BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Thị Hoàng Yến
HÌNH ẢNH NGƯỜI KỸ NỮ TRONG VĂN
HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
MỞ ĐẦU
Giai đoạn từ thế kỉ X – thế kỉ XIX là một thời kì đầy biến động của lịch sử nước ta.
Gắn với lịch sử thời phong kiến là nền văn học trung đại cũng có những biến động không
kém với s
104 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5606 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự phong phú về nội dung và phương cách thể hiện. Qua văn chương, người đời sau
có thể hình dung được bối cảnh lịch sử thời ấy, từ những câu chuyện lớn lao như vận mệnh
đất nước, dân tộc đến những nỗi niềm của người dân trong cuộc sống hàng ngày. Từng bước
ngoặt của thời đại đến mọi ngóc ngách trong đời sống dân chúng đều được phản ánh trong
tác phẩm văn học. Đó là chất hào sảng của hào khí Đông A trong thời Lý Trần, là tiếng nói
đau thương, thống thiết cho số kiếp của những con người nhỏ bé trong xã hội thời thế kỉ
XVIII – XIX. Dù có đề cập đến nội dung nào thì xuyên suốt chặng đường trung đại, văn học
luôn thể hiện chất nhân văn. Có thể do con người là một tế bào quan trọng nhất của xã hội.
Cho nên, cất tiếng nói để ca ngợi, để thông cảm với con người là nội dung ta dễ dàng nhận
thấy trong văn học trung đại. Đặc biệt ở đây là thân phận người phụ nữ. Người phụ nữ ngoài
cuộc sống và trong văn chương đều có một đặc điểm chung là những con người luôn phải
chịu bất công. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến thân phận của người phụ nữ
trong xã hội phong kiến. Luận văn này tiếp cận một khía cạnh khác trong đời sống của người
phụ nữ xưa, những con người vừa có sắc đẹp, vừa có tài năng. Và lớp người này cũng chịu
những đau khổ do tài sắc của mình đem lại, đó là những người kỹ nữ.
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1 Giá trị nhân văn luôn là một giá trị quan trọng trong bất cứ một nền văn học nào. Đặc
biệt nó sẽ được thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn mà số phận con người bị đè nén, cuộc
sống của họ phải chịu nhiều bất công. Ta có thể thấy điều này trong văn học Phục hưng của
văn học thế giới, khi mà người dân phải sống trong “ đêm trường trung cổ”. Ở ta, giai đoạn
văn học trung đại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Khi xã hội phong kiến không còn sức
mạnh, giai cấp thống trị không còn là đại biểu tích cực của nhân dân thì tiếng nói ca ngợi,
bênh vực con người, nhất là những người yếu đuối, thấp bé xuất hiện.
1.2 Văn học trung đại Việt Nam là một giai đoạn nở rộ nhiều hình tượng nhân vật. Nổi bật
trong đó là hình ảnh người phụ nữ. Họ là những nạn nhân nhỏ bé nhất, cùng cực nhất của xã
hội. Đặc biệt trong những thân phận người phụ nữ đau khổ đó, có một bộ phận những người
kỹ nữ. Đây là một hình ảnh xuất hiện khá thường xuyên trong những tác phẩm quen thuộc
của Nguyễn Du như : "Truyện Kiều", trong một số bài thơ chữ Hán như : " Ngộ gia đệ cựu
ca cơ", "Long Thành cầm giả ca",…; trong một số truyện thuộc " Truyền kỳ mạn lục" của
Nguyễn Dữ. Khảo sát thân phận người phụ nữ dưới góc độ là người kỹ nữ sẽ cho ta hiểu hơn
về số phận của những con người tài sắc sống trong xã hội phong kiến. Người phụ nữ nói
chung là một đề tài vô tận cho văn học. Người phụ nữ tài sắc phải sống cuộc đời kỹ nữ lại là
một đề tài thú vị cho văn chương và nghiên cứu văn chương. Tìm hiểu thân phận người kỹ
nữ không những cho ta hiểu hơn về hiện thực xã hội phong kiến mà còn hiểu rõ hơn giá trị
nhân văn sâu sắc của văn học thời kỳ này.
1.3 Kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam bắt nguồn từ những đào hát, đào nương, những
con người vừa phải có sắc đẹp, vừa phải có tài. Tài ở đây là tài đánh đàn, hát xướng, ngâm
vịnh thơ. Trong quá trình nghiên cứu về hình ảnh người kỹ nữ, chúng ta sẽ phần nào có thêm
thông tin về nguồn gốc cũng như giá trị văn hóa của lối hát ả đào, hay còn gọi là hát ca trù.
Thiết nghĩ đây là một giá trị văn hóa mà chúng ta không thể bỏ qua khi nghiên cứu đề tài
này.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
2.1 Với đề tài “Hình ảnh người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam”, luận văn nhằm tái
hiện và phân tích hình ảnh người kỹ nữ được thể hiện trong văn chương. Hình ảnh này
dường như xuất hiện liên tục cho đến cuối thời trung đại, đặc biệt xuất hiện rất nhiều vào
cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX, giai đoạn mà quyền tự do của con người được đặt lên
cấp thiết hơn bao giờ hết. Để hiểu rõ hơn về hình ảnh kỹ nữ, luận văn sẽ đi sâu vào phân tích
tài năng, số phận của những con người này. Trong quá trình phân tích, chúng ta sẽ cảm nhận
được những ngóc ngách tình cảm, nội tâm, những nỗi đau và cũng không thiếu những khao
khát, tủi nhục, ê chề, đặc biệt là sức sống mãnh liệt của những thân phận yếu đuối, mỏng
manh này. Để rồi cuối cùng sẽ cho thấy rõ hơn về lịch sử xã hội và nhất là thái độ của nhà
văn đối với lớp người này.
2.2 Luận văn góp phần cung cấp thêm một số thông tin về nguồn gốc, đặc điểm của một giá
trị văn hóa của dân tộc, đó là hát "ca trù". Đây là một vấn đề đang được bàn thảo sôi nổi
trong lĩnh vực văn hóa. Hát ca trù xuất thân từ tài ca hát của các ca nữ trong thời phong kiến
mà ta thường hay gọi là " đào nương". Trong văn học trung đại, hình ảnh các đào nương xuất
hiện với mật độ dày đặc nhất là trong những bài thơ của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,
Dương Khuê vào đầu thế kỷ XIX. Từ đó, hình ảnh các đào nương vừa gõ phách vừa hát
được gọi là hát "ca trù" ( còn gọi là hát ả đào). Lối hát này hiện giờ đang được xem là một
giá trị văn hóa dân tộc cần được bảo tồn. Thông qua văn chương để tìm hiểu về văn hóa dân
tộc là một việc làm cũng khá thú vị mà luận văn sẽ đề cập đến.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI KHẢO SÁT
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là các tác phẩm có sự
xuất hiện hình ảnh kỹ nữ trong thời trung đại. Trong đó, luận văn sẽ tập trung vào một số tác
giả tiêu biểu như : Nguyễn Dữ, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế
Xương, Dương Khuê,… Ngoài ra, luận văn sẽ khảo sát một số tác phẩm xuất hiện vào thời
kỳ đầu của văn học trung đại có hình ảnh kỹ nữ như : " Việt sử tiêu án" ( Ngô Thì Sĩ), "Công
dư tiệp ký" ( Vũ Phương Đề), "Lão kỹ ngâm" ( Thái Thuận).
Về những tác phẩm của các tác giả kể trên, hiện nay có nhiều văn bản khác nhau. Ở
đây, người viết dựa vào những văn bản thuộc những công trình sau : với tác giả Nguyễn Dữ,
người viết dựa vào cuốn " Truyền kỳ mạn lục", nxb văn nghệ, 1988. Đối với tác gia Nguyễn
Du, luận văn sẽ khảo sát các văn bản trong " Tổng tập văn học Việt Nam" – tập 13 và tập 14,
nxb Khoa học Xã hội, 2000. Với tác giả Nguyễn Công Trứ, người viết tham khảo trong "
Nguyễn Công Trứ : tác giả - tác phẩm – giai thoại", nxb Đại học quốc gia TPHCM, 2002 do
Nguyễn Viết Ngoạn nghiên cứu, sưu tầm và tuyển chọn. Đối với tác giả Trần Tế Xương,
người viết chọn cuốn " Trần Tế Xương, về tác gia và tác phẩm", nxb Giáo dục, 2001. Bên
cạnh đó, để tìm hiểu các văn bản của tác giả Nguyễn Khuyến, người viết tham khảo "
Nguyễn Khuyến tác phẩm", nxb Khoa học xã hội, 1984 do Nguyễn Văn Huyền sưu tầm –
biên dịch – giới thiệu. Ngoài ra , người viết cũng tham khảo thêm một số bài hát nói trong "
Việt nam ca trù biên khảo", nxb TPHCM, 1994 của hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng
Huề.
Sau đây là những tác phẩm cụ thể mà luận văn sẽ đề cập:
- Lão kỹ ngâm ( Thái Thuận)
- Chuyện nàng Túy Tiêu, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị ( Truyền kỳ mạn lục –
Nguyễn Dữ)
- Truyện Kiều, Long Thành cầm giả ca, Điếu La Thành ca giả, Ngộ gia đệ cựu ca cơ,
Văn chiêu hồn ( Nguyễn Du)
- Một ngày là nghĩa, Cảnh biệt ly, Yêu hoa, Bỡn cô đầu già, ( Nguyễn Công Trứ)
- Đĩ cầu nôm, Bóng đè cô đầu ( Nguyễn Khuyến)
- Hát cô đầu, Thú cô đầu, Tết cô đầu, Chơi ả đào, Hỏi ông trời, ( Trần Tế Xương)
- Gặp đào Hồng đào Tuyết, Gặp cô đầu cũ, Tặng cô đầu Hai, Tặng cô đầu Cúc, Thăm
cô đầu ốm,…( Dương Khuê)
Tuy nhiên, để thấy được giá trị đặc sắc khi khắc họa hình ảnh người kỹ nữ trong văn
học trung đại Việt Nam, luận văn sẽ khảo sát hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại một số
nước Châu Á lân cận như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Để thực hiện được điều này,
người viết sẽ xem xét lịch sử nghề kỹ nữ ở các quốc gia kể trên. Đồng thời, cũng đi vào phân
tích một số tác phẩm, cụ thể như sau:
- Những tác phẩm của Tiết Đào ( Trung Quốc) như: Tống hữu nhân, Tặng viễn kỳ 1, 2 ;
Vọng xuân từ kỳ 1,2
- Những bài thơ của kỹ nữ Hwang Jin I ( Hàn Quốc)
- Tác phẩm “Vùng băng tuyết” ( Kawabata Yasunari), “Hồi ức của một geisha” ( Arthur
Golden), một số bài thơ haiku của Basho, Buson, Chiyo
4. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Thơ văn trung đại lâu nay vẫn được các nhà nghiên cứu, phê bình quan tâm. Đã có biết
bao công trình nghiên cứu, biết bao giấy mực đã đề cập đến những nội dung của văn học
trung đại. Tuy vậy, văn chương trung đại của nước ta vẫn còn đó sức hấp dẫn, bắt nguồn từ
những hình ảnh lí thú. Vì đặc trưng của thời đại, khi sức mạnh của giai cấp trống trị không
còn, đất nước trở nên rối ren. Đó là khoảng thời gian bắt đầu từ thế kỷ XVII. Ảnh hưởng bởi
lịch sử xã hội, văn chương lúc đó đã phản ánh rất nhiều về quyền tự do, quyền sống của con
người mà số phận của người phụ nữ là được các nhà thơ, nhà văn đề cập nhiều nhất. Mỗi
người phụ nữ trong mỗi tác phẩm có số phận riêng, nhưng tựu trung, đây là hình ảnh gây
nhiều thương cảm nhất. Và trong vô vàn những số phận đó, ở một khía cạnh khác là thân
phận của những người phụ nữ tài sắc, người kỹ nữ. Là phụ nữ, họ đã khổ. Khoác trên mình
những ưu ái của tạo hóa như sắc đẹp và tài năng, họ càng phải chịu số phận khốn cùng. Đó là
cuộc sống " buôn phấn bán hương", chịu mọi tủi nhục, xót xa nhưng vẫn không nguôi khao
khát về hạnh phúc, về một cuộc sống chân chính. Tuy nhiên, đề tài này không phải đến nay
mới được nhắc đến. Trong bài " Truyền kỳ mạn lục – một thành tựu của truyện ký văn học
viết bằng chữ Hán" nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân đã nói về vấn đề này như sau: “ Các
truyện Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện nàng Túy Tiêu,… phản ánh quan niệm
sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc,lái buôn hãnh tiến nhưng Nguyễn Dữ có phần thông cảm với
khát vọng hạnh phúc chính đáng khi miêu tả những cặp trai gái công khai yêu nhau…” [ 25,
518]. Trước đó, Bùi Duy Tân cũng đã đề cập đến vấn đề này một cách khái quát, chưa rõ
ràng khi ông có nhắc đến việc giải phóng tình cảm của người phụ nữ trong bài viết Sự phong
phú về mặt đề tài và thể loại văn học biểu hiện những xu thế mới của xã hội Đại Việt từ
thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII như sau: “… trong thời kỳ lịch sử này, do ảnh hưởng
ngày càng gia tăng của văn hóa dân gian, chủ đề quyền sống của con người được văn học
viết bước đầu đề cập tới. Một số tác phẩm đã phần nào thể hiện yêu cầu giải phóng tình
cảm… Truyền kỳ mạn lục đã dựng nên những cảnh tượng, những nhân vật cụ thể, sinh
động… Nhưng thông qua cách miêu tả đôi lúc say sưa về tình yêu nam nữ và cách thể hiện
đôi khi táo bạo về một số quan niệm nhân sinh, nhà văn Nguyễn Dữ đã phần nào thông cảm
với khát vọng hạnh phúc chính đáng của con người” [25, 400]. Còn Nguyễn Khắc Viện
trong “Giới thiệu Truyện Kiều” có đoạn viết: “ Bên cạnh viên quan lại áp bức, tên lái buôn
đã bước ra sân khấu, người đàn bà nô lệ cũng trở thành hàng hóa; bị chủ nghĩa phong kiến
chà đạp, họ lại bị xã hội mang những mầm mống tư bản miệt thị, dìm xuống bùn đen”[53,
60]. Bàn về Truyện Kiều, Đặng Thai Mai cũng nhấn mạnh số phận của nhân vật Thúy Kiều:
“Qua tập truyện của Nguyễn Du, người ta thấy những cảnh đáng thương nhất trong xã hội
phong kiến:… cô thiếu nữ bị mua về bán đi trên thị trường thương mại. Bị đày đọa trong
chốn thanh lâu, hy sinh cho thú tính của một hạng người ích kỷ, đi làm nô tỳ dưới một chế độ
bán nô lệ. Kiều chính là hiện thân của một giai nhân, một thiên tài bị đày đọa qua những
cảnh sống éo le, đau đớn” [ 24, 49]. Trong “Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du”, tác giả Lê Thu Yến đã đề cập cụ thể đến thân phận những người ca
nữ tài sắc nhưng số phận khắc nghiệt này như sau: “Hình tượng con người đau khổ còn là
hình ảnh những người phụ nữ tài hoa mà bạc mệnh. Họ dù là hạng người nào: một bà phi,
một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một kỹ nữ… đều được Nguyễn Du hết sức trân trọng”[
56, 68]. Cũng trong luận án này, tác giả Lê Thu Yến còn nhấn mạnh: “Nguyễn Du đặc biệt
thương cảm đối với những người phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Tất cả họ đều là người có
tài, có sắc, nức tiếng một thời. Đó là nàng Tiểu Thanh, người ca nữ đất La Thành, người hầu
cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành… Thời tuổi trẻ các nàng tài sắc không thua kém ai…
nhưng rồi người ca nữ đất La Thành chết trẻ, Tiểu Thanh oan thác, người hầu cũ của em tàn
tạ, rách nát, cô Cầm tiều tụy, xác xơ… Hình ảnh ấy gây một mối thương tâm lớn lao trong
Nguyễn Du. Những con người tài hoa không dễ dàng tồn tại một cách bình yên trong cuộc
đời”[ 56, 70]. Ngoài ra, trong bài viết “ Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa”, Trần Nho Thìn đã có nhắc đến những nhân vật kỹ nữ, cô đào vào cuối thế kỷ XVIII,
đặc biệt trong những sáng tác của Nguyễn Du: “ Ông có hẳn một nhóm tác phẩm dành cho
đề tài hồng nhan bạc mệnh: ông viết về Dương Quý Phi, nàng Tiểu Thanh, về cô Cầm đất
Long Thành, người con gái đánh đàn ở La Thành, những cô gái “Liều tuổi xuân buôn
nguyệt bán hoa” và nàng Đạm Tiên, nàng Kiều. Trong sự phong phú của các nhân vật phụ
nữ tài sắc mà bất hạnh, mặc dầu có hiện diện một số gương mặt phụ nữ thuộc tầng lớp trên
như Dương Quý Phi, ta thấy có sự tập trung rõ rệt vào hình tượng người kỹ nữ, cô đào. Do
đó, câu chuyện về hồng nhan bạc mệnh của Truyện Kiều không chỉ dừng lại ở vấn đề về bất
hạnh của người đẹp nói chung mặc dù bản thân vấn đề bất hạnh của các mỹ nhân cũng là
vấn đề có căn cứ ở thực tế xã hội phong kiến. Người đẹp nói chung không phải là quan tâm
chủ yếu của Nguyễn Du mà ông nhìn nó gắn liền với những người kỹ nữ bất hạnh. Nói cách
khác, câu chuyện tài sắc ở Truyện Kiều không thể nhìn cô lập mà phải đặt trong tương quan
với vấn đề tài tình”. [45, 145]
Điểm qua những ý kiến, những bài viết ở trên, có thể thấy rõ vấn đề hình ảnh kỹ nữ
trong văn học trung đại của ta không phải chưa được nhắc đến. Tuy nhiên, những bài viết
trên chưa đề cập một cách trọn vẹn, chuyên biệt ở từng khía cạnh về nhân vật này. Trong
tình hình đó, luận văn này xin góp thêm một tiếng nói, một suy nghĩ. Những kiến giải của
những công trình nghiên cứu đi trước chính là tiền đề để người viết lựa chọn và thực hiện đề
tài này. Với thời gian và năng lực có hạn, hy vọng luận văn sẽ đưa ra được những nét mới,
hệ thống hơn về một hình ảnh khá thú vị và cũng không kém phần nhạy cảm này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Với đặc trưng của đề tài, người viết tiến hành các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích tổng hợp
Những phương pháp trên được kết hợp với các thao tác: phân loại, thống kê, phân tích,
đối chiếu so sánh. Các phương pháp này được dùng ở xuyên suốt các chương.
