mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng thu ngân sách nhà nước và thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta vẫn còn nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp,... Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã đưa ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước" [18, tr.232].
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh vừa mới được chia tách từ đơn vị hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã có những bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Song, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam hầu hết là quy mô vừa và nhỏ, trừ một số ít doanh nghiệp đang có nhiều nỗ lực để duy trì khả năng hoạt động trong điều kiện chưa hội đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, thì phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đang trong tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cần phải có giải pháp sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Vì thế, đề tài nghiên cứu “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà lý luận nghiên cứu về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, nghiên cứu về các giải pháp đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước dưới các góc độ khác nhau, tiêu biểu như:
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước - tác giả PGS.TSKH Đỗ Nguyên Khoát đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5/2004.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay của Đoàn Ngọc Phúc, đăng trên tạp chí Khoa học Chính trị, số 6 năm 2002.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của TS Lê Khoa, đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 4/2002.
- Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 4/2004.
- Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước của Phạm Đức Trung đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số 11 năm 2003.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập của TS Nguyễn Đăng Nam đăng trên tạp chí Tài chính, số 1+2 năm 2003.
- Để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đình Kháng.
- Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta của GS.TS Chu Văn Cấp.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nhà nước trong quá trình hội nhập của TS Nguyễn Văn Quảng đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2005.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA của Đoàn Nhật Dũng đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 281 tháng 10/2001.
- Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của Đặng Thành Lê đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 304 tháng 9/2003.
- Một số quan điểm chỉ đạo bảo đảm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đỗ Huy Hà đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 9/2004.
Và rất nhiều công trình khác.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn ít đề tài nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống về hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Do đó, đề tài luận văn này không trùng lặp với các công trình, bài viết đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam hiện nay, qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và ở Quảng Nam nói riêng.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, những kết quả và tồn tại, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam thuộc sự quản lý nhà nước của tỉnh, có quan hệ trực tiếp và tác động ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
4.2. Giới hạn phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế, các định hướng chung, tổng quát, cũng như các quan điểm... liên quan đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, đề tài không đi vào mặt kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể để nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có 100% vốn nhà nước và hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Không nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích cũng như các doanh nghiệp nhà nước của Trung ương và của các tỉnh, thành phố đóng chân và hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian nghiên cứu từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật... của Đảng và Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp và các phương pháp phân tích thống kê để xử lý số liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tiễn, đặc biệt là phương pháp tổng kết thực tiễn để rút ra các bài học kinh nghiệm.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan hữu quan của tỉnh hoạch định chính sách, giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước của tỉnh nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đồng thời ứng dụng hợp lý các giải pháp đối với các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam đang tồn tại và hoạt động.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết
Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 1
Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh
1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước, do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với mục đích khác nhau.
Theo tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các Bộ, Ngành, các doanh nghiệp mà nhà nước giữ phần lớn cổ phần, song do sự phân tán của cổ đông mà nhà nước nắm giữ quyền chi phối.
ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước và định nghĩa: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam” [26, tr.1]. Điểm mới về những thay đổi trong chính sách và cơ cấu kinh tế ở nước ta quy định bởi nội dung định nghĩa này được phản ánh:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư, thành lập và quản lý, nghĩa là hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Các quy chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ý chí của chủ sở hữu. Mối quan hệ giữa nhà nước với người lao động không đơn thuần là quan hệ nhà nước với chủ thể pháp luật mà còn là quan hệ giữa chủ sở hữu với người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản. Đây là điểm khác biệt đối với doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của các nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh, quốc phòng được phân thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Việc phân chia này được đưa ra lần đầu tiên và được đề cập trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995.
Thứ ba, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã xác định tính chất vô hạn trong quan hệ với các chủ thể khác đồng thời khẳng định giới hạn trách nhiệm của nhà nước trong phạm vi phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước. Đây là vấn đề mà doanh nghiệp nhà nước cần chú ý khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại với các doanh nghiệp, các tổ chức khác.
Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, được thể hiện ở điều I: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn” [27, tr.7-8]. Có thể hiểu rằng: Khái niệm của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều đổi mới phản ánh những thay đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách của nước ta đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác.
Thứ nhất, việc xác định doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như trước đây mà tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 là quyền kiểm soát và chi phối doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là có những loại doanh nghiệp nhà nước mà trong đó các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần. Bất kì là Nhà nước, các nhà đầu tư, các doanh nhân nếu góp vốn nhiều thì có nhiều khả năng chi phối doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, thừa nhận khả năng chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp thông thường, thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần - Nghĩa là trong quá trình tồn tại, do sự vận động của cổ phần giữa các cổ đông với nhau dẫn đến nhà nước không còn nắm giữ được đủ số lượng cổ phần chi phối thì sẽ không bảo đảm được quyền chi phối, và do vậy doanh nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.
Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các doanh nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây, doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập hoặc Tổng Công ty nhà nước thì nay doanh nghiệp nhà nước cũng có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng về hình thức tồn tại của doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công, làm cho nó thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo nội dung khái niệm của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 thì doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại hình khác nhau tuỳ theo qui mô kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ, mức độ liên kết kinh doanh và hoạt động độc lập mà có tên gọi khác nhau như: Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước, Công ty nhà nước có hoặc không có Hội đồng quản trị.
Trên cơ sở mục đích hoạt động, quy mô, hình thức và cách tổ chức quản lý mà doanh nghiệp nhà nước được phân thành các loại doanh nghiệp khác nhau, như: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; doanh nghiệp nhà nước độc lập; doanh nghiệp nhà nước thành viên; doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị.
Sơ đồ 1.1: Các loại hình doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003
Doanh nghiệp nhà nước
Công ty nhà nước
DN hoạt động theo Luật DN có cổ phần 100% hoặc chi phối của nhà nước
Loại 100% vốn NN
DN có cổ phần, vốn góp NN trên 50% vốn Điều lệ
DN do NN hoặc DNNN có quyền chi phối
Công ty NN không có HĐQT
Công ty NN có HĐQT
Loại Độc lập
Tổng công ty
TCT do NN
Quyết định đầu tư và thành
Lập
TCT chuyên đầu tư và kinh doanh vốn NN
Loại do các công ty tự đầu tư và thành lập
Công ty cổ phần nhà nước
Công ty TNHH nhà nước 1 thành viên
Công ty TNHH nhà nước có 2 thành viên trở lên
Nguồn: [5, tr.248].
Như vậy, trải qua quá trình thay đổi của các thời kì, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được hoàn thiện hơn, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước được mở rộng và qui định chi tiết tại các Điều 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20 chương III, Điều 57, 58, 59 chương V, Điều 70, 71 mục 3 chương VI của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003, thể hiện căn bản quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở bảo toàn, phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn do nhà nước đầu tư hoặc do doanh nghiệp tự huy động, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trước kết quả lỗ lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và phải thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với chủ sở hữu, đối với người lao động theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Định hướng xã hội chủ nghĩa là xác định và điều khiển hướng phát triển nền kinh tế quốc dân theo con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, mô hình xã hội lí tưởng của Cách mạng Việt Nam mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Đây được coi là nguyên tắc lớn, có tính bao trùm, xuyên suốt và vạch rõ hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn định của đất nước trên mọi lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế. Nguyên tắc này cũng vạch rõ mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, nguyên tắc này cũng xác định nền kinh tế thị trường mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là nền kinh tế trong đó có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Định hướng này đã được Đảng ta chủ trương ngay từ Đại hội VI (tháng 12/1986) của Đảng, đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và tiếp tục khẳng định trong các lần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và tại Đại hội lần thứ X của Đảng định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được khẳng định là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn” [18, tr.77]. Điều này cũng có nghĩa rằng, yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước.Vì rằng: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [18, tr.83]. Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước là bộ phận chính yếu, quan trọng của kinh tế nhà nước, một lực lượng vật chất cơ bản để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, thực hiện tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước. Do vậy, vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với việc tham gia tích cực vào quá trình gia tăng nguồn lực kinh tế của nhà nước với tư cách vừa là chủ thể kinh doanh, là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng kinh tế nòng cốt của nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Như vậy, thể hiện trên 3 khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường có thể khái quát nội dung vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
- Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Là lực lượng kinh tế nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo đảm những cân đối lớn cho nền kinh tế góp phần tạo ra môi trường, tiền đề và mở đường hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của toàn bộ nền kinh tế, lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Là lực lượng xung kích đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần thúc đẩy nhanh chóng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, không ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh, là lực lượng nòng cốt, chủ lực trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Là lực lượng nắm những vị trí, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, là công cụ trọng yếu để Nhà nước thực sự là “bàn tay” hữu hình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Là lực lượng tiên phong đảm nhận hoạt động trên các lĩnh vực có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm giữ vững sự ổn định về chính trị. Cung ứng các hàng hoá, dịch vụ thiết yếu trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng như: giao thông, thuỷ lợi, điện, nước, thông tin; trên lĩnh vực xã hội như: y tế, giáo dục...và an ninh quốc phòng.
