LỜI MỞ ĐẦU
Lịch sử nhân loại luôn vận động biến đổi và phát triển không ngừng. Con người trong suốt quá trình hình thành, để tồn tại và phát triển đã lao động từ những hình thức đơn giản thô sơ cho tới những phương thức sản xuất hiện đại như ngày nay để tác động vào tự nhiên, chinh phục thiên nhiên tạo ra của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Nhân loại vẫn luôn luôn tự đặt ra những câu hỏi như: Chúng ta là ai, từ đâu
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Hình thái kinh tế - Xã hội với việc vận dụng nó vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến..? Hay khái quát ở cấp độ cao hơn như xã hội loài người là gì? xuất hiện như thế nào? vận động và phát triển ra sao?... Tất cả những điều đó đã đang và sẽ là những câu hỏi lớn đối với toàn thể nhân loại ở mọi thời đại. Loài người đã trải qua năm hình thái phát triển kinh tế xã hội là cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Mỗi dân tộc tự xác định cho mình hướng đi riêng trong từng giai đoạn lịch sử nhất định sao cho phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người, lấy cơ sở đấy làm kim chỉ nam, là bánh lái cho con thuyền cập bến được an toàn để phát triển kinh tế, xã hội. Nước ta xuất phát từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, vì vậy cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, để có thể phát triển đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội cần phải có một kế hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội phù hợp với những điều kiện vốn có của nước nhà. Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, bởi chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho mọi người dân được ấm no, tự do, hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc và phù hợp với xu thế phát triển của thời đại.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu môn triết học, em nhận thấy đề tài “ Hình thái kinh tế xã hội với việc vận dụng học thuyết hình thái kinh tế xã hội vào việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta” là một đề tài hay, hấp dẫn không ít những ai yêu thích môn triết học nói chung và các môn khoa học xã hội nói riêng cũng như những ai quan tâm đến quá trình phát triển của xã hội loài người, vì vậy em đã chọn đề tài này để nghiên cứu cho bài tiểu luận triết học của mình.
PHẦN NỘI DUNG
I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
Bất kỳ nhà nước nào ở mỗi giai đoạn lịch sử cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội thì vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Với mong muốn tìm hiểu về quá trình biến đổi của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử đã thu hút được nhiều nhà triết học, xã hội học giành công sức nghiên cứu, có người tìm câu trả lời ở các thần thánh ỏ thượng đế, ở một cõi siêu nhiên, có người cho đó là do vai trò của những cá nhân kiệt xuất có khả năng làm nên lịch sử, cũng có nhà triết học quan niệm sự vận động và phát triển của thế giới mà trong đó có xã hội loài người dựa vào sự vận động, “tha hoá” của ý niệm tuyệt đối....Tất cả những quan điểm đó (chủ nghĩa duy tâm và duy vật trước C.Mác) đều tỏ ra thiếu sức thuyết phục, chưa thể giải quyết một cách đúng đắn và khoa học những vấn đề đặt ra. Chỉ đến chủ nghĩa duy vật lịch sử (một trong ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác) các vấn đề trên mới được giải quyết một cách thực sự khoa học. Bằng sự kế thừa có chọn lọc những thành tựu triết học trước đó cùng với sự nghiên cứu tỉ mỉ về quá rình lịch sử loài người, học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của mác đã chỉ rõ những quy luật cơ bản của vận động xã hội, vạch ra phương pháp khoa học để giải thích lịch sử.
Với ý nghĩa và vai trò ấy, có thể xem học thuyết về hình thái kinh tế xã hội là hạt nhân lí luận, là hòn đá tảng của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
đây thực sự là một đóng góp to lớn, một thành tựu lý luận quan trọng trong việc giải quyết nguyên nhân và định hướng sự phát triển của xã hội trong thực tiễn.
Dưới sự phân tích khoa học và biện chứng của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phạm trù hình thái kinh tế xã hội không phải là một thực thể độc lập đơn lẻ, cứng nhắc mà nó rất sinh động và linh hoạt, tồn tại như một cơ thể sống, là sự thống nhất biện chứng của các mặt đối lập, mâu thuẫn nhau. Các mặt, các yếu tố cấu thành của một hình thái kinh tế xã hội gồm có: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (họp thành phương thức sản xuất) cơ sở hạ tầng (về quan hệ sản xuất) và kiến trúc thượng tầng. Các yếu tố này luôn luôn tác động qua lại, làm chuyển hoá lẫn nhau tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội, có sự thay thế nhau liên tục của các hình thái kinh tế xã hội trong lịch sử loài người.
