Lời mở đầu
***
Chính sách tiền tệ là trong các chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của một quốc gia. Thông qua chính sách tiền tệ, nhà nước có thể kiểm soát và điều tiết lĩnh vực tiền tệ ngân hàng nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô của mình. Việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ một cách đúng đắn sẽ làm cho nền kinh tế tiền tệ hoạt động lành mạnh và đó là một yêu cầu cần thiết và cấp bách để đưa nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời ngày 6-5-1951 đã đá
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở VN trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21 - Những tồn tại và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển nền tiền tệ ngân hàng Việt Nam. Kể từ đó cho đến nay Ngân hàng đã trải qua hơn 50 năm xây dựng và trưởng thành và hệ thống ngân hàng thực sự đổi mới và phát triển từ sau đại hội đảng lần thứ 6. Trong thập kỷ 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21 ngành ngân hàng đã có những bước cải cách toàn diện và vững mạnh. Hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ do vậy cũng hình thành và phát triển cùng với quá trình NHNN hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ theo pháp lệnh ngân hàng với mục tiêu đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển chúng ta chưa thể áp dụng các công cụ một cách bài bản như ở các nước phát triển mà phải áp dụng một cách linh hoạt giữa việc sử dụng các công cụ trực tiếp sẵn có như lãi suất, tỷ giá, hạn mức tín dụng đồng thời thiết lập và bước đầu sử dụng các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn và gần đây nhất là việc đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Các công cụ này đã thực sự phát huy tác dụng góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng trong hoạt động ngân hàng thời gian qua.
Việc đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ trong thời gian qua là hết sức cần thiết và quan trọng vì có xem xét đánh giá nhìn nhận những thành tựu đạt được và những vấn đề còn tồn tại thì mới có các phương hướng phát triển và hoàn thiện.
Với lượng kiến thức còn hạn chế, bài viết chắn chắn còn nhiều sai sót.
Em kính mong thầy cô và các bạn cùng trao đổi và góp ý để bài viết được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 15-9-2002.
Sinh viên.
Đặng Quỳnh Nga
Phần i: Lý LUậN CHUNG Về CHíNH SáCH TIềN Tệ Và CáC CÔNG Cụ CủA CHíNH SáCH TIềN Tệ.
I.Khái niệm chung về chính sách tiền tệ.
Trước khi nghiên cứu về khái niệm chính sách tiền tệ chúng ta cần
hiểu rõ một số khái niệm sau.
Đầu tiên là khái niệm về tiền tệ: tiền tệ chính là bất cứ vật cái gì vật gì được chấp nhận chung trong thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ.
Tiền tệ được coi là vật trung gian trong quá trình thanh toán. Tiền tệ được gắn với những thay đổi trong các biến số kinh tế. Nó có một ảnh hưởng quan trọng đối với các chu trình lạm phát, kinh doanh và đối với lãi xuất. Các biến số kinh tế này lại rất quan trọng đối với sức khỏe của nền kinh tế của một quốc gia. Chính vì vậy những người hoạch định kinh tế của một quốc gia cần phải chú trọng đến việc hoạch định một chính sách tiền tệ đúng đắn để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Cơ quan chịu trách nhiệm trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ chính là ngân hàng trung ương(NHTW). Sự ra đời của NHTW có nhiều cách khác nhau song về bản chất NHTW ra đời là nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, tín dụng. NHTW là một chế định công cộng có thể độc lập hoặc trực thuộc chính phủ, thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, chức năng ngân hàng của các ngân hàng và chức năng ngân hàng của chính phủ, chịu trách nhiệm trong việc quản lý nhà nước về các hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu phát triển và ổn định của cộng đồng.
Ngân hàng trung ương với tư cách là một cơ quan quan trọng trong bộ máy quản lý của nhà nước có nhiệm vụ xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ đúng đắn nhằm đạt được những mục tiêu phát triển và ổn định.Vai trò của NHTW là quản lý ở tầm vĩ mô đối với chính sách tiền tệ.
Vậy chính sách tiền tệ là gì?
