Lời mở đầu.
Xã hội là một tổng thể nhiều yếu tố không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, vận động theo những quy luật khách quan vốn có của nó ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Xuất phát từ việc nghiên cứu, phân tích, giả phẫu xã hội C.Mac đã xây dựng thành công học thuyết hình thái kinh tế xã hội. Sự ra đời của học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã mang lại cho con người một phương pháp nghiên, tiếp cận xã hội thật sự khoa học. Cho đến nay xã hội loài người đã trải qua 5 hình thái kinh tế-xã
19 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội: cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và đỉnh cao là chủ nghĩa xã hội. Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội cung cấp choc hung ta những tiêu chuẩn duy vật và khoa học để chúng ta nghiên cứu quá trình tiến hoa của xã hội.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội mặc dù ra đời vào nhưng năm 40 của thế kỷ 19 nhưng vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn của nó. Trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội Liên Xô và Đông Âu kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác đã ra sức tấn công phủ nhận học thuyết mác nói chung và lý luận hình thái kinh tế-xã hội. Mặt khác trong tình hình bối cảnh thế giới diên ra phức tạp kẻ thù mà cầm đầu là đế quốc Mĩ cùng những thế lực phản động đang ra sức chống lại cách mạng nước ta, phủ nhận học thuyết Mác-Lênin và con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chọn. Tuy trong quá trình thực hiện chúng ta đã gặp một số sai lầm nhưng không thể phủ nhận những thành quả mà chúng ta đã đạt được qua 20 đổi mới. Điều đó đã chứng minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác và con đường cách mạng mà Đảng ta đã chọn. Đứng trước sự tấn công mạnh mẽ của kẻ thù trên mặt trận tư tưởng và những quan điểm lệch lạc của một số bộ phận người trong xã hội thì việc nghiên cứu lý luận xã hội của Mác về hình thái kinh tế-xã hội đóng một vai trò rất quan trọng. Trong thời kỳ quá độ đi lên xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu sâu sắc và toàn diện học thuyết hình thái kinh tế-xã hội sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách khách quan về con đường cách mạng Việt Nam và vận dụng một cách sáng tạo lý luận vào công cuộc đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam hiện nay.
Nhận thấy tầm quan trọng của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội nên em quyết định chọn đề tài “Hình thái kinh tế xã hội với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay”. Đây là một đề tài mang tính thực tiễn cao vì vậy trong quá trình viết tiểu luận không thể tránh khỏi những hạn chế Em mong thầy và các bạn có thể đóng góp cho em nhiều ý kiến quý báu để em có thể hoàn thành bài tiểu luận của mình.
A. Lý luận hình thái kinh tế -xã hội của Mác.
1. Phạm trù hình thái kinh tế-xã hội.
Xã hội là tổng thể những mối liên hệ và quan hệ giữa các cá nhân, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa con người với con người. Cùng với sự phát triển mang tính lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, các mặt trong đời sống xã hội tác động qua lại, thống nhất với nhau tạo nên các xã hội cụ thể tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Để chỉ sự tồn tại của những xã hội đó C.Mác đưa ra khái niệm về phạm trù hình thái kinh tế xã hội: “Hình thái kinh tế xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định,với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ sản xuất nhất định và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.”
2. Kết cấu hình thái kinh tế-xã hội.
Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp bao gồm ba bộ phận cấu thành: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, và kiến trúc thượng tầng. Mỗi bộ phận đều chiếm một vị trí, vai trò nhất định nhưng chúng đều tồn tại thống nhất với nhau tác động qua lại lẫn nhau trong cùng một thực thể. Để tìm hiểu rõ hơn chúng ta phân tích từng yếu tố và làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố này.