1. Sản xuất vật chất và vai trò của nó đối với đời sống xã hội
Sản xuất vật chất.
Trước đây ở thời kỳ sơ khai nguyên thuỷ, để có thể duy trì sự sống con người chỉ biết sử dụng những thức ăn có sẵn trong tự nhiên bằng cách hái lượm, khi xã hội dần phát triển con người đã biết chế tạo ra những dụng cụ thô sơ cho tới hiện đại phục vụ cho việc tìm kiếm thức ăn và xây dụng chỗ ở, cứ như vậy trải qua thời gian biến đổi lâu dài con người đã biết sản xuất ra của cải vật chất từ những nguồn nguyên liệu có sẵn hoặc tổng hợp để tạo ra những hàng hoá phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt và đem lưu thông trao đổi rộng rãi, đó là hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo để phát triển của loài người. Sự sản xuất xã hội bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, và sản xuất ra bản thân con người, ba quá trình này không tách biệt với nhau mà có mối quan hệ đan xen, biện chứng song sản xuất vật chất giữ vai trò quan trọng nhất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội, quyết định toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát tiển của con người.
Theo Ph.Ăngghen “ lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người”, cùng với giới tự nhiên cung cấp những vật liệu cho hoạt động sản xuất, lao động là nguồn gốc của mọi của cải. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra tư liệu sinh hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung cũng như từng cá thể con người nói riêng.
Quá trình con người sử dụng sức lao động (thông qua công cụ lao động) tác động vào tự nhiên sản xuất ra của cải vật chất, thoả mãn nhu cầu con người, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với tính cách là chủ thể trong sản xuất, con người với sức lao động, kinh nghiệm, thói quen và tri thức khoa học-kĩ thuật của mình, sử dụng tư liệu lao động mà trước hết là công cụ tác động vào đối tượng lao động để tạo ra của cải vật chất.
C. Mác cho rằng “ Việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất trực tiếp tạo ra một cơ sở, từ đó mà người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của người ta.
1.2 Vai trò và ý nghĩa của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội
a) Vai trò của sản xuất vật chất đối với đời sống xã hội.
Quan điểm duy vật biện chứng của Mác: Sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển xã hội, biểu hiện:
+Sản xuất vật chất đảm bảo cho sự tồn tại của con người, trong quá trình sản xuất vật chất, con người làm biến đổi thiên nhiên, biến đổi xã hội và biến đổi chính bản thân họ, từ đó mà ta thấy vai trò to lớn của người lao động.
+Sản xuất vật chất của con người là cơ sở tái sản xuất ra quan hệ xã hội, mà trên cơ sở đó xây dựng nên toàn bộ những mối quan hệ xã hội khác như chính trị, pháp quyền, đạo đức, tôn giáo nghệ thuật, khoa học và cả triết học nữa.
+Sản xuất vật chất là cơ sở đánh giá sự tiến bộ xã hội quy định sự biến đổi phát triển các mặt đời sống xã hội, quy định sự phát triển từ thấp đến cao.
Ý nghĩa phương pháp luận
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, để có thể duy trì cuộc sống cho xã hội loài người không thể thiếu quá trình sản xuất vật chất, bởi những gì sẵn có trong tự nhiên không phải tất cả đề là vô hạn, nếu cứ khai thác mà không tìm cách bồi đắp bổ xung hoặc tìm nguồn nguyên liệu thay thế thì tới một lúc nào đó những nguồn lực đó sẽ dần dần cạn kiệt và mất đi vĩnh viễn, kết quả là loài người sẽ đi đến giai đoạn diệt vong. Cuộc sống ngày càng phát triển thì đòi hỏi những yêu cầu cao hơn, không chỉ là cơm no, áo ấm mà còn là ăn ngon mặc đẹp, điều đó thể hiện vai trò to lớn của quá trình tìm tòi sáng tạo lâu dài của loài người để sản xuất vậtc chất cho xã hội.
Cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng xã hội trong sự tồn tại và phát triển của loài người. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, thời kỳ lịch sử nhất định, cách thức sản xuất ra của cải vật chất là không giống nhau. Vậy đặc điểm của từng giai đoạn đó là gì, cách thức sản xuất vật chất đó ra sao, đâu là nguyên nhân của sự phát triển xã hội? Chúng ta cần phải nghiên cứu tìm hiểu để có câu trả lời thích hợp, từ đó có những phương hướng vận dụng thích hợp với từng giai đoạn nhất định, không thể áp đặt chung cho mọi thời kỳ cùng một phương pháp bởi những quy định đó có thể đúng cho giai đoạn này nhưng sẽ là lỗi thời lạc hậu hoặc quá xa vời chênh lệch với những quan hệ xã hội, chưa thích ứng đối với giai đoạn khác.
2. Biện chứng giữa lực lượng sản xuất-quan hệ sản xuất
2.1 Phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Phương thức sản xuất
C.Mác đã từng chỉ ra một điểm quan trọng mang tính quy luật của sự phát triển xã hội rằng lịch sử loài người là lịch sử thay thế nhau của các phương thức sản xuất.
Khái niệm: Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất, chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể, sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng, trong sự thay đổi đó các quá trình kinh tế, xã hội được chuyển sang một chất mới. Dựa vào phương thức đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta có thể hiểu được thời đại lịch sử đó thuộc về hình thái lịch sử nào.
Vai trò của phương thức sản xuất trong xã hội: Quy định tính chất, kết cấu, sự vận động và phát triển của xã hội, điều đó thể hiện rất rõ nét qua các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội.
Phương thức sản xuất hiện đại tối tân phù hợp với quan hệ sản xuất sẽ làm cho xã hội phát triển nhanh, ngược lại phương thức sản xuất lạc hậu, không tương xứng với sự phát triển của quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Lịch sử xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử đã chứng minh điều đó. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ phương thức sản xuất lạc hậu làm cho xã hội tồn tại hơn một triệu năm. Phương thức sản xuất nô lệ có sự phát triển tiến bộ hơn làm xã hội nô lệ tồn tại hơn 6000 năm. Xã hội phong kiến, lực lương sản xuất đã mang tính chất nửa cơ khí, do đó tồn tại 1000 năm, đến xã hội tư bản phương thức sản xuất đã ở trình độ phát triển cao, trong vòng 300 năm tổng sản phẩm thu nhập xã hội bằng cả ba xã hội trước kia cộng lại.
Từ sự phân tích trên ta thấy muốn cho xã hội và đời sống xã hội phát triển, chúng ta phải quan tâm tới phương thức sản xuất vì chính nó quyết định sự tồn tại, vận động, phát triển của xã hội chứ không phải tư tưởng, ý muốn chủ quan của con người.
Phương thức sản xuất là phạm trù mang tính chất khách quan:
Trong lịch sủ nhân loại có những phương thức sản xuất gắn với chế độ tư hữu và phương thức sản xuất gắn với chế độ công hữu, dù phát triển xã hội theo mỗi hướng khác nhau nhưng tất cả đều hướng tới xã hội chủ nghĩa công sản trong tương lai, chỉ trên cơ sở xoá bỏ phương thức sản xuất dựa trên quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, xác lập phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa thì toàn bộ cơ cấu của đời sống xã hội mới thay đổi căn bản. Bởi xu hướng tất yếu của lịch sử là hướng tới một xã hội bình đẳng giữa người với người, không có sự phân biệt giàu nghèo rõ rệt.
Xây dựng và phát triển sản xuất trong xã hội chủ nghĩa dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất ở Việt Nam, dựa trên nền tảng cơ sở đã nêu trên, đảng ta luôn nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của việc xây dựng một phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, xem đó như là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
b) Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động. Là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, trong mối quan hệ đó người lao động là nhân tố chủ yếu, hàng đầu của lực lượng sản xuất, thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lênin viết: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động."
Tư liệu sản xuất, người lao động với kinh nghiệm sản xuất có kĩ năng lao động biết sử dụng và chế tạo công cụ lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động, trong tư liệu lao động có công cụ lao động và các vật liệu phụ trợ khác để bảo quản công cụ lao động, chuyên trở và bảo quản sản phẩm lao động. Đối tượng lao động gồm một bộ phận của tự nhiên tham gia vào quá trình sản xuất vật chất được con người sử dụng tạo ra sản phẩm lao động và con người tạo ra đối tượng lao động, chúng ta không chỉ tìm trong tự nhiên những vật liệu có sẵn để sản xuất mà còn tạo ra những đối tượng lao động mới. Do vậy trong các yếu tố hợp thành lực lượng sản xuất thì người lao động giữ vai trò quan trọng nhất.