- Giữ vững vai trò nòng cốt chi phối trong lưu thông hàng hoá, tiền tệ và xuất nhập khẩu, những ngành hàng quan trọng, lĩnh vực trọng yếu nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của đất nước, góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa và khắc phục những khiếm khuyết từ mặt trái của cơ chế thị trường.
- Là lực lượng tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa; đi đầu thực hiện các chính sách xã hội, tạo việc làm ổn định cho người lao động, đặc biệt là tham gia hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn, kém phát triển như: miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa...
- Là lực lượng biết sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
Như vậy, điều không thể thiếu được trong yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vai trò doanh nghiệp nhà nước, bộ phận cấu thành chính yếu của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, đi đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế, mở đường và thu hút các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước càng hoạt động có hiệu quả thì kinh tế nhà nước càng phát huy vai trò chủ đạo, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn đến làm suy yếu đi vai trò của kinh tế nhà nước và do đó sẽ tác động ngược đến qui trình phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Đại hội lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp” [17, tr.189].
1.2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Kinh doanh là việc sử dụng một nguồn lực có hạn nào đó để đầu tư vào hoạt động sản xuất, hay dịch vụ nhằm sinh lợi, đồng thời cung cấp cho xã hội một lượng hàng hoá hay giá trị dịch vụ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Mục đích kinh tế của kinh doanh là bằng mọi hình thức tạo ra lợi nhuận và do đó mục đích kinh doanh là mong muốn dành những lợi thế về phía mình để có được hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà doanh nghiệp phải đạt được trong quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh.
Từ nội dung định nghĩa nêu trên, có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm bao hàm sự tổng hoà của mối quan hệ, của hệ thống chỉ tiêu chất lượng được qui định như là những thước đo phản ánh tình trạng hoạt động của một doanh nghiệp.
Nói cách khác, hiệu quả kinh doanh là việc lựa chọn, sử dụng hợp lý các nguồn lực về vốn, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và áp dụng các phương pháp quản lí, dây chuyền công nghệ, thiết bị sao cho các mục tiêu trong kinh doanh đạt đến sự tối ưu, về chi phí thì tối thiểu, mà lợi nhuận là tối đa, thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước, tạo ra lợi ích cho xã hội, góp phần vào quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiệu quả kinh doanh quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp nhà nước thì hiệu quả kinh doanh ngoài mục tiêu phải hướng tới thì đòi hỏi phải được thể hiện cả trên 3 khía cạnh, đó là: hiệu quả kinh tế thuần tuý, hiệu quả về chính trị - xã hội và hiệu quả về môi trường.
- Hiệu quả kinh tế thuần tuý là hiệu quả nhằm vào mục đích tối đa hoá lợi nhuận trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ số về doanh thu, lợi nhuận, thu nhập bình quân, nộp ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm trước và được thể hiện trong các nhóm chỉ tiêu sau:
Doanh thu
+ Hiệu suất sử dụng vốn =
Vốn
Chỉ tiêu này cho biết toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ luân chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp theo tiêu chí của các tổ chức ngân hàng thương mại. Trong những trường hợp cụ thể người ta có thể tính hiệu quả sử dụng riêng cho từng loại vốn cố định hay vốn lưu động.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn =
Vốn sử dụng bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kì sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, cho phép đánh giá khả năng sinh lợi của tổng vốn.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kì có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Doanh thu thuần
Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được trong kì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tổng tài sản lưu động
+ Khả năng thanh toán chung =
Tổng nợ ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu chỉ số này ≥ 1 có nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
- Hiệu quả chính trị xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được và đóng góp vào sự phát triển vững mạnh của đất nước, tạo việc làm và mang lại thu nhập ổn định cho người lao động, giữ vững trật tự an ninh cho xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần cho nhân dân. Với tư cách là bộ phận quan trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì những lợi ích thuần tuý về hiệu quả kinh tế doanh nghiệp nhà nước, trong quá trình tổ chức các hoạt động kinh doanh phải luôn hướng đến mục tiêu vì lợi ích cộng đồng thông qua việc tiên phong thực hiện kịp thời và đầy đủ các chính sách xã hội của Nhà nước.
- Hiệu quả về môi trường là hiệu quả được tạo ra từ các doanh nghiệp trên lĩnh vực gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đóng góp tích cực vào quá trình cải thiện về môi trường xanh - sạch - đẹp, khắc phục triệt để những ảnh hưởng về vệ sinh công nghiệp, đảm bảo điều kiện sống của nhân dân và người lao động.
Như vậy, một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành là phải bảo toàn và phát triển vốn, phải tính đủ khấu hao tài sản cố định, lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn, trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định, có lãi và lập đủ các quỹ của doanh nghiệp như: Dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Ngoài ra phải thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội đối với người lao động: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chăm lo đời sống tinh thần đối với người lao động, hưởng ứng và đóng góp tích cực các hoạt động vì mục tiêu lợi ích cộng đồng thông qua trợ giúp giảm nghèo, xoá nhà tạm, hỗ trợ sinh viên nghèo vượt khó, tham gia khắc phục thiên tai...Mặt khác, phải tạo ra và tham gia tích cực trong quá trình bảo vệ và cải thiện môi trường xanh - sạch - đẹp, tạo sự an toàn cho xã hội và mang lại cuộc sống yên lành cho nhân dân và người lao động.
Tất cả những tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước vừa nêu trên sẽ là những nhân tố quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển bền vững của kinh tế địa phương và toàn bộ nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ tổng thể của nền kinh tế, đặt trong yêu cầu lợi ích chung của đất nước và dân tộc.
1.2.2. Các tiêu chí, yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
1.2.2.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp
- Trong nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tự chủ ngày càng cao, tuy nhiên do đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước về kinh tế nên việc đánh giá hiệu quả kinh doanh phải dựa trên cơ sở tốc độ “tăng trưởng kinh tế” thông qua hệ thống các tiêu chí như:
+ Doanh số sản lượng phải bảo đảm liên tục tăng, hoàn thành chỉ tiêu sản lượng đối với ngành, nhà nước có chỉ tiêu kế hoạch giao thực hiện.
+ Tỉ suất lợi nhuận trên vốn, giá trị gia tăng trên vốn phải đạt mức năm sau cao hơn năm trước đồng thời cao hơn định mức hiệu quả sử dụng vốn của nhà nước vào kinh doanh.
+ Bảo toàn và tăng trưởng vốn, tự tích luỹ đầu tư mở rộng các hoạt động kinh doanh.
- Tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo được khả năng thanh toán nợ đến hạn.
- Các khoản đóng góp cho ngân sách tối thiểu phải tương ứng với vốn đầu tư của Nhà nước.
- Nộp đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ thuế theo qui định của pháp luật.
- Việc làm và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp được ổn định và nâng cao.
- Chấp hành tốt các chế độ, chính sách và pháp luật trong hoạt động kinh doanh như là các chính sách về bảo hiểm, chế độ báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán, chính sách về lao động và tiền lương, chính sách cải thiện và bảo vệ môi trường, đồng thời với việc tham gia các hoạt động và mục tiêu của xã hội.
