Hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thập kỷ 90 & những năm đầu TK 21

Phần I : Mở đầu. ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm…. luôn là mục tiêu của bất kỳ quốc gia nào (dù là nước đã đang hay kếm phát triển). Để đạt được mục tiêu đó, mỗi quốc gia phải thực hiện các chính sách kinh tế Vĩ mô phù hợp với hoàn cảnh của mình- đặc biệt là chính sách tiền tệ. Việt Nam cũng vậy, sau hơn 10 năm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, cùng với việc thực hiện chính s

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1520 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thập kỷ 90 & những năm đầu TK 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách mở cửa hợp tác quốc tế và chính sách tiền tệ một cách đúng đắn đã đạt được những kết quả đáng khích lệ (như giải quyết được nhiều công ăn việc làm , giữ cho đồng tiền ổn định, kiềm chế được lạm phát, nền kinh tế luôn tăng trưởng ở mức cao). Đồng thời với sự chuyển đổi từ hệ thống Ngân hàng một cấp sang hệ thống Ngân hàng hai cấp (23/5/1990) Ngân hàng trung ương cũng có sự thay đổi về cách thức tổ chức và phương thức hoạt động để phát huy tốt chức năng, vai trò của mình nhằm đạt được các mục tiêu, đưa nền kinh tể phát triển đúng hướng trong điều kiện mới. Để điều hành tốt chính sách tiền tệ thì việc lựa chọn và sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ là rất quan trọng. Đó là quá trình diên ra trong nhiều năm và tuỳ vào điều kiện của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ mà phải sửa đổi, thay đổi hay loại bỏ. ở nước ta những năm đầu thập niên 90 Ngân hàng trung ương đã sử dụng những công cụ trực tiếp của chính sách tiền tệ và đạt được một số kết quả khả quan. Nhưng vào cuối những năm 90 đầu năm 2000 khi mà tốc độ hội nhập quốc tế khu vực và quốc tế nhanh hơn , những cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế diễn ra liên tiếp, cạnh tranh giữa các nước tăng thì các công cụ này đã bộc lộ những hạn chế. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước đã chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp, một hướng đi đúng đắn phù hợp với điều kiện khách quan và quy luật phát triển. Tuy hạn chế đựoc những nhược điểm của công cụ trược tiếp và bước đầu đạt được kết quả nhưng bên cạnh đó còn có những bất cập cần phải điều chỉnh để sử dụng linh hoạt hơn. Từ việc nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của chính sách tiền tệ cũng như việc sử dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ em xin được nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỉ 21” qua đó em muốn hiểu sâu hơn về chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương và việc sử dụng công cụ của chính sách tiền tệ, từ đó có thể bàn luận, đóng góp một số ý kiến của bản thân nhằm sử dụng tốt các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Bố cục bài viết gồm 3 chương. Chương 1: Tổng quan về chính sách tiền tệ và công cụ của chính sách tiền tệ. Chương 2: Thực trạng của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ đầu năm 90 đến nay. Chương 3: Một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả của việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian tới. Dù rất cố gắng nghiên cứu sách và các tài liệu khác nhưng do kiến thức thực tế còn quá ít ỏi hạn chế, khả năng nhận thức vấn đề còn chưa sâu nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót và ý kiến chủ quan của bản thân. Vì vậy em mong các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng tài chính xem xét giúp đỡ chỉ bảo để em hoàn thiện bài viết được tốt hơn. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Tài đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Phần II: Nội dung Chương 1 Tổng quan về chính sách tiền tệ và các công cụ của Chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1.1.1 Khái niệm chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô, mà trong đó ngân hàng sử dụng các công cụ của mình, để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm. Ngân hàng trung ương (NHTW) thực hiên chính sách tiền tệ (CSTT), là quá trình NHTW kiểm soát tiền tệ, sao cho khối lượng tiền tệ cân đối với mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, cân đói giữa tổng cung và cầu về tiền tệ. Một CSTT đúng đắn phải hướng vào việc kiểm soát nguồn gốc, làm tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. Chính sách tiền tệ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động, của bất cứ NHTW của nước nào. Một CSTT phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước sẽ giúp quốc gia đó nhanh chóng đi vào ổn định và tạo đà đi lên, trên con đường phát triển. Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái NHTW sẽ quyết định CSTT theo hướng mở rộng cung ứng tiền tệ, để tạo điều kiện khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm, khi nền kinh tế co dấu hiệu lạm phát cao, NHTW phải vận dụng CSTT, theo hướng thu hẹp lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, hạn chế sự phát triển quá đà của nền kinh tế. 1.1.2 Mục tiêu của CSTT CSTT một mặt cung cấp phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, mặt khác phải giữ ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vì thế mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ luôn nhất quán với các chính sách kinh tế vĩ mô. 1.1.2.1 ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát. Trong điều kiện lưu thông tiền giáy không tự do chuyển đổi ra vàng, lạm phát luôn là khả năng tiềm ẩn, thậm trí khó tránh khỏi ở các nước. Vi vậy việc ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của CSTT và là mục tiêu dài hạn.. Thông qua CSTT, NHTW có thể góp phần quan trọng kiểm soát lạm phát. Khi NHTW thực hiện chính sách, nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, dẫn đến giá cả tăng, lạm phát tăng, khi NHTW thực hiện chính sách nhằm thắt chặt cung ứng tiền tệ, giá cả giảm, lạm phát giảm. Kiểm soát lạm phát của NHTW được biểu hiện một mặt NHTW góp phần cân đối giữa tổng cung và tổng cầu của toàn xã hội. Qua ổn định sức mua đối nội của dòng tiền quốc gia. Giá trị đối nội của dòng tiền quốc gia, là sức mua của nó đối với hàng hoá dịch vụ trên thị trường trong nước. Muốn ổn định sức mua, chính sách tiền tệ phải đảm bảo giữ mức giá chung được ổn định. Vì sức mua của đồng tiền vận động ngược chiều với sự vận động của giá cả hàng hoá. dịch vụ, khi đó sẽ kiểm soát được lạm phát. Mặt khác, NHTW tác động mạnh mẽ tới việc cung cầu ngoại tệ để giữ vững tỷ giá, góp phần ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Tức là ổn định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là đại lượng so sánh giữa giá trị đồng tiền trong nước và đồng tiền nước ngoài, nó cho thấy sức mua của đồng tiền nội tệ trên thị trường quốc tế. Tỷ giá là phạm trù kinh tế phức tạp và nó liên quan đến nhiều yếu tố: Tỷ lệ lạm phát, thực trạng cán cân thanh toán quốc tế, tình hình cung ứng tiền tệ, thị trường hối đoái, mức chênh lệch lãi suất giữa các nước, tác động của các hoạt động đầu tư ngoại tệ. ổn định đồng tiền quốc gia không có nghĩa là cố định nó. Sức mua đối nội và sức mua đối ngoại, có thể biến động trong một thời kỳ nào đó, nhưng sự biến động cần được duy trì và kiểm soát ở mức độ hợp lí cho phát triển. ổn định giá trị có tầm quan trọng đặc biệt, định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Khi nền kinh tế có mức lạm phát thấp, ổn định sẽ tạo môi trường đầu tư, mở rộng sản xuất phân phối thu nhập một cách hiệu quả. Nhưng nếu tỷ lệ lạm phát cao, những thông tin thu được từ nền kinh tế méo mó vì vậy định hướng phát triển đề ra sẽ không phù hợp, và dẫn đến hậu quả lớn đến nền kinh tế, phân phối lại không dân chủ các nguồn lực kinh tế, xã hội trong nhóm dân cư. Vì vậy NHTW phải góp phần thúc đảy nền kinh tế tăng trưởng liên tục và ổn định, triệt tiêu những nhân tố làm tăng cầu giả tạo hoặc đẩy chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này lãi suất và cung ứng tiền tệ là hai vũ khí lợi hại nhất. Tuy nhiên kinh nghiệm một số nước cho thấy một tỉ lệ lạm phát vừa đủ thường là một con số, là cần thiết cho sự phát triển kinh tế xã hội song phải chống lại lạm phát phi mã. 1.1.2.2 Tạo việc làm. Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi cá nhân nói riêng và các nước nói chung. Có việc làm, có thu nhập sẽ làm tăng mức sống của mỗi người, mỗi quốc gia sẽ giàu mạnh. Nhưng nếu tỉ lệ thất nghiệp cao, nó không những ảnh hưởng đến nền kinh tế mà còn ảnh hưởng đến xã hội do “Nhàn cư vi bất thiện”. Nhiều tội ác tăng lên, thất nghiệp làm tăng lãng phí các nguồn lực: những người lao động ngồi không tăng, nhà máy không sản xuất, tổng sản phẩm quốc dân giảm. Như vậy việc làm là điều ai cũng mong muốn. Thông qua CSTT, NHTW có biện pháp tăng việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiêp. Nếu chính CSTT của NHTW nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ, tạo điều kiện đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động hơn, vậy tỉ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại nếu CSTT nhằm giảm cung ứng tiền tệ, các doanh nghiệp & nhà nước cần ít lao động dẫn đến tỉ lệ thất nghiệp tăng. Tuy nhiên đảm bảo việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỉ lệ thất nghiệp bằng không mà ở mức tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Nhìn chung, việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cải tiến kỹ thuật việc làm có xu hướng giảm, dẫn đến thất nghiệp tăng. Do đó cần phải chấp nhận thực tế thất nghiệp là căn bệnh kinh niên đối với tất cả các xã hội nơi mà sức lao động được coi là hàng hóa. Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh. Đồng thời phải tham gia tích cực vào việc chống suy thoái theo chu kỳ, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế liên tục và ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. 1.1.2.3 Tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Sự tăng trưởng phải được hiểu cả về số và chất lượng. Chất lượng của tăng trưởng kinh tế của một quốc gia biểu hiện ở một cơ cấu kinh tế cân đối và khả năng cạnh tranh của hàng hoá tăng lên. Với tư cách là trung tâm tiền tệ, tín dụng, thanh toán trong nền KTQD, NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Muốn tăng trưởng kinh tế phải gia tăng đầu tư, mở rộng sản xuất. Muốn gia tăng đầu tư, bên cạnh việc sử dụng công cụ tài trợ của ngân sách nhà nước, người ta chủ yếu trông vào sự gia tăng đầu tư tín dụng của hệ thống dưới sự tác động của NHTW. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm, sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn nhiều hơn, làm tăng sản lượng, tăng trưởng kinh tế. Ngược lại khi cung ứng tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất sẽ tăng lên hạn chế sự đầu tư, hu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng giảm, tăng trưởng kinh tế chậm lại. Qua sự phân tích trên ta thấy giữa việc tăng giảm lưọng tiền cung ứng và việc tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ biện chứng. Vì vậy NHTW cần bằng mọi phưong thức để huy động hầu hết cac nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nước và vay nước ngoài để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế hàng năm 9-10 %. 1.1.2.4. Mối quan hệ giữa các mục tiêu. Trong dài hạn đường cong Philíp trở lên thẳng đứng ngụ ý rằng các mục tiêu của chính sách tiền tệ có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc đẩy nhau. Điều này cho thấy rằng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ không thể tuyệt đối hoá mục tiêu nào, không thể giải quyết các mục tiêu độc lập. Tuy nhiên trong ngắn hạn hình dạng của đường cong Philíp thể hiện sẽ mâu thuẫn giữa ổn định giá cả, tăng trưởng và thất nghiệp: Việc giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc thực hiện một chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất tăng, làm giảm các nhân tố cấu thành tổng cầu do