Ngày nay khoa học và công nghệ phát triển mạnh chúng ta đã tìm ra hơn 400 loại vật liệu mới đưa vào quá trình sản xuất làm cho sản xuất ngày càng được phát triển. Chưa bao giờ tri thức khoa học được vật chất hoá, kết tinh, thâm nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất và cả quan hệ sản xuất nhanh và có hiệu quả như ngày nay. Khoa học không còn là lý thuyết đứng ngoài quá trình sản xuất vật chất mà chuyển thành mắt xích bên trong của hệ thống sản xuất cả trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Ý nghĩa trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của khoa học không chỉ riêng khoa học tự nhiên mà cả khoa học xã hội ở mức độ nhất định. Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố quan trọng, là hệ thống xương cốt bắp thịt trong kĩ thuật sản xuất, nó thường xuyên được con người cải tiến, là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất. Khi công cụ lao động được cải tiến, kinh nghiệm và trình độ sản xuất của con người ngày càng được nâng cao, các nghành mới ra đời, phân công lao động xã hội phát triển dẫn đến sản xuất của xã hội phát triển. Nhờ đó đã tiết kiệm được thời gian cũng như sức lao động của con người. Người lao động với kinh nghiệm và sáng tạo của mình đã cải tạo công cụ lao động, chế tạo ra công cụ lao động mới đồng thời con người là chủ thể quyết định năng suất lao động và năng suất lao động được coi là tiêu chuẩn cơ bản để đánh giá trình độ lực lượng sản xuất của một xã hội nhất định.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự hoạt động của công cụ lao động phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, thói quen của con người đồng thời bản thân con người lại phụ thuộc vào công cụ lao động hiện có, đây là mối liên hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan. Ngày nay khoa học và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi vào trong sản xuất, nó có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, vì vậy khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, cho phép con người tạo ra năng suất lao động cao hơn so với trước kia, chúng ta khẳng định ngày nay khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, lực lượng sản xuất độc lập vì những tri thức khoa học đã được vật chất hoá, được kết tinh vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học trên nhiều lĩnh vực trong lịch sử, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Khoa học công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất do vậy nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII của đảng ta đã vạch ra mục tiêu đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung, của nền khoa học nước nhà nói riêng như sau: “Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”.
Lực lượng sản xuất đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn là lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc. điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng xuất lao động xã hội và hiệu quả kinh doanh cao hơn nhiều so với hiện nay. Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển.
Tính khách quan của lực lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất do con người tạo ra song nó vẫn là yếu tố khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử nhân loại. Lực lượng sản xuất được kế thừa liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác, mỗi thế hệ sinh ra đều phải thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất của thế hệ trước để lại vì lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người, những lực lượng đã đạt được bởi hình thái xã hội trước tạo ra.
c) Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất sản xuất vật chất, thể hiện ở quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý và trao đổi với nhau cũng như quan hệ về phân phối sản phẩm.
Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức, mỗi mặt quan hệ của hệ thống sản xuất có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung.
Tính khách quan của quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó được hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, nó là hình thức xã hội của sản xuất. Quan hệ sản xuất là nền tảng vật chất, kinh tế, để hình thành nên những quan hệ xã hội khác, và là hình thức của lực lượng sản xuất đồng thời cũng là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội.
Tính ổn định tương đối: Quan hệ sản xuất là một hệ thống ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy bởi trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định, hình thái kinh tế xã hội cũng có tính ổn định tương đối, không thể tuỳ tiện thay đổi.
Quan hệ sản xuất gồm 3 mặt sau:
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
Quan hệ tổ chức quản lý sản xuất
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt này có quan hệ biện chứng và tác động qua lại với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan trọng nhất, tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, biểu hiện thành chế độ sở hữu. Quan hệ sở hữu là quan hệ cơ sở, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất khác. Chính quan hệ sở hữu trong việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng thể chế trong hệ thống sản xuất xã hội. Có thể thấy rõ điều đó qua các hình thái xã hội khác nhau trong lịch sử, ví như trong xã hội tư bản chủ nghĩa thì quyền lực thuộc về những người nắm giữ tư bản, bởi họ là những người nắm giữ tư liệu sản xuất, từ đó họ có thể thuê nhân công lao động, qua đó cũng đã thể hiện được vai trò quản lý của những người nắm giữ tư bản trong tay. Vậy nó có thể quy định tính chất của quan hệ tổ chức quản lý và việc phân phối sản phẩm sản xuất xã hội. Hiện nay có thể phân biệt rõ ràng rằng trong nền kinh tế, lực lượng sản xuất do cơ sở vật chất kĩ thuật của nền sản xuất quyết định, còn quan hệ sản xuất lại do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất trực tiếp quyết định.