Hệ thống các tiêu chí trên đây, là những thành tố rất quan trọng làm cơ sở để đánh giá một cách toàn diện, chính xác và khách quan hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Hệ thống tiêu chí này cũng đã được Thủ tướng Chính phủ thống nhất ban hành tại Quyết định 271/TTg ngày 31/12/2003 và đang được áp dụng đới với việc đánh gía hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.2.2. Các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh và các chính sách hỗ trợ
Một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với doanh nghiệp nhà nước là xây dựng và phát triển chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình trên cơ sở những dự báo về sự tăng trưởng nền kinh tế cùng với những ảnh hưởng của các yếu tố về chính trị, kinh tế - xã hội và những tiền đề được xem là yếu tố nội lực của doanh nghiệp. Thông qua đó phân tích những điểm mạnh, điểm yếu những cơ hội và nguy cơ mà doanh nghiệp có được để đón bắt và ngăn ngừa những biến động có thể xảy ra liên quan đến quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, như là sự bão hoà thị trường, sự thay đổi các quan niệm giá trị, sự xuất hiện công nghệ mới, các yếu tố liên ._.minh khu vực cũng như toàn cầu hoá xu hướng phát triển nền kinh tế hay là vấn đề môi trường, vệ sinh công nghiệp...Như vậy, chiến lược kinh doanh có thể hiểu là những định hướng kinh doanh, những phương pháp hay sự lựa chọn và những khả năng thực hiện các công việc kinh doanh đã được đặt ra.
Đi cùng với chiến lược kinh doanh là các chính sách hỗ trợ được xem như là các giải pháp tối ưu về nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược kinh doanh, đó là:
- Chính sách về nguồn vốn: Bao gồm các nguồn tài chính mà doanh nghiệp cần huy động để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
- Chính sách về sản xuất: Là hoàn thiện quá trình sản xuất khai thác tiềm năng nguồn lao động, kế hoạch tăng, giảm năng lực sản xuất phù hợp với chiến lược kinh doanh, điều hành và bố trí hợp lý các qui trình sản xuất với khả năng đổi mới thiết bị công nghệ, nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
- Chính sách nghiên cứu và phát triển: Tập trung các vấn đề như là tiến bộ kỹ thuật, phát huy sáng kiến, thu thập ý tưởng mới, phát minh sáng chế và tăng cường trách nhiệm đối với chất lượng sản phẩm.
- Chính sách maketing: Nhằm giữ vững thị trường và khách hàng tiềm năng đồng thời mở rộng thị trường mới để tăng cường tiêu thụ sản phẩm.
- Chính sách nhân sự: Xây dựng được đội ngũ những người lao động có phẩm chất, tư cách đạo đức, có giác ngộ chính trị, có phong cách và thói quen lao động công nghiệp để xứng đáng là lực lượng lao động tiên tiến, có ý thức kỉ luật lao động, có khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
- Chính sách tài chính: Nhằm ổn định khả năng thanh toán, tự đầu tư về lợi nhuận, đầu tư ra ngoài hợp lý, kế hoạch tăng vốn tự có, loại bỏ các rủi ro tiền tệ.
- Chính sách thu thập và xử lí thông tin: Trên cơ sở những tin tức mới được thu nhập, được hiểu và được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định về sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
- Chính sách xã hội: Là công cụ mà chủ thể lãnh đạo sử dụng để định hướng, điều chỉnh hành vi, hành động của con người, bảo vệ và thoả mãn nhu cầu về quyền lợi của mọi thành viên trong doanh nghiệp mình như: Thu nhập, việc làm, khát vọng cá biệt về uy thế, thăng tiến, bảo hành quyền lợi sử dụng sản phẩm của khách hàng và chăm lo công tác từ thiện, an sinh xã hội.
- Chính sách về lợi nhuận: Đây là mục tiêu hàng đầu đối với mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận tối đa sẽ tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, làm tốt nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định và tạo nguồn tăng thu nhập cho người lao động.
Những chính sách này là sự tương hỗ lẫn nhau trong mối quan hệ tổng hoà thúc đẩy quá trình hiệu xuất hoá chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, trình độ công nghệ, thiết bị
- Thiết bị là một bộ phận về “phần cứng” của công nghệ. Thiết bị nói chung là các công cụ và máy móc tạo ra và hình thành dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội.
- Công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được dùng đến để chế biến và sản xuất vật phẩm hàng hoá. Ngoài phần cứng là thiết bị, máy móc còn có phần mềm bao gồm: con người, thông tin, phương pháp, tổ chức quản lý, trong đó tri thức khoa học là chủ yếu.
- Công nghệ còn là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong quá trình thực hiện một mục tiêu cụ thể như: Chế tạo sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực hiện một dịch vụ nào đó, thể hiện dưới hai dạng: Công nghệ quy trình là các phương thức chế tạo sản phẩm hàng hoá và công nghệ sản phẩm được đề cập với bản chất, đặc tính và tính hữu ích của sản phẩm sản xuất ra.
Đối với doanh nghiệp nhà nước đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, thiết bị là động lực giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường vì lẽ kết quả của đổi mới công nghệ thiết bị là làm cho chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tăng lên, đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và tạo ra được uy tín với thị trường. Đổi mới công nghệ, thiết bị sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm bớt được hao phí lao động trên một sản phẩm dẫn đến hạ giá thành và do đó số lượng cũng như chất lượng sản phẩm sẽ tăng lên do được ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới công nghệ, thiết bị là yếu tố vô cùng quan trọng đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này được hiểu là lực lượng lao động trong một doanh nghiệp và là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khác trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nói cách khác, nguồn lực lao động đó là nhân tố quyết định việc tái tạo sử dụng, phát triển các nguồn lực chủ yếu của quá trình sản xuất. Nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế, làm thay đổi cơ cấu chi phí, giảm giá thành sản phẩm do quá trình tăng năng suất lao động. Có thể nói, đây là yếu tố cấu thành quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, vì rằng con người nói chung, nguồn lực lao động nói riêng, vừa là yếu tố quan trọng, vừa là kết quả của quá trình lao động sản xuất xã hội. Nếu quá trình tái sản xuất xã hội không đạt được sự gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì chưa thể gọi là đạt được mục tiêu đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi quá trình phát triển.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định, mục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội là vì con người và do con người. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vai trò của nguồn nhân lực càng được khẳng định thông qua trình độ về chuyên môn, về thể chất, về kỹ thuật cao, đánh dấu bước phát triển nguồn lực lao động ứng với sự phát triển của nền kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không chỉ góp phần tạo nên hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn là yếu tố cấu thành sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp nhà nước việc thường xuyên đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để phục vụ cho doanh nghiệp mình và cung cấp cho xã hội là một trong những nhiệm vụ cơ bản nhằm tạo ra hiệu quả kinh doanh vì mục tiêu xã hội.
Thư tư, ổn định việc làm và nâng cao thu nhập
Đây là hai đại lượng luôn gắn liền với cuộc sống thiết thân của người lao động và luôn vận động trong mối quan hệ hữu cơ. Vì rằng: Việc làm luôn luôn, bao giờ và lúc nào cũng là nhu cầu cần thiết của con người trong xã hội. Đó là một đòi hỏi tự nhiên bởi con người được sinh ra để sống và làm việc, nhưng để có đủ điều kiện làm việc con người phải đáp ứng lại nhu cầu tiêu dùng cá nhân thông qua thu nhập, và phải từ thu nhập thường xuyên trên cơ sở việc làm ổn định. Lúc sinh thời, Bác Hồ của chúng ta cũng từng nói: “Phát triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [28, tr.212]. Nghĩa là: đời sống được nâng cao là nhằm phục vụ cho sản xuất và sản xuất phải nhằm mục đích nâng cao đời sống của con người, bởi vì như Mác đã từng nói: “Chính con người mới là nhân tố tạo ra mọi giá trị”. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước vấn đề việc làm và thu nhập đã trở thành yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả, nó tuỳ thuộc vào các chính sách giải quyết việc làm và phân phối thu nhập mà doanh nghiệp đã lựa chọn. Nếu sử dụng chính sách phù hợp sẽ tạo được việc làm ổn định cho người lao động và do vậy sẽ khai thác được những tiềm năng to lớn thông qua trình độ bậc thợ, tay nghề, kỹ năng kỹ xảo và ý thức tổ chức kỷ luật của người lao động nhằm tăng năng suất lao động, tạo điều kiện tăng các chỉ số kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời thực hiện phân phối thu nhập công bằng trên cơ sở kết quả kinh doanh và kết quả đóng góp của người lao động sẽ là nguồn lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra được việc làm ổn định cho người lao động. Thực hiện chính sách khuyến khích và phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật thông qua các chế độ khen thưởng và phúc lợi xã hội nhằm tạo động lực để thi đua lao động, gắn bó với doanh nghiệp bởi tinh thần trách nhiệm của người lao động. Từ đó, tạo ra một phong trào thi đua lao động sản xuất thường xuyên và góp phần mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Thứ năm, chất lượng sản phẩm
Theo tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO thì thuật ngữ chất lượng được định nghĩa là: “Toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực tế đó có khả năng thoả mãn các nhu cầu đã công bố hay còn tiềm ẩn” [40, tr.16].