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng trung ương thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng (hoặc lãi xuất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm.
Chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian nào đó của một quốc gia có thể được xác định theo một trong hai hướng:
Chính sách tiền tệ mở rộng: đó là chính sách tăng tiền cung
ứng vào lưu thông, dẫn đến trong lưu thông thừa tiền. Trong trường hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, NHTW sẽ hoạch định theo chính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Chính sách tiền tệ thắt chặt: là chính sách thu hẹp lượng tiền cung ứng dẫn đến khan hiếm tiền trong lưu thông. Trong hợp nền kinh tế có những dấu hiệu lạm pháp gia tăng thì NHTW sẽ hoạch định chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự tăng trưởng quá mức của nền kinh tế
Tóm lại, bằng việc thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt, NHTW có thể tác động gián tiếp đến các mục tiêu kinh tế và việc chủ động tạo ra các biến động về tiền tệ (xét cả về khối lượng và lãi suất) với một mục tiêu xác định.
II. Hệ thống các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Mục tiêu cuối cùng.
Như ta đã biết chính sách tiền tệ được đặt ra là nhằm đạt được các mục mục tiêu kinh tế vĩ mô mà nhà nước đặt ra. Vậy ta cần phải xem xét các mục tiêu mà chính sách tiền tệ cần đạt được là gì? Đó chính là hàng loạt các mục tiêu cuối cùng sau:
1.1 Mục tiêu ổn định giá cả.
Đây là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Trong quá trình thực nghiệm đã cho thấy để ổn định giá cả thì phải ổn định giá trị đồng tiền. Đó là sự ổn định sức mua của đồng tiền. Để đạt được điều đó NHTW đã đề ra mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định chỉ số giá cả (đặc biệt là chỉ số hàng tiêu dùng).
Để thực hiện mục tiêu ổn định giá cả NHTW có nhiệm vụ ổn định giá trị của đồng tiền bằng cách áp dụng nhiều biện pháp để điều chỉnh biến động giá trong phạm vi mong muốn. Các NHTW thường lượng hoá mục tiêu này bằng tỷ lệ tăng của của chỉ số giá tiêu dùng xã hội.
ổn định giá cả có ý nghĩa quan trọng trong kinh tế vĩ mô cũng như trong vi mô. ổn định giá cả giúp cho nhà nước hoạch định được phương hướng phát triển kinh tế một cách có hiêụ quả hơn vì loại trừ được sự biến động của giá cả. ổn định giá có nghĩa là kiềm chế được lạm phát, tạo môi trường đầu tư ổn định góp phần thu hút vốn đầu tư, khai thác triển để mọi nguồn lực xã hội, thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như các cá nhân phát triển sản xuất đem lại nguồn lợi cho mình cũng như cho xã hội. đây là lợi có tầm quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã hội. Ngoài ra chỉ số giá biến động tăng hay giảm đều bất lợi cho nền kinh tế trong mọi lĩnh vực như: sản xuất trong nước, xuất nhập khẩu hàng hoá, thu chi ngân sách, đời sống xã hội, thông tin về các chỉ số không chính xác, di chuyển vốn không phù hợp làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính .
Do đó, đòi hỏi mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ phải là ổn định giá và hầu hết chính sách tiền tệ các quốc gia đều đưa ra mục tiêu này.
1.2 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Tăng trưởng kinh tế chính là điều kiện cần thiết của quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định là yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia. Nó cũng là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho sự ổn định của tiền tệ và ngược lại tiền tệ ổn định thì tăng trưởng kinh tế mới bền vững.
Nền kinh tế tăng trưởng khi tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc nội GDP lớn hơn nhịp độ tăng dân số. Đó là tỷ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỷ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Tăng trưởng kinh tế là nền tảng cho mọi sự ổn định, đảm bảo cho các chính sách xã hội được thoả mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
1.3 Mục tiêu tạo công ăn việc làm.
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế có quan hệ vững chắc với mục tiêu tạo công ăn việc làm. Mục tiêu việc làm là mục tiêu tất yếu, nhất là đối với các quốc gia chưa phát triển, năng suất lao động thấp, dân số tăng với tốc độ cao.Mục tiêu của chính sách tiền tệ là tạo công ăn việc làm nhiều hơn nhằm giảm thất nghiệp.