Tuy nhiên mỗi mặt đều có tính chất độc lập tương đối của nó.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất: Lịch sử có hai loại hình sở hữu là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất.
ØSở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất nằm trong tay số ít người vì vậy của cải xã hội cũng được tập trung trong tay một số ít người. Xã hội hình thành nên quan hệ thống trị và bị trị, có sự đối kháng giai cấp, phân biệt giàu nghèo sâu sắc.
ØSở hữu xã hội về tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất là của mọi người trong xã hội, mọi công dân đều có quyền hưởng lợi ích chung của xã hội, nhờ đó mà quan hệ giữa người và người trong xã hội có sự bình đẳng hợp tác với nhau. Do đó nhìn vào loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất, chúng ta có thể phân biệt được các chế độ xã hội khác nhau.
Quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động sản xuất, điều khiển quá trình sản xuất, góp phần tạo nên hiệu quả của quá trình sản xuất.
Nó chịu sự quy định và phải điều chỉnh phù hợp với quan hệ sở hữu, tuy nhiên nó cũng tác động ngược lại tới quan hệ sở hữu, nếu tổ chức quản lý khoa học thì hiệu quả sản xuất cao từ đó sẽ củng cố quan hệ sở hữu, ngược lại nếu tổ chức kém thì sẽ kìm hãm sản xuất phát triển, từ đó tác động xấu thậm chí có thể góp phần làm biến đổi quan hệ sở hữu theo chiều hướng tiêu cực.
Quan hệ phân phối sản phẩm: Đây là khâu cuối của quá trình sản xuất, tại đó sản phẩm sản xuất của xã hội được phân chia, nó là nguồn lợi trực tiếp của các chủ thể sản xuất cũng như người lao động. Do đó nó có thể kích thích hay hạn chế năng suất lao động, phát huy sáng kiến sáng tạo, cải tiến công cụ lao động trong quá trình sản xuất, qua đó tạo động lực thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của xã hội.
2.2 Quy luật về sự phù hợp của Quan hệ sản xuất với tính chất, tốc độ của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành của phương thức sản xuất, chúng tồn tại song song với nhau nhưng không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
Là quy luật cơ bản mang tính phổ biến ở tất cả các giai đoạn của lịch sử loài người. Sự phát triển của sản xuất vật chất xã hội trước hết là sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó được thể hiện cụ thể ở sự phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá.
a) Lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất.
Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất, từ đó để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có...trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của quan hệ sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội”.
Tính độc lập tương đối và tác động trở lại lực lượng sản xuất của quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất có vai trò tác động trở lại lực lượng sản xuất vì nó là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất phải dựa vào đó mà phát triển. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, quy định cách thức quản lý, tổ chức lao động, phân phối sản phẩm, tạo ra điều kiện thúc đẩy hay hạn chế việc cải tiến công cụ lao động và áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Sự tác động của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất theo hai hướng. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của trình độ lực lượng sản xuất hiện có, nó sẽ thú đẩy và mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu quan hệ sản xuất mâu thuẫn vơí lực lượng sản xuất, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho sản xuất không phát triển được. Song sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo xu hướng phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất thì cuối cùng quan hệ sản xuất cũng bị thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự liên hệ lẫn nhau giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong chế độ xã hội chủ nghĩa.