2.1 Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, trong một thời kỳ nhất định.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ tác đọng giữa con người với tự nhiên, biểu hiện trình độ sản xuất của con người, năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất trong đó người lao động là nhân tố quan trộng nhất đóng vai trò quyết định đối với việc phát triển của lực lượng sản xuất. Ngoài yếu tố người lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động cũng là hai yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra chính là sức mạnh tri thức đã được con người vật thể hoá, là thước đo khả năng chinh phục tự nhiên của con người. Cùng với những phát minh sáng chế và những cải tiến kỹ thuật công cụ lao động ngày càng được hoàn thiện làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất suy đến cùng là nguồn gốc sâu xa của sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội. Mác viết: “những quan hệ sản xuất gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người đã thay đổi tất cả những quan hệ xã hội vốn có của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại cho xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại cho xã hội có các nhà tư bản”. Lực lượng sản xuất chính là nền tảng vật chất-kỹ thuật của hình thái kinh tế xã hội.
2.2 Quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối. Trong ba quan hệ thì quan hệ sở hữu là quan hệ cơ bản nhất giữ vai trò quyết định với các quan hệ còn lại.
Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội, là đặc trưng cơ bản để phân biệt hình thái kinh tế xã hội này với hình thái kinh tế xã hội khác. Quan hệ sản xuất chính là nền tảng vật chất xã hội của một hình thái kinh tế xã hội.
2.3 Kiến trúc thượng tầng.
Để đưa ra khái niệm về kiến trúc thượng tầng chúng ta tìm hiểu về cơ sở hạ tầng: “Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định”. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống. Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối các quan hệ còn lại.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo , nghệ thuật,…cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể,… được hình thành trên cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có quan hệ khác nhau với cơ sở hạ tầng, chịu sự chi phối của những quy luật vận động riêng nhưng có mối liên hệ qua lại với nhau. Trong xã hội có giai cấp kiến trúc thượng tầng mang bản chất giai cấp.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố cấu thành nên hình thái kinh tế xã hội.
3.1 Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại thống nhất, tác động qua lại biện chứng với nhau hình thành nên qui luật chung cơ bản nhất của xã hội: “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất”.
Cơ sở tồn tại và phát tiển của xã hội đó là sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với thời gian khả năng sản xuất ra của cải vật chất cũng không ngừng phát. Nguyên nhân sâu xa của xu hướng đó chính là sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện khả năng chinh phục của con người với tự nhiên trong giai đoạn lịch sử nhất định. gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử tính chất của lực lượng sản xuất phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hoá cao.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Quan hệ sản xuất là hình thức biểu hiện về mặt xã hội của lực lượng sản xuất. Trong quá trình con người tác động vào tự nhiên đồng thời cũng tạo những quan hệ tương ứng giữa con người với con người trong xã hội.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất trên các mặt tương ứng thì nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất từ đó mà lực lượng sản xuất có thể phát triển hết khả năng vốn có của nó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nào đó sẽ làm cho quan hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất thì khi đó quan hệ sản xuất sẽ trở thành “xiềng xích”, nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự không phù hợp ở đây có thể là quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hơn so với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hoặc cũng có thể là quan hệ sản xuất đi trước trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất. Như một tất yếu khách quan, quan hệ sản xuất mới sẽ ra đời thay thế cho quan hệ sản xuất cũ, phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất mới ra đời đồng nghĩa với việc phương thức sản xuất cũ mất đi và phương thức sản xuất mới ra đời. Quá trình từ chỗ phù hợp đến không phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra liên tục không ngừng tạo nên quy luật “quan hệ sản xuất phù hợp lực lượng sản xuất”
Trên thực tế việc giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề không hề đơn giản. Nó hải thông qua hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp thì việc này được tiến hành thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
3.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt của đời sống xã hội, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng và quýet định tính chất của kiến trúc thượng tầng đó. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào giữ địa vị thống trị về mặt kinh tế thì giữ luôn địa vị thống trị về mặt chính trị. Mâu thuẫn trong trog kinh tế quyết định mâu thuẫn về mặt chính trị tư tưởng, đấu tranh giai cấp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng là biểu hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.
Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì kiến trúc thượng tầng sẽ thay đổi theo như một tất yếu. C.Mác viết: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng sẽ bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”. Quá trình đó diễn ra rất phức tạp. Trong kiến trúc thượng tầng có những thứ thay đổi nhanh chóng như: chính trị, pháp quyền,… có những thứ thay đổi chậm như: tôn giáo, nghệ thuật,… và có những thứ thì được kế thừa toang xã hội mới.
Tuy cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng nhưng kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển xã hội và tác động mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng. Chức năng của kiến trúc thượng tầng thống trị là xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Trong kiến trúc thượng tầng thì nhà nước là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến cơ sở hạ tầng bởi đó là bộ máy bạo lực tập trung của giai cấp thống trị về mặt kinh tế.
Sự tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng diễn ra theo 2 chiều hướng: tích cực hoặc tiêu cực. Nếu kiến trúc thượng tầng tác động phù hợp với quy luật kinh tế khách quan thì nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội. Kiến trúc thượng tầng tác động một cách mạnh mẽ nhưng nó không làm thay đổi dược những quy luật khách quan của xã hội. Suy cho đến cùng kinh tế là yếu tố quyết định kiến trúc thượng tầng.
4. Sự phát triển hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Xã hội loài người đã trải năm hình thái kinh tế-xã hội nối tiếp nhau. Bằng việc nghiên cứu các quy luật của xã hội C.Mác đã chỉ ra: “Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”. Sự vận động phát triển của xã hội bị chi phối bởi những quy luật khách quan, trong đó có hai quy luật cơ bản nhất đó là: “Quy luật QHSX phù hợp với LLSX”, “Quy luật CSHT quyết định kiến trúc thượng tầng”. Chính sự tác dộng qua lại của các quy luật khách quan đó đã chi phối sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp lên cao. Đó cũng chính là con đường phát triển của toàn nhân loại. Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là sản xuất của cải vật chất. Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay thế tất yếu của các quan hệ sản xuất và phương thức sản xuất mới ra đời. Quá trình này diễn ra không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân nào bởi vì bản thân lực lượng sản xuất đã mang tính chất khách quan.
Con đường phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc không những bị chi phối bởi những quy luật chung mà còn bị tác động của các điều kiện tự nhiên, chính trị, văn hoá, truyền thống, điều kiện quốc tế,…Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái nào đó do điều kiện lịch sử cụ thể quy định. Từ khi học thuyết hình thái kinh tế- xã hội ra đời xã hội loài người đã có những thay đổi lớn lao nhưng học thuyết đó vẫn thực sự là một phương pháp khoa học hiệu quả để nghiên cứu phân tích sự vận động phát triển của xã hội.
B. Vận dụng hình thái kinh tế-xã hội đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta bắt đầu từ năm 1954ở miền Bắc và từ năm 1975 sau khi đất nước được hoàn toàn độc lập thì cả nước đã cùng tiến lên xây dựng CNXH. Sau sự sụp đổ của một loạt nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu các thế lực đế quốc và phản động đã ra sức phủ nhận về khả năng xây dựng thành công CNXH. Đứng trước tình hình đó Đảng ta xác định đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường kiên định không thay đổi của cách mạng Việt Nam. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội lúc này được Đảng ta áp dụng một cách linh hoạt vào tình hình mới.
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam.
Trước hết phải nói rằng khuynh hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản là một tất yếu lịch sử, không phải là sự chủ quan duy ý chí và đựoc quy định bởi những điều kiện khách quan cũng như chủ quan. Sở dĩ nước ta thực hiện đi lên CNXH bỏ qua CNTB là vì:
- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế đã chứng minh chủ nghĩa tư bản đã thực sự lỗi thời về mặt lịch sử sớm hay muộn cũng bị thay thế bởi hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng trở nên gay gắt chính là một yếu tố quan trọng thúc đẩy mạnh mẽ quá trình lụi tàn của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa xã hội là hình thái kinh tế cao hơn chủ nghĩa tư bản đại diện cho người lao động, cho sự bình đẳng, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đi theo tiến bộ thời đại chính là quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
- Cách mạng Việt Nam là gắn liền giữa độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Nhờ đi theo con đường ấy mà nhân dân ta đã làm cách mạng tháng Tám thành công và tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây chính là sự lựa chọn của lịch sử dân tộc. Ngày nay chỉ có lựa chọn đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập tự do cho dân tộc và thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh.