Chống thất nghiệp, tạo công ăn việc làm là rất cần thiết nhưng nó chỉ
có thể đảm bảo một tỷ lệ nhất định, khó có thể xoá được thất nghiệp hoàn toàn. Mỗi nước đều có một tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, việc giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên cũng là một trong những mục tiêu của chính sách tiền tệ. Muốn đạt được mục tiêu này thì phải chống kết hợp với chống suy thoái, nhất là suy thoái định kỳ và phải đạt được một mức tăng trưởng kinh tế ổn định.
Trên đây là ba mục tiêu cuối cùng cơ bản nhất của chính sách tiền tệ ngoài ra tuỳ vào đặt điểm phát triển kinh tế trong thời kỳ mà mỗi quốc gia còn tập trung vào một số mục tiêu cụ thể khác như ổn định thị trường tài chính, ổn định lãi xuất, ổn định thị trường ngoại hối… hay như ở Việt Nam luật ngân hàng nhà nước đã đặt thêm mục tiêu ổn định hệ thống tổ chức tín dụng.
1.4 Mối quan hệ giữa các mục tiêu cuối cùng.
Về mặt dài hạn không có mâu thuẫn giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ nhưng trong ngắn hạn các mục tiêu của chính sách tiền tệ có những mục tiêu phù hợp nhưng cũng có mục tiêu mâu thuẫn thậm chí là đối nghịch nhau.Các mâu thuẫn đó được thể hiện như sau:
Trước hết là mâu thuẫn giữa mục tiêu ổn định giá cả và mục tiêu tạo công ăn việc làm. Việc NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm lạm phát để đảm bảo giá trị của đồng tiền, điều đó đã dẫn đến lãi xuất tăng lên, không khuyến khích đầu tư và thất nghiệp có xu hướng tăng.Trong khi muốn duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì phải khuyến khích đầu tư, dẫn đến thực thi chính sách tiền tệ mở rộng làm tăng giá.Sự mâu thuẫn giữa mục tiêu công ăn việc làm và mục tiêu ổn định giá cả còn được thể hiện do mức cung tiền tệ tăng nhằm thoả mãn mức cầu tiền thực tế dẫn đến giá cả hàng hoá cũng tăng theo. Để giảm tỷ lệ thất nghiệp, NHTW đã áp dụng biện pháp khuyến khích phát triển sản xuất hàng hoá xuất khẩu bằng cách hạ giá đồng nội tệ, tăng giá ngoại tệ dẫn đến giá cả hàng hoá tăng theo .
Thứ hai, mục tiêu giá cả và mục tiêu tăng trưởng kinh tế chỉ có mâu thuẫn trong ngắn hạn còn dài hạn chúng luôn phù hợp với nhau. Khi tăng trưởng kinh tế là điều kiện để giá cả ổn định, ngược lại giá cả ổn định sẽ tạo điều kiện để kinh tế ổn định và tăng trưởng.
Thất nghiệp và mục tiêu tăng trưởng không có sự mâu thuẫn cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Công ăn việc làm cao sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển và ngược lại. Tuy nhiên mối quan hệ này tương đối phức tạp, chúng mâu thuẫn nhau trong ngắn hạn nhưng lại bổ sung nhau trong dài hạn.
Điều cần nghiên cứu ở đây là chính sách tiền tệ phải tìm ra được các giải pháp dung hoà từng mục tiêu trong từng giai đoạn phát triển cụ thể, để vừa kiềm chế lạm phát, nền kinh tế tăng trưởng và đạt được tỷ lệ việc làm cao.
Mục tiêu trung gian
Trong quá trình chỉ đạo chính sách tiền tệ NHTW không thể tác động
trực tiếp vào các mục tiêu cuối cùng vì vậy NHTW phải chọn các mục tiêu trung gian để từ mục tiêu trung gian tác động đến mục tiêu cuối cùng.