Như vậy, chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm hay dịch vụ nào đó mà không đáp ứng được nhu cầu, không được thị trường chấp nhận thì coi như là kém chất lượng, cho dù trình độ công nghệ đã chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại. Đây chính là yếu tố then chốt để các nhà quản lý, các doanh nghiệp nhà nước định ra những chính sách phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vì lẽ hoạt động của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng của mình bởi các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và dịch vụ sẽ mang lại giá trị và giá trị sử dụng đối với khách hàng, làm cho khách hàng thoả mãn, ưa chuộng tạo dựng nên niềm tin và sự gắn bó giữa khách hàng với doanh nghiệp.
Mặt khác, do chất lượng được đo bởi nhu cầu, mà nhu cầu thì biến động theo thực tế phát triển của kinh tế, xã hội, theo mức sống của người tiêu dùng được nâng cao nên chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng luôn thay đổi cho phù hợp với nhu cầu theo thời gian, không gian, điều kiện sử dụng...Do vậy nó không chỉ giới hạn ở mức độ sản xuất sản phẩm và dịch vụ thoả mãn lại nhu cầu của khách hàng mà phải liên tục nâng cao chất lượng hơn nữa để tạo nên lợi thế so sánh với các sản phẩm và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh, nhằm giữ vững khả năng chiếm lĩnh thị trường, duy trì khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng mới.
Chất lượng cũng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá mà chất lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó sẽ là sản phẩm một hoạt động, một quá trình, một doanh nghiệp hay một con người. Một khi nền kinh tế nước ta đang trong điều kiện tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực thì việc các doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao là hoàn toàn cần thiết và nó sẽ là yếu tố cơ bản, là chất xúc tác hiện hữu mang lại hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm và hàng hoá, dịch vụ.
Thứ sáu, gìn giữ môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái là những giá trị nguyên sinh của tài nguyên thiên nhiên, hình thành và tồn tại trong tự nhiên được xem là một trong những yếu tố nguồn lực cơ bản của quá trình sản xuất. Đó là tất cả những của cải vật chất thuộc về thiên nhiên mà con người có thể sử dụng để thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, bao gồm: đất đai, rừng, biển, sông ngòi, khoáng sản, nguồn nước, nhiệt năng, khí hậu, thời tiết...
Quá trình phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chính là quá trình làm thay đổi đối tượng lao động, biến các tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm tiêu dùng để phục vụ cho nhu cầu của con người. Tuy nhiên, do trữ lượng tài nguyên có hạn, vả lại có những tài nguyên không tái tạo được hoặc chu kì tái tạo chậm dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên. Mặt khác, quá trình khai thác tài nguyên đã làm phá vỡ môi trường sinh thái do chất thải rắn, chất thải khí tăng lên, đặc biệt là khai thác gỗ và phá rừng bừa bãi sẽ dẫn đến thay đổi thời tiết khí hậu gây ra thiên tai, lũ lụt, làm ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sức khoẻ của con người.
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi ý thức của mọi thành viên trong doanh nghiệp phải biết sử dụng tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, biết bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời, phải tạo môi trường làm việc hợp lý cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp của mình cả về không gian, không khí, khí hậu, ánh sáng, thông gió...Thực hiện tốt yếu tố này chính là sử dụng hiệu quả năng lực làm việc của mọi thành viên trong doanh nghiệp vừa tăng năng suất lao động, vừa gìn giữ được môi trường sinh thái, đạt được mục tiêu hiệu quả về môi trường, là yếu tố của sự phát triển bền vững.
Thứ bảy, chi phí kinh doanh
Đây là các khoản chi phí đầu vào của doanh nghiệp phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Chi phí trực tiếp: là chi phí được phân bổ thẳng vào những sản phẩm như là chi phí nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng, chi phí nhân công, ca máy,...
Chi phí gián tiếp: là chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: tiền lương, thu nhập khác, tiền ăn ca của bộ máy quản lý, cước điện thoại, tiền điện, nước, quảng cáo, thông tin, bảo hiểm, đào tạo, chuyên gia, giao tế, khấu hao và các chi phí quản lý khác.
Nếu quản lý và phân bổ hợp lý cơ cấu chi phí kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí trong giá thành sản phẩm và do đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn. Ngược lại, không quản lý tốt chi phí kinh doanh thì chi phí sẽ bằng hoặc lớn hơn doanh thu, khi đó sẽ không mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh. Do vậy, chi phí kinh doanh cũng chính là yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tám, năng lực quản lí
Có thể hiểu rằng: Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung và nhiều cách tiếp cận, nhưng xét cho cùng thì năng lực quản lý chính là một chức năng vô cùng quan trọng thể hiện những phương thức tác động đến các quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, như là:
- Quản lý quá trình sản xuất: bao gồm toàn bộ các hoạt động có tính chất qui trình trên cơ sở phối hợp các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động đã có để chế biến, sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ. Qui trình đó chính là: hoạch định, xây dựng kế hoạch sản xuất, điều khiển quá trình vận hành chế biến, kiểm tra chất lượng, giữ gìn bí quyết, kiểu dáng và phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các thành viên.
- Quản lý tài chính và quá trình tác nghiệp, bao gồm: Tạo vốn, sử dụng vốn, chủ yếu là quản lý quá trình lưu thông, thanh toán và các quan hệ tín dụng, cũng như các quy trình, hệ thống tác nghiệp, báo cáo.
- Quản lý vật tư, chi phí các yếu tố đầu vào kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu hợp lý giá thành nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
- Quản lý nhân sự thông qua kết quả công việc được thống kê, cập nhật, đồng thời lập kế hoạch, tuyển dụng, bố trí nhân sự theo đúng ngành nghề, kĩ năng đào tạo phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quản lý các kênh thông tin cần thiết, liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, kiểm tra chọn lọc và xử lý thông tin kịp thời, chính xác.
- Thực hiện tốt các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp cũng như tổ chức thường xuyên các hoạt động quần chúng, phúc lợi trong doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, Đảng không can thiệp sâu hoặc làm thay công việc chuyên môn của Giám đốc doanh nghiệp. Thông qua Đại hội công nhân viên chức hàng năm mà thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước.
Nếu duy trì tốt yếu tố này sẽ là điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ chín, quyết định của Giám đốc doanh nghiệp
Giám đốc doanh nghiệp là người được chủ sở hữu doanh nghiệp giao cho quyền được quản lý, điều hành doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu và tập thể người lao động về mọi hoạt động cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì Giám đốc doanh nghiệp được Nhà nước bổ nhiệm và hưởng lương theo chế độ do Nhà nước qui định.
Lao động của Giám đốc doanh nghiệp phải là lao động của nhà hoạt động xã hội, biết tuân thủ và hiểu đầy đủ những vấn đề về luật pháp, nhất là luật kinh tế, luật dân sự, các chính sách chế độ qui định của nhà nước có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sản phẩm lao động của Giám đốc doanh nghiệp là các quyết định mang tính hệ trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ, nhiều con người trong doanh nghiệp, đó là hành vi sáng tạo mang tính chỉ thị tác động vào đối tượng quản lý nhằm giải quyết những vấn đề chín muồi trên cơ sở nắm vững các qui luật vận động của đối tượng.