2. Những điều kiện để nước ta bỏ qua chế độ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
a) Điều kiện khách quan.
Trước hết chúng ta phải kể đến nhân tố thời đại hay nói cách khác là xu thế quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trong thời đại ngày nay sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và quá trình quốc tế hoá sản xuất ngày càng sâu rộng đã tạo điện kiện cho các nước đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xuất hiện đại và những kinh nghiệm của nước đi trước để thực hiện con đường phát triển rút ngắn. Với những những đường lối chính sách hợp lí Việt Nam hoàn toàn có thể sử dụng có hiệu quả những thành tựu của nhân loại xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
b) Điều kiện chủ quan.
Việt Nam có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi (giàu tài nguyên thiên nhiên, đường bờ biển dài, khí hậu nhiệt đói ẩm gió mùa, nằm trên nhiều tuyến đường GTVT đường biển quan trọng,…) để thúc đẩy phát triển kinh tế. Nước ta có tình hình chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Chúng ta đã xây dựng được chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ chuyên chính vô sản, là cơ sở ban đầu về mặt chính trị, kinh tế cho chủ nghĩa xã hội. Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chiến đấu hi sinh không chỉ nhằm mục đích độc lập dân tộc mà còn vì cuộc sống ấm no hạnh phúc. Sự quyết tâm của cả một dân tộc chính là động lực mạnh mẽ nhất đủ sức vượt qua mọi khó khăn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
3. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội định hướng cho những bước đi của cách mạng Việt Nam
Trước kia do nhận thức sai lầm về chủ nghĩa Mác và sự rập khuôn máy móc mô hình của Liên Xô mà chúng ta đã phạm một số sai lầm nghiêm trọng trong việc xây dựng, phát triển kinh tế. Sau sự sụp đổ của một loạt nước chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu chúng ta đã nhận thức lại những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác. Đảng và nhà nước ta xác định cách mạng Việt Nam vấn kiên định đi theo con đuờng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó chúng ta phải tiến hành đổi mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội,...
3.1 Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội là tiền đề, cơ sở lý luận cho sự nghiệp CNH-HĐH của Việt Nam.
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp hiện đại.
Thực chất của công nghiệp hoá hiện đại hoá là xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là con đường duy nhất để đưa nước ta từ một nước có nền sản xuất nhỏ lạc hậu lên nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Đây cũng chính là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên thế đang trong quá trình đổi mới. Một phương hức sản xuất chỉ được xác lập một cách vững chắc trên cơ sở vật chất kĩ thuật tương ứng. Chủ nghĩa xã hội muốn tồn tại và phát triển, cũng cần phải có một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Nhiệm vụ quan trọng nhất của cách mạng nước ta trong thời kỳ quá độ là xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá hiện đại hoá chính là phương thức để thực hiện mục tiêu trên.
Do những biến đổi của nèn kinh tế thế giới và điều kiện lịch sử cụ thể mà quá trình công nghiệp hoá mang những đặc điểmchủ yếu: Công nghiệp hoá phải đi đôi với với hiện đại hoá; Công nghiệp hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; Công nghiệp hoá hiện đại hoá trong điều kiện cơ chế thị trường phải có sự quản lý điều tiết của nhà nước; Công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, vì thế mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ kinh tế kinh tế quốc tế là tất yếu đối với nước ta.