Đầu tiên là thống kê các đối tượng. tiếp theo là phân loại một cách hợp lý. Sau đó, ở
từng loại, người viết khảo sát ở những khía cạnh khác nhau. Sau khi khảo sát, sẽ phân tích
từng đối tượng, tổng hợp lại để rút ra những luận điểm quan trọng. Trong quá trình thực
hiện, khi khảo sát, phân tích, người viết sẽ dùng phương pháp so sánh, đối chiếu theo từng
phương diện của tác phẩm để làm rõ nội dung cần đề cập. Trong quá trình sử dụng những
phương pháp để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng phương pháp so sánh và phân tích là chủ
yếu, vì đây là yêu cầu tất yếu của đề tài. Vì chỉ khi phân tích, đối chiếu cuộc đời, tình cảnh
của mỗi nhân vật mới có thể phát hiện và làm nổi bật những nét đặc trưng của hình tượng kỹ
nữ trong thơ văn trung đại nước ta.
6. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Phần thứ nhất: Mở đầu
Phần thứ hai: Nội dung
Chương I: Đôi nét về nhân vật kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam
I. Khái niệm “Kỹ nữ”
II. Thời đại
III. Sự xuất hiện của nhân vật kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam
Chương II: Những đặc điểm của người kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam
I.Vẻ đẹp hình thể và tài năng
1. Vẻ đẹp mê hoặc
2. Tài hoa hơn người
II. Số phận bi thảm
III. Nét đẹp tâm hồn của người kỹ nữ
1. Khát vọng về cuộc sống và tình yêu
2. Ý thức vươn lên, thoát khỏi kiếp đoạn trường
3. Cô đầu và nét đẹp của những mối tình tài tử - giai nhân
IV. Cô đầu và những biểu hiện tha hóa vào cuối thế kỷ XIX
Chương III: Hình ảnh kỹ nữ trong văn học trung đại Việt Nam và kỹ nữ trong thơ văn một số
nước Châu Á
I. Hình ảnh kỹ nữ trong thơ văn một số nước Châu Á
1. Kỹ nữ ở Trung Quốc
1.1. Nguồn gốc
1.2. Phát triển
1.3. Đặc điểm
1.4. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học Trung Quốc
2. Kisaeng ở Hàn Quốc
2.1. Nguồn gốc và phát triển
2.2. Đặc điểm
2.3. Hình ảnh Kisaeng trong văn học Hàn Quốc
3. Geisha ở Nhật Bản
3.1. Tên gọi
3.2. Nguồn gốc
3.3. Đặc điểm
3.4. Hình ảnh geisha trong văn học Nhật Bản
II. Những điểm tương đồng và dị biệt giữa hình ảnh kỹ nữ trong văn học Việt Nam và
các nước Châu Á
1. Điểm tương đồng
2. Điểm dị biệt
Chương 1 : ĐÔI NÉT VỀ NHÂN VẬT KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM “KỸ NỮ”
Nhìn từ lịch sử phát triển của nghề kỹ nữ và từ từ nguyên, ta có các cách giải thích
sau:
- Chữ “kỹ” (nữ + chi)1: + Gái đẹp
+ Người phụ nữ làm nghề ca hát
+ Tục gọi gái đĩ
- Chữ “kỹ” ( thủ + chi )2:+ Tài năng, có nghề
+ Thợ giỏi
- Chữ “kỹ” ( nhân + chi)3: +Có nghề, có tài năng
( Dùng như chữ kỹ )
+ Nữ nhạc công, con hát
Thời cổ, cùng với các chữ “kỹ” (nhân + chi ), “kỹ” (thủ + chi ) là để chỉ những nữ
nhạc công, con hát có tài năng, tài nghệ cao. Qua đây, chúng ta thấy một điều rằng “kỹ nữ”
ban đầu không phải là loại phụ nữ làm nghề bán thân mà vốn là những người hát, ca múa,
mang tính chất nghệ thuật.
Qua thời gian, càng về sau, cách hiểu về từ kỹ nữ càng rời xa so với ý nghĩa đầu tiên
của nó. Các từ điển thông dụng ở nước ta thường đưa ra khái niệm về kỹ nữ và các từ gần
nghĩa như như ca nữ, ca kỹ, ví như:
o Kỹ: người con gái đẹp, đào hát, gái làm nghề mại dâm.4
o Kỹ nữ: người con gái làm nghề ca hát và mại dâm trong chế độ cũ.5
o Kỹ nữ: người con gái làm nghề mại dâm.6
o Kỹ nữ: gái hành nghề tại các thanh lâu, kỹ viện.7
o Ca kỹ: người phụ nữ sống bằng nghề ca hát và mại dâm trong xã hội cũ.8
o Ca kỹ: những người con gái làm nghề ca hát, có khi cả nghề mại dâm trong xã hội cũ.9
1 Từ điển Hán Việt, Nguyễn Tôn Nhan, NXB Từ điển Bách Khoa, 2003, trang 190
2 Từ điển Hán Việt, Nguyễn Tôn Nhan, NXB Từ điển Bách Khoa, 2003, trang 325
3 Từ điển Hán Việt, Nguyễn Tôn Nhan, NXB Từ điển Bách Khoa, 2003, trang 28
4 Từ điển tiếng Việt, Nxb VHTT, 2005, trang 1095
5 Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TpHCM, 2000, trang 980
6 Đại từ điển tiếng Việt, Nxb VHTT, 1999, trang 934
7 Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb TpHCM, 2002, trang 638
8 Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb TpHCM, 2002, trang 87
9 Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2006, trang 144
o Ca kỹ: người phụ nữ làm nghề ca hát.10
o Ca nhi: người phụ nữ làm nghề ca hát trong xã hội cũ.11
Với những ý nghĩa mà các từ điển Việt Nam giải thích về ca kỹ, ca nhi, kỹ nữ thì có
thể hiểu ca nhi, ca nữ chỉ những người làm nghề ca hát, mua vui trong xã hội cũ, còn ca kỹ ,
kỹ nữ là những người phụ nữ đem thân xác để bán lấy tiền. So với ý nghĩa ban đầu thì càng
về sau, khái niệm kỹ nữ càng gần với việc bán dâm. Một tên gọi khác của kỹ nữ là “ thị kỹ”
(kỹ nữ ở thành thị), là những người đem bán thân xác của mình đánh đổi lấy tiền của khách
làng chơi.
Điều này xuất phát từ Trung Quốc. Nó được manh nha từ thời Đường Tống, định hình
trong thời Minh Thanh [39, 12]. Sự phát triển của nghề kỹ nữ ở Trung Quốc trải qua ba giai
đoạn:
Giai đoạn bán nghề là chủ yếu: từ Hạ Thương đến Ngụy Tấn nam bắc triều.
Giai đoạn coi trọng nhan sắc lẫn tài nghệ: thời Tùy Đường Tống Nguyên.
Giai đoạn bán dâm là chủ yếu: từ thời Minh Thanh đến trước khi thành lập nước Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Qua ba giai đoạn này, người Trung Quốc định nghĩa kỹ nữ như sau: “ kỹ nữ là loại
phụ nữ đưa nhan sắc và tài nghệ của mình ra bán lấy tiền.” [ 39, 13]
Hoạt động của kỹ nữ diễn ra trong những ca lâu kỹ viện. Mỗi nơi như thế đều có một
mụ chủ chứa – những tú bà - cai quản. Đó là những kỹ nữ hết thời, dạy đàn hát, ca múa, chỉ
bảo các ngón nghề chiều chuộng khách chơi cho những kỹ nữ mới vào nghề, đồng thời đứng
ra quản lý. Những con người này vô cùng nhẫn tâm, kiếm tiền bằng cách buôn bán thân xác
phụ nữ, chỉ cần thu lợi cho mình chứ không nghĩ đến những người phụ nữ đáng thương. Các
kỹ nữ ở đây đều được chỉ bảo bài bản việc ca múa đàn hát. Đây cũng là một trong những tài
năng cơ bản của kỹ nữ. Đa phần các kỹ nữ đều rất xinh đẹp. Ngoài tài năng đàn hát ca múa,
họ còn phải biết cách tiếp chuyện, biết cách quyến rũ, làm vừa lòng khách.
Càng về sau, kỹ nữ càng biến tướng. Họ không chỉ đơn thuần là người đàn hát ca múa
bình thường ở các kỹ viện nữa, mà trở thành những người kiêm luôn nghề bán thân để sinh
sống. Kỹ viện cũng trở thành những nhà chứa, lầu xanh đích thực, là nơi đi lại dập dìu của
khách làng chơi. Khách làng chơi ở đây chủ yếu là những kẻ có tiền, có quyền; không có
tiền, có quyền thì là khách giang hồ đến để mua vui, hoặc là những người đam mê tửu sắc. Ở
10 Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2006, trang 144
11 Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb TpHCM, 2000, 203
các thanh lâu tấp nập các bóng hồng, họ chính là những kỹ nữ. Và loại người này luôn hứng
chịu những thiệt thòi, bị xã hội phong kiến xem thường, khinh miệt. Sự thống khổ của kỹ nữ
biểu hiện trên nhiều phương diện, hoặc từ sự áp bức của quan phủ, hoặc do tú bà ngược đãi
hoặc do khách làng chơi coi khinh hạch sách, hoặc từ sự dày vò tâm tư của chính mình, …
muôn đời không sao dứt hết được. Đối với kỹ nữ mà nói, họ không những biểu diễn tài nghệ
ca múa miễn phí cho quan lại mà còn phải đảm nhiệm việc làm công cụ thỏa mãn dục vọng
cho kẻ thống trị. Họ trở thành những vật hy sinh đáng thương, bị đem ra trao đổi, mua bán,
hành hạ, cưỡng bức. Một khi đã bước vào lầu xanh thì họ bị đè nén và khó lòng thoát nổi.
Phần lớn kỹ nữ hoàn toàn không có quyền tự do cá nhân, họ phụ thuộc hoàn toàn vào tú bà,
chủ thanh lâu. Họ không có gì đảm bảo tính mạng của mình. Người kỹ nữ trong “ địa ngục
trần gian” chẳng qua chỉ là công cụ hái ra tiền của các tú bà. Kỹ nữ tiếp khách ít, không kiếm
được tiền, hoặc chiêu đãi khách không chu đáo, hoặc tham ngủ dậy trễ, hoặc không cẩn thận
làm trái quy định của kỹ viện, … nhất định bị đánh đập tàn nhẫn. Mỗi lúc chịu xử phạt, kỹ
nữ tuy bị đánh đập tàn nhẫn vẫn phải nín nhịn chịu đựng, xé lòng nát ruột, rất thương tâm.
Dẫu sao ở chốn bùn nhơ ấy, chúng ta vẫn bắt gặp những người thật sự tài năng và có phẩm
chất để từ đó nảy sinh ra nhiều những oan thương tủi nhục, những bi kịch của kiếp hồng
nhan.