Thông qua mục tiêu trung gian NHTW ảnh hưởng đến tổng cầu, từ đó tác động vào mục tiêu cuối cùng. Để trở thành mục tiêu trung gian cần đáp ứng một số chỉ tiêu sau:
Mục tiêu đó phải đảm bảo tiêu chuẩn định lượng: có thể đưa ra dấu hiệu giúp NHTW biết được tác động của mình đúng hay sai để từ đó đưa ra những giải pháp phát huy hay khắc phục những hạn chế.
NHTW có thể kiểm soát được mục tiêu trung gian để điều chỉnh nó cho phù hợp với định hướng của chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng.
Mục tiêu trung gian phải có liên hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Đây là tiêu chuẩn quan trọng nhất của một mục tiêu trung gian bởi lẽ mục tiêu trung gian chỉ có ý nghĩa khi nó có khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu cuối cùng.
Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ bao gồm:mức cung tiền tệ (có thể là M1,M2,M3), lãi suất thị trường trung và dài hạn có thể là một mức lãi suất cụ thể, tỷ giá, khối lượng tín dụng . Hiện nay các nước thường sử dụng mức cung cấp tiền tệ hoặc lãi suất thị trường làm mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ.
Với các mục tiêu trung gian nêu trên, NHTW không thể chủ động tác động một cách hoàn toàn vì vậy NHTW phải lựa chọn các mục tiêu hoạt động để chỉ đạo thường xuyên và trực tiếp.
Mục tiêu hoạt động.
Mục tiêu hoạt động là chỉ tiêu được NHTW lựa chọn để sao cho khi
NHTW sử dụng các công cụ điều tiết thì nó ảnh hưởng đến mục tiêu trung gian. Để được lựa chọn là mục tiêu hoạt động thì các mục tiêu đó phải mang tính định lượng, và có thể đo lường được, chỉ tiêu đó phải hết sức nhạy cảm với biến động của chính sách tiền tệ và phải tác động đến mục tiêu trung gian.
Các mục tiêu hoạt động bao gồm: Dự trữ của các ngân hàng thương
mại (R) và lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Dự trữ của các ngân hàng thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiền cung ứng vì thay đổi dự trữ ảnh hưởng đến vốn khả dụng của ngân hàng thương mại do đó ảnh hưởng dến mức cung ứng tiền. Lãi suất ngắn hạn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó tác động ứng.
III. Các công cụ của chính sách tiền tệ.
Công cụ trực tiếp : là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền
trong lưu thông ( hoặc các mức lãi suất trong và dài hạn ). Nó bao gồm:
Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Ngân hàng trung ươngcó thể quy định khung lãi suất tiền gửi và cho
vay trên thị trường nhưng thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi xuất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi xuất cho vay để kích thích các nhà dầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW ấn định mức lãi suất cao.
Việc ấn định lãi xuất tiền gửi và cho vay có những ưu điểm sau: nó hạn chế được hiệu ứng do mất tính cạnh tranh khi việc cấp giấy phép hoạt động ngân hàng là hạn chế. Hạn chế được việc cho vay có thể không nhằm đúng vào đối tượng có nhu cầu vay nếu thông tin về người vay sơ sài, hoặc giám sát kém hiệu lực. Ngoài ra nó còn giúp cho ngân hàng lựa chọn những dự án cộng tác tốt để cho vay.
Tuy nhiên nó cũng có một số hạn chế sau: việc phân phối nguồn vốn không dựa trên cơ chế cung cầu giá quy định trần có thể lẩn tránh được bằng cách chuyển tiền gửi sang các tài sản có lãi suất tiền tệ hoặc hàng hoá. Trần hoặc sàn có thể mất tính khuyến khích đối với ngân hàng và tăng hoạt động cho vay, cho vay qua các thể chế khác. Ngoài ra biện pháp này làm cho các NHTW mất tính chủ động và linh hoạt trong hoạt động kinh doanh. Mặt khác nó để dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư, tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm. Ngày nay biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bởi trong cơ chế thị trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
1.2Hạn mức tín dụng.
Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ can thiệp một cách trực tiếp mang tính hành chính của ngân hàng trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các hệ thống tài chính tín dụng cung ứng cho nền kinh tế đảm bảo mức tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán theo mục tiêu đề ra.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà ngân hàng trung ương buộc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Mức dư nợ này được quy định cho từng tổ chức tín dụng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng tổ chức tín dụng và định hướng cơ cấu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong khoảng thời gian nhất định. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại từ đó nó quyết định đến lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản cho vay cấu thành dư nợ tín dụng của các ngân hàng thương mại thì tương đương với nó là một lượng ngồn vốn tiền gửi huy động từ đó ảnh hưởng đến tỷ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Khi NHTW tăng mức tín dụng cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền qua hệ thống ngân hàng do đó làm tăng lượng tiền cung ứng và ngược lại.
Hạn mức tín dụng có ưu điểm là kiểm soát được tín dụng của các ngân hàng nếu chú ý kiểm soát tiền dự trữ tại NHTW. Công cụ này phát huy hiệu quả trong trường hợp lạm pháp cao do khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tiền cung ứng. Nó là công cụ cứu cánh của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên nó có nhược điểm là làm sai lệch việc phân phối nguồn vốn ngân hàng. Nó mang tính chủ quan kém linh hoạt và không thể thay đổi thường xuyên. việc quy định hạn mức tín dụng có thể han chế việc cho vay, vay của ngân hàng để chuyển sang các thể chế khác. Nó khó thực hiện nếu có quá nhiều ngân hàng và có nguồn vốn nước ngoài vào. Ngoài ra nó còn làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
NHTW chỉ sử dụng công cụ này khống chế lượng tiền cung ứng trong điều kiện nền kinh tế không sử dụng được các công cụ gián tiếp.
1.3. Tỷ giá.
Tỷ giá được coi là một mục tiêu trung gian nhưng ở Việt Nam nó được coi là một công cụ chính sách tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái là tương quan giá trị trao đổi giữa hai đồng tiền, hay chính là giá cả của đồng tiền này được biểu hiện bằng đồng tiền khác.
Tỷ giá có vai trò hết sức quan trọng. Nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn (giá nội địa tại hai nước giữ nguyên) và ngược lại. Ngoài ra tỷ giá còn có vai trò kích thích và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Thông qua tỷ giá có thể xác định mức độ lỗ lãi, hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh tế đối ngoại, nhà nước có thể kích thích tác động điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Tỷ giá còn có vai trò điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Các nhân tố tác động đến tỷ giá trong dài hạn là mức giá cả tương đối, thuế quan, sự ưa thích hàng nội so với hàng ngoại, năng suất lao động. Trong ngắn hạn, tỷ giá bị tác động bởi sự chênh lệch mức thu nhập kỳ vọng giữa tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi nội tệ. Mức tỷ giá cân bằng sẽ thay đổi khi lãi suất của hai đồng tiền thay đổi tương đốivà khi mức tỷ giá kỳ vọng thay đôỉ.
Tỷ giá là một công cụ rất dễ biến động và ảnh hưởng rất lớn đến tình hình xuất nhập khẩu chính vì vậy mà cần có sự can thiệp của NHTW để ổn định tỷ giá. NHTW can thiệp vào tỷ giá một cách trực tiếp trên thị trường ngoại hối trong chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý NHTW thực hiện can thiệp tỷ giá khi nó có xu hướng biến động quá mức thông qua việc tác động đến quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Ưu điểm của tỷ giá là nó ổn định sự tương quan giữa nội tệ và ngoại tệ góp phần thúc đấy xuất khẩu kiểm soát nhập khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Hạn chế của tỷ giá là nó luôn biến động, được coi là một yếu tố của trên thị trường nên phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của thị trường.
2.Công cụ gián tiếp.