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đã chỉ ra động lực quan trọng nhất thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là khoa học công nghệ. Ngày nay khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. Song để khoa học công nghệ có thể trở thành “quốc sách hàng đầu” và động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng “đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá” đồng thời là nền tảng then chốt của quá trình đó thì chúng ta phải tìm ra động lực, năng lực nội sinh cho chính bản thân nó. Năng lực nội sinh này trước hết phải nằm trong lợi ích của đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ (lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị xã hội). Sản phẩm khoa học công nghệ chính là do lực lượng này sáng tạo ra. Vì vậy, cần khuyến khích công tác nghiên cứu tìm tòi khoa học, tăng cường bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, phát huy sức mạnh tối đa của trí tuệ tập thể. Ph. Ăngghen đã từng khẳng định: “Nền công nghiệp là do toàn xã hội kinh doanh một cách tập thể và có kế hoạch lại cần có những con người có năng lực phát triển toàn diện, và đủ sức tinh thông toàn bộ hệ thống sản xuất và đến lượt mình, nền công nghiệp ấy sẽ làm cho những thành viên trong xã hội đó có khả năng sử dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình”.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác còn cho rằng, để nắm vững quản lý không những bộ máy nhà nước mà cả toàn bộ nền sản xuất xã hội thì cần nhất thiết phải tạo ra một đội ngũ vô sản lao động trí óc cùng tiến công trong một đội ngũ với những người anh em cuẩ mình là những công nhân lao động chân tay. Việc tạo ra một đội ngũ cán bộ khoa học –công nghệ có đủ trình độ để quản lý nhà nước, tổ chức quản lý nền sản xuất và áp dụng được những thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất là một công việc hết sức quan trọng và cấp thiết của chúng ta hiện nay. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Con người chính là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Lênin đã tưng nhấn mạnh: “Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả những sắc lệnh từ trên ban xuống… Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”. Đây chính là một cơ sở để Việt Nam hình thành chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá và bồi dưỡng đào tạo con người.
3.2 Tính tất yếu trong xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Xã hội vận động phát triển theo những quy luật khách quan trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất là quy luật căn bản nhất. Đồng thời với việc tạo ra lực lượng sản xuất cho xã hội mới tức tiến hành công nghiệp hó hiện đại hoá chúng ta phải tiến hành xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Xây dựng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước chính là con đường để thực hiện nhiệm vụ trên. Tổng bí thư Đỗ Mười tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã từng khẳng định: “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần cho xã hội mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đặc biệt chúng ta phải cần chú trọng tới thành phần kinh tế tư bản nhà nhà nước bởi lẽ như Lênin đã nói chính trong chủ nghĩa tư bản nhà nước đã có sự chuẩn bị đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội là phòng chờ đi vào chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kinh tế vì những tất yếu khách quan sau:
- Bước vào thời kỳ quá độ, nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển, lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều nấc thang khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức.
- Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại. Những thành phần kinh tế này vẫn có tác dụng to lớn cho việc thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kimh tế tư bản nhà nước
Hiện nay nước ta có năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này không tồn tại độc lập mà đan xen tác động lẫn nhau trong nền kinh tế.
Sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần ở nước ta không chỉ là một tất yếu khách quan mà nó còn mang lại những thay đổi thực sự cho nền kinh tế. Sự tồn tại của nhiều hình thức quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay đã thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, toạ điều kiện phát huy tối đa hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế. Nền kinh tế nhiều thành phần thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, cho phép sử dụng và khai thác sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, tạo tiền đề vững chắc đưa nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với việc xác lập quan hệ sản xuất trong cơ cấu nền kinh tế tức là xây dựng cơ sở hạ tầng Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng tìm tòi cơ chế quản lý có hiệu quả nhằm tạo ra một hệ thống kiến trúc thượng tầng tương xứng với cơ sở hạ tầng của nước ta trong bối cảnh hiện nay. Tại hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành trung ương khoá VI (6-1985) Đảng ta đã quyết định phải dứt khoát xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất. Tại đại hội VI (12-1986) Đảng ta chủ trương đi đôi với xoá bỏ cơ chế cũ chúng ta cần phải xây dựng cơ chế quản lý mới trong đó nhà nước nắm mạch máu kinh tế, do đó cần phải quản lý nền kinh tế quốc dân theo một thể thống nhất. Với cơ chế này, cấc đơn vị sản xuất kinh doanh có thể tự chủ trong sản xuất, quan hệ cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ pháp lý. Nhà nước có tác dụng điều tiết vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dẫn dắt các hoạt động kinh tế tiến theo con đường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua 20 năm đổi mới chúng ta đã thu được thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực. Đảng ta đã vận dụng tài tình, sáng tạo và linh hoạt những lý luận trong học thuyết hình thái kinh tế-xã hội vào điều kiện cụ thể của Việt Nam từ đó đề ra được những đường lối, chiến lược quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân theo con đường xã hội chủ nghĩa
KẾT LUẬN.
