Hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Xây dựng Ngân hàng

Lời mở đầu Tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm, có hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh mặt hàng gì , số lượng bao nhiêu để phục vụ cho đối tượng nào đều phụ thuộc vào vốn. Trong điều kiện sản xuất hiện nay theo cơ chế kinh tế thị trường, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp nói riêng, các tổ chức kinh tế nói chung, đòi hỏi sản phẩm của doanh nghiệp vừa đạt chất lượng nhưng giá thành lại hạ .Vì vậy có vốn đã là khó nhưng

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty Xây dựng Ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý và sử dụng vốn còn là vấn đề khó hơn. Để đáp ứng được yêu cầu trên người quản lý phải có nghệ thuật sử dụng vốn. Quay vòng vốn nhanh đạt hiệu quả cao. Đầu tư vốn vào sản phẩm nào thời gian nào là cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp mà lại bảo toàn, phát triển vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là vấn đề không ít khó khăn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Có vốn doanh nghiệp mới mua sắm TSCĐ trang bị cho quá trình sản xuất kinh doanh để nâng cao năng suất lao động giảm bớt chi phí lao động của con người. Muốn tái tạo sức lao động khuyến khích động viên CBCNV doanh nghiệp không chỉ có thiết bị và tư liệu sản xuất mà còn phải có các quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi..... Hiệu quả sản xuất là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ doanh nghiệp nào. Đó cũng là vấn đề bao trùm và xuyên suốt thể hiện chất lượng của toàn bộ công tác quản lý. Hiệu quả sản xuất kinh doanh không chỉ là thước đo phản ánh trình độ quản lý kinh doanh mà còn là vấn dề sống còn của doanh nghiệp. Trong sản xuất kinh doanh vốn luôn biến động vì vậy kế toán phải phản ánh kịp thời, chính xác sự luân chuyển đó để giúp giám đốc đánh giá đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Làm thế nào để đủ vốn cho sản xuất kinh doanh và sử dụng nguồn vốn đó một cách hiệu quả. Đây là một vấn đề gây không ít khó khăn cho các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế mở với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Thực tế khách quan bao giờ cũng luôn phong phú và sinh động. Đối với Công ty xây dựng Ngân hàng, giải quyết vấn đề trên luôn là nhiệm vụ hàng đầu mà mỗi cán bộ công nhân viên phải đầu tư nghiên cứu và thực hiện. Với đề tài: “Hiệu quả sử dụng vốn ở Công ty xây dựng Ngân hàng” nhằm phân tích tình hình sử dụng vốn của công ty trong thời gian gần đây, qua đó đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong công ty. Với sự giúp đỡ chân tình của Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên công ty và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình, quý báu của TS. Chử Văn Lâm, tôi đã hoàn thành chuyên đề này trong thời gian thực tập tại công ty. Trong bài còn nhiều thiếu sót, rất mong sự đóng góp ý kiến khách quan, đầy đủ của các thầy cô và các bạn. Chương I Vấn đề lý luận chung về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp Vốn của các doanh nghiệp. Vốn là gì? 1.1 Khái niệm chung về vốn: Hàng ngày chúng ta thường nghe hoặc chính chúng ta cũng nói đến từ “vốn” như: Vốn văn hoá, vốn ngoại ngữ, vốn sống, vốn sản xuất, vốn tiền mặt.. .v.v. Ngoài ra, người ta còn nói đến từ “quỹ” như: Quỹ thời gian, quỹ lao động, quỹ hàng hoá, quỹ nhà, quỹ đất.. .v.v. Xét về bản chất thì “vốn” và “quỹ” có cùng một nội dung tương tự giống nhau là vốn hoặc quỹ nói chung là khả năng về một mặt nào đó mà người ta có thể hoặc đang sử dụng vào mục đích của mình. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải có một lượng vốn (tài sản,tiền tệ) nhất định, đó là một tiền đề cần thiết. Quy trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ, các luồng vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, đã phát sinh các luồng vốn đã gắn liền với hoạt động đầu tư và các hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp, các luồng vốn đó bao hàm các luồng vốn đi vào và các luồng vốn đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động không ngừng của các luồng vốn của doanh nghiệp. Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các luồng vốn của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị tức là các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp: Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước, được thể hiện qua việc Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp hoạt động (đối với các doanh nghiệp Nhà nước) và doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước như nộp các khoản thuế và lệ phí. . .v.v Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác như quan hệ về mặt thanh toán trong việc vay hoặc cho vay vốn, đầu tư vốn, mua hoặc bán tài sản, vật tư, hàng hóa và các dịch vụ khác. Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp, được thể hiện trong doanh nghiệp thanh toán tiền lương, tiền công và thực hiện các khoản tiền phạt với công nhân viên của doanh nghiệp; quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, trong việc phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp; việc phân chia lợi tức cho các cổ đông, việc hình thành các quỹ của doanh nghiệp. ... Từ những vấn đề nêu trên chúng ta có thể khái quát như sau: Vốn của doanh nghiệp là giá trị (hay biểu hiện bằng tiền) của toàn bộ tài sản vật chất được đầu tư vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn là một phạm trù kinh tế, đồng thời là một quan hệ xã hội. Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn của doanh nghiệp luôn luôn luân chuyển từ hình thái tiền tệ sang hình thái hiện vật và ngược lại. Đặc điểm của vốn trong doanh nghiệp Vốn của doanh nghiệp có những đặc điểm chung sau đây: Là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Có giá trị (mua bán, trao đổi) và giá trị sử dụng. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình thái vật chất theo thời gian và không gian. Riêng đối với vốn sức lao động-loại vốn đặc biệt-yếu tố cơ bản quan trọng nhất trong các loại vốn, có những đặc điểm: Là nguồn duy nhất sáng tạo ra giá trị mới. Vừa là chủ thể quản lý vừa là đối tượng quản lý. Vốn sức lao động tiềm ẩn trong mỗi con người phụ thuộc vào tư tưởng, tình cảm, môi trường xung quanh.. ..nó chỉ biểu hiện khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó nếu không được quản lý chặt chẽ, khoa học thì: Vốn rất dễ bị thất thoát do những nguyên nhân tiêu cực của con người như tệ tham ô, tham nhũng, nạn trộm cắp, thói làm ăn vô trách nhiệm.. .. gây ra. Vốn bị sử dụng sai mục đích như lấy vốn đã có kế hoạch dùng vào việc khác sẽ phá vỡ kế hoạch chung; hoặc cho vay mượn tuỳ tiện (vô nguyên tắc) gây ra tình trạng ứ đọng vốn hoặc nợ khê không thu hồi được. Vốn bị sử dụng lãng phí làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, giảm lợi nhuận, tất yếu kéo theo sự giảm nhiệt tình, kém lòng tin đối với lãnh đạo của công nhân viên trong doanh nghiệp. Vốn sức lao động nếu không được sử dụng đúng người, đúng việc tuỳ theo mức độ, hoàn cảnh có thể gây những hậu quả xấu khôn lường. 2. Phân loại vốn trong các doanh nghiệp hiện nay. Tuỳ theo yêu cầu của công tác quản lý mà người ta có nhiều cách phân loại vốn khác nhau: Phân loại căn cứ vào các gia đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh mà vốn tham gia: Người ta chia vốn thành vốn sản xuất và vốn lưu động. Vốn sản xuất: Là bộ phận vốn phục vụ cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp như vốn đầu tư vào các loại tài sản lưu động (TSLĐ) như: Nguyên, nhiên vật liệu . . .dự trữ cho sản xuất, các loại sản phẩm dở dang... Vốn đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ). Vốn lưu thông: Là bộ phận vốn phục vụ cho quá trình lưu thông của doanh nghiệp như vốn thành phẩm hàng hoá, các loại vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán. Việc phân chia vốn thành vốn sản xuất và vốn lưu thông nhằm biết được tỷ trọng từng loại vốn chiếm trong tổng số vốn. 2.2 Phân loại căn cứ vào nguồn hình thành của vốn: Hiện nay vốn trong các doanh nghiệp được hình thành cơ bản từ các nguồn sau: Vốn ngân sách Nhà nước cấp: Gồm vốn cố định, vốn lưu động, vốn xây dựng cơ bản. Vốn xí nghiệp tự bổ sung: Lấy từ thu nhập của doanh nghiệp để bổ sung trong quá trình sản xuất. Vốn liên doanh liên kết: Gồm vốn cố định, vốn lưu động của các doanh nghiệp khác tham gia đóng góp liên doanh khi doanh nghiệp này là người tổ chức liên doanh. Vốn tín dụng: Gồm các khoản vay ngắn hạn của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, các khoản vay của các đơn vị cá nhân trong và ngoài nước. Vốn từ các nguồn khác: Bao gồm các khoản như: Thu nhập chưa phân phối, nguồn vốn chuyên dùng như nguồn vốn xây dựng cơ bản, các quỹ trong xí nghiệp... Các khoản phải trả cho khách hàng, phải trả cho cán bộ công nhân viên, phải nộp ngân sách nhưng chưa đến hạn nộp hoặc trả, các loại vốn do phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu nếu có...v.v Việc phân loại vốn theo nguồn hình thành có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong điều kiện nền kinh tế của nước ta hiện nay. Cách phân loại này còn tạo cơ sở để thực hiện các chính sách giao vốn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, chính sách thuế sử dụng vốn ngân sách đối với các doanh nghiệp Nhà nước. 2.3 Phân loại căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của vốn: Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển giá trị của các loại vốn, người ta chia thành hai loại: Vốn cố định và vốn lưu động. 2.3.1 Vốn cố định: Là biểu hiện bằng tiền của TSCĐ bao gồm giá trị của các tư liệu có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, nhà cửa, vật dụng kiến trúc . . . v.v. Theo quy định của Nhà nước, những tư liệu sản xuất kinh doanh được coi là TSCĐ phải có đủ hai điều kiện sau: Giá trị đơn vị đạt tiêu chuẩn nhất định (hiện nay là từ 500.000 đồng trở lên). Thời gian sử dụng trên một năm. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là vốn đầu tư ứng trước vì số tiền này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình. Do là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài, trong nhiều chu kỳ sản xuất quyết định. Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quy trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần dần tăng lên song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Từ những trình bày trên đây, có thể nêu ra một khái niệm tổng quát về vốn cố định như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Căn cứ vào khái niệm trên người ta đã phân loại TSCĐ theo một số tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Thông thường có các cách phân loại như sau: 2.3.1.1 Phân loại theo hình thái biều hiện: Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai loại: TSCĐ hữu hình (có hình thái vật chất) và TSCĐ vô hình (không có hình thái vật chất). TSCĐ hữu hình: Là những tư liệu lao động chủ yếu được biểu hiện bằng các hình thái vật chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc... Những TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh. TSCĐ vô hình: Là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như chí phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn hiệu thương mại, giá trị lợi thế thương mại.... Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư hay điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. 2.3.1.2 Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng: Theo tiêu thức này toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành ba loại: TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: Là những loại TSCĐ dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ của doanh nghiệp. TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh, quốc phòng: Đó là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: Đó là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. 2.3.1.3 Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế: Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành các loại: Nhà cửa, vật kiến trúc: Là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho... Máy móc thiết bị: Là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng... Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: Là các loại phương tiện vận tải như phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước, khí đốt, băng tải... Thiết bị dụng cụ quản lý: Là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút bụi, hút ẩm... Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: Là các vườn cây lâu năm như vườn chè, vườn cà phê, vườn cây cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn ngựa... Các loại TS khác: Là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào năm loại trên như tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh... Cách phân loại này cho thấy công dụng kinh tế cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý sử dụng TSCĐ và tính toán khấu hao TSCĐ thích hợp. 2.3.1.4 Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng: Căn cứ vào tình sử dụngTSCĐ người ta chia TSCĐ của doanh nghiệp thành các loại: TSCĐ đang sử dụng: Đó là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc của hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. TSCĐ chưa cần dùng: Là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này. TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: Là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu. Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các loại TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn hiệu quả sử dụng chúng. Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Kết cấu TSCĐ giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau hoặc thậm chí trong cùng một ngành sản xuất cũng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt hoặc biến động của kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp việc phân loại và phân tích tình hình kết cấu TSCĐ sao cho hợp lý nhất cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vào vốn cố định của doanh nghiệp. 2.3.2 Vốn lưu động: Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động, các doanh nghiệp còn cần có các đối tượng lao động. Khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao động (như nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm....v.v) chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm. Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là các tài sản lưu động (TSLĐ), còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ bao gồm giá trị của các dụng cụ nhỏ có thời gian sử dụng ngắn, nguyên, nhiên vật liệu, thành phẩm, sản phẩm dở dang, vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán: có đặc thù là dễ chu chuyển nhanh giá trị. Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của TSLĐ nên đặc điểm vận động của vốn lưu động luôn chịu sự chi phối bởi những đặc điểm của TSLĐ. Trong các doanh nghiệp người ta thường chia TSLĐ thành hai loại: TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông. TSLĐ sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng thay thế, bán thành phẩm, sản phẩm dở dang .. .đang trong quá trình dự trữ sản xuất hoặc chế biến. Còn TSLĐ lưu thông bao gồm các sản phẩm hoàn thành chờ tiêu thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ kết chuyển, chi phí trả trước . . . Trong qúa trình sản xuất kinh doanh các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành liên tục. Trong điều kiện kinh tế hàng hoá - tiền tệ, để hình thành các TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu thông các doanh nghiệp phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất định. Vì vậy cũng có thể nói vốn lưu động của doanh nghiệp là số vốn tiền tệ ứng trước để đầu tư, mua sắm các TSLĐ của doanh nghiệp. Vốn lưu động thuần của doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá trị TSLĐ của doanh nghiệp trừ đi các khoản nợ ngắn hạn. Phù hợp với các đặc điểm trên của TSLĐ, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng không ngừng vận động qua các giai đoạn của chu kỳ kinh doanh: Dự trữ sản xuất,sản xuất và lưu thông. Quá trình này được diễn ra liên tục và thường xuyên lặp lại theo chu kỳ và được gọi là quá trình tuần hoàn, chu chuyển của vốn lưu động. Qua mỗi giai đoạn của chu kỳ kinh doanh vốn lưu động lại thay đổi hình thái biểu hiện, từ hình thái vốn tiền tệ ban đầu chuyển sang hình thái vốn vật tư hàng hoá dự trữ và vốn sản xuất, rồi cuối cùng lại trở về hình thái vốn tiền tệ. Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, vốn lưu động hoàn thành một vòng chu chuyển. Để quản lý sử dụng vốn có hiệu quả cần phải tiến hành phân loại vốn lưu động của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Thông thường có các cách phân loại sau đây: 2.3.2.1 Phân loại theo vai trò từng loại vốn lưu động trong quá trình sản xuất kinh doanh: Theo cách phân loại này vốn lưu động của doanh nghiệp có thể chia thành 3 loại: Vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất: Bao gồm trị giá các khoản nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu động lực, phụ tùng thay thế, công cụ lao động nhỏ. Vốn lưu động trong khâu sản xuất: Bao gồm các khoản giá trị sản xuất dở dang, bán thành phẩm, các chi phí chờ kết chuyển. Vốn lưu động trong khâu lưu thông: Bao gồm các khoản giá trị thành phẩm, vốn bằng tiền (kể cả vàng, bạc, đá quý. . .), các khoản vốn đầu tư ngắn hạn (đầu tư chứng khoán ngắn hạn, cho vay ngắn hạn . . .), các khoản thế chấp, ký quỹ, ký cược ngắn hạn, các khoản vốn trong thanh toán (các khoản phải thu, các khoản tạm ứng . . .). Cách phân loại này cho thấy vai trò và sự phân bố của vốn lưu động trong từng khâu của quá