Công cụ gián tiếp là những công cụ tác động vào mục tiêu trung gian thông qua việc điều chỉnh mục tiêu hoạt động.
Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHTW để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nó được xác định bằng tỷ lệ % nhất định trên tổn số dư tiền gửi tuỳ theo tính chất và thời hạn mà các tổ chức tín dụng huy động được. Tỷ lệ này gọi là tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Những thay đổi trong dự trữ bắt buộc tác động đến cung ứng tiền tệ
bằng cách gây ra thay đổi số nhân cung ứng tiền tệ.một sự tăng lên trong dự trữ bắt buộc làm giảm số tiền gửi được nâng đỡ bởi một mức nhất định của cơ số tiền tệ và dẫn đến thu hẹp cung ứng tiền tệ. Mặt khác một sự giảm xuống của dự trữ bắt buộc dẫn đến một sự tăng lên của cung ứng tiền tệ bởi vì có thể tạo thêm tiền gửi gấp nhiều lần.
Ưu điểm của dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền. Nó tác động lên cầu đối với dự trữ nên có thể dự đoán được cầu dự trữ. Tăng yêu cầu dự trữ làm thay đổi dư thừa thanh khoản.
Nhược điểm của dự trữ bắt buộc: dự trữ bắt buộc cao là thuế đánh vào các ngân hàng, do đó có thể làm tăng chênh lệch lãi suất chovay-lãi suất tiền gửi. Công cụ này không thuận tiện cho việc quản lývốn khả dụng và cho việc đạt mục tiêu chính sách tiền tệ vì ngân hàng thụ động trong việc sử dụng.Vì vậy công cụ này thường được sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh vốn khả dụng cho các ngân hàng khi cần thiết.
2.2 Chính sách tái chiết khấu.
Chính sách tái chiết khấu được thể hiện thông qua việc NHTW cung ứng vốn tín dụng cho các tổ chức tín dụng. Chính sách tái chiết khấu được thực hiện thông qua cửa sổ tái chiết khấu. NHTW áp dụng lãi suất tái chiết khấu và quy định các điều kiện để tái chiết khấu cho các tổ chức tín dụng.
Công cụ của chính sách tái chiết khấu là lãi suất tái chiết khấu. Đó là lãi suất mà NHTW áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của các ngân hàng thương mại. Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu vào của ngân hàng thương mại gây áp lực và lãi suất của nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại.
Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu là hạn mức tái chiết khấu, là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng nguồn vốn mà các ngân hàng thương mại vay. Ngoài ra còn các tiêu chuẩn về thời hạn chủng loại giấy tờ có giá và uy tín của các tổ chức tín dụng.
Ưu điểm của chính sách tái chiết khấu là công cụ linh hoạt nó có hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến nền kinh tế. NHTW với tư cách là người cho vay cuối cùng được coi là cái van toàn cho toàn bộ hệ thống
Hạn chế của chính sách này là nó sẽ không phát huy hiệu quả trong trường hợp khi các điều kiện tái chiết khấu không đảm bảo. NHTW không chủ động trong việc chi phối số tiền tái chiết khấu. Công cụ này chỉ có ý nghĩa tác động một chiều.
ở việt Nam tái chiết khấu nằm trong chính sách tái cấp vốn và nó là một trong ba hình thức của tái cấp vốn.
2.3 Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được NHTW các nước sử dụng như là một công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ thoong qua việc làm thay đổi vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ bản theo mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hoạt động thị trường mở là việc NHTW tiến hành mua bán các trái phiếu do kho bạc hay do chính phủ phát hành và trái phiếu NHTW mà thôi. Sử dĩ như vậy , theo Miskin là nhằm tránh mâu thuẫn quyền lợi và tiêu cực nên NHTW không thực hiện việc mua bán các chứng khoán do khu vực tư nhân phát hành trong thị trường mở. đây cũng là quan điểm chính thống được thừa nhân rộng rãi trên thế giới về hoạt động thị trường mở.
Ưu điểm của nghiệp vụ thị trường mở là thị trường mở được tiến hành liên tục , tạo ra sự linh hoạt thuận lợi cho việc phát triển tiền tệ, nó có tác dụng tức thời.