II. THỜI ĐẠI
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nói rất nhiều lần về bất hạnh của những con người
tài sắc.
-"Rằng hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?"
-"Phận sao bạc chẳng vừa thôi
Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan"
-"Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi"
Có lẽ chúng ta vẫn thường hay gặp những câu nói kiểu như "hồng nhan bạc mệnh",
"hồng nhan đa truân". Với chúng ta ngày nay, những câu nói trên có vẻ không thực tế. Trong
thời đại này, xinh đẹp là một điều kiện rất tốt để đi đến thành công ( dĩ nhiên còn cần đến
những yếu tố khác). Thế nhưng, với xã hội phong kiến, điều này hoàn toàn ngược lại. Vào
lúc ấy, dường như có một quy luật bất thành văn: người đẹp, đặc biệt là người tài sắc thì sẽ
chịu một số phận gian nan. Đương nhiên không thể có một căn cứ khoa học nào để khái quát
rằng người đẹp sẽ phải bất hạnh, và cũng chưa chắc ai bất hạnh đều do người ấy có sắc đẹp.
Tuy nhiên, lần giở lại những trang sử, trang văn của cha ông, ít nhiều ta có thể giải thích triết
lý có vẻ siêu hình này.
Đất nước ta có sự giao thoa về văn hóa khá gần gũi với Trung Quốc. Điều này càng
đậm nét trong thời phong kiến. Nét văn hóa mà ta chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất đó là đạo
Nho. Vì ra đời trong thời thế loạn lạc, đạo Nho mang đặc điểm là một tôn giáo buộc con
người vào những phép tắc lễ nghĩa trong ứng xử. Những ràng buộc đó tác động rất lớn đến
cuộc sống của những người phụ nữ. Vào đất nước chúng ta, với sự tiếp nhận bị động ( do
chủ ý muốn đồng hóa dân tộc ta của người Trung Quốc), thân phận người phụ nữ phải chịu
bao đắng cay tủi nhục. Họ hoàn toàn phụ thuộc, lệ thuộc vào người đàn ông. Với những
người có nhan sắc thì càng tai họa hơn. Những người đẹp này thường bất hạnh vì chính nhan
sắc của họ. Xã hội phân hóa giai cấp càng sâu sắc thì người đẹp càng dễ trở thành nạn nhân
của vua chúa, quan lại, những kẻ lắm tiền. Bị lệ thuộc vào người khác nên họ hoàn toàn
không chủ động được cuộc sống của mình. "Người phụ nữ không có quyền lựa chọn riêng
cho mình cách sống, cách ứng xử, hay thậm chí là làm chủ than xác và tâm lý của mình" [
45, 144]. Những người phụ nữ đẹp thời xưa thường hay bị tuyển mộ, dâng nạp, bị gả bán
cho quan lại, vua chúa. Vì vậy, họ trở thành công cụ để thỏa mãn nhục dục của tầng lớp trên.
Vì chỉ là một công cụ mua vui cho người có chức quyền và tiền của cho nên khi sắc đẹp phai
tàn, số phận của họ trở nên thật bi đát.
Không những là công cụ mua vui, người tài sắc còn là một phương tiện để vua chúa
thực hiện những mưu đồ chính trị. Thành ngữ "nghiêng nước nghiêng thành" là một cách nói
để nói về sắc đẹp nguy hiểm của các mỹ nhân đối với sự tồn vong của một triều đại. Nghịch
lí thay, chính những kẻ có chức quyền khi cần thì dùng sắc đẹp của họ để tranh giành quyền
lực, còn khi triều đại sụp đổ thì lại miệt thị, lên án. Đau đớn hơn cả là khi bọn vua chúa thực
hiện thành công mưu đồ thì có thể họ sẽ kết thúc cuộc đời của các mỹ nhân một cách hết sức
đau đớn. Sử sách đã ghi lại rất nhiều câu chuyện đau lòng như trên. Ví như Tây Thi được
Việt Vương Câu Tiễn dung làm mỹ nhân kế để đánh Ngô Phù Sai, việc lớn thành công, Câu
Tiễn phục thù được thì cũng là lúc Tây Thi bị bỏ vào túi da ném xuống sông. Đó là sách sử
Trung Quốc. Ở Việt Nam ta, Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lại việc tuyển cung, một cách
đẩy đưa những người con gái đẹp đến gần hơn với số phận bất hạnh như sau: "Năm 1441,
đời Lê Thái Tông, mùa hạ tháng năm, xuống lệnh tuyển con gái đẹp ở các phủ huyện. Mùa
thu tháng tám, tuyển chọn con gái đẹp ở sân điện". Như vậy sơ tuyển tại địa phương sau đó
chung kết tại triều đình. Chưa ai thống kê con số chính xác của cung nữ trong triều đại phong
kiến Việt Nam nhưng có thể tin rằng con số đó phải tới hàng trăm. Mục ghi chép "Chuyện cũ
trong phủ chúa" của Nguyễn Án về việc chúa Trịnh Sâm ở ngôi chúa từ năm 1767 – 1786
huy động một số lượng lớn cung nữ và nội thị để tổ chức chợ đêm bên ao Long Trì. Hoàng
Lê nhất thống chí chép chuyện vua Lê Cảnh Hưng đã huy động hàng trăm cung nữ bày thế
đánh trận Ngụy – Thục - Ngô để mua vui.
Số phận của các cung nữ trẻ đẹp, tài sắc rất bất hạnh vì được tuyển chọn trên cơ sở sắc
đẹp chứ không phải trên cơ sở tình yêu hay sự tôn trọng lẫn nhau. Vì thế, khi vua chúa tìm
được người trẻ đẹp hơn, họ tất yếu bị thất sủng.
Những chuyện về những người phụ nữ trẻ đẹp, tài sắc là đối tượng săn đuổi của bọn
vua chúa, quan lại quyền quý không hiếm trong thực tế lịch sử và trong văn học Việt
Nam.Việc bắt gái đẹp dâng lên để lấy lòng vua chúa là chuyện phổ biến của chế độ phong
kiến. Trong "Công dư tiệp ký" của Vũ Phương Đề có Truyện tể tướng xã Mộ Trạch đi đánh
trận bắt được trong đám tù binh một thiếu nữ tuyệt đẹp đã đem về dâng chúa Trịnh. Nhiều
truyện Nôm đã kể lại số phận trắc trở của nhiều gia đình dân thường chỉ vì vợ có sắc đẹp
được bọn quyền quý dòm ngó. Truyện Phạm Tải Ngọc Hoa kể về số phận gian truân của cô
Ngọc Hoa tài sắc. Gã Biện Điền thấy cô xinh đẹp mà không lấy được đã cho tạc tượng nàng
dâng cho tên bạo chúa dâm ác Trang Vương. Trang Vương cho quân đến bắt Ngọc Hoa
nhưng nàng cự tuyệt, thậm chí còn tự rạch mặt cho xấu và dọa tự tử. Nguyễn Lộc đã rất có lý
khi nhận định rằng: "Truyện Nôm bình dân chủ yếu đặt vấn đề bảo vệ tình vợ chồng, nói
rộng ra là bảo vệ gia đình trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến."[31,163] Trong thực
tế không chỉ trong thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến mà trong tất cả mọi thời kỳ xã hội có
giai cấp, khi không có cơ chế luật pháp bảo vệ phụ nữ, khi vua chúa quan lại và bọn có của
toàn quyền thống trị, người phụ nữ tài sắc luôn luôn là nạn nhân đau khổ của sự chuyên
quyền độc đoán của bọn chúng.
Tóm lại, số phận thực tế của những người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến
phương Đông đã là nền tảng cho sự hình thành triết lý về thân phận bất hạnh của người hồng
nhan. Người xưa không thể hiểu rằng chính xã hội nam quyền với sự lạm dụng vô hạn quyền
lực của nam giới đối với phụ nữ, chính xã hội không có các thiết chế luật pháp hữu hiệu bảo
vệ cho những người phụ nữ tài sắc vốn dễ bị xâm hại đã gây ra nỗi bất hạnh của người hồng
nhan. Nhà nho xa lánh, hắt hủi những người đẹp, xem người đẹp như là nguyên nhân gây
nên sự suy vong, sụp đổ của nhiều triều đại, bất hạnh và tai họa cho gia đình, đau khổ cho cá
nhân. Trọng đức hơn trọng sắc, đó là thực tế đã từng kéo dài ở cả Trung Quốc và Việt Nam.
Người ta đã nhìn hiện thực dưới dạng lộn ngược: lẽ ra phải lên án xã hội nam quyền, phụ
quyền mà Nho giáo bảo vệ, lẽ ra phải bênh vực những người phụ nữ đẹp thì người ta lại xa
lánh, hắt hủi người hồng nhan. Đúng như Trần Đình Hượu nhận xét:" Họ (các nhà nho) cho
sắc đẹp là một thứ của "làm nước mất nhà tan", một điềm "bất tường". Gia đình xã hội đề
cao người con gái nết na, đoan trang, đảm đang chứ không đề cao sắc đẹp. Khi dạm vợ cho
con cháu, người ta thường tránh người đẹp vì lo nó không mang phúc mà mang họa đến cho
gia đình. Trần Ngọc Vương cũng rất có lý khi cho rằng "triết lý hồng nhan bạc mệnh từ chỗ
có nguồn gốc xã hội thuần túy duy vật, dần dần bị trừu tượng hóa trở thành một triết lý tướng
số, đậm chất tiên nghiệm, duy tâm."
Nếu chú ý xem xét các sự kiện văn hóa thời kỳ này, ta dễ thấy, thực ra vấn đề "tài
mệnh tương đố (tài không tách rời tình) có căn nguyên xã hội sâu sắc. Đây là hiện tượng có
thực của xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVIII trở._. đi, gắn liền với hiện tượng ả đào đã xuất hiện
thành một tầng lớp xã hội đông đảo.[45, 146]
Trong khi lập trường Nho giáo phổ biến là kết án các mỹ nhân, tuyên truyền thái độ
ghẻ lạnh, xa lánh người đẹp, sợ người đẹp thì các nhà thơ, nhà văn trung đại cất tiếng nói
bênh vực, cảm thông với số phận của họ. Trong bối cảnh cả xã hội coi khinh, miệt thị những
con người làm cái nghề hèn kém nhất trong xã hội lúc đó, nghề kỹ nữ thì một tiếng nói cất
lên để bênh vực họ mang giá trị nhân văn sâu sắc. Triết lý tài mệnh tương đố trong Truyện
Kiều hẳn đã bắt nguồn từ những quan sát và suy ngẫm lâu dài của Nguyễn Du về thân phận
của người ả đào mà ông có dịp chứng kiến ngay trong gia đình của mình, rồi sau đó ông lại
bắt gặp đây đó trên đường đời. Người phụ nữ tài sắc không chỉ làm cung phi, làm món mồi
tranh đoạt của bọn quyền quý. Họ còn đem tài sắc phục vụ cho nhu cầu ăn chơi giải trí của
bọn đàn ông và họ làm thành một lớp người đặc biệt của xã hội được gọi là đào nương, ả
đào, cô đào. Những phụ nữ được gọi là ả đào đã bán tài hát hay, đàn ngọt của mình để kiếm
sống, thậm chí có thể kiếm sống bằng cả thân xác hoặc trở thành vợ thiếp. Thực ra trong các
xã hội phong kiến phương Đông, những người tương tự như ả đào ở nước ta đã từng tồn tại.
Ở Trung Quốc có kỹ nữ, Nhật Bản có geisha, Hàn Quốc có kisaeng, mà câu chuyện của
những mỹ nhân này sẽ được luận văn đề cập chi tiết ở chương sau.
III. SỰ XUẤT HIỆN CỦA NHÂN VẬT NGƯỜI KỸ NỮ TRONG VĂN HỌC TRUNG
ĐẠI VIỆT NAM
Nước ta ở gần Trung Quốc, lại sớm giao thiệp với Hán tộc, nên các vua ta cũng bắt
chước vua chúa Trung Quốc lập ban nhã nhạc, dùng khi tế tự Giao Miếu và ban nữ nhạc,
dùng trong những dịp khánh tiếp, tiếp đãi sứ thần ngoại quốc hay yến tiệc. Từ đời nhà Đinh
và Tiền Lê trở về trước không có sách nào nói đến ca vũ và nhạc, từ đời nhà Lý xuống đến
nhà Nguyễn, các sách chính sử và dã sử có ghi chép rõ ràng.
Theo “Việt sử tiêu án” do Ngô Thì Sĩ viết lại khoảng năm 1028 có người ca kỹ là Đào
thị hát hay được vua Lý Thái Tổ ban thưởng. Bà được mọi người hâm mộ, danh tiếng nổi
khắp vùng. Vì vậy, công chúng đặt tên cho con hát là đào nương. [42, 44]
Những tác phẩm đầu tiên có sự xuất hiện của nhân vật đào nương có thể kể đến “
Truyện Đào Nương” trong “Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề chép về nghề xướng ca của
nhiều phụ nữ đẹp làng Đào Đặng huyện Tiên Lữ. Vào thời Hồ (1400 – 1407) quân Minh
xâm lược nước ta, rất thích tài đàn hát của một cô gái tên gọi Đào Nương. Chúng thường ra
lệnh cho người ca nữ này hát mua vui. Bà đã lập công tiêu diệt bọn chúng bằng tài ca hát và
sắc đẹp của mình. Khi bà mất, dân làng nhớ công ơn bà nên đã lập đền thờ và gọi làng Đào
Đặng là làng Ả Đào.[42, 44]
Đã là thân phận một kỹ nữ, cho dù công việc tiếp khách của kỹ nữ đơn thuần là xướng
ca múa hát hay có liên quan đến thân xác đi nữa thì một khi nhắc đến kỹ nữ, ta đều có một
tình cảm cảm thông đến thân phận cô đơn, hẩm hiu của họ. Khi còn trẻ đẹp, các kỹ nữ được
người ta tôn vinh tài nghệ, sắc đẹp là thế. Nhưng khi về già thì sao ? Nhà thơ Thái Thuận đã
diễn tả tâm trạng của một kỹ nữ khi về già:
Hao mòn niên thiếu thủơ ăn chơi
Trang điểm hồng nhan khó đẹp người
Hoa rụng trước đình gương biếng ngắm
Trăng soi hồ nhớ hái sen chơi.
Lầu son gái trẻ vui mà thẹn
Gác tía thuyền quyên nhớ một thời
Chiếc gối du tiên khơi trí tưởng
Cùng ra ngủ giấc chia đôi.
