. Nguyễn Khải (1999), Chuyện nghề, Nxb Hội nhà văn, H.
18. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
19. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học.
20. Nguyễn Khải (2001), Sống ở đời, Tập truyện ngắn, Nxb Trẻ, thành phố
Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Khải (2002), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (tuyển chọn),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
22. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1986), Lý luận văn học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử, Nguyễn Thảo
(1987), Một thời văn học mới, H.
24. Nguyễn Đăng Mạnh (1982), Hai cuốn tiểu thuyết gần đây,Tác phẩm mới.
25. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), "Nguyễn Khải - Đời người đời văn", Nguyễn
Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
27. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
28. Chu Nga (2002), "Điểm nhìn ngòi bút hiện thực Nguyễn Khải", Nguyễn
Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
29. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn
Khải trong giảng dạy Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục.
30. Vương Trí Nhàn (1996), Tuyển tập Nguyễn Khải (tuyển chọn và giới
thiệu), tập 3, Nxb Văn học, H.
31. Vương Trí Nhàn (1996), "Nguyễn Khải trong sự vận động của văn học cách
mạng từ sau 1945", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
32. Vương Trí Nhàn (1996), Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Khải, tập 1, Nxb
Văn học, H.
33. Nhiều tác giả (1984), Từ điển Văn học, tập II, Nxb Khoa học xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
34. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
35. G.N. Pôspêlôv (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, tập 1, 2, Nxb Giáo dục.
36. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình Văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
37. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
38. Nguyễn Hữu Sơn (1999), "Đọc truyện ngắn và tạp văn của Nguyễn Khải",
Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
39. Bích Thu (1997), "Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải
những năm 80 đến nay", Nguyễn Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
40. Bích Thu (1998), Theo dòng Văn học, Nxb Khoa học Xã hội, H.
41. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (2002), Nguyễn Khải về tác gia và tác
phẩm (Tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA9096.pdf