Quyết định đúng, kịp thời sẽ mang lại hiệu quả cao còn ngược lại, quyết định sai, không kịp thời, sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng. Do vậy, trước khi ra quyết định cần phải nghiên cứu vấn đề một cách tỉ mỉ, sâu sắc, đồng thời phải thảo luận và lắng nghe ý kiến của cộng sự.
Do tính chất quan trọng của quyết định nên đòi hỏi Giám đốc phải là người có kiến thức về chuyên môn, am hiểu về pháp luật, có năng lực quản lý và kinh nghiệm thực tiễn, có tư duy sáng tạo, biết quan sát và tổ chức công việc, đồng thời phải có ý chí, nghị lực và biết tự tin vào quyết định sáng suốt của mình. Ngoài ra, việc quyết định kịp thời đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, Giám đốc phải là người hiểu được tâm trạng chính trị của tập thể do mình lãnh đạo, phải có quan điểm sống tích cực, đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, luôn luôn vì lợi ích tập thể và phải luôn tu dưỡng mình về đạo đức chính trị, đặc biệt phải chú trọng học tập Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trong thực tế, hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, quyết định của Giám đốc có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Kết luận chương 1
Doanh nghiệp nhà nước, đó là tổ chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ hoặc giữ quyền chi phối trên cơ sở phần vốn góp của Nhà nước tại các doanh nghiệp, tồn tại dưới các hình thức: Công ty nhà nước, Công ty cổ phần nhà nước, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước một thành viên, Công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước hai thành viên.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của doanh nghiệp nhà nước gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội trên 3 khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường, là lực lượng nòng cốt mở đường dẫn dắt các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, để có cơ sở đánh giá thực chất hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, cần sử dụng nhóm tiêu chí thuộc các chỉ số kinh doanh để xác định về tốc độ tăng trưởng kinh tế và sử dụng những chỉ tiêu thuộc lợi ích cộng đồng để đánh giá hiệu quả về mục tiêu xã hội và môi trường, đồng thời phải phân tích cụ thể quá trình tác động của các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu suất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
Do vậy, nghiên cứu về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam cần dựa vào các tiêu chí, các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như đã nêu trên.
Chương 2
Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của Doanh nghiệp Nhà nước tỉnh Quảng Nam
2.1. Tình hình hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước tỉnh Quảng Nam
2.1.1. Sự cần thiết để tồn tại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò của doanh nghiệp nhà nước gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội và giữ vững sự ổn định chính trị của một quốc gia, thông qua việc thực hiện sứ mệnh đặc biệt của mình trong quá trình gánh vác chức năng nặng nề và khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác, đó là công cụ của Nhà nước làm “bà đỡ” cho hệ thống doanh nghiệp phát triển ổn định, tham gia khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường, góp phần tạo việc làm và đi đầu thực hiện các chính sách xã hội, đặc biệt là phân phối phúc lợi công cộng, giảm bớt tình trạng phân hoá giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội.
Mặt khác, doanh nghiệp nhà nước phải đảm nhận các lĩnh vực sản xuất kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi vốn đầu tư vượt quá khả năng tài chính của tư nhân, tham gia đầu tư vào một số ngành có hệ số rủi ro như ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, xử lí môi trường, giao thông công cộng...hoặc tham gia vào những ngành có lợi thế cạnh tranh để vừa mang tính chất chính trị, vừa tạo nguồn thu lớn cho ngân sách. Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần nắm giữ những vị trí then chốt quan trọng để chủ động định hướng xã hội làm đối trọng phát triển hội nhập kinh tế quốc tế; tham gia kiến tạo quan hệ sản xuất mới, mở đường cho các thành phần kinh tế khác phát triển, đồng thời phải nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an ninh quốc phòng, chính trị xã hội của quốc gia.
Đối với Quảng Nam, một tỉnh mới được chia tách từ đơn vị hành chính Quảng Nam - Đà Nẵng vào tháng 01 năm 1997 đến nay vừa được 9 năm. Cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật của tỉnh trong những năm qua được Nhà nước và chính quyền địa phương quan tâm đầu tư xây dựng nhưng thực chất chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội tỉnh nhà. Nghị quyết Đại hội lần thứ XIX của Tỉnh Đảng bộ đã đánh giá cao những thành tựu đạt được trong gần 10 năm qua, trong đó có sự đóng góp rất tích cực của bộ phận doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh và trong phương hướng nhiệm vụ của những năm đến, Tỉnh uỷ Quảng Nam cũng đã chủ trương đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế địa phương trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu ngành, thu hút mạnh đầu tư, đẩy nhanh tốc độ xây dựng khu kinh tế mở Chu Lai, tập trung phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ, phấn đấu đến trước năm 2020 Quảng Nam trở thành tỉnh Công nghiệp, giữ vững tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 14%/ năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm là 27%. Nghị quyết Đại hội Tỉnh Đảng bộ Quảng Nam lần thứ XIX cũng khẳng định: “Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá, tiến bộ và công bằng xã hội, chăm lo sự phát triển toàn diện con người” [20, tr.42]. Nội dung định hướng thể hiện rõ quan điểm của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam là phát triển kinh tế phải đi đôi với giải quyết các vấn đề về xã hội, về môi trường, phải thực hiện được công bằng xã hội và nâng cao mức sống của nhân dân. Nói cách khác là phải phát triển bền vững và do vậy, để thực hiện thắng lợi nội dung định hướng này, không thể không sử dụng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước mà trong đó doanh nghiệp nhà nước là bộ phận cấu thành chính yếu. Điều đó cũng có nghĩa rằng sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn hiện nay là hoàn toàn cần thiết mang tính tất yếu khách quan, phù hợp với thực tế đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong lộ trình sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2. Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam - đặc điểm và phân loại
+ Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam
Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực miền Trung Việt Nam. Sau khi được tái lập vào năm 1997, địa giới hành chính của tỉnh Quảng Nam tiếp giáp với thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên - Huế về phía Bắc, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và KonTum, phía Tây giáp Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào và phía Đông tiếp giáp với biển Đông, là điểm trung lộ cách Hà Nội 860km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 865km. Diện tích tự nhiên của toàn tỉnh là (1.408,78km2) dân số khoảng 1,465triệu người với mật độ trung bình 141người/km2. Địa hình của tỉnh chia thành các vùng khác nhau rõ rệt, đó là vùng núi cao, vùng trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển với các điều kiện tự nhiên, sinh thái, tập quán sinh hoạt khác nhau của cư dân địa phương hết sức phong phú.
Về mặt hành chính, tỉnh Quảng Nam có 15 huyện và 2 thị xã, trong đó có 6 huyện miền núi, có 2 di sản văn hoá thế giới là Thánh địa Mỹ Sơn ở Duy Xuyên và Phố cổ Hội An. Xuyên ngang qua địa bàn của tỉnh có quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt, quốc lộ 14 đi các tỉnh Tây Nguyên và sang đường xuyên á thông qua cửa khẩu Nam Giang - Đăk-ta-ốc (Lào), có Cảng biển Kỳ Hà và sân bay Chu Lai thuận lợi cho giao lưu kinh tế thông qua hệ thống giao thông thuỷ bộ và hàng không.
Trước khi tái lập tỉnh, địa phận Quảng Nam gồm 2 thị xã và các huyện đồng bằng, trung du, miền núi thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Mọi nguồn lực và hạ tầng kỹ thuật đều tập trung tại thành phố Đà Nẵng và do vậy hầu hết các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn đều hoạt động trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Theo đó, khi chia tách tỉnh thì cũng đồng thời hệ thống doanh nghiệp nhà nước cũng được chia theo địa bàn đóng chân của các doanh nghiệp nhà nước nên hầu hết các doanh nghiệp ở tỉnh Quảng Nam khi tái lập tỉnh là những doanh nghiệp nhà nước chủ yếu trước đó hoạt động ở địa bàn thị xã Hội An, thị xã Tam Kỳ và một vài thị trấn thuộc huyện. Thực tế số doanh nghiệp nhà nước này không thể đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ của một tỉnh mới tái lập, do vậy phải thành lập mới thêm một số doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở chức năng, ngành nghề hoạt động thích ứng với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh lúc bấy giờ và được thực hiện dưới các hình thức: đổi tên, thành lập mới hoặc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước theo đúng qui định của Chính phủ tại Nghị định số 50/CP ngày 28/8/1996.