(Lão kỹ ngâm – Thái Thuận – Quách Tấn dịch)
Cả bài thơ là sự nuối tiếc, nhung nhớ khôn nguôi của người ca kỹ khi đến tuổi xế
chiều. Sắc đẹp giờ đây đã “hao mòn”, không còn là “hồng nhan” nữa vì đến việc soi gương
giờ đây cũng biếng. Thời gian đẽ đem đi sắc đẹp, tiếng hát – những thứ mà bất cứ một người
ca kỹ nào cũng cần phải có. Giờ đây, khi tuổi đời đã về chiều, khi thấy trăng sáng bên bờ hồ
mà xao xuyến, bần thần tưởng nhớ lại bài hát “ Thái liên khúc” của một thuở “Lầu son gác
tía”, cùng khách bơi thuyền đi hái sen mua vui trên hồ trong đêm thanh vắng.
Đây có thể là một trong những tác phẩm văn học đầu tiên có hình ảnh của người kỹ nữ
của văn học trung đại đã diễn tả gần như cả cuộc đời người kỹ nữ. Nhất là tâm trạng nhung
nhớ, hồi tưởng lại thời xuân sắc đã qua.
Cũng trong một tác phẩm văn học khác: “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” của
Lê Đức Mạo ( 1462 – 1529), hình ảnh người ca nữ trong tác phẩm này được xem là mốc
đánh dấu sự xuất hiện của nghệ thuật hát ca trù. [8, 31]
Khoảng năm trăm năm về trước, tại đình làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm ( Hà Nội)
đã diễn ra lễ hội đầu xuân trong không khí đại lễ trang nghiêm, hào hùng. Một văn nhân hay
chữ trong làng là Lê Đức Mạo thay mặt bát giáp viết chín bài thơ để các giáp đọc và khen
thưởng cho các cô đào. Đó là bài “Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” soạn trước năm
1505, tức là khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Đây là bài thơ cổ nhất hiện biết có hai
chữ “ca trù” lần đầu tiên có mặt trong văn học viết. Hai câu thơ có nhắc đến “ ca trù” :
Thọ bôi kể chục, ca trù điểm trăm
………
Mừng nay tiệc ca trù thị yến.
Ở câu một, chữ “ca trù” cho thấy đây là lối hát dùng thẻ (trù) để thưởng cho người hát,
người đàn (đào và kép). Mỗi khi thấy hay, người cầm chầu gõ một tiếng chát vào tay trống
để thưởng và khi đó sẽ thả một thẻ tre (mỗi thẻ tương ứng với một số tiền) vào chiếc chậu.
Ở câu hai cho thấy tiệc ca trù được mở để thờ thần. [8, 32]
Tác phẩm này là một trong những tư liệu cho việc khảo sát về nguồn gốc nghệ thuật ca
trù. Đào nương ở đây được nhắc đến qua hai chữ “ ca trù” không được miêu tả kỹ càng về số
phận, tâm trạng mà chỉ cho thấy thời điểm xuất hiện của ca trù.
Trên đây là những tác phẩm văn học, có thể nói là đầu tiên của văn học trung đại giai
đoạn từ thế kỷ XIV – XV có hình ảnh của người ca nữ. Những tác phẩm trên tuy chưa đi sâu
vào phân tích cuộc đời, tình cảm, số phận, tính cách của người kỹ nữ nhưng đã cho thấy có
một tầng lớp mới bắt đầu xuất hiện trong xã hội.
Từ thế kỷ XVI, khi giai cấp phong kiến không còn giữ vai trò tích cực như giai đoạn
trước đó thì đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than, cơ cực. Thơ văn bấy giờ đã lên tiếng
phê phán bè lũ thống trị, đồng thời các nhà văn, nhà thơ cất tiếng nói cảm thông với số phận
của những người nhỏ bé trong xã hội. Hình ảnh những con người nhỏ bé cùng với cuộc sống
cùng cực của họ trở thành hình tượng trung tâm của những sáng tác lúc bấy giờ. Trong đó,
hình ảnh gợi lên nhiều nỗi thương tâm, suy nghĩ nhất là số phận của những người phụ nữ.
Vào giai đoạn chế độ phong kiến thịnh trị, vấn đề được đề cập nhiều trong văn học là cảm
hứng hào hùng của toàn dân tộc trước những chiến tích lẫy lừng, là hình ảnh con người trong
mối tương quan nhất thể với vạn vật, tự nhiên. Hình ảnh con người với những gì riêng tư
nhất vẫn chưa xuất hiện. Sang thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu có dấu hiệu suy vi, giai cấp
thống trị thoái hóa thì chính sách chuyên chế trở nên vô cùng nghiệt ngã. Những quan hệ tình
cảm của con người tuyệt đối bị cấm nhắc đến trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là văn chương. Giai
cấp thống trị muốn đưa con người vào quy củ trên danh nghĩa là ngăn chặn những mối quan
hệ buông thả. Một mặt, họ rêu rao vấn đề giới tính là xấu xa, nó là vấn đề cần bị cấm kỵ. Mặt
khác, chế độ phong kiến đã dung dưỡng cho lối sống xa hoa, phóng túng, sa đọa của bọn vua
chúa. Chính vì thấy được bộ mặt thật của chế độ phong kiến, con người đã ý thức được thân
phận của mình. Con người nhận ra cần phải đấu tranh để giành lại cuộc sống tự do chính
đáng của mình. Họ vùng dậy chống lại giai cấp phong kiến, đòi quyền được sống trong tình
cảm và những mối quan hệ thuận theo tự nhiên. Tiếng nói ấy đã trở thành trào lưu nhân văn
chủ nghĩa trong văn học. Trào lưu thể hiện khát vọng con người cá nhân nở rộ ở giai đoạn
thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, nhưng thật ra nó có nền móng từ thế kỷ XV – XVI, mà
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ là một tác phẩm tiêu biểu. Tình yêu và những biểu hiện
tự nhiên của nó được tác giả xây dựng trong tác phẩm trên được coi là một sự phản ứng lại
với những luật lệ hà khắc của thời phong kiến.
Đáng lưu ý , một hình ảnh khác của người phụ nữ, chính là hình ảnh kỹ nữ đã xuất
hiện có phần rõ nét hơn giai đoạn trước.
Giai đoạn trung đại chính là thời điểm nở rộ của hình ảnh kỹ nữ với khá nhiều sáng
tác. Có thể nói, những người ca kỹ lần đầu tiên xuất hiện trong một số sáng tác của Nguyễn
Dữ khiến cho nhân vật này gần gũi với độc giả hơn qua cách thể hiện của tác giả. Đó là
những câu chuyện trong “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm chứa đựng những câu chuyện lạ
lùng được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân.
Phương diện nổi bật trong Truyền kỳ mạn lục là tư tưởng phê phán những tệ lậu của xã
hội phong kiến. Đó là cảnh chiến tranh liên miên khiến cho dân chúng lâm vào cảnh lầm
than cơ cực, “sống chẳng gặp thời, chết không phải số. Đói không có thứ gì cấp dưỡng, lui
không có chỗ nào tựa nương…” (Chuyện tướng Dạ Soa). Nguyễn Dữ đã vạch trần những
xấu xa, thối nát của thể chế đương thời với nạn quan tham, xa hoa dâm loạn. Vua thì “
thường dối trá, tính nhiều tham dục…” ( Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa), quan
lại thì hung tợn, tham lam hiếu sắc như Lý Hữu Chi ( Chuyện Lý tướng quân) hoặc nham
hiểm và thâm độc như tên Trụ Quốc họ Thân ( Chuyện nàng Túy Tiêu). Đó là một xã hội
luân thường rối loạn, kẻ là “cha mẹ” dân không hề có lý tưởng “trí quân trạch dân”.
Nhưng điều làm nên giá trị lớn lao nhất, hơn hẳn các tác phẩm văn xuôi trước đó, cái
khiến cho Nguyễn Dữ trở nên gần gũi với các nhà nhân đạo chủ nghĩa văn học thế kỷ XVIII
– nửa đầu thế kỷ XIX và cũng là điểm khiến tác phẩm của ông nổi bật hơn so với các nhà
viết truyện truyền kỳ Đông Á đương thời, chính là việc tập truyện của ông đã hướng tới và
phản ánh số phận và khát vọng của con người, đặc biệt là thân phận của người phụ nữ. Khi
phản ánh cuộc sống lầm than, tủi nhục của người dân lành, của những đám đông nghèo khổ,
đến thân phận và sự bế tắc của người trí thức trước thực trạng xã hội, ông đặc biệt chú ý đến
thân phận của người phụ nữ.
Điều đặc biệt là khi phản ánh, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu xuất phát
từ lập trường đạo đức để phê phán, thì trước vấn đề quyền sống và thân phận con người, ông
lại đứng trên quan điểm nhân đạo. Ngoài những nhân vật phụ nữ mang trong mình những
phẩm chất mẫu mực của người phụ nữ Việt Nam truyền thống như nàng Vũ Thị Thiết “ thùy
mị, nết na” chung thủy chờ chồng, hiếu nghĩa nhất mực với mẹ chồng ( Chuyện người con
gái Nam Xương), hoặc như nàng Nhị Khanh tiết nghĩa, khuyên chồng chịu theo cha đến
nhận chức ở nơi “ tử địa”, rồi ở nhà một mực thủ tiết chờ chồng, thì còn là những phụ nữ có
thân phận hèn kém trong xã hội như Túy Tiêu, một con hát, thực chất là nô lệ trong dinh thự
một vị quan nhà Trần trong “ Chuyện nàng Túy Tiêu”, hay người kỹ nữ tên Hàn Than trong
“Chuyện nghiệp oan của Đào Thị”.
Các truyện “Chuyện nghiệp oan của Đào Thị” và “Chuyện nàng Túy Tiêu” là những
truyện có xuất hiện hình ảnh nhân vật nữ có những biểu hiện đặc trưng của người làm nghề
kỹ nữ. Những nhân vật đó là: nàng Túy Tiêu ( Chuyện nàng Túy Tiêu), Hàn Than ( Chuyện
nghiệp oan của Đào Thị).
Túy Tiêu và Hàn Than là hai nhân vật được giới thiệu ngay từ đầu truyện là ca nữ. Họ
đều mang thân phận của hạng người được coi là thấp kém trong xã hội. Tuy cả hai đều là
những người xinh đẹp, thông minh nhưng đáng thương. Túy Tiêu đã phải chịu nhiều nỗi khổ
trong dinh thự của tên Trụ Quốc, để hy vọng có ngày tái hợp cùng người yêu là Dư Nhuận
Chi. Hàn Than thì trải qua một cuộc đời đầy sóng gió, hết kiếp người đến kiếp ma, và dù cho
có tồn tại ở kiếp nào đi nữa, người ca kỹ này cũng bị những thế lực thù địch vùi dập. Hai
nhân vật kỹ nữ trong hai tác phẩm trên, qua lời kể của Nguyễn Dữ là hai ca nữ xinh đẹp, tài
giỏi nhưng cuộc đời lại chìm nổi, gian truân. Và trên hết, họ luôn khát vọng về một cuộc
sống hạnh phúc, điều mà họ đáng được hưởng và đã giành cả cuộc đời để đấu tranh.
Thông qua các nhân vật nữ, đặc biệt là những người kỹ nữ, tác giả đã gửi gắm những
thông điệp về cuộc đời, cất lên tiếng nói cho một tình yêu tự do, giải phóng con người ra
khỏi sự chế tài của xã hội. Người kỹ nữ xuất hiện trong những câu chuyện đều sống một
cuộc sống đầy sóng gió. Nàng Túy Tiêu may mắn được gặp lại người yêu và sống hạnh phúc
sau chuỗi ngày đau khổ chờ đợi, còn Hàn Than thì kết cục bi thảm hơn. Trải qua bao nhiêu
kiếp, kết cục vẫn không thể vươn tới được cuộc sống hạnh phúc. Ở đây, cũng cần nói thêm
về ảnh hưởng bởi nhận thức của tác giả. Các nhân vật nữ nói chung trong "Truyền kỳ mạn
lục" đều chịu chung một kết cục đen tối và tình yêu của họ thường rơi vào thế bế tắc. Khi đề
cập đến tình yêu, Nguyễn Dữ đã phóng bút táo bạo miêu tả những cuộc tình thiên về màu sắc
nhục cảm.
Với việc xuất hiện những nhân vật nữ, đặc biệt là kỹ nữ tạo được mối thương cảm
trong lòng người đọc, "Truyền kỳ mạn lục" là tác phẩm tạo tiền đề cho việc xuất hiện phổ
biến hơn hình ảnh người kỹ nữ trong thơ văn trung đại.
Như đã trình bày ở trên, nhân vật kỹ nữ phải chịu nhiều oan khiên, trắc trở, số phận
của họ thật trớ trêu, lại bị coi là hạng đàn bà hư hỏng, thất tiết mà ví dụ rõ nhất là cuộc đời
của nàng ca kỹ Hàn Than ( Chuyện nghiệp oan của Đào Thị). Khi nhà vua còn sống, Hàn
Than được trọng dụng là thế. Khi vua băng hà, ngay lập tức, nàng bị hất ra đường. Sau đó,
trải qua nhiều số kiếp, nàng luôn chịu những tai tiếng và sự truy đuổi của người đời. Nếu như
ở giai đoạn đầu của văn học trung đại (khoảng từ thế kỷ XIV – XV), nhân vật kỹ nữ còn
chưa được biểu hiện cụ thể, những điều tác giả gửi gắm còn mơ hồ thì khi thời gian qua đi,
đến giai đoạn sau này, với những tác phẩm ngày càng sâu sắc thì hình ảnh người kỹ nữ hiện
lên rõ nét hơn.
Thế kỷ XVIII, do sự phân hóa xã hội ngày càng sâu sắc, xuất hiện các đô thị, trong đó
tầng lớp quý tộc phong kiến và tầng lớp thương nhân có của nuôi ả đào trong nhà để phục vụ
thị hiếu ca nhạc, thậm chí việc lấy ả đào làm thiếp đã trở nên phổ biến. Thời gian này xuất
hiện cả một giáo phường chuyên phục vụ nghệ thuật. Giai đoạn này, kỹ nữ trở thành một
nhân vật mới trong văn học với hàng loạt tác phẩm mà tiêu biểu hơn cả là những bài thơ chữ
Hán của Nguyễn Du như Long Thành cầm giả ca ( trích trong Bắc hành tạp lục), La
Thành mại ca giả ( trích trong Thanh Hiên thi tập), Ngộ gia đệ cựu ca cơ ( trích trong Bắc
hành tạp lục), các tác phẩm chữ Nôm như Văn chiêu hồn, và đặc biệt là Truyện Kiều.