trình kinh doanh. Từ đó có biện pháp điều chỉnh cơ cấu vốn lưu động sao cho có hiệu quả cao nhất. 2.3.2.2 Phân loại theo hình thái biểu hiện: Theo cách này vốn lưu động có thể chia thành 2 loại: Vốn vật tư hàng hoá: Là các khoản vốn lưu động có hình thái biểu hiện bằng hiện vật cụ thể như nguyên, nhiên vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, thành phẩm. Vốn bằng tiền: Bao gồm các khoản vốn tiền tệ như tiền mặt tồn quỹ, tiền gửi ngân hàng, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản đầu tư ngắn hạn. 2.3.2.3 Phân loại theo quan hệ sở hữu về vốn: Theo cách này người ta chia vốn thành 2 loại: Vốn lưu động thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp: doanh nghiệp có đầy đủ các quyền chiếm hữu, chi phối và định đoạt. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau mà vốn chủ sở hữu có nội dung cụ thể riêng như: Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước; Vốn chủ doanh nghiệp bỏ ra; Vốn góp cổ phần... Các khoản nợ: Là các khoản vốn lưu động được hình thành từ vốn vay các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính khác; vốn vay thông qua phát hành trái phiếu; các khoản nợ khách hàng chưa thanh toán. Cách phân loại này cho thấy kết cấu vốn lưu động của doanh nghiệp được hình thành bằng vốn của bản thân doanh nghiệp hay từ các khoản nợ. Từ đó có cơ sở quyết định trong huy động và quản lý, sử dụng vốn lưu động hợp lý hơn. 2.3.2.4 Phân loại theo nguồn hình thành: Nếu xét là nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia thành các nguồn sau: Nguồn vốn điều lệ: Là số vốn lưu động được hình thành từ nguồn vốn điều lệ ban đầu khi thành lập doanh nghiệp hoặc nguồn vốn điều lệ bổ sung trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này có sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nguồn vốn tự bổ sung: Là nguồn vốn doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tái đầu tư trích từ lợi nhuận. Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Là số vốn lưu động được hình thành từ vốn góp liên doanh của các bên tham gia doanh nghiệp liên doanh. Vốn góp liên doanh có thể bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật là vật tư, hàng hoá... Nguồn vốn đi vay: Vốn vay của các ngân hàng thương mại, vốn vay bằng phát hành trái phiếu doanh nghiệp như đã nêu ở phần trước. Việc phân chia vốn lưu động theo nguồn hình thành giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu nguồn tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động trong kinh doanh của mình. Từ góc độ quản lý tài chính mọi nguồn tài trợ đều có chi phí sử dụng của nó. Do đó doanh nghiệp cần xem xét cơ cấu nguồn tài trợ tối ưu để giảm thấp chi phí sử dụng vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Bất kỳ mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nào cũng xuất phát từ một nguồn vốn nhất định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vốn là yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự thành công hay thất bại của đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay mọi doanh nghiệp muốn trụ vững và có sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác thì phải có vốn. Vốn sau một quá trình sản xuất kinh doanh phải sinh lãi, đó là điều mà bất cứ nhà quản trị nào cũng phải quan tâm. Huy động vốn là biện pháp thường xuyên để đảm bảo nhu cầu sử dụng tài sản cho quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trong sản xuất kinh doanh thì hiệu quả sử dụng vốn là một vấn đề then chốt gắn liền với sự tồn tại và phát triển của các đơn vị kinh doanh. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị kinh doanh sẽ đánh giá được công tác quản lý và vạch ra những khả năng tiềm tàng trong doanh nghiệp để sử dụng vốn có hiệu quả và tiết kiệm hơn. Để làm được điều này chúng ta phải hiểu rõ về các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn và từ đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của các chỉ tiêu này để đề ra phương hướng sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Hiệu quả sử dụng vốn cố định: Hao mòn TSCĐ: Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình: Hao mò hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất . . . Về mặt giá trị đó là sự giảm dần giá trị của TSLĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình phụ thuộc vào thời gian và cường độ sử dụng hay chất lượng chế tạo của TSCĐ hữu hình. Việc nhận thức rõ nguyên