Tính đến thời điểm năm 2001, tức là sau 5 năm tái lập tỉnh, hệ thống Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có tổng số là: 103 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhà nước thuộc các cơ quan Trung ương quản lý và các tỉnh, thành phố trong cả nước có Chi nhánh hoạt động trên địa bàn tỉnh Quảng Nam là 34 doanh nghiệp, số doanh nghiệp nhà nước thuộc tỉnh Quảng Nam quản lý có tổng số là 69 doanh nghiệp. Từ năm 2001 đến 2005 hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có nhiều biến động (bảng 2.1).
Bảng 2.1: Hệ thống doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2001-2005
Năm
Cấp quản
lý DNNN
2001
2002
2003
2004
2005
DNNN Trung ương
và các tỉnh có chi nhánh tại Quảng Nam
34
39
42
31
21
DNNN địa phương thuộc tỉnh quản lý
69
66
39
31
22
Tổng số
103
105
81
62
43
Nguồn: [3], [12], [33].
Qua số liệu thống kê (bảng 2.1) cho thấy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2001-2005 biến động theo hướng giảm dần, trong đó doanh nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của tỉnh Quảng Nam có tốc độ giảm nhanh hơn do thực hiện lộ trình sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX của Đảng; Chỉ thị số 20/1998 ngày 21/8/1998, và các Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg ngày 26/4/2002, Quyết định số 72/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu tổng hợp từ Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam thì số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm, trong năm 2002 là: 5 doanh nghiệp nhưng lại tăng 2 doanh nghiệp, trong đó: sáp nhập và tổ chức lại 3 doanh nghiệp, chuyển giao: 2 doanh nghiệp; Năm 2003 giảm 27 doanh nghiệp, trong đó: Cổ phần hoá là 8 doanh nghiệp, sáp nhập 11 doanh nghiệp, chuyển giao 2 doanh nghiệp, chuyển về Trung ương quản lý 5 doanh nghiệp và chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu 1 doanh nghiệp; Năm 2004 giảm 8 doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hoá 7 doanh nghiệp, phá sản 1 doanh nghiệp; Năm 2005 giảm 9 doanh nghiệp, trong đó: cổ phần hoá 5 doanh nghiệp, sáp nhập 1 doanh nghiệp, chuyển giao 2 doanh nghiệp và chuyển đơn vị sự nghiệp có thu 1 doanh nghiệp.
Như vậy, đến thời điểm tháng 12/2005 hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Nam hiện còn tổng số 43 doanh nghiệp, trong đó: doanh nghiệp nhà nước thuộc sự quản lý của các cơ quan Trung ương và các tỉnh, thành phố khác là 21 doanh nghiệp và doanh nghiệp thuộc sự quản lý của tỉnh là 22 doanh nghiệp.
+ Đặc điểm và phân loại doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam.
Đặc điểm: Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam hầu hết có qui mô hoạt động vừa và nhỏ, nguồn vốn kinh doanh từ 1 đến 5 tỷ đồng, chiếm 55%, gồm 38/69 doanh nghiệp trong năm 2001 và 14/22 doanh nghiệp trong năm 2005, số doanh nghiệp có nguồn vốn dưới 1 tỷ đồng có 16/69 doanh nghiệp vào năm 2001 và 2/22 doanh nghiệp vào năm 2005, còn lại số doanh nghiệp có nguồn vốn từ 5-10 tỉ và >10 tỷ chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn 15/69 trong năm 2001 và 6/22 vào năm 2005 (Bảng 2.2). Từ đó cho thấy qui mô hoạt động của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam chỉ giới hạn trong phạm vi nguồn vốn chủ sở hữu và nếu muốn mở rộng sản xuất kinh doanh phải lệ thuộc vào nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại và do vậy phải thường xuyên đối mặt với những biến động bởi quá trình điều tiết vĩ mô từ các chính sách tín dụng theo cơ chế thị trường.
Bảng 2.2: Doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam theo qui mô nguồn vốn chủ sở hữu
Năm
Qui mô
DNNN
2001
2002
2003
2004
2005
<1 tỉ đồng
16
13
6
5
2
Từ 1 – 5 tỉ
38
39
24
19
14
Từ 5 – 10 tỉ
7
8
5
4
4
>10 tỉ
8
6
4
3
2
Tổng Cộng
69
66
39
31
22
Nguồn: [3], [12].
Về cơ cấu ngành nghề, nhiều doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có cùng ngành nghề kinh doanh nhưng lại giới hạn bởi quy mô nhỏ, không mang tính tiên phong, dẫn dắt mở đường. Nhiều doanh nghiệp mở rộng ngành nghề hoạt động nhưng lại thiếu chuyên sâu, tạo ra những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động nhỏ lẻ, phân tán, thiếu sự phối hợp, liên doanh, liên kết với nhau.
Trong tổng số 69 doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam tập trung chủ yếu ở 4 loại ngành nghề đó là: Nông nghiệp, Công nghiệp chế biến, Xây dựng và Thương mại. Tại thời điểm 2001-2002 chiếm tỉ lệ 82,4% và thời điểm 2005 chiếm 72,6%, trong khi 8 loại ngành nghề còn lại chỉ chiếm tỉ lệ 17,6% tại thời điểm 2001-2002 và 27,4% trong năm 2005. Tuy nhiên, hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam là dịch vụ, khai thác, gia công với qui mô vừa và nhỏ. Có rất ít doanh nghiệp hoạt động sản xuất với qui mô lớn, đòi hỏi phải sử dụng công._.động kinh doanh, tập trung phân tích điều chỉnh các chỉ số thuộc nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế thuần tuý trong kinh doanh như là: Hiệu suất sử dụng vốn bằng bao nhiêu vòng trong kì luân chuyển nhằm kiểm soát được dòng ngân quỹ đủ để phục vụ cho hoạt động kinh doanh và khả năng thanh toán nợ đến hạn phải luôn luôn ³ 1. Bên cạnh đó là nhóm các chỉ tiêu phản ảnh tỉ suất lợi nhuận từ vốn và doanh thu, nghĩa là khả năng sinh lợi từ tổng nguồn vốn kinh doanh của doanh ngiệp trong năm tài chính và tỉ suất lợi nhuận tạo ra từ tổng doanh thu trong kì báo cáo. Một khi các chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận từ vốn và doanh thu đạt và vượt hơn so với định mức cho phép và tịnh tiến năm sau cao hơn năm trước thì hẳn nhiên là doanh nghiệp đã có đủ khả năng loại trừ được rủi ro trong kinh doanh.
- Tăng cường các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng vốn thông qua quá trình tự tích lũy bổ sung từ kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Xác lập trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân khi sử dụng vốn của doanh nghiệp theo các chế định tài chính của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể cả với khách hàng, các đơn vị trực thuộc và các thành viên trong nội bộ doanh nghiệp. Nghĩa là phải có điều kiện bảo đảm khả năng thanh toán vốn dựa theo hệ thống các tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ quy định tại Quyết định 271/ TTg ngày 31 tháng 12 năm 2003 để ứng dụng đánh giá hiệu quả kinh doanh và đặt ra cho doanh nghiệp những mục tiêu để phấn đấu.
- Giữ vững mối quan hệ chặt chẽ và năng động đối với các ngân hàng thương mại để khai thông kênh luân chuyển vốn ngắn hạn. Thông qua đầu tư từ các dự án có nguồn vốn ưu đãi, nguồn vốn vay dài hạn, có đối ứng hoặc hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn liên doanh liên kết để vừa mở rộng ngành nghề kinh doanh, vừa chiếm giữ thêm thị phần, giải quyết thêm việc làm cho người lao động, vừa hình thành được tài sản để đảm bảo khả năng quan hệ tín dụng. Tuy nhiên, để giữ được uy tín với ngân hàng thương mại nơi giao dịch, doanh nghiệp cần phải có giải pháp thu hồi công nợ đúng hạn để hoàn trả nợ vay cho ngân hàng theo đúng cam kết trong khế ước. Tránh tối đa tình trạng nợ quá hạn và nợ lãi vay kéo dài vì như thế chỉ số uy tín của doanh nghiệp sẽ nhanh chóng bị giảm suốt.
- Tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước từ Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư, giảm thuế thu nhập trong thời gian dự án mới đưa vào hoạt động và đặc biệt là khai thác chênh lệch quỹ đất thông qua hình thức đổi đất lấy hạ tầng để bổ sung thêm nguồn vốn cho doanh nghiệp, tập trung chủ yếu ở các dự án khai thác quỹ đất tại khu đô thị mới Điện Nam - Điện Ngọc, khu đô thị thành phố Tam Kỳ, thị xã Hội An, thị trấn Nam Phước, thị trấn Hà Lam, khu kinh tế mở Chu Lai,... đồng thời thông qua kết quả hoạt động kinh doanh huy động sử dụng các nguồn vốn từ việc phát hành cổ phiếu trong doanh nghiệp.
- Tăng cường các biện pháp kiểm soát chi phí kinh doanh từ các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, kinh doanh đến chi phí dùng cho công tác quản lý cần phải được tiết kiệm hợp lý chắc chắn sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu giá thành theo hướng giảm và nếu như giá bán sản phẩm không thay đổi thì tỷ suất lợi nhuận trên một sản phẩm sẽ tăng lên và như vậy hiệu quả kinh doanh mang lại sẽ cao hơn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tiết kiệm chi phí quản lý trong kinh doanh sẽ không làm ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm.
- Hạn chế tối đa các khoản nợ khó đòi, nợ tồn đọng kéo dài vì thực chất đó là những khoản chiếm dụng vốn của doanh nghiệp, vừa không thực hiện được chức năng sinh lợi về vốn, vừa bỏ qua những cơ hội kinh doanh mà ngược lại doanh nghiệp còn phải trả lãi vay cho ngân hàng thương mại từ nguồn vốn bị chiếm dụng, theo đó, doanh nghiệp sẽ không đạt được mục tiêu về hiệu quả kinh doanh
3.2.5. Thực hiện tốt công tác nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thu hút nhân tài
Nguồn nhân lực là một trong những thành tố quan trọng, kết hợp với quá trình sử dụng tài nguyên thiên nhiên, vật tư, tiền vốn với những sáng chế khoa học tạo ra cho xã hội những sản phẩm tiêu dùng, những của cải vật chất. Được hiểu đó là nhân tố giữ vai trò quan trọng trong sử dụng, phát triển có hiệu quả các nguồn lực khác vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đề cập đến chức năng kinh tế nhà nước mà trực tiếp là doanh nghiệp nhà nước thì cùng với quá trình phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng đồng thời là quá trình đào tạo nguồn nhân lực và thu hút sử dụng nhân tài, bởi lẽ không thể có một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà ở đó lại không có một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề cao. Đối với doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam đây là giải pháp cần được đặt ra như là vấn đề cấp thiết, vừa là nhiệm vụ trước mắt, vừa là mục tiêu lâu dài. Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX cũng đã nêu lên vấn đề “chăm lo phát triển toàn diện con người” thành một chủ trương lớn, trong đó đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài được xem là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, phải đào tạo có quy hoạch, có kế hoạch theo định hướng phát triển của doanh nghiệp trên cơ sở:
- Quy hoạch và có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt kế thừa từ Trưởng, Phó phòng của Công ty, Giám đốc các đơn vị trực thuộc đến Phó Giám đốc, Giám đốc Công ty, nhằm đảm bảo cho tiến trình ổn định và phát triển doanh nghiệp không bị hụt hẫng về đội ngũ cán bộ quản lý chủ chốt. Đối tượng được quy hoạch đào tạo dự nguồn phải khảo sát từ cơ sở đã tốt nghiệp đại học có thời gian tham gia chuyên môn tại doanh nghiệp ít nhất là 2-3 năm, có phẩm chất đạo đức, có ý chí vươn lên và có tinh thần trách nhiệm gắn bó với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
- Thông qua các hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản, của Công đoàn, của tổ chức cơ sở Đảng và từ các phòng trào thi đua lao động sản xuất trong toàn hệ thống của doanh nghiệp mà phát hiện, lựa chọn, tuyển cử nhân tài, theo đó tiếp tục bồi dưỡng, giáo dục chính trị tư tưởng rèn luyện đạo đức Cách mạng, quán triệt tinh thần trách nhiệm để định hướng quy hoạch.
- Trên cơ sở quy hoạch, dựa theo đặc điểm của từng đối tượng cần thực hiện đào tạo theo hình thức cả hệ tập trung và hệ vừa học, vừa làm, cả kiến thức chuyên môn và lý luận chính trị. Vì là cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước nên cần phải trang bị lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh để nắm vững chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước ta trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta cùng với chủ trương hội nhập nền kinh tế. Phải đào tạo cả trình độ tác nghiệp lẫn khoa học quản lý, đặc biệt là những lĩnh vực thông dụng như là tin học ứng dụng, ngoại ngữ giao tiếp, văn hoá trong kinh doanh đang là những vấn đề hết sức cần thiết đối với đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp. Cá biệt có trường hợp cũng cần phải đào tạo chuyên sâu, đào tạo sau bậc đại học.
- Ngoài chương trình đào tạo tại trường, cũng nên tạo điều kiện để cho cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp tham gia các khoá bồi dưỡng ngắn ngày, các lớp tập huấn nâng cao, các hội thảo chuyên đề trong và ngoài nước, nhất là các khoá bồi dưỡng, tập huấn với sự có mặt của các chuyên gia nổi tiếng, nội dung tập huấn liên quan trực tiếp đến ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp. Cần phối, kết hợp với Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam, Trường Dạy nghề tỉnh Quảng Nam cũng như Trường Đại học Đà Nẵng để thực hiện các chỉ tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực dưới hình thức như là đặt hàng để sử dụng hợp lý sinh viên, học viên sau khi đào tạo.
- Từ những kiến thức mang tính lý luận được trang bị thông qua đào tạo tại trường, doanh nghiệp có kế hoạch để đối tượng được đào tạo tham gia các chương trình thực hành, tập sự những công việc liên quan đến lý luận được tiếp cận, đồng thời phải thực hiện chính sách luân chuyển cán bộ trong hệ thống các Công ty, Xí nghiệp thành viên, các Ban, Phòng của Công ty để học hỏi trao đổi kinh nghiệm, để khi được phân công phụ trách có thể thành thạo ngay với công việc được giao.
- Có chính sách đãi ngộ cho những đối tượng được đào tạo như là: được hưởng đủ các khoản thu nhập trong thời gian đào tạo, được hỗ trợ 100% học phí theo qui định của trường, hỗ trợ thanh toán chi phí in ấn, tài liệu và được hưởng các chế độ khen thưởng, phúc lợi khác trong thời gian học tập như là thời gian làm việc tại doanh nghiệp.
- Có cơ chế, chính sách khuyến khích thu hút nhân tài như là: Các chuyên gia tư vấn kỹ thuật giỏi về ngành nghề, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh, các em sinh viên vừa mới tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần cầu tiến, cần vận động để được tiếp đón họ vào làm việc với doanh nghiệp, đặc biệt là đối với những nhân tài có trình độ ứng dụng nhanh các thành tựu tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ vào quá trình phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trước hết là phải bảo đảm được thu nhập đủ để tiêu dùng cá nhân, ổn định chỗ ở và thuận tiện cho việc đi lại.