Trong những tác phẩm trên, những nhân vật kỹ nữ tiêu biểu đó là Thúy Kiều ( Truyện
Kiều – Nguyễn Du), cô Cầm ( Long Thành cầm giả ca), người ca nữ đất La Thành ( La
Thành mại ca giả), người hầu cũ của em ( Ngộ gia đệ cựu ca cơ). Nói đến thân phận của
người phụ nữ trong văn học giai đoạn này, đặc biệt những con người có nhan sắc thì ai cũng
nghĩ đến một quan niệm quen thuộc “ hồng nhan bạc mệnh”. Quan niệm này được các tác
giả khai thác tối đa khi xây dựng hình ảnh kỹ nữ. Nguyễn Du đã có hẳn một nhóm tác phẩm
dành cho đề tài này : ông viết về cô Cầm, về người đánh đàn đất La Thành, về nàng Kiều, về
Đạm Tiên, về những cô gái “liều tuổi xuân buôn nguyệt bán hoa” ( Văn chiêu hồn ). Trong
sự phong phú của các nhân vật phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, ta thấy có sự tập trung rõ nét vào
hình tượng kỹ nữ, ả đào. Người đẹp nói chung không phải là quan tâm chủ yếu của Nguyễn
Du mà ông nhìn nó gắn liền với những người kỹ nữ bất hạnh. Như đã nói ở trên, từ thế kỷ
XVIII trở đi, ả đào đã xuất hiện thành một tầng lớp đông đảo. Không nghi ngờ gì nữa, những
tài năng của Thúy Kiều gợi ta liên tưởng đến tài nghệ của các kỹ nữ, ả đào. Cuộc đời của
Thúy Kiều cũng trải qua những đau khổ thường thấy ở một kỹ nữ.Triết lý nêu lên trong
Truyện Kiều về tài mệnh tương đố hẳn đã bắt nguồn từ những quan sát và suy ngẫm lâu dài
của Nguyễn Du về thân phận của người ả đào mà ông đã có dịp chứng kiến ngay trong gia
đình của mình rồi sau đó ông lại tiếp tục bắt gặp đây đó trên đường đời. Người phụ nữ tài sắc
không chỉ làm cung phi, làm món mồi tranh đoạt của bọn quyền quý. Họ còn đem tài sắc
phục vụ cho nhu cầu ăn chơi, giải trí của bọn đàn ông và họ làm thành một lớp người đặc
biệt của xã hội được gọi là đào nương, ả đào. Những phụ nữ gọi là ả đào đã bán tài hát hay,
đàn ngọt của mình để kiếm sống, thậm chí kiếm sống bằng cả thân xác hoặc trở thành vợ
thiếp.
Tuy mang thân phận là người kỹ nữ, một nghề chịu nhiều sự khinh miệt của xã hội,
nhưng khi xuất hiện trong văn học giai đoạn này, họ lại được các nhà văn thương cảm, đau
xót cho số phận của họ, những con người “hồng nhan” nhưng “mệnh bạc”. Dưới chế độ
phong kiến, con người cá nhân không được thừa nhận, đặc biệt là người phụ nữ. Họ là nạn
nhân đau khổ nhất. Người phụ nữ bị tước đoạt mọi mà một con người bình thường xứng
đáng được hưởng. Từ thuở lọt lòng, họ đã bị ấn định câu “ Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô”. Mang thân phận của một con người bình thường mà sống trong chế độ phong kiến thì
đã phải chịu mọi điều bất công, huống chi là thân phận của một người phụ nữ, hơn cả là
người kỹ nữ. Họ bị cả xã hội coi là hạng người thấp hèn. Họ vì hoàn cảnh mà bị đẩy vô lầu
xanh, phải sống với nghề đàn hát mua vui cho người. Họ không được xã hội tôn trọng, và do
đó, họ phải nếm trải đủ mọi oan thương cay đắng. Xinh đẹp và tài năng, ấy vậy mà họ chỉ
gặp toàn khổ đau, buồn tủi. Khi đó, khát vọng về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc lại trỗi
lên trong họ. Tất cả những đặc điểm trên của nhân vật kỹ nữ, ta đều thấy có trong những tác
phẩm đã kể ở trên của Nguyễn Du.
Nhân vật kỹ nữ ở các giai đoạn khác nhau của văn học trung đại, khi xuất hiện đều bắt nguồn
từ hoàn cảnh xã hội lúc đó. Ví như ở thế kỷ XVIII, khi chế độ phong kiến đã đến lúc suy
vong, cuộc sống của người người dân rơi vào thế cùng cực thì kỹ nữ hiện lên như một điển
hình chân thật nhất cho thân phận của người dân, là một bằng chứng tố cáo sự bất công của
xã hội. Cũng có ảnh hưởng từ xã hội, vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, người
Pháp đã đặt xong nền đô hộ ở Đông Dương. Nhiều tỉnh lị, huyện lị mọc lên bên cạnh những
trục đường giao thông lớn nhỏ. Một số giáo phường ca trù ở nông thôn đã di chuyển ra tỉnh
và bám theo các trục đường giao thông để mở nhà hát ( còn gọi là ca quán). Giai đoạn này, ả
đào có một tên gọi khác là cô đầu.
Ca trù (hát ả đào) bắt nguồn từ ban nữ nhạc trong cung vua. Xưa kia, những khi khánh
tiết hay yến tiệc, vua chúa thường dùng nữ nhạc múa hát để giúp vui. Ngoài dân gian vào các
dịp đình đám hội hè, người ta cũng tìm ca nhi đến hát tế thần. Ca trù là nghệ thuật hát thơ,
hát nói, có mối quan hệ mật thiết với nhạc cung đình, được giới quan lại, nho sĩ ưa thích. Sự
hấp dẫn của ca trù là nghệ thuật ngôn từ trong các bài ca cùng sự biểu hiện tinh tế của người
hát trong sự phối hợp nhịp nhàng với ngón đàn, khổ phách.
Trên đất Thăng Long , có một hình thức ca nhạc xuất hiện sớm nhất, đó là hát ả đào,
một hình thức ca hát dân gian, nguồn gốc là hát cửa đình. Hát cửa đình còn gọi là hát thẻ (
hát ca trù). Trù là thẻ làm bằng tre ghi chữ đánh dấu để thưởng cho người hát hay. Sau khi
hát xong, các ban hát, hoặc ca kỹ cứ đếm thẻ mà lĩnh thưởng. Hát dân gian cửa đình phát
triển lên chuyên nghiệp vào thành Thăng Long đã có nhiều biến đổi theo tên gọi: hát cửa
đình, ca trù, ả đào, hát nhà tơ, nhà trò, cô đầu.
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” về nguồn gốc loại nhạc này có viết: “Mùa thu,
tháng 7 năm Ất Sửu (1025) đời Lý Thái Tổ... định lại các khoản quản giáp. Chỉ con hát mới
được gọi là quản giáp. Khi ấy có con hát là Đào thị, giỏi nghề hát, thường được thưởng,
người bấy giờ hâm mộ tiếng của Đào Thị, cho nên phàm con hát đều gọi là đào nương”. Như
vậy, có thể thấy người con gái hát giỏi kia là họ Đào. Sau này ai làm nghề đó đều được gọi là
“Đào hát”. “Đào nương” hay “ả Đào” đều có nghĩa ám chỉ người con gái làm nghề hát
xướng.[8,23]
Ngày xưa, hát ả đào là một thứ mua vui cho các nhà quan, nên mỗi khi đãi khách hoặc
yến tiệc trong dinh thì gọi là Ty. Dinh tuần phủ thì gọi là phiên ty, dinh án sát gọi là niết ty.
Những cuộc hát ở đào ở trong dinh gọi là hát nhà tơ. Còn hát nhà trò là hát có điệu bộ, đó là
một hình thức ra trò, làm trò diễn. Từ hát nhà trò sau lại đổi tên thành hát cô đầu. Hát cô đầu
thịnh hành ở phố Khâm Thiên. Đây là giai đoạn phát triển cuối cùng của hát ả đào. Ngày
xưa, các phường gánh cầm ca thường thu gom tiền của một gánh, số tiền đóng góp ấy thường
gọi là tiền đầu. Từ đó, chữ "ả" có vẻ miệt thị nên gọi là "cô", chữ "đào" gọi là "đầu", nên từ
đó có tên gọi là hát cô đầu. Hát cô đầu dưới thời phong kiến thực dân là một thú chơi sang,
có thể thức lề lối hát. Những người có tiền hoặc các quan lại, công tử, các nhà địa chủ, phú
hào, các văn nghệ sĩ đến hát cô đầu là một lối chơi có tính văn hóa.
Ca trù ngày càng phổ biến. Cung vua là nơi nghiêm cấm, người dân không thể tới lui,
nhưng đình làng hay đền thờ thần là những nơi công cộng, ai cũng có quyền đến xem múa
hát. Các quan lại, cũng là những người thay mặt vua duy trì trật tự xã hội, mới bắt chước vua
tìm ả đào về dinh múa hát trong những buổi tiệc tùng. Đời Trần, Chiêu Văn Vương, Trần
Nhật Duật, một trong những công thần bậc nhất trong cuộc chiến thắng quân Nguyên,
thường xuyên nuôi hàng mấy chục ca nữ trong nhà, ngày nào cũng yến ẩm múa hát với các
tân khách. Đời Lê, chúa Trịnh Tráng phong nàng ca nhi Phùng Ngọc Đài làm vương phi,
Kiều nhạc hầu Nguyễn Khản trong nhà không mấy lúc vắng tiếng hát của đào
nương…[47,64]. Các tư nhân dần dần cũng bắt chước quan lại tìm cô đầu về nhà hát mỗi khi
mừng thọ hay khao vọng. Ca trù phát triển và thịnh vượng trong suốt một quá trình lâu dài
trong lịch sử dân tộc. Các cô đầu là người hát và cũng chính là những truyền nhân đích thực
của loại hình nghệ thuật này. Họ cũng như những cô gái nhà lương dân khác, ban ngày đi
làm công việc ruộng vườn hoặc chăn tằm dệt vải. Tối đến họ đến nhà quản giáp luyện tập
múa hát và gõ phách. Cô đầu đều có đi học, thông hiểu chữ nghĩa nên mới đọc được những
bài "Tương tiến tửu", "Tiền hậu phú Xích Bích”… Học hát ca trù là cả một công phu. Người
nào thông minh cũng phải ba bốn năm ròng mới cầm được lá phách ra hát. Cô đầu xưa phải
tuân thủ hàng trăm thứ kiêng kỵ cốt sao giữ được tiếng hát đẹp màu âm sắc. Bản tính ca trù
là một thú chơi tinh thần, nó đòi hỏi phải có sự cố gắng làm việc bằng tinh thần của người
nghe và người hát. Loại hình nghệ thuật này đã góp cho văn chương rất nhiều bài thơ viết
bằng chữ Nôm chứa đựng nhiều tâm trạng, nhiều cung bậc tâm trạng tinh tế của người Việt
Nam với các tên tuổi như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Dương Khuê,
Trần Tế Xương,… Và đặc biệt là những bài hát có sự xuất hiện những hình ảnh của chính
các cô đầu. Mỗi bài hát là một câu chuyện riêng tư thi vị, rất nhiều trong số này là những
sáng tác ngẫu hứng, ngay trong chiếu hát, ngay trong tiệc rượu. [ 8,105]
Một số tác phẩm của các tác giả giai đoạn này có sự xuất hiện hình ảnh cô đầu:
- Thơ Dương Khuê : Gặp đào Hồng đào Tuyết, Gặp cô đầu cũ, Tặng cô đầu Hai,
Tặng cô đầu Cúc, Thăm cô đầu ốm,…
- Thơ Nguyễn Công Trứ : Một ngày là nghĩa, Cảnh biệt ly, Yêu hoa, Bỡn cô đầu
già,…
- Thơ Trần Tế Xương : Hát cô đầu, Thú cô đầu, Tết cô đầu, Chơi ả đào, Hỏi ông
trời,…
- Thơ Nguyễn Khuyền : Đĩ cầu nôm, Bóng đè cô đầu,…
Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì nội dung phản ánh trong văn học cũng khác đi.
Với hình ảnh nhân vật kỹ nữ, sự xuất hiện của lớp người này cũng theo quy luật trên. Giai
đoạn đầu của thời trung đại, kỹ nữ chỉ được nhắc đến với tư cách là tên gọi của một hạng
người trong xã hội. Đến khi xã hội suy vi, người dân lầm than, khổ cực, người kỹ nữ hiện lên
là một nhân vật đại diện tiêu biểu cho tiếng nói thống thiết của thân phận con người. Khi
nghệ thuật hát ca trù ra đời, người kỹ nữ xuất hiện với tên gọi là cô đầu. Cô đầu trong văn
học trung đại được mô tả với hai chiều hướng: những cô đầu là truyền nhân của nghệ thuật
và những cô đầu đã bị biến tướng cùng thời gian.
Chương 2 : NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN VẬT KỸ NỮ TRONG THƠ VĂN
TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Ở chương I, chúng ta đã điểm qua sự xuất hiện của nhân vật kỹ nữ trong văn học qua
từng giai đoạn lịch sử. Ở mỗi giai đoạn, hình ảnh kỹ nữ mang một màu sắc khác nhau. Nếu ở
giai đoạn đầu thế kỷ XV – VI, kỹ nữ chỉ mới xuất hiện dưới một lời giới thiệu của tác giả thì
đến thế kỷ XVIII, khi quyền sống của con người trở thành một vấn đề bức thiết, kỹ nữ như
một phương tiện để các nhà văn bày tỏ sự cảm thông đến những kiếp người nhỏ bé và tố cáo
những xấu xa của xã hội. Rồi dần dần đến giai đoạn cuối thời kỳ trung đại, thế kỷ XIX, kỹ
nữ gắn liền với một bộ môn nghệ thuật – hát ca trù. Hình ảnh những cô đầu hiện lên với
những tiếng đàn, tiếng phách cùng giọng hát còn để mãi muôn đời.
Dù là một hạng người bị khinh miệt trong xã hội, nhưng kỹ nữ là nhân vật đã xuất
hiện xuyên suốt trong văn học trung đại. Để cảm nhận sâu sắc hơn nhân vật này, và cũng tìm
hiểu xem thái độ của các nhà văn với nhân vật này thế nào, chúng ta sẽ khảo sát nhân vật này
ở những phương diện sau:
I. VẺ ĐẸP HÌNH THỂ VÀ TÀI NĂNG
1. Vẻ đẹp mê hoặc
Sắc đẹp là điều đầu tiên phải đề cập khi nhắc đến kỹ nữ. Gần như là bắt buộc, đã là
kỹ nữ thì phải có nhan sắc. Chính trong những định nghĩa về kỹ nữ cũng đã khẳng định điều
này : kỹ nữ là người con gái đẹp, làm nghề ca hát, mại dâm trong xã hội cũ. Vì đặc trưng
nghề nghiệp là phải tiếp khách, mua vui cho khách nên trước tiên từ hình dáng bên ngoài họ
phải rất xinh đẹp. Có như vậy, họ mới thu hút được những khách làng chơi từ cái nhìn đầu
tiên. Và có vậy, các khách làng chơi mới đổ xô nhau đến kỹ viện để ngắm nhìn, chuyện trò
cùng các người đẹp. Vẻ xinh đẹp của người phụ nữ bao giờ cũng là vũ khí để quyến rũ các
đấng nam nhi. Dù cho đó là bậc vua chúa hay đơn thuần chỉ là một kẻ lắm tiền nhiều của, là
một văn nhân tài tử hay kẻ ít học thì ai ai cũng ngất ngây trước sự duyên dáng của những giai
nhân tuyệt sắc. Vì thế, nhan sắc là một vũ khí rất quan trọng của kỹ nữ.