Học thuyết Macxit về hình thái kinh tế xã hội với tư cách là một cuộc cách mạng trong toàn bộ tư tưởng nhân loại về lịch sử xã hội, là biểu hiện tập trung nhất của quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử, là học thuyết nền tảng của khoa học xã hội cho đến nay vẫn là phương pháp nghiên cứu một cách khoa học nhất về quá trình phát triển của lịch sử xã hội. Nó cho phép chúng ta chuyển từ việc mô tả những hiện tượng xã hội sang việc phân tích đánh giá các hiện tượng đó một cách hết sức khoa học. Học thuyết đã chỉ ra chính sự đấu tranh mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong một hình thái kinh tế xã hội chính là nguyên nhân làm cho nó bị thay thế bởi một hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn. Vì vậy nó không chỉ giới hạn trọng phạm vi của một nền văn minh nhất định mà còn bao quát các nền văn minh khác.Học thuyết hình thái kinh tế xã hội đề cao vai trò của lực lượng sản, của khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội đồng thời cũng chỉ ra vai trò quan trọng của kiến trúc thượng tầng trong hình thái kinh tế xã hội đặc biệt là nhà nước.
Học thuyết hình thái kinh tế-xã hội chính là cơ sở lí luận, là kim chỉ nam cho việc xây dựng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nhận thúc đúng đắn những nguyên tắc này giúp chúng ta tăng cường hệ thông chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố và hoàn thiện nhà nước kiểu mẫu thích ứng với tình hình cách mạng hiện nay. Thông qua học thuyết hình thái kinh tế xã hội Đảng ta xác địng rõ con đường của cách mạng Việt Nam hiện nay là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Đảng ta cũng chỉ ra muốn xây dựng được lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho chủ nghĩa xã hội thì chỉ bằng cách công nghioệp hoá hiện đại hoá và xây dựng, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Thực tế qua 20 năm đổi mới đã chúng minh cách mạng Việt Nam đã chứng minh sự đúng đắn khi đi theo con đường mà Đảng ta đã lựa chọn. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội ra đời đã lâu nhưng trong thời đại ngày nay nó vẫn còn nguyên những giá trị về mặt tư tưởng và lí luận.Trong tình hình thế giới có nhiều biến động và bất ổn như hiện nay thì việc nắm vững và vận dụng những quan điểm lí luận của Mác vò thực tiễn cách mạng Nước ta trở nên vô cùng quan trọng và ý nghĩa. Cách mạng Việt nam hoàn toàn có thể thực hiện được những mục tiêu hát triển kinh tế khi lựa chọn được con đường đúng đắn cho mình.
Tài liệu tham khảo.
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin tập II.
2. Triết học Mác – Lênin (Nhà xuất bản giáo dục).
3. C. Mác và Ăngghen toàn tập.
4. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
5. Văn kiện hội nghi lần thứ tám ban chấp hành trung ương Đảng
(Khoá VI).
6. Những chuyên đề triết học. (Nhà xuất bản giáo dục).
7. Tạp chí triết học số 4 tháng 8 năm 2000.
8. Tạp chí triết học số 5 tháng 10 năm 2000.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8974.doc