Nhược điểm của công cụ này là nó yêu cầu phải có nột thị trường thứ cấp phát triển và NHTW phải có một khối lượng lớn tài sản chứng khoán.
Phần ii: hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở việt nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21
Ngày 6-5-1951 ngân hàng quốc gia Việt Nam nay là ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) được thành lập. NHNN Việt Nam ra đời thực sự là một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển nền tiền tệ –ngân hàng Việt Nam. Từ đó cho đến nay lịch sử phát triển của NHNN Việt Nam được đánh dấu bằng 4 dấu mốc lịch sử sau:
Từ 6-5-1951 đến 1987: hệ thống ngân hàng một cấp. Chức năng
chủ yếu của NHNN lúc bấy giờ là phát hành giấy bạc và quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng và quản lý tiền tệ.việc thực hiện hệ thống ngân hàng một cấp không thể hiện một cách rõ ràng 2 chức năng chủ yếu chức năng kinh doanh và chức năng quản lý nhà nước các hoạt động ngân hàng, không phát huy hiệu quả vai trò quản lý của NHNN và không đạt được những mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính vì vậy đến năm1988 hệ thống ngân hàng được phân chia
thành hệ thống ngân hàng hai cấp(nghị dịnh53 ngày 26-3-1988)bao gồm NHNN và các ngân hàng chuyên doanh.NHNN lúc này hoạt động với tư cách độc quyền, là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan dự trữ ngoại hối của nhà nước. NHNN đã thực sự trở thành một NHTW.
5-1990 pháp lệnh NHNN ra đời thực sự đánh dấu bước đổi mới căn bản trong hoạt động của NHNN.
12-12-1997 luật NHNN Việt Nam ra đời tạo ra khuôn khổ pháp
lý choviệc tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng trong giai đoạn mới.
Cùng với sự ra đời của 2 pháp lệnh ngân hàng và luật ngân hàng nhà
nước là sự ra đời của các công cụ chính sách tiền tệ. Chúng ra đời đánh dấu tiến trình phát triển và hoàn thiện của NHNN trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô.
I.Sự ra đời và phát triển của các công cụ chính sách tiền tệ.
Hạn mức tín dụng.
Theo khuyến nghị của IMF và xuất phát từ thực tế chưa thể áp dụng
đồng bộ các công cụ gián tiếp, 6 tháng cuối năm 1994 NHNN bắt đầu áp dụng hạn mắc tín dụng và coi đó là một công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng áp dụng bước đầu là 4 ngân hàng thương mại quốc doanh vì 4 ngân hàng này chiếm hơn 90% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả đã khống chế được tổng mức cho vay ngắn hạn cả năm 1994 tăng 24%so với cuối năm 1993
Năm 1995, mức tăng tín dụng đối với nền kinh tế cả năm là 37.2% gấp 1,66 lần hạn mức tín dụng cho phép.
Năm 1996 hạn mức tín dụng dự kiến dụ kiến tăng 21%-25% nhưng tổng tín dụng đối với nền kinh tế tăng 40% gấp 2 lần hạn mức tín dụng.
Điều này cho thấy sự điều hành công cụ này chưa có hiệu lực cao và nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn.
Năm 1997, phạm vi tín dụng bị quản lý bởi hạn mức tín dụng từ trên 85% tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh tế tăng lên trên 95% và số lượng tổ chức tín dụng áp dụng hạn mức tín dụng tăng lên thêm 4 ngân hàng thương mại cổ phần so với năm 1996. Tăng trưởng tín dụng năm 1997 ước gần khoảng 20 %, không đạt mức dự kiến đầu năm là 21-25%, cả 3 quý đầu năm đạt xấp xỉ hoặc không đạt hạn mức tín dụng đề ra. điều nay cho thấy là hạn mức tín dụng thừa so khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế.