Cũng như ngoài xã hội, hình ảnh kỹ nữ trong văn học cũng được miêu tả là những
người con gái đẹp.
Ngay từ giai đoạn sớm, khi kỹ nữ chỉ mới được nhắc đến một cách rải rác đây đó dưới
tên gọi như : ca nữ, danh kỹ như trong Truyện Đào nương ( Dư công tiệp ký – Vũ Phương
Đề) thì kỹ nữ đã được nói tới là một người con gái đẹp. Trong tác phẩm này có nhắc đến
nghề xướng ca của nhiều phụ nữ xinh đẹp làng Đào Đặng – huyện Tiên Lữ, trong đó có nàng
Đào Nương. Bà đã lập công giết giặc nhờ vào sắc đẹp và tài ca hát của mình. Giặc Minh đã
say mê, ngay ngất trước vẻ đẹp của nàng, thường bảo nàng múa hát làm vui. Nhân được bọn
chúng tin tưởng và ngu muội trước nhan sắc và giọng hát của mình, nàng đã lập công tiêu
diệt bọn chúng.
Nàng Túy Tiêu ( Chuyện nàng Túy Tiêu – Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ) thì “
nhanh nhẹn, xinh đẹp hơn người”. Trong “bọn con hát” tại bữa tiệc do Nguyễn Trung Ngạn
tổ chức để chiêu đãi Dư Nhuận Chi thì Túy Tiêu là người đã lọt vào mắt xanh chàng thư sinh
nổi tiếng hay thơ nhất kinh thành. Và có lẽ, ấn tượng đầu tiên nàng để lại trong trái tim Dư
Nhuận Chi chính là sắc đẹp dịu dàng, duyên dáng của nàng.
Hàn Than ( Chuyện nghiệp oan của Đào Thị - Truyền kỳ mạn lục- Nguyễn Dữ) cũng
là một giai nhân tuyệt sắc. “Nàng được tuyển sung vào làm cung nhân, hàng ngày chầu vua ở
tiệc rượu hay ở chiếu bạc”. Được tuyển vào làm cung nhân, hầu vua ở những bữa tiệc thì ắt
hẳn phải là người rất xinh đẹp.
Tất cả những phụ nữ, một khi đã khoác lên mình một tên gọi – kỹ nữ- thì đặc điểm
đầu tiên mà chúng ta dễ dàng nhận ra ở họ là nhan sắc. Nhóm tác phẩm của Nguyễn Du sẽ
cho chúng ta thấy rõ ràng hơn về điều này. Ông miêu tả Thúy Kiều (Truyện Kiều), cô Cầm
(Long Thành cầm giả ca), người ca nữ đất La Thành (La Thành mại ca giả), người hầu cũ
của em (Ngộ gia đệ cựu ca cơ) mỗi người có một vẻ đẹp khác nhau.
Tất cả những người phụ nữ này đều có tài năng và nhan sắc, thậm chí có người là bậc
tuyệt sắc tuyệt tài, nức tiếng xa gần. Vẻ đẹp của họ qua những vần thơ của Nguyễn Du lại
thêm phần lung linh rạng rỡ. Nguyễn Du vốn là nhà thơ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp
của giai nhân. Điều đó xuất phát từ sự trân trọng, ngưỡng mộ và cảm thông của ông đối với
những con người tài hoa bạc mệnh. Trong tác phẩm Truyện Kiều, nhà thơ giới thiệu Thúy
Vân trước. Vẻ đẹp của Vân đã được cực tả khiến người ta tưởng không ai hơn được nữa để
rồi sau đó, khi nàng Kiều xuất hiện thì Vân trở thành mờ nhạt, thành cái bóng. Sắc đẹp của
Kiều mới là tuyệt đỉnh
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Còn tài của nàng thì:
Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đó là Kiều, nhân vật chính của thiên truyện này. Ít ai ngờ người con gái xinh đẹp tài
năng ấy cuối cùng lại bạc phận, lại trở thành một kỹ nữ. Thân phận kỹ nữ của Kiều được
Đạm Tiên báo mộng. Đạm Tiên khi còn sống cũng là một kỹ nữ. Tuy bóng ma Đạm Tiên
xuất hiện không nhiều, nhưng nàng là một con người thực và cuộc đời của nàng cũng chính
là một bản cáo trạng đanh thép đối với xã hội đương thời.
Nếu việc đánh giá người kỹ nữ có xinh đẹp, nổi tiếng hay không dựa vào việc nàng có
được nhiều người mến mộ không thì Đạm Tiên quả rất là nổi tiếng. Khắp gần xa, người ta
nghe danh nàng, khách làng chơi lũ lượt, tấp nập kéo đến để được chiêm ngưỡng một bậc
tuyệt sắc như nàng.
Nổi danh tài sắc một thì
Xôn xao ngoài cửa thiếu gì yến anh
( Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Trong các tác phẩm khác, Nguyễn Du cũng đặc biệt._.oạt
động mãi dâm. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự hiểu lầm về geisha, đặc biệt là ở những nước
bên ngoài Nhật Bản, do không hiểu hết ý nghĩa nguyên thủy tốt đẹp của geisha, vốn là một
nghề cao quý và đáng trọng trong xã hội nên đã có những suy nghĩ sai lệch đối với những
geisha chân chính.
3.3. Đặc diểm của geisha:
Geisha có một vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn hóa Nhật Bản: là những người
lưu giữ những nét đẹp văn hóa truyền thống. Với nghĩa gốc của từ là “nghệ giả” – người hoạt
động trong lĩnh vực nghệ thuật, geisha thông thạo những môn nghệ thuật truyền thống của
Nhật như: hoa đạo, trà đạo, vũ đạo, đàn simasen, trống, kịch Nô, văn học nghệ thuật…
Không chỉ vậy, geisha còn là những người có nghệ thuật giao tiếp bởi họ có khả năng lôi
cuốn khách bằng lối nói chuyện vô cùng duyên dáng thể hiện qua cách ứng xử tế nhị, trí
thông minh và hiểu biết của mình. Họ là những thiếu nữ không chỉ có sắc đẹp, có học vấn
mà còn có tài năng nghệ thuật điêu luyện: “ Geisha là những thiếu nữ có học vấn tại Nhật
Bản. Họ ăn nói sắc sảo, am hiểu văn chương nước nhà, vui tươi và nhanh trí lạ thường, nên
bạn không thể không thán phục trước toàn bộ vẻ quyến rũ của họ. Họ sẽ hát, ngâm thơ và
trình diễn các trích đoạn hay nhất của những vở kịch với một tài nghệ đã trở thành kinh điển
của đất Phù Tang. Tuy vui đùa với bạn chẳng chút gượng gạo, đối đáp có duyên, nũng nịu
với bạn rất thân tình nhưng họ không bao giờ để mất phẩm giá của người thiếu nữ đoan
chính.” [59,1]
Trong xã hội Nhật, trước thế chiến thứ hai, những người phụ nữ Nhật mang chức phận
thuộc một tấng lớp người đặc biệt trong xã hội. Họ được coi là biểu trưng của sự tài hoa,
mực thước. Họ mang lại niềm vui cho mọi người, nhất là những quý ông thuộc tầng lớp
thượng lưu bằng tiếng đàn, điệu múa, lối nói hoạt bát, duyên dáng, thông minh: “ Vai trò của
geisha là dẫn đưa tình cảm, tâm trí của khách vào vẻ đẹp của văn hóa ứng xử Nhật Bản,
khiến họ cảm hứng và tình yêu đối với nàng geisha và đất nước của nàng” [57,2].Vì thế,
geisha được coi như một đặc trưng của văn hóa nước Nhật, là hình ảnh được quảng bá với du
khách bốn phương.
Geisha có tài năng và rất ý thức trong việc giữ gìn những nét văn hóa truyền thống từ
xưa của dân tộc. Ý thức nghề nghiệp ở họ rất cao, điều này thể hiện không chỉ ở việc họ rèn
luyện kĩ càng những phẩm chất, kĩ thuật biểu diển của mình mà còn thể hiện qua việc giữ gìn
đạo đức nghề nghiệp trong môi trường làm việc đặc biệt. Nếu không tỉnh táo và ý thức đầy
đủ về nghề nghiệp cao quý, geisha sẽ rất dễ sa ngã bởi cám dỗ từ lợi ích vật chất mà những
quý ông mang lại.
Đời sống tự chủ, không bị ràng buộc, các geisha rất chủ động trong tình cảm. Geisha
có thể có tình nhân là các văn nhân, tài tử hoặc các du khách đa tình mà họ cảm thấy thích và
tìm được sự đồng điệu trong tâm hồn. Những người đàn ông hiểu biết sâu sắc, có tâm hồn,
biết trân trọng cái đẹp, trân trọng người phụ nữ… chính là sự an ủi, cứu rỗi tâm hồn của các
nàng geisha, là sự thấu hiểu cái đẹp nhân bản giữa người với người trong cuộc sống vốn phù
du, hư ảo này.
3.4. Hình ảnh Geisha trong văn học Nhật Bản
Đề tài kỹ nữ, gái giang hồ là những đề tài truyền thống của văn học Nhật. Đề tài kỹ nữ
được đặt trong hệ thống đề tài về người phụ nữ trong văn học Nhật Bản.[49,26]. Đây là hệ
thống đề tài chính trong việc thể hiện văn hóa xứ sở Phù Tang. Từ thế kỷ thứ X- thời Heian,
Truyện Genji của Murasaki đã đánh dấu cho sự ra đời của đề tài người phụ nữ khi vấn đề số
phận của người phụ nữ quý tộc trong thời đại phong kiến được đặt ra. Thời kỳ Kamakura và
Muromachi ( thế kỷ XIII – XVI), chế độ Mạc phủ nắm quyền, tinh thần của văn học là hình
ảnh võ sĩ đạo. Nhưng bên cạnh hình ảnh võ sĩ, vẫn có sự suất hiện hình ảnh kỹ nữ, gái giang
hồ. Thời kỳ Edo ( thế kỷ XVII – XIX), hình ảnh người phụ nữ tràn đầy trong văn học. Thơ
Haiku, một trong những thể loại thơ nổi tiếng của Nhật ghi dấu đậm nét về hình ảnh các
geisha, du nữ. Những nhà thơ nổi tiếng như Basho, Buson, Chiyo… đều viết về các nàng
geisha rất hay, thể hiện được cuộc sống vô cùng tự tại của họ.[49,26]
Hầu hết các nhà thơ đều có ấn tượng đặc biệt trước vẻ đẹp và cuộc sống của những du
nữ. Basho ghi lại khoảnh khắc vô tư của những du nữ khi nghỉ chân ở quán ven đường:
Quán bên đường
Các du nữ ngủ
Trăng và đinh hương.
Thi nhân bắt gặp khoảnh khắc vô ưu, tự tại trong giấc ngủ của những du nữ giữa
không gian thơ mộng dưới ánh trăng và mùi hoa đinh hương thoang thoảng. Đó là một vẻ
đẹp kì diệu trong dự hòa quyện tuyệt vời giữa thiên nhiên và con người trong thơ haiku.
Chiyo và Buson thì ghi lại hình ảnh các du nữ đẹp rực rỡ trong mùa xuân với hoa mơ, hoa
hạnh:
Hoa hạnh nở tràn
Gái bình khang
Đang trả giá khăn san
( Buson)
Hoa mơ tưng bừng
Bên lầu du nữ
Mua sắm đai lưng
( Chiyo)
Hình ảnh những du nữ đang sắm sửa trang phục cho ngày xuân với nét duyên dáng,
tươi vui đã tạo thi hứng cho những nhà thơ. Với việc khắc họa bức tranh chân thực về cuộc
sống và ngợi ca vẻ đẹp của các nàng geisha qua những nét vẽ hồn nhiên, trong sáng, các nhà
thơ haiku đã thể hiện một cái nhìn trân trọng, yêu thương đối với những kỹ nữ – geisha. Họ
chính là những bông hoa tuyệt vời trên những bước đường du hành của các thi nhân. Do
những đặc thù riêng mà tầng lớp thương nhân và kỹ nữ có những điểm gặp gỡ nhau và xuất
hiện những đề tài cho văn học thời kỳ này: đề tài kỹ nữ – thương nhân. Đến thời kỳ văn học
hiện đại, sau cải cách Minh Trị (1868), đề tài kỹ nữ tiếp tục phát triển mạnh (lúc này geisha
chính thức trở thành một nghề trong xã hội). Các nhà văn hiện đại Nhật Bản tiếp thu lối sống
mới, đưa vào tác phẩm hình ảnh kỹ nữ với những khám phá về tình yêu, đời sống tự do,
phóng khoáng của họ.
Hình tượng geisha không đâu sống động, chân thực, sắc nét và gợi cảm như trong sáng
tác của Kawabata Yasunari. Đề tài geisha trong sáng tác của Kawabata là sự tiếp thu từ đề tài
người phụ nữ trong văn học cổ, trung và cận đại Nhật Bản.
Người kỹ nữ – geisha đáng chú ý nhất, đặc sác nhất trong văn học Nhật không ai khác
là nàng Komako trong “Vùng băng tuyết” của Kawabata. Ở nàng là sự dồn nén tất cả những
tinh hoa, tài nghệ và cả sự hiểu biết, thông minh, sắc sảo của một geisha thực thụ. Tài năng
của nàng được tác giả miêu tả: “Komako tiếp tục kể lể với một thanh âm độc huyền có chủ ý.
Khi chậm rãi, miệt mài, khi lướt nhanh một đoạn khó khăn thoạt nghe tưởng là nhàm chán,
nhưng dần dà chính nàng cũng đắm mình trong niềm say sưa thần diệu. Tiếng hát sôi nổi
của nàng khiến chàng choáng váng không biết âm nhạc sẽ đưa đến đâu…”.[54,83]. Tài đánh
đàn của Komako đã làm cho con người đi từ ngạc nhiên đến khó hiểu: “Shimamura cảm
thấy như người bị điện giật, chàng rùng mình, khắp thân thể như sởn gai óc lên đến tận đôi
má. Chàng có cảm tưởng những nốt nhạc đầu tiên đã mở rộng trong lòng chàng một khoảng
trống trong đó vang dội lên âm thanh thuần khiết và trong thanh của tiếng đàn samisen.
Chàng sững sờ, và hơn thế nữa, chàng thấy ngơ ngác như người bị đánh trúng một đòn vào
chô hiểm. Như bị lôi cuốn trong một tình cảm gần như lòng tôn kính thuần túy, ngụp lặn gần
như chìm đắm trong một biển cả tiếc thương, xúc động, chơ vơ, không cách gì kháng cự,
chàng chỉ còn biết tự thả mình cho uy lực đó, tự phó mặc một cách thích thú, theo ý Komako.