3.2.6. Hoạt động kinh doanh phải gắn với nâng cao đời sống, ổn định việc làm đối với người lao động, phải gìn giữ, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như tham gia các vấn đề xã hội vì lợi ích cộng đồng
- Tăng trưởng kinh tế hoặc tối đa hoá lợi nhuận chỉ có thể đáp ứng được mục tiêu kinh tế thuần tuý của doanh nghiệp nhưng chưa thể được xem là phát triển kinh tế bền vững một khi việc làm và đời sống của người lao động không được ổn định, không được từng bước cải thiện và nâng cao; một khi môi trường sinh thái ngày càng bị huỷ hoại không được gìn giữ, bảo vệ và các mục tiêu xã hội vì lợi ích cộng đồng không được hệ thống các doanh nghiệp nhà nước quan tâm. Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX cũng đã đề cập cụ thể trong phương hướng nhiệm vụ và các giải pháp chủ yếu đến năm 2010 rằng: Tích cực giải quyết việc làm, cải thiện đời sống...và giải quyết tốt các vấn đề xã hội [20, tr.54]. Cũng có nghĩa lãnh đạo tỉnh Quảng Nam luôn đặt mục tiêu chính trị, xã hội và môi trường song cùng với mục tiêu phát triển kinh tế nên doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam với tư cách là bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước thì càng phải tăng cường trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh gắn với mục tiêu chính trị, xã hội và môi trường cụ thể là:
- Phải trên cơ sở định hướng các mục tiêu của chiến lược kinh doanh, doanh nghiệp bảo đảm giải quyết ổn định việc làm đối với người lao động, thông qua các biện pháp giữ vững các thị trường tiềm năng về sản phẩm của doanh nghiệp đòi hỏi sử dụng nhiều lao động phổ thông và lao động kỹ thuật, đồng thời phải năng động mở rộng các hoạt động kinh doanh theo hướng đa ngành nghề để bố trí, giải quyết việc làm ổn định đối với lao động sau khi đã được đào tạo lại phù hợp với điều kiện công việc mới. Phải xem việc làm là sự gắn bó của người lao động với doanh nghiệp, thông qua việc làm, người lao động góp phần tạo ra sản phẩm, hàng hoá, phục vụ nhu cầu tiêu dùng tạo ra giá trị tăng thêm cho xã hội. Đối với doanh nghiệp nhà nước vấn đề đảm bảo ổn định việc làm cho người lao động cũng chính là trách nhiệm xã hội của bản thân doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Từ kết quả của việc làm ổn định người lao động đã tiêu hao những năng lượng cần thiết vào sự tăng trưởng của doanh nghiệp với mong muốn được nhận lại những giá trị vật chất dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng và các khoản trợ cấp khác (gọi chung là thu nhập) nhằm tái tạo sức lao động cho bản thân và tiêu dùng cho gia đình người lao động. Trách nhiệm của doanh nghiệp phải từ kết quả hoạt động kinh doanh mà từng bước cải thiện, nâng cao đời sống của người lao động trong doanh nghiệp mình thông qua thực hiện hợp lý, công bằng quá trình phân phối thu nhập. Do nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển nên giá sinh hoạt và tiêu dùng ngày càng tăng nên doanh nghiệp cần chú ý đến phân phối thu nhập phải tương ứng với mức sống trung bình của người lao động, tất nhiên là phải từ kết quả hoạt động kinh doanh và mức đóng góp của người lao động. Ngoài ra, người lao động cũng cần được tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao và nghỉ ngơi trong điều kiện hợp lý với cái gọi là đời sống tinh thần. Bên cạnh đó, các chế độ về bảo hiểm, các chính sách về trợ cấp mất việc làm đối với người lao động phải được doanh nghiệp thực hiện công khai, minh bạch tạo niềm tin để người lao động an tâm làm việc. Doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam thực hiện tốt việc làm này cũng có nghĩa rằng đã đóng góp một phần vào phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006-2010 về “Chăm lo phát triển toàn diện con người”
- Phải tăng cường trách nhiệm gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vì đó là một trong những tiêu chí để đánh giá công nhận sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Đảng và Nhà nước ta đặt nặng vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng chính là uỷ thác cho doanh nghiệp nhà nước một nhiệm vụ cực kì quan trọng là kinh doanh có hiệu quả nhưng phải gắn với các biện pháp ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường. Do vậy, các dự án đầu tư của doanh nghiệp đều phải gắn với kết quả báo cáo tác động môi trường được thẩm định của ngành tài nguyên môi trường trước khi triển khai thực hiện. Phải đảm bảo các điều kiện làm việc cho người lao động trong trường hợp lao động bởi môi trường có ảnh hưởng đến độc hại, kể cả nơi làm việc phải đảm bảo các tiêu chuẩn thông gió, chiếu sáng. Tránh tuyệt đối và ngăn ngừa có kiểm soát tình trạng ô nhiễm gây bệnh tật đối với người lao động và dân cư trong vùng dự án. Cần quán triệt sâu rộng mọi thành viên trong doanh nghiệp từ cán bộ quản lý đến người lao động luôn nêu cao ý thức thực hiện nghiêm luật bảo vệ môi trường, phải gìn giữ, bảo vệ để môi trường luôn được xanh - sạch - đẹp. Làm được điều này cũng có nghĩa rằng doanh nghiệp đã đạt được hiệu quả về môi trường trong hoạt động kinh doanh.
- Một vấn đề không kém phần quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam là tham gia hưởng ứng các mục tiêu xã hội vì lợi ích cộng đồng như là: Các biện pháp xoá đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, xoá nhà tạm, hỗ trợ chương trình trẻ em nghèo vượt khó, chương trình mang lại nụ cười và ánh sáng cho người khuyết tật, chương trình khuyến học, chương trình ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng,.v.v...Tất cả các chương trình này đều mang tính chất lợi ích cộng đồng từ mục tiêu xã hội mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm gánh vác. Thực hiện tốt công việc này, doanh nghiệp sẽ được xã hội biết đến như là một thương hiệu thuộc tài sản vô hình và đương nhiên là sẽ thuận lợi hơn trong đời sống xã hội đối với các mối quan hệ, có nhiều cơ hội mang lại hiệu quả kinh doanh gấp bội lần cho doanh nghiệp.
3.2.7. Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, năng lực quản lý điều hành của Giám đốc và hoạt động trợ giúp của các đoàn thể trong doanh nghiệp nhà nước
- Đây là giải pháp mang tính chất sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống được cấu thành trong bộ máy quản lý và điều hành của doanh nghiệp nhà nước, thể hiện vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, được đúc kết từ thực tiễn tại một số doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2001-2005 và hiện nay đang được xem như là những bài học kinh nghiệm rất cần thiết, cụ thể là:
+ Đối với tổ chức cơ sở Đảng
- Tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được qui định tại Qui định 96/QĐTW ngày 22/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong đó cấp uỷ Đảng phải chịu trách nhiệm về công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với cán bộ đảng viên và người lao động, trực tiếp quản lý công tác tổ chức cán bộ, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của doanh nghiệp thông qua việc định hướng kế hoạch hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời phải duy trì đều đặn sinh hoạt định kì của các chi bộ nhằm nâng cao sức chiến đấu của đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng.
- Phải xây dựng thống nhất qui chế làm việc giữa cấp uỷ Đảng với Giám đốc doanh nghiệp. Thực hiện chế độ giao ban hàng tháng, hàng quí giữa giám đốc và tập thể Ban thường vụ Đảng uỷ hoặc Chi uỷ để thảo luận và quyết nghị kế hoạch công tác theo các mục tiêu ngắn hạn đã đề ra.
- Thông qua qui chế kiểm tra của cấp uỷ, tăng cường các biện pháp giám sát quá trình quản trị điều hành các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, kiểm tra kết quả thực hiện Điều lệ Đảng và 4 nhiệm vụ của người đảng viên, ngăn chặn, giáo dục kịp thời các hiện tượng tiêu cực xã hội có thể nảy sinh do mặt trái của cơ chế thị trường, thể hiện sự mẫu mực và tính toàn diện với tư cách là vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
- Để công tác chỉ đạo, điều hành được tập trung, Bí thư cấp uỷ trong doanh nghiệp nhà nước nên đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc là Giám đốc Công ty nếu doanh nghiệp nhà nước không có Hội đồng quản trị.
- Lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội xây dựng tổ chức vững mạnh, thực hiện chức năng nhiệm vụ đúng luật định, phát huy quyền làm chủ của mọi thành viên tham gia quản lý doanh nghiệp góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của doanh nghiệp nhà nước.
+ Đối với