Năm 1998, hạn mức tín dụng chỉ còn là chỉ tiêu định hướng, làm căn cứ để điều hành mức tăng trưởng tín dụng đối với các loại hình tổ chức tín dụng, với mức tăng tín dụng thực tế là 17% không đạt hạn mức tín dụng dự kiến đầu năm. Chính vì vậy công cụ hạn mức tín dụng trở nên không cần thiết nữa. Cuối năm 1998 đến nay thì NHNN Việt Nam đã tạm ngừng sử công cụ này.
2. Lãi suất.
Lãi suất được coi là một công cụ hết sức quan trọng của chính sách tiền tệ, có tác động nhanh và mạnh đến thị trường tiền tệ, tín dụng tạo ra các hiệu ứng rõ rệt đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tác động đối với nền kinh tế.
Quá trình đổi mới cơ chế lãi suất tín dụng trong thời gian vừa qua bao gồm các giai đoạn sau:
Từ 1988 đến 6-1992: cơ chế lãi suất tín dụng thời kỳ này thể hiện
sự bao cấp về vốn của NHNN đối với nền kinh tế, lãi suất âm (lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi), ngân hàng quy định từng mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng nghành nghề và lãi suất phân biệt theo từng thành phần kinh tế.
Từ 6-1992 đến cuối năm 1995: đây là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân lớn hơn lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất tiền gửi bình quân lớn hon tỷ lệ lạm phát. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể cụ thể thời kỳ trước được thay thế bằng khung lãi suất ( lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tiền gửi tối thiểu). Trong phạm vi khung lãi suất của NHNN các tổ chức tín dụng được phép ấn định các mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh và cung cầu vốn từng thời điểm.
Từ 1996đến 7-2000: đây là thời kỳ tiếp tục chính sách lãi suất thực dương nhưng được nới lỏng hơn thời kỳ trước đó. Bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhaucho khu vực thành thị nông thôn hay các loại hình tổ chức tín dụng trong thời hạn nhất định. Lãi suất tiền gửi bắt đầu được tự do hoá.
Từ 8-2000 đến 30-5-2002: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành
lãi suất trần cho vay sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với lãi suất cho vay ngoại tệ phù hợp với quy định của luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng. Đặc biệt từ 6-2001 cơ chế điều hành lãi suất được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng , với việc bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay bằng USD, lãi suất cho vay USD nói riêng và lãi suất cho vay ngoại tệ nói chung được hoàn toàn tự do hoá.
Từ 30-5-2002: NHNN đưa ra quyết địnhvề việc thực hiện cơ chế
thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại thay thế cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Dự trữ bắt buộc.
Dự trữ bắt buộc là công cụ được NHNN thiết lập và sử dụng khi
chuyển sang hệ thống ngân hàng 2 cấp.
Công cụ dự trữ bắt buộc bắt đầu được hình thành ngay từ thời kỳ
thực hiện Nghị định 53/HĐBT ngày 26-3-1988 của Hội đồng bộ trưởng. Tại quyết định số 16/NH-QĐ ngày 26-4-1988 của tổng giám đốc NHNN Việt Nam quy định về mức ký gửi vốn (một công cụ gần giống như dự trữ bắt buộc) với mục đích đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng. Các ngân hàng phải ký gửi một mức vốn tối đa là 20% tổng số vốn huy động thực tế của quý trước.
Sau khi có hai pháp lệnh ngân hàng ra đời đã quy định việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các ngân hàng như sau :
NHNN có quyền bắt buộc các tổ chức tín dụng duy trì tỷ lệ tối thiểu dự trữ bắt buộc ở mức 10%và tối đa ở mức 35% trên toàn bộ tiền gửi ở tổ chức tín dụng và trong trường hợp cần thiết có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc >35% và phải trả lãi cho mức tăng đó.
6-1992, NHNN xây dựng và ban hành quy chế dự trữ bắt buộc thay thế quy định số 16/NH-QĐ.
2-1994 đến 9-1995 là thời kỳ nới lỏng dự trữ bắt buộc trong đó quy định là cơ cấu dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng được chia làm ba phần:
-Tiền gửi tại NHNN t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35314.doc