Xã hội chủ nghĩa là xã hội mà quan hệ sở hữu công về tư liệu sản xuất, công bằng được thiết lập, ở đấy giữa cong người với con người không có sự phân biệt tầng lớp, không còn quan hệ thống trị và bị trị như các xã hội trước kia, người lao động có quyền tự chủ, làm theo năng lực và hưởng theo lao động. Xã hội luôn vận động biến đổi, lực lượng sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa cũng như dưới bất cứ phương thức sản xuất nào là yếu tố động hơn, biến đổi nhanh hơn quan hệ sản xuất, do vậy luôn tạo ra những mâu thuẫn mới, từ đó cần có những biện pháp giải quyết mâu thuẫn, nhưng khi mâu thuẫn cũ được giải quyết thì lại thiết lập những mâu thuẫn mới, chính nhờ có mâu thuẫn và sự giải quyết mâu thuẫn ấy đã thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển cao hơn.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất còn liên quan đến cả quan hệ phân phối và trao đổi. Lực lượng sản xuất càng phát triển thì hình thức phân phối cũng càng phát triển, đồng thời nguyên tắc lợi ích vật chất của người sản xuất vẫn được duy trì và củng cố. Sự vi phạm nguyên tắc lợi ích vật chất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có thể trở nên phức tạp nếu có khuyết điểm và sai lầm trong việc thi hành chính sách kinh tế. Nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa là phân phối theo số lượng và chất lượng lao động, nhưng trong thực tế thường mắc phải một số sai lầm như phân phối bình quân, sai lầm này sẽ dẫn đến người lao động không hăng say lao động sáng tạo, đôi khi là sở hữu chung nên tính không tự chủ, ỉ lại cao và dẫn đến không kích thích phát triển sản xuất hay một sai lầm khác như sự cách biệt một cách vô lý giữa tiền lương của các loại công nhân.
Lý luận về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tạo cho chúng ta một nền tảng vững chắc để tiến hành xây dựng xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn nhất là trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa hiện nay ta vẫn còn gặp nhiều vướng mắc trong tư tưởng và hành động.
3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng bao gồm toàn bộ những quan hệ sản xuất của một xã hội trong sự vận động thực hiện của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Một xã hội được tạo nên bởi các quan hệ như:
Quan hệ sản xuất thống trị
Quan hệ sản xuất tàn dư
Quan hệ sản xuất mầm mống xủa xã hội tương lai
Vai trò của mỗi loại quan hệ khác nhau, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, quyết định đặc trưng của toàn bộ hệ thống chính sách hạ tầng của xã hội, ví như trong xã hội phong kiến những địa chủ nắm giữ ruộng đất, họ là những người thống trị trong xã hội, những người không có ruộng đất là những người phải lao động làm thuê trên ruộng đất đi thuê và phải nộp địa tô cho địa chủ. Xã hội phát triển lên tư bản chủ nghĩa xong không thể xoá bỏ hết ngay quan hệ sản xuất cũ, do vậy vẫn duy trì quan hệ sản xuất tàn dư trong một thời gian dài. Đối với nước ta từ sau đổi mới, đảng và nhà nước đã xác định phát triển kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước vẫn chiếm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, điều đó khẳng định việc xác định được quan hệ sản xuất thống trị là rất quan trọng, bởi nó quyết định hướng đi cho nền kinh tế.
Các loại quan hệ sản xuất khác nhau cũng có vai trò nhất định trong nền kinh tế sản xuất xã hội. Tồn tại và phát triển một cách khách quan trong quá trình sản xuất vật chất, và biến đổi theo sự vận động và phát triển của tính chất và tốc độ của lực lượng sản xuất.
Kiến trúc thượng tầng: Kiến trúc thượng tầng bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm xã hội như chính trị, pháp luật, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học...với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội và mối quan hệ nội tại giữa chúng, được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Các yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng nhưng không tách rời mà tác động qua lại nhau, đều nảy sinh trên cơ sở cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng. Có yếu tố nảy sinh và quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng như Nhà nước, pháp luật, có yếu tố nảy sinh và quan hệ gián tiếp như đạo đức, nghệ thuật.
Kiến trúc thượng tầng bao gồm: Hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị, tư tưởng tàn dư của xã hội cũ, và tư tưởng của các giai cấp mới, đồng thời có cả tư tưởng của các tầng lớp trung gian. Trong đó hệ tư tưởng và thể chế của giai cấp thống trị có vai trò quan trọng chi phối các quan điểm tư tưởng khác. Kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp trong những xã hội có giai cấp, do vậy kiến trúc thượng tầng mang tính chất đối kháng giữa hệ tư tưởng của những giai cấp khác nhau.
Một thiết chế quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng là Nhà nước, đó là công cụ để đảm bảo duy trì quyền thống trị của gia cấp thống trị và là lực lượng quản lý, điều tiết xã hội.
Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng.
Bộ mặt kiến trúc thượ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35716.doc