nhân gây ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó. Hao mòn vô hình: Ngoài hao mòn hữu hình, trong quá trình sử dụng các TSCĐ còn bị hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình là sự giảm sút về giá trị trao đổi của TSCĐ do ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nguyên nhân cơ bản của hao mòn vô hình là sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục hao mòn vô hình là doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường. Khấu hao TSCĐ: Để bù đắp giá trị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần từng phần giá trị hao mòn đó vào vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ. Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính toán thích hợp. Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp. Việc tính khấu hao TSCĐ phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Điều này không chỉ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn chế ảnh hưởng của hao mòn vô hình mà còn góp phần bảo toàn được vốn cố định. Để đáp ứng nhu cầu tính toán mức khấu hao, thông thường người ta dùng phương pháp khấu hao bình quân. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Công thức xác định: = MKH Gđ T Trong đó: MKH: Mức khấu hao trung bình hàng năm. Gđ : Nguyên giá TSCĐ. T : Thời gian sử dụng (năm). = x100 TKH = x100 TKH MKH hay 1 Gđ T Trong đó: TKH : Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm. Nếu doanh nghiệp tính khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao hàng năm chia cho 12 tháng. Gđ : Nguyên giá TSCĐ là toàn bộ các chi phí thực tế của doanh nghiệp đã chi ra để có được TSCĐ và đưa vào hoạt động. Thông thường khoản chi phí này bao gồm chi phí theo giá mua, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt và đưa vào sử dụng, các khoản thuế và lệ phí trước bạ (nếu có). Thời gian sử dụng TSCĐ (T) là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ và hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường. Nó được xác định căn cứ vào tuổi thọ của TSCĐ. Trong thực tế có thể điều chỉnh tỷ lệ khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp cho phù hợp với từng năm hoạt động sản xuất kinh doanh như sau: TKđ = TKH x Hđ Trong đó: TKđ : Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh. TKH : Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm. Hđ : Hệ số điều chỉnh. (Hđ > 1 hay Hđ < 1) Các doanh nghiệp hiện nay thường dùng cách tính khấu hao bình quân tổng hợp theo mức khấu hao của từng loại TSCĐ. Căn cứ vào giá trị TSCĐ từng loại phải tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao để tính ra mức khấu hao của từng loại. Từ đó tính ra tổng mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao bình quân chung cho toàn bộ các loại TSCĐ của doanh nghiệp. Công thức xác định: = TKH Tổng mức khấu hao Tổng nguyên giá Trong đó: TKH : Tỷ lệ khấu hao bình quân tổng hợp. Ưu điểm của phương pháp này là đơn giản dễ hiểu. Mức khấu hao được tính vào giá thành sản phẩm ổn định, tạo điều kiện ổn định được giá thành. Bên cạnh đó nó cũng tồn tại một số nhược điểm sau: Không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng khác nhau, thu hồi vốn đầu tư chậm .. . 1.3 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp: Kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định là một nội dung quan trọng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Thông qua kiểm tra tài chính doanh nghiệp có được những căn cứ xác đáng để đưa ra các quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh quy mô và cơ cấu vốn đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá TSCĐ, về các biện pháp khai thác năng lực sản xuất của TSCĐ hiện có, nhờ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Để tiến hành kiểm tra tài chính đối với hiệu quả sử dụng vốn cố định cần xác định đúng đắn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định và TSCĐ của doanh nghiệp. Thông thường bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và phân tích sau đây: Thuộc các chỉ tiêu tổng hợp có : Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. Hiệu suất sử dụng = Doanh thu (Doanh thu thuần) trong kỳ Vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ. Số vốn cố định = Số vốn CĐ đầu kỳ + Số vốn CĐ cuối kỳ Bình quân kỳ 2 Trong đó số vốn cố định ở đầu kỳ ( hoặc cuối kỳ) được tính theo công thứ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0043.doc
Tài liệu liên quan