đó ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế. Vì thế thất nghiệp có xu hưóng tăng lên. Mặt khác, việc duy trì một tỷ lệ thất nghiệp thấp thường kéo theo chính sách tiền tệ mở rộng và sự tăng giá. Bằng việc hạ giá đồng bản tệ các nghành công nghiệp xuất khẩu có khả năng mở rộng. Tỷ lệ thất nghiệp vì thế giảm kèm theo sự tăng lên của mức giá chung. Cho đến nay vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về cách xử lí mâu thuẫn trên: Có quan điểm cho rằng, cần chấp nhận một tỉ lệ lạm phát vừa phải, tức là lạm phát ở mức một con số để đạt được mức độ tăng trưởng vừa phải và một tỉ lệ thất nghiệp có thể chấp nhận được. Trong khi đó một số nhà kinh tế học cho rằng cần phải đưa mục tiêu chống lạm phát lên hàng đầu. Riêng đối với NHTW thì trong ngắn hạn NHTW không thể đạt được tất cả mục tiêu trên. Phần lớn NHTW các nướcc có sự ổn định giá cả là mục tiêu chủ yếu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Nhưng trong ngắn hạn, đôi khi họ phải từ bỏ mục tiêu chủ yếu để khắc phục tình trạng thất nghiệp cao, đột ngột hoặc các ảnh hưởng của các cú sốc cung đối với sản lượng. NHTW được coi là có quyền lực làm việc này vì nó nắm trong tay các công cụ điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Có thể nói NHTW theo đuổi một mục tiêu trong dài hạn và đa mục tiêu trong ngắn hạn. Để đạt được mục tiêu này, NHTW cần sử dụng và điều hành CSTT một cách linh hoạt và có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tế. 1.1.3. Công cụ của CSTT. Trong phạm vi bài viết, chỉ nghiên cứu ba công cụ chính, thường được sử dụng trong thời gian gần đây đó là: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và dự trữ bắt buộc. 1.1.3.1 Nghiệp vụ thị trường mở. Là hoạt động NHTW mua bán các chứng khoán trên trên thị trường mở với mục đích tác động tới thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu tiền tệ về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM tại NHTW và ảnh hưởng gián tiếp đến các múc lãi suất, từ đó ảnh hưởng đến khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng này, làm thay đổi mức cung tiền. Trên thị trường mở, NHTW chủ yếu mua tín phiếu kho bạc nhà nước. Bằng cách mua chứng khoán, NHTW làm tăng cơ số tiền tệ, qua đó làm tăng lưọng tiền cung ứng. Ngược lại bằng cách bán chứng khoán trên thị trường mở cho bất cứ đối tượng nào. NHTW sẽ thu hút tiền vào làm giảm khối lượng tiền tệ. Kết quả làm cho dự trữ của NHTM tại NHTW bị giảm, từ đó hạn chế khối lượng cấp phát tín dụng. Nếu sự mua bán trái phiếu không có NHTW tham gia, mà chỉ có các NHTM với nhau thì khối lưọng tiền tệ không thay thay đổi, đó chỉ là sự dịch chuyển trái phiếu từ NHTM này sang NHTM khác và một sự di chuyển ngược lại từ một phần dự trữ thặng dư của ngân hàng thừa vào dự trữ của ngân hàng thiếu. Thị trường mở là công cụ quan trọng nhất của NHTW trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, nó là yếu tố quyết định quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây lên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở, là nghiệp vụ thị trường mở chủ động, nhằm thay đổi mức dự trữ cơ số tiền và nghiệp vụ thị trường mở thụ động nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác, đã làm ảnh hưởng đến cở số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở có ưu điểm là: Nghiệp vụ thị trường mở linh động, chính xác có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. NHTW dễ dàng đảo ngược được tình thế của mình. Khi có một sai lầm xảy ra khi tiến hành nghiệp vụ thị trường mở, NHTW có thể lập tức đảo ngược việc sử dụng công cụ đó. Nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do mua quá nhiều chứng khoán trên thị trường mở, thì lập tức nó có thể chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán. Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chính. Khi NHTW muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, nó chỉ việc ra lệnh cho người kinh doanh chứng khoán và việc mua bán được thực hiện ngay tức khắc . NHTW có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiệp vụ thị trường tự do. Bên cạnh đó công cụ này có một số nhược điểm là đòi hỏi quốc gia đó phải có thị trường chứng khoán phát triển và chỉ có thể áp dụng trong điều kiện mà hầu hết tiền trong lưu thông đều nằm ở tài khoản của ngân hàng. 1.1.3.2. Chính sách chiết khấu. Là công cụ của NHTW trong việc thi hành chính sách tiền tệ bằng cách cho vay tái cấp vốn cho các ngân hàng kinh doanh (NHKD). Khi NHTW cho vay các NHKD làm tăng thêm tiền dự trữ cho hệ thống ngân hàng, từ đó tăng thêm lượng tiền cung ứng. Thông qua lãi suất chiết khấu, NHTW có thể khuyến khích giảm hoặc tăng mức cung ứng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế, đồng thời giảm hoặc tăng mức cung tiền. Khi thực hiện chính sách “ thắt chặt “ tiền tệ NHTW sẽ nâng lãi suất chiết khấu tái cấp vốn lên. Khi đó các NHTM sẽ nâng lãi suất cho vay hoặc hạn chế bớt các cơ hội cho vay. Và ngược lại khi thực hiện chính sách “nới lỏng” tiền tệ, NHTW hạ thấp lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn. NHTM trong trường hợp này đi vay rẻ nên có khuynh hướng giảm bớt lãi suất cho vay dẫn đến nhu cầu vay gia tăng. Ngoài ra chính sách tái chiết khấu, tái cấp vốn còn là công cụ đắc lực trong định hướng phát triển kinh tế. Khi cần khuyến khích xuất khẩu, NHTW sẽ ưu tiên tái chiết khấu các thương phiếu xuất khẩu hoặc nâng mức tái chiết khấu đối với thương phiếu đó. Chính sách chiết khấu còn quan trọng ở chỗ nó giúp cho các NHTM tránh khỏi những cơn hoảng loạn tài chính. Bởi vì nghiệp vụ của NHTM là kinh doanh tiền tệ tức là nhận tiền gửi và cho vay phần lớn tiền gửi đó. Nhưng không phải hoạt động của nó lúc nào cũng thuận lợi. Có những lúc những người gửi tiền trong ngân hàng đến rút tiền quá nhiều, ngân hàng mất khả năng thanh toán. Nếu không có NHTW thì NHTM rất dẽ rơi vào tình trạng phá sản. Khi đó NHTW sẽ lập tức huy động tiền dự trữ bắt buộc đến ngân hàng nào cần tiền hơn cả. NHTW sử dụng công cụ chiết khấu để tránh những cơn sụp đổ về tài chính bằng cách thực hiện vai trò người vay cuối cùng, là một yêu cầu cực kỳ quan trọng để tiến hành chính sách tiền tệ thành công. Tuy nhiên khi chấp nhận tái chiết khấu là NHTW đã tăng khối lượng tiền cung ứng. Chính vì tầm quan trọng đó nên NHTW chỉ có thể chấp nhận chiết khấu theo ba điều kiện sau: NHTM đó phải còn hạn mức tín dụng chưa sử dụng hết. Khối lượng tiền cung ứng bằng con đường tín dụng tức chỉ tiêu tín dụng cho nền kinh tế còn được phép cung ứng thêm Bản thân các NHTM đem thương phiếu để tái chiết khấu phải là những thương phiếu tốt. Ưu điểm của biện pháp này là các khoản cho vay của NHTM được thực hiện trên cơ sở các giấy tờ có giá. Do đó, nó có khả năng thanh toán cao. Nhược điểm của biện pháp này là NHTW bị thụ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng. Bơỉ vì NHTW chỉ có thể thay đổi lãi suất chiết khấu nhưng không thể bắt buộc các NHTM vay chiết khấu ở NHTW. 1.1.3.3. Dự trữ bắt buộc. Ngân hàng TW được giao quyền bắt buộc các NHTM phải kí gửi tại NHTW một phần trong tổng số tiền gửi mà NHTM nhận từ dân cư và các thành phần kinh tế theo tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ phần trăm mà NHTW qui định như trên gọi là tỉ lệ dự trữ bắt buộc. NHTW sử dụng dự trữ bắt buộc tác động đến lượng tiền cung ứng trên hai phương diện. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tạo tiền của NHTM. Theo thuyết tao tiền, từ lượng tiền ban đầu NHTM có thể tạo ra lượng tiền lớn gấp nhiều lần. Ta có công thức: Tiền gửi mới được tạo ra = Tiền dự trữ ban đầu*(1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc) (1/ tỉ lệ dự trữ bắt buộc) : là hệ số nhân tiền tệ. Với các giả thiết: Các NHTM không có tiền dự trữ dư thừa so với tỉ lệ dự trữ bắt buộc mà NHTW yêu cầu. Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống ngân hàng. Vậy việc tăng hoặc giảm lượng dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng rất lớn đến lượng tiền được tạo ra. Ti lệ dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của hệ thống NHTM. Mỗi NHTM phải mở tài khoản tiền dự trữ bắt buộc ở NHTW và không được hưởng lãi, trong khi đó NHTM vẫn phải trả lãi cho khoản tiền đó. Vì vậy, khi mức dự trữ tăng lên đòi hỏi NHTM phải tăng lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay đắt hơn, khả năng cho vay của NHTM giảm xuống và theo đó lượng tiền cung ứng cũng giảm xuống. Ngược lại khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, các NHTM có cơ hội giảm lãi suất cho vay đối với nền kinh tế, giá các khoản vay rẻ hơn, tăng khả năng cho vay của NHTM vì thế lượng tiền cung ứng tăng. Mục đích thực hiện dự trữ bắt buộc nhằm: Giới hạn khả năng thương mại của ngân hàng trung gian, tránh được việc ngân hàng này quá ham lợi nhuận mà cho vay quá mức có thể phương hại đến quyền lợi người gửi tiền tức là đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng. Duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng trung gian trong những trường hợp xảy ra tình trạng đồng loạt rút tiền gửi của công chúng, tránh được tình trạng khủng hoảng. Việc tập chung dự trù của ngân hàng trung gian ở NHTW còn là một phương tiện để NHTW có thêm quyền lực để điều khiển hệ thống ngân hàng, tạo sự lệ thuộc của NHTM với NHTW. Lượng dự trữ bắt buộc mà NHTW qui định đối với NHTM có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận mà NHTM thu được. Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng, khả năng cho vay của NHTM giảm như vậy lợi nhuận thu được sẽ giảm. Ngược lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc giảm, lượng tiền NHTM có khả năng cho vay lớn, lợi nhuận sẽ tăng, vì thế khi quyết định thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc NHTW đòi hỏi phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để NHTW không bị lỗ và cộng tác với NHTM, trong việc thực thi chính sách tiền tệ. NHTW có thể trả lãi cho mức dự trữ thặng dư nào đó của NHTM, kèm theo một chính sách lãi suất thích hợp. Thêm vào đó NHTW có thể vận dụng mức dự trữ bắt buộc một cách uyển chuyển hơn bằng cách phân biệt mức dự trữ bắt buộc. Chẳng hạn do tính chất thanh khoản của mỗi loại tiền gửi, NHTW có thể qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi không kỳ hạn cao hơn tỉ lệ dự trữ bắt buộc của tiền gửi có kỳ hạn. Điểm lợi chính của việc sử dụng dự trữ bắt buộc là nó có thể tác động tới tất cả các ngân hàng như nhau và có tác dụng đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Nhưng hạn chế của nó là sự thay đổi nhỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo ra một sự thay đổi lớn của lượng tiền cung ứng và nó có thể tạo ra một cú sốc với nền kinh tế. Khi bị “ lỡ tay “ trong việc qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì NHTW không kịp bổ sung. Đặc biệt với những nước có lượng tiền mặt lớn trong lưu thông như ở Việt Nam thì tỉ lệ dự trữ bắt buộc chưa có tác động mạnh đến lượng tiền cung ứng. Biện pháp thay đổi dự trữ bắt buộc cần phải thực hiên một cách thận trọng và muốn có hiệu quả phải đi kèm với các biện pháp khác, cần phải có nhà hoạch định chính sách có khả năng. CHƯƠNG 2. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ chính Sách tiền tệ của NHNN Việt nam,trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21 2.1. Thực trạng của việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước việt nam Từ những năm 1976 đến 1985 hệ thống Ngân hàng Việt Nam (NHVN) đã tập trung vào việc xây dựng một hệ thống ngân hàng XHCN thống nhất trong cả nước, củng cố tiền tệ, đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đồng thời hệ thống ngân hàng Việt Nam đã mở rộng quan hệ với các ngân hàng trong khối XHCN và các nước khác. Trong gia đoạn hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước hệ thống NHVN đã thực sự chuyển mình, góp phần nhất định vào việc chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Bộ mặt kinh tế Việt Nam cũng có những thay đổi đáng ghi nhận. Với sự ra đời của hai pháp lệnh ngân hàng, sự chuyển đổi hệ thống ngân hàng đã trả lại đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ cho từng hệ thống ngân hàng. Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng , hệ thống các côn cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, NHNNVN thực hiện kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp: ấn định khung lãi suất tiền gửi cho vay, ấn định hạn mức tín dụng, cung ứng tiền mặt pháp định, kết hợp với công cụ gián tiếp: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở và từng bước đổi mới chuyển từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Các công cụ chính sach tiền tệ đã phát huy tác dụng góp phần vào thành tựu hoạt động ngân hàng trong những năm qua. Trong giới hạn của đề án để tập trung đi sâu vào nghiên cứu nên trong phần này em tập trung vào nghiên cứu hai công cụ của chính sách tiền tệ: Nghiệp vụ thị trường mở và công cụ dự trữ bắt buộc. Trên thực tế, để đạt được những mục tiêu của chính sach tiền tệ, các công cụ chính sách tiền tệ đã được NHNN VN sử dụng như sau. 2.1.1 Nghiệp vụ thị trường mở. Đối với các nước có nền kinh tế phát triển lâu đời thì công cụ thị trường mở được xem như là một trong những công cụ linh hoạt nhất và lợi hại nhất, song ở Việt Nam lại mới được vận hành còn ở mức hết sức mới mẻ và sơ khai. Trên thực tế, để có thể sử dụng linh hoạt công cụ thị trường mở điều cần thiết đặt ra là phải có một thị trường giấy tờ có giá trị tồn tại và được vận hành trong guồng máy kinh tế. Mặt khác, thị trường mở được xem là bộ phận hoạt động của thị trường tiền tệ đã phát triển ở giai đoạn cao. Đến tháng 7 năm 1993 thị trường nội tệ liên ngân hàng đã được đưa vào hoạt động. Song thị trường này mới mua, bán bằng lãi suất chứ chưa sử dụng nghiệp vụ thị trường mở. Bên cạnh đó, các bộ phận quan trọng cấu thành thị trường vốn như thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán thì mới ở dạng manh nha buổi ban đầu thiết lập. Tình hình hoạt động đấu thầu trái phiếu kho bạc NHNN mới chỉ hoạt động “một chiều“, kể cả sau đó NHTM và công chúng chuyển nhượng cho nhau thì cũng không thể vì thế mà làm thay đổi cơ số tiền tệ trong lưu thông. Trên thực tế, cũng có trường hợp một NHTM mang số trái phiếu đang nắm giữ đến thế chấp vào Ngân hàng Nhà nước xin vay chiết khấu nhưng đó chỉ là hoạt động cá biệt quan hệ tay đôi ngẫu nhiên để giải quyết tình huống đột xuất chứ không phải là một nghiệp vụ chủ động điều chỉnh cơ số tiền tệ trong lưu thông như chính sách thị trường mở các nước đang áp dụng. Như vậy, do thị trường chứng khoán ở nước ta còn sơ khai nên nghiệp vụ thị trường mở chưa phát triển mạnh . Tuy nhiên sau một quá trình nỗ lực chuẩn bị ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do Ngân hàng Nhà nước chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của NHTW. Trong thời gian qua, việc điều hành đã diễn ra theo đúng quy định và luôn bám sát tình hình thực tế, diễn biến của thị trường tiền tệ. Từ đó, đưa ra những quyết định về hình thức, khối lượng và thời gian giao dịch. Nghiệp vụ thị trường mở đã hoạt động nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đã đề ra. Ngân hàng Nhà nước bước đầu đã sử dụng thành công một công cụ mới để điều hành chính sách tiền tệ. Sau hơn một năm hoạt động, tính đến cuối năm 2001, thị trường mở đã có 21 thành viên trong đó có 4 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh, 10 Ngân hàng Thương mại cổ phần, 4 chi nhánh Ngân hàng ở nước ngoài, 1 Ngân hàng liên doanh, quỹ tín dụng Trung ương và 1 Công ty Tài chính. Số thành viên tham gia chưa đông bởi vì họ còn thăm dò hoạt động của thị trường còn mới mẻ này. Mặt khác, hàng hoá giao dịch trên thị trường chỉ có tín phiếu kho bạc và Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước mà những loại hàng hoá này lại do một số ít Ngân hàng nắm giữ. Trong số 21 thành viên này, chỉ có 4 Ngân hàng