Nàng muốn làm gì chàng thì làm. Tại sao có thể như thế được? Nghĩ cho cùng, nàng cũng
chỉ là một kỹ nữ miền núi, một người con gái chưa trọn tuổi đôi mươi: có lý đâu nàng lại tài
nghệ tuyệt với đến thế! Căn phòng không lớn lắm nhưng phải chăng nàng đã biểu diễn một
cách tự đắc như đang ở trên một sân khấu lớn? Shimamura tự thả hồn vào cõi mơ mộng, say
sưa với vẻ đẹp thi vị của núi non.”[54,91].
Mang trong mình rất nhiều tài nghệ nhưng geisha vẫn phải gánh chịu những thiệt thòi
mà bất kỳ một con người “sống làm vợ khắp người ta” phải hứng chịu, đó là sự coi khinh
của xã hội, là bi kịch tình yêu dang dở, là sự cô đơn đáng sợ và một nỗi khát khao cháy lòng
về một tình yêu. Bi kịch thân phận tình yêu của các geisha xuất phát từ những quy định khắt
khe trong nghề nghiệp. Đọc Hồi ức của một geisha, người đọc không khỏi ngỡ ngàng,
thương xót cho những con người có đầy đủ những điều kiện và xứng đáng được hưởng cuộc
sống hạnh phúc nhưng không thể và không bao giờ có hạnh phúc trọn vẹn. Những dòng tâm
sự của nàng geisha sau tấm màn nhung nghe thật xót xa: “Geisha cũng có những đam mê
như mọi người, và họ cũng hành động sai lầm như mọi người. Người nào phạm phải sai lầm,
họ chỉ còn cách hy vọng giấu giếm sao để người ta đừng biết. Tiếng tăm của họ rất dễ bị ô
uế, nhưng điều quan trọng hơn hết là nếu họ có một danna, họ lại phải càng cẩn thận hơn
nữa. Điều đáng lo hơn hết là cô ta sẽ làm cho bà chủ nhà dạy kỹ nữ tức giận. Người geisha
nào quyết tâm theo đuổi đam mê này đều có thể gặp nguy hiểm, nhưng có lẽ họ không làm
thế để tiêu xài tiền bạc phung phí như tiền họ kiếm ra bằng con đường hợp pháp”.[57,136]
Tình duyên vuông tròn dường như chỉ là một ảo tưởng quá xa xôi: “Hy sinh quãng đời thanh
xuân, dùi mài rèn luyện để trở nên tuyệt mỹ trong mắt đàn ông, nhưng quyền được yêu và
bộc lộ mơ ước thầm kín của geisha lại bị tước bỏ. Thân phận họ sau tấm màn kín chỉ như
những “người vợ hờ”.[10,1].
II. NHỮNG ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ BIỆT GIỮA HÌNH ẢNH KỸ NỮ TRONG
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC
1. Nét tương đồng
Qua khảo sát và phân tích hình ảnh của kỹ nữ – ả đào trong văn chương Việt với kỹ nữ
trong văn học Trung Quốc, kisaeng trong văn học Hàn Quốc và hình tượng geisha trong văn
học Nhật Bản, người viết nhận thấy có những nét tương đồng ở những nhân vật này như sau:
Trước hết là ở vẻ đẹp hình thể. Như trên đã nhắc đến, muốn trở thành một kỹ nữ, trước
hết phải có vẻ ưa nhìn. Không hẳn là phải nghiêng nước nghiêng thành, mà mỗi người sẽ có
một nét đẹp khác nhau. Điều này phụ thuộc vào nền văn hóa cũng như xã hội của từng thời
đại của người kỹ nữ đó sống. Nhưng một điều tiên quyết, kỹ nữ phải có vẻ thu hút khách từ
dáng vẻ bề ngoài. Kiều của văn học cổ Việt Nam đã từng để thiên nhiên phải hờn ghen.
Komako của Kawabata thì duyên dáng và hút hồn người đối diện chỉ với lần gặp đầu tiên.
Hwang Jin I với đôi môi đỏ thắm đôi mắt sắc lạnh nhưng phảng phất nỗi buồn. Những kỹ nữ
này, tất cả đều có sức hấp dẫn.
Đẹp và tài hoa, đó lại là một sức hút những vị khách của kỹ nữ. Đàn, hát xướng, thi,
họa, múa, chơi cờ. Tài nghệ nào của kỹ nữ cũng đạt ở mức tuyệt đỉnh. Không thể chỉ biết sơ
sơ, qua loa vài ngón nghề mà trở thành kỹ nữ được. Năng khiếu bẩm sinh cộng với công phu
luyện tập không biết mệt mỏi đã khiến những kỹ nữ này có tài nghệ hơn người. Đọc những
dòng chữ Kawabata miêu tả tiếng đàn và cảm xúc của Shimamura khi nghe Komako đàn,
chúng ta liên tưởng đến những dòng tuyệt bút mà Nguyễn Du đã miêu tả cảnh Kiều đánh đàn
cho Kim Trọng. Cũng vẫn là những cung ai oán, thảm sầu, là thiên bạc mệnh như Thúy Kiều
năm nào. Tiếng đèn cỉa Komako cũng “trong như tiếng hạc bay qua, đục như tiếng suối mới
sa nửa vời, tiếng khoan như gió thoảng ngoài, tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa”. Những
tiếng đàn này như tiếng định mệnh, những tàn phai của những tháng ngày sắp tới. Có thể nói
ở đây có sự gặp gỡ giữa hai tư tưởng Phương Đông trong việc mô tả nét tài hoa của nhân vật.
Và cái tài ấy cho người đọc những cảm nhận không lành cho nhân vật. Bởi vì xưa nay : “Chữ
tài liền với chữ tai một vần”.
Những bi kịch mà người kỹ nữ phải đương đầu, phải hứng chịu cũng có một mẫu số
chung ở các nền văn chương Phương Đông. Chịu sự coi khinh, rẻ rúng của người đời. Tài
nghệ chỉ là thứ để mua vui, không được xem trọng. Khi còn xuân sắc, còn phục vụ nhu cầu
giải trí cho khách thì được nhiều người mến mộ. Đến khi tuổi về chiều thì phải sống trong
cảnh cô đơn, cô độc, chẳng còn ai nhớ đến. Muốn tìm một nơi nương tựa nhưng vô cùng khó
khăn, và dường như không thể tìm được hạnh phúc thật sự. Bắt nguồn từ đó mà tất cả những
dòng văn xuôi, những dòng thơ khắc họa kỹ nữ đều thể hiện nỗi khát khao của kỹ nữ về một
tình yêu vững bền, về một con người có thể làm chỗ dựa cho những tâm hồn mong manh đó.
Khao khát, nghĩa là trong thực tế, họ chưa từng được nếm thử. Là người của nghệ thuật, kỹ
nữ rất nhạy cảm và đa tình. Vì đa tình mà chắc hẳn lúc này lúc khác, họ mến mộ một ai đó
trong vô vàn những người đàn ông dập dìu nơi tửu quán. Nhưng trong những khách giang hồ
đó, thử hỏi có ai để ý, hay hơn nữa là nghĩ đến chuyện sẽ ràng buộc với một kỹ nữ. Để rồi
những ca kỹ mãi sống trong nỗi đợi chờ, chờ một tình yêu chân thành. Duy chỉ có Kiều của
Nguyễn Du thật sự hạnh phúc khi có Từ Hải. Nhưng phải thấy rằng, Từ Hải là một nhân vật
mơ ước của Nguyễn Du mà thôi. Đó là nhân vật lý tưởng mà Nguyễn Du khao khát, làm gì
có trong thực tế xã hội lúc đó. Bởi thế mà Từ cuối cùng đã phải chết, chết đứng một cách oan
khốc. Chẳng người kỹ nữ nào được hưởng hạnh phúc cả. Có thể số kiếp của họ đã được định
đoạt ngay khi họ được gọi với cái tên “kỹ nữ”. Vì thế, nét chung ở những tác phẩm này là
cảm hứng về thân phận người kỹ nữ.
Ngoài ra, một điểm tương đồng khác mà các nhân vật kỹ nữ trong các nền văn học
được đề cập ở luận văn này chính là giá trị về mặt văn hóa. Kisaeng ở Hàn Quốc thời phong
kiến được xem là những con người của nghệ thuật. Geisha Nhật Bản cũng là những truyền
nhân của những giá trị về mặt tinh thần của đất nước này. Thời hiện đại ngày nay, nhắc đến
kisaeng, geisha ai ai cũng tỏ lòng khâm phục và mến mộ tài năng, thương cảm cho số phận
của những con người này. Việt Nam ta cũng không ngoại lệ. Thân phận của các ca kỹ xuất
hiện vào các thế kỷ đầu của thời phong kiến, cho đến những sáng tác của Nguyễn Du khi mà
xã hội tước đi quyền hạnh phúc của con người, rồi hình ảnh kỹ nữ đã được thay đổi tên gọi
vào thế kỷ XIX, là những ả đào gắn liền với nghệ thuật ca trù. Một bộ môn nghệ thuật, một
thú chơi tao nhã của các văn nhân lại gắn liền với những ca kỹ, vậy thì có thể gọi những ả
đào cũng chính là truyền nhân của nghệ thuật trong văn hóa Việt. Nét chung, tất cả những kỹ
nữ ở những nền văn hóa trên đều là những con người của nghệ thuật, sống vì nghệ thuật và
lưu truyền nghệ thuật. Và họ trở thành nguồn cảm hứng cho các bộ môn nghệ thuật hiện nay
như: phim ảnh, kịch, thơ,…
2. Nét dị biệt
Tuy cùng xuất phát từ nền văn hóa Phương Đông, nhưng hình ảnh kỹ nữ trong văn
chương Việt vẫn có những nét khác biệt so với kỹ nữ trong văn chương các nước Châu Á.
Trước tiên, đó là quá trình xuyên suốt của đề tài này trong văn học Việt Nam thời trung
đại. Ở chương I, luận văn đã khái quát về sự xuất hiện của nhân vật kỹ nữ trong văn thơ
trung đại Việt Nam. Từ những thế kỷ đầu của giai đoạn phong kiến, hình ảnh này đã được
nhắc tới trong “ Công dư tiệp ký” của Vũ Phương Đề vào thời Hồ; trong các sáng tác thời Lê
như “Lão kỹ ngâm” ( Thái Thuận), “Thập giới cô hồn quốc ngữ văn” ( Lê Thánh Tông),
“Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn” ( Lê Đức Mạo). Cho đến khi giai cấp phong kiến có
dấu hiệu của sự suy vi, trong “Truyền kỳ mạn lục”, Nguyễn Dữ đã khắc họa nhân vật ca nữ
sâu sắc hơn thời kỳ trước khi ông xây dựng nhân vật này có tính cách, số phận, khát khao
hạnh phúc. Và nhân vật kỹ nữ được khắc họa rõ nét nhất cả về vẻ ngoài lẫn tài nghệ, cả về
phẩm chất, tâm hồn, đến những e chề tủi nhục, cả về những bi kịch của số phận đến những
khát khao về tình yêu, hạnh phúc là trong những sáng tác của Nguyễn Du thế kỷ XVIII. Kỹ
nữ trong văn học lấy được tình cảm và sự thương cảm của người đọc nhiều nhất là trong
những sáng tác giai đoạn này. Kiều đã trở thành cô gái đẹp nhất, tài giỏi nhất và cũng đau
khổ nhất trong văn học cổ Việt Nam mà không người đọc nào có thể quên được. Theo dòng
chảy của lịch sử, xã hội có nhiều thay đổi, kỹ nữ cũng có nhiều hình dạng mới. Vào thế kỷ
XIX, kỹ nữ được mô tả trong văn học Việt Nam chính là những ả đào gắn liền với nghệ thuật
ca trù. Cũng vẫn là những cô gái ưa nhìn, tài đánh đàn làm say đắm lòng người, giọng hát
truyền cảm nhưng các kỹ nữ – ả đào này xuất hiện trong văn học với một đề tài mới, đó là sự
đồng điệu của các văn nhân và đào nương, mà thực tế đã để lại những mối tình đẹp. Cho đến
văn học thời hiện đại, hình ảnh kỹ nữ vẫn xuất hiện trong thơ văn, rõ nhất là trong “Lời kỹ
nữ” của Xuân Diệu.
Rõ ràng ở đây, hình ảnh của kỹ nữ trong văn học Việt Nam có một sự liên tục và gắn
với đặc điểm của từng thời kỳ lịch sử. Trong khi đó, kỹ nữ trong văn học các nước như
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, người viết đã khảo sát và nhận thấy chỉ xuất hiện vào một
hoặc vài thời điểm nhất định, là những lát cắt, không có sự liên tục và vì vậy cũng không đa
dạng về hình thức (hay tên gọi) như kỹ nữ trong văn học Việt Nam.
Điểm khác biệt thứ hai có sự liên quan đến giá trị văn hóa. Kỹ nữ Trung Quốc, Kisaeng
Hàn Quốc, geisha Nhật Bản, tất cả đều là những con người gắn với nghệ thuật ( như đã trình
bày ở phần tương đồng). Nhưng hiện nay, tất cả những con người này chỉ được thời hiện tại
nhắc đến, tưởng nhớ với lòng ngưỡng mộ mà thôi. Kisaeng, geisha đã trở thành một nét văn
hóa đáng tự hào của Hàn Quốc và Nhật Bản. Hiện tại, những thú giải trí đó đã không còn
hoặc chỉ còn tồn tại ở một vùng nhất định như geisha Nhật Bản. Ở Nhật Bản hiện đại ngày
nay, người ta hiếm khi nhìn thấy geisha. Vào khoảng năm 1920, ở Nhật có trên 80.000
geisha. Nhưng giờ đây, số lượng đó chỉ còn khoảng 2000, chủ yếu tập trung ở Kyoto.[49,2].
Những nét đẹp đó đã thuộc về quá khứ. Còn với đất nước chúng ta, hình ảnh các đào nương
hát ca trù vẫn còn đó. Chúng ta có thể dễ dàng sống lại khung cảnh đào nương cất giọng hát,
kép đàn đệm những giai điệu để thăng hoa giọng hát của đào nương qua các buổi trình diễn
ca trù. Các bạn trẻ có cơ hội tiếp xúc sâu với bộ môn nghệ thuật này nếu cảm thấy đam mê
bằng cách tham gia những buổi sinh hoạt hoặc những khóa đào tạo. Chúng ta đang kêu gọi
mọi người gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần mà ca trù là một trong những
giá trị văn hóa đó. Hình ảnh kỹ nữ trong văn học Việt Nam vẫn còn hiển hiện trong đời sống
thực, và được nâng lên thành một di sản văn hóa thế giới.
KẾT LUẬN
Nền văn học của bất cứ dân tộc nào cũng phát triển cùng dòng chảy của lịch sử. Văn
học trung đại Việt Nam là một bộ phận văn học được sinh ra và phát triển trong những năm
tháng hào hùng nhưng không kém phần đau đớn của lịch sử dân tộc. Truyền thống nhân đạo
được thể hiện thông qua những tiếng nói bảo vệ phẩm giá của con người, nỗi cảm thương
cho số kiếp “sống không phải thời, chết không gặp số” trong các tác phẩm văn học. Phần lớn
các tác giả là những con người có một trái tim nhạy cảm, dùng ngòi bút của mình để vạch
trần những xấu xa thời đại, đồng thời bảo vệ quyền sống của con người. Họ (những tác giả)
đã nói lên những tiếng nói đồng cảm tích cực với những nhân vật của mình phù hợp với
truyền thống nhân nghĩa của dân tộc.
Trong hoàn cảnh xã hội đương thời, một mặt ta cảm nhận sự xấu xa của giai cấp thống
trị qua những dòng lịch sử, nhưng ở mặt khác, ta cảm nhận những tấm lòng của các tác giả
văn học. Một Nguyễn Dữ với sự phê phán tệ lậu xã hội qua những yếu tố kỳ ảo trong thể loại
truyền kỳ; một Nguyễn Du thấm thía “cái án phong lưu” của người tài hoa; một Nguyễn
Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê với niềm ưu ái và trân trọng nghệ thuật ca trù, tôn
vinh tài sắc của các đào nương; một Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương bất mãn với thời cuộc,
cất tiếng nói châm biếm mà ẩn sau đó là nỗi xót xa cho các ả đào. Cách thể hiện mỗi tác giả
mỗi khác, nhưng chung quy lại, đó là tấm lòng trân trọng của các tác giả đối với một số phận
bé nhỏ trong cuộc đời, số phận của các kỹ nữ. Hiện lên trong mỗi trang văn, trang thơ là cả
một xã hội phong kiến đang rệu rã nhưng rất “cố gắng” chà đạp lên những phận người yếu
ớt, đáng thương, tước đi khát vọng chính đáng của con người về tình yêu, hạnh phúc, tước đi
cả những phẩm chất đạo đức chân thực của con người.
Người kỹ nữ vẫn bị xem là hạng người dưới đáy xã hội, bị toàn xã hội coi thường và
tước đoạt quyền sống, quyền làm một con người bình thường, quyền hạnh phúc. Vậy mà,
người kỹ nữ chưa bao giờ để cho khát vọng của mình bị dập tắt bởi bất cứ thế lực nào. Họ
luôn tìm mọi con đường để giải thoát mình và hướng tới một cuộc sống hạnh phúc. Từ
những người ca nữ chưa được thể hiện sâu sắc trong những tác phẩm thuộc thời kỳ đầu của
văn học trung đại, cho đến những kỹ nữ được mô tả một cách sinh động với đầy đủ mọi cung
bậc tâm trạng, tích cách, số phận ở giai đoạn sau, tất cả đều là những con người luôn khát
khao hạnh phúc và có ý thức về bản thân rất cao trên con đường đi tìm hạnh phúc. Hình ảnh
kỹ nữ xuất hiện nhiều nhất là trong các sáng tác của Nguyễn Du. Tấm lòng nhân ái của bậc
thi hào dân tộc đã nhìn thấy trong vũng bùn nhơ nhuốc, tủi hổ của nghề kỹ nữ những viên
ngọc sáng lung linh, càng rèn giũa càng đẹp lạ thường. Một cô Kiều “sắc nước hương trời”
đang cố vươn lên khỏi bùn lầy nhơ nhớp. Trong mỗi bước đường của cuộc đời, tuy càng lúc
càng bị vùi dập nặng nề hơn nhưng nàng vẫn giữ được những phẩm chất cao quý. Một người
hầu cũ của em, một ca nữ đất La Thành, một cô Cầm ở Long Thành thật duyên dáng, tài
năng và chắc chắn cuộc đời không thể “dung tha” cho số kiếp của những con người này.
Nguyễn Du yêu thương và trân trọng họ rất mực. Ông ca ngợi, đồng cảm với những vẻ đẹp
ấy, những cuộc đời ấy. Đến Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến,
Trần Tế Xương,… hình ảnh các cô đầu lại có những thay đổi theo thời cuộc. Cô đầu là
truyền nhân của nghệ thuật ca trù, nhưng theo dòng chảy của thời gian, các cô đầu ngày càng
đánh mất chính mình. Cái thú tao nhã mà nghệ thuật ca trù đem lại đã suy bại. Cô đầu thời
kỳ này không đơn thuần là người làm nghề xướng ca nữa mà còn lấy việc bán thân làm kế
sinh nhai. Thật ghê gớm thay cho thế lực của đồng tiền và cả một xã hội đang chạy theo nó.
Bởi lẽ chính đồng tiền và lối sống thị thành ấy đã khiến những người phụ nữ khốn khổ kia
phải đánh mất chính mình, mất cả ý thức về danh dự, nhân phẩm của bản thân, trở thành nô
lệ của đồng tiền, để rồi bị cuốn vào vòng xoay ấy mà không sao thoát ra được. Dẫu vậy,
chúng ta vẫn có thể tìm thấy trong đêm đen của xã hội ấy một ánh sáng, ánh sáng của lòng
nhân đạo và yêu thương của các tác giả văn học. Đó chính là nỗi đồng cảm, niềm cảm
thương của các tác giả với niềm mong mỏi những người phụ nữ khốn khổ kia sẽ tìm thấy
hạnh phúc chân thực trên đường trở về tìm lại chính mình, dẫu cho con đường ấy còn lắm
gian nan và thất bại luôn chực chờ.
Thông qua hình ảnh người kỹ nữ, các tác giả bộc lộ rõ nét tư tưởng và tình cảm của
mình đối với con người, đặc biệt là những con người đang hàng ngày hàng giờ bị chà đạp.
Những trang thơ, trang văn sẽ khép lại, nhưng tâm sự thì còn mãi vương vấn. Cuộc đời của
những con người này chứa đựng vô số những tư tưởng, triết lý về cuộc đời và nhân sinh. Tìm
hiểu về số phận kỹ nữ cho chúng ta một con mắt nhìn cuộc sống, nhìn thấy xã hội một cách
sinh động. Cảm nhận về thân phận của kỹ nữ cho chúng ta một trái tim yêu thương, những
tình cảm cao đẹp giữa người với người. Người đọc hẳn không thể quên lòng chung thủy đến
cùng, kiên định đấu tranh vì tình yêu của nàng Túy Tiêu trong Truyền kỳ mạn lục. Chúng ta
càng không thể quên những bước đi của Kiều trong chuỗi ngày sóng gió, bởi ẩn sau đó là cả
một nghệ thuật sống mà muôn đời sau phải kính nể. Ta cũng không thể không ái ngại cho
thân phận những cô đầu trong xã hội buổi giao thời phong kiến – thực dân. Hình ảnh, thân
phận của những con người này là một minh chứng sống động cho hình ảnh một xã hội đang
suy tàn. Nhân vật kỹ nữ trong văn học trung đại đã khẳng định giá trị của con người, biểu
hiện nỗi khát khao hạnh phúc chính đáng của những người thấp cổ bé họng trong xã hội ấy.
Xin lấy ý thơ của Xuân Diệu, nhà thơ của trái tim yêu đương mãnh liệt để kết thúc:
Khách ngồi lại cùng em trong chốc nữa;
Vội vàng chi, trăng sáng quá, khách ơị
Đêm nay rằm: yến tiệc sáng trên trời;
Khách không ở, lòng em cô độc quá.
Khách ngồi lại cùng em ! Đây gối lả,
Tay em đây mời khách ngả đầu say;
Đây rượu nồng. Và hồn của em đây,
Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử.
………………….....
Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt.
Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơị
Người viễn du lòng bận nhớ xa khơi,
Gỡ tay vướng để theo lời gió nước.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngà lạnh buốt.
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôị
Du khách đi
Du khách đã đi rồi.
( Lời kỹ nữ)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Nxb Khai Trí, 1984.
2) Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, tái bản lần thứ 3, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2004.
3) Nguyễn Phan Cảnh, Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Văn Hóa Thông Tin, 2000.
4) Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phan Văn Hòa, Truyện Kiều tập chu, Nxb Đà
Nẵng, 2000.
5) Nhật Chiêu, Hoàng Chân Y và Hồ Xuân Hương và huyền thoại người nữ, in trong
tập văn học so sánh nghiên cứu và dịch thuật, khoa ngữ văn báo chí, Nxb ĐHQG Hà Nội,
2003.
6) Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, Nxb khoa học xã hội, 1998.
7) Nguyễn Văn Dân, Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo Dục, 1999.
8) Nguyễn Xuân Diện, Lịch sử và nghệ thuật ca trù, Nxb Thế Giới, 2007.
9) Xuân Diệu, Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Trẻ, 2006.
10) Đỗ Duy, Hồi ức của một Geisha – Nỗi lòng của những người “Vợ hờ”, vn
Express.
11) Hướng Dương, Hát ả đào xuất xứ từ đất Thăng Long, Vietbao.vn.
12) Nguyễn Đức Đàn, Trào lưu tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong văn học Việt Nam
thế lỷ XIX, tập san nghiên cứu văn học, số 1/1961.
13) Lâm Giang – Vũ Ký, Giảng luận về Nguyễn Khuyến, Nxb Tân Việt, 1960.
14) Nguyễn Thạch Giang (Khảo đính), Kiều, Nxb Thông Tin Hà Nội 1989.
15) Arthur Golden, Hồi ức của một Geisha (Thanh Vân dịch), Nxb Phụ nữ 2005.
16) Nguyễn Thị Bích Hải, Bình giảng thơ Đường, Nxb Giáo Dục, 2004.
17) Nguyễn Văn Hanh – Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ,
Nxb Giáo Dục, 1999.
18) Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền
quán, Nxb Lá Bối.
19) Trần Ngọc Hồ (dịch và bình), Những bài văn nổi tiếng của Trung Hoa, tập 3, Nxb
phương Đông, 2006.
20) Đoàn Tử Huyền, Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Nxb Nghệ An, 2008.
21) Nguyễn Văn Huyền, Nguyễn Khuyến tác phẩm, Nxb Nghệ An, 2008.
22) Lâm Khang, Những bi kịch của ả đào xưa, lamkieu.com.vn
23) Phan Công Khanh, Lịch sử tiếp nhận truyện Kiều, Luận án tiến sĩ, trường ĐHSP
TPHCM, 2001.
24) Đình Gia Khánh (chủ biên), Văn học việt nam thế kỷ X – nửa đầu thế kỷ XVIII,
Nxb Giáo Dục, 1997.
25) Đình Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam thế kỷ X đến
nửa đầu thế kỷ XVIII, chương XXII, phần viết của Bùi Duy Tân, Nxb Giáo dục, 1997.
26) Trần Văn Khê, Đưa ca trù đến với thế giới, tranvankhe.net.
27) Trần Đình Khiêm, Tiếp nhận Truyện Kiều dưới góc nhìn nhạc họa, luận văn thạc
sĩ, trường ĐHSP TPHCM, 2003.
28) N.Konrat, Phương Đông- Phương Tây (Trịnh Bá Dĩnh dịch), Nxb Giáo Dục 1996.
29) Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb khoa học, 2003.
30) I.X.Lixevich, Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb Giáo
Dục tái bản lần thứ nhất, 2003.
31) Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam thế kỷ X – nữa đầu thế kỷ XVII, NXb Giáo dục,
2002.
32) Phương Lựu, Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, 2001.
33) Nguyễn Thế Nghi, Tân biên truyền kỳ mạn lục, Nxb Văn Học Dân Tộc, 2000.
34) Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb Khoa Học
Xã Hội, 1985.
35) Trần Ích Nguyên, Nghiên cứu so sánh “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kỳ mạn
lục”, Nxb Văn học, 2000.
36) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2001.
37) Hậu Đình Phương, Tú Xương với thế sự, Nxb Thư Lâm, 1959.
38) Nguyễn Huy Quát, Để hiểu thêm Đồ Chiểu – Yên Đổ – Tú Xương, Nxb Thanh
niên, 2001.
39) Từ Quân – Dương Hải, Lịch sử kỹ nữ, Nxb Thư Lâm, 1959.
40) Đặng Đức Siêu, Tổng hợp văn học Việt Nam – tập 14, Nxb Khoa họa xã hội, 2000.
41) Trần Đình Sử, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2005.
42) Ngô Thời Sỹ, Việt sử tiêu án, Nxb Văn Sử, 1991.
43)Vũ Văn Sỹ, Đinh Minh Hằng, Nguyễn Hữu Sơn, Trần Tế Xương – Về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo Dục, 2001.
44) Đặng Thiêm, Hai câu chuyện nhỏ về Kiều, in trong “Tuyển tập mười năm tạp chí
văn học và tuổi trẻ”, Nxb Giao dục, 2003
45) Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo
Dục, 2003.
46) Trần Nho Thìn, Nguyễn Công Trứ – Về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2003.
47) Đỗ Bằng Toàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb TP HCM, 1994.
48) Lê Ngọc Trà, Văn chương thẩm mỹ và văn hóa, Nxb Giáo Dục, 2007.
49) Nhã Trúc, Hình tượng Geisha trong sáng tác của Kwabata Yasunari, khóa luận tốt
nghiệp, ĐHSP TPHCM, 2008.
50) Nguyễn Quảng Tuân, Tổng hợp văn học Việt nam – tập 13, Nxb khoa học xã hội,
2000.
51) Lê Trí Viễn (chủ biên), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, TP HCM, 2002.
52) Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa Học Xã Hội, 1996.
53) Nguyễn Khắc Viện, Truyện Kiều và nghiên cứu sáng tác văn học, Nxb Văn Hóa
Sài Gòn, 2007.
54) Kawabata Yasunari, Vùng băng tuyết (Giang Hà Vy dịch), Nxb Mũi Cà Mau, 1999.
55) Lê Thu Yến tuyển chọn, Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người
đời sau, Nxb Giáo Dục,2000
56) Lê Thu Yến, Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du.
Tiếng Anh
57) V.Pronikov và I.Ladanov, Japanese, en.wikipedia.
58) Kim,Women of Korea: A history from ancient times to 1945, yung chung, 1976.
59) Wikipedia, Geisha, vi.wikipedia.
60) Geisha, Whatever.net.
61) Kisaeng, en.wikipedia
PHỤ LỤC
Nàng Tiết Đào – một kỹ nữ và là một nhà thơ nữ nổi tiếng của Trung Quốc thời Đường
Sắc đẹp của một kỹ nữ Trung Quốc và kisaeng Hàn Quốc
Geisha Nhật Bản
Đào Nương
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5120.pdf