Thương mại Quốc doanh thường xuyên giao dịch, do các Ngân hàng này nắm hơn 70% lượng hàng hoá chính thức đủ điều kiện để giao dịch trên thị trường mở. Trong các tháng cuối năm 2000, bình quân 10 ngày Ngân hàng Nhà nước tổ chức một phiên giao dịch thị trường mở. Trong thời gian này Ngân hàng Nhà nước áp dụng phương thức đấu thầu lãi suất, chỉ duy nhất 4 phiên đầu tiên áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng. Lãi suất đăng ký dao động trong khoảng 4,00%/năm đến 5,58%/năm. Nhìn chung lãi suất này đã phần nào phản ánh được diến biến tình hình lãi suất của thị trường. Bởi vì trong những phương thức đấu thầu lãi suất Ngân hàng Nhà nước đã không quy định lãi suất chỉ đạo xét thầu. Trong tháng 8/2000, do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng có dư thừa nên Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước nhằm thu hút số vốn này, đồng thời có thể tạo thêm lượng hàng hoá cho thị trường mở. Trong ba phiên liên tiếp của tháng 8/2000, Ngân hàng Nhà nước đã bán hẳn 550 tỷ đồng đạt kết quả 100% so với dự kiến. Từ tháng 9 đến cuối tháng 12 năm 2000 do có sự hạn chế của Ngân hàng Nhà nước ở cửa số chiết khấu (có thể đây là hình thức hỗ trợ cho sự vận hành nghiệp vụ thị trường mở mới ra đời) và nhu cầu tín dụng đồng Việt Nam tăng nhanh (do vay ngoại tệ chịu rủi ro lớn tỉ giá chịu sức ép tăng cao) trong khi huy động tiền gửi tăng chậm có sự chuyển dịch cơ cấu huy động giữa ngoại tệ và nội tệ do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, dẫn đến khan hiếm vốn khả dụng trong các tổ chức tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng giao dịch đảo chiều, mua giấy tờ có giá trị trong 14 phiên liên tục với doanh số 1353,5 tỉ đồng. Từ đầu năm 2001, Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở quyết định tiến hành giao dịch thường xuyên hàng tuần vào thứ 4 nhằm làm cho các thành viên kịp thời theo dõi, nắm bắt kịp thời các thông tin về thị trường. Từ 10/1/2001 đến 15/2/2001, lượng vốn khả dụng tiếp tục thiếu hụt do nhu cầu tiền mặt tăng, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục mua vào giấy tờ có giá chủ yếu là mua có kì hạn do tính đến yếu tố lượng vốn khả dụng có thể tăng lên sau tết. Từ ngày 21/2 đến ngày 14/3/2001, lượng vốn khả dụng có biểu hiện dư thừa, để rút bớt phương tiện thanh toán khỏi hệ thống tổ chức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện bán hẳn lượng giấy tờ có giá với giá trị là 470 tỉ đồng. Từ 21/3 đến 30/5/2001, do nhu cầu vốn khả dụng tăng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua có kì hạn giấy tờ có giá trị với tổng giá trị 745 tỉ đồng. Duy nhất có một phiên giao dịch 11/4/2001, do các tổ chức tín dụng bỏ thầu không hợp lệ nên không có tổ chức nào trúng thầu mặc dù vẫn có nhu cầu về vốn khả dụng. Hai phiên giao dịch tiếp theo Ngân hàng Nhà nước thực hiện giao dịch mua hẳn với tổng khối lượng trúng thầu đạt 60 tỉ đồng. Từ 20/6 đến 31/10/2001 Ngân hàng Nhà nước lại tiến hành mua có kì hạn tín phiếu (kì hạn 15 - 30 ngày), tổng giá trị đạt 2308,81 tỉ đồng. Trong tháng 11/2001, do lượng vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng vẫn ở mức cao nên 4 phiên giao dịch liên tiếp không có thành viên nào tham gia giao dịch. Đầu tháng 12/2001 lần đầu tiên kể từ khi khai trương Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành giao dịch bán với kỳ hạn 1 tháng, hai phiên đầu tháng khối lượng chào bán là 250 tỉ đồng nhưng khối lượng trúng thầu chỉ đạt 150 tỉ đồng. Trong năm 2002, đến ngày 5/9 Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức 52 phiên giao dịch. Tháng 5/2002 Ban điều hành nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng Nhà nước quyết định tổ chức thường xuyên hai phiên giao dịch mỗi tuần vào thứ 3 và thứ 5. Trong 52 phiên giao dịch đó có 9 phiên thực hiện bán hẳn với tổng khối lượng trúng thầu là 900 tỉ đồng trong tổng số 2._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0610.doc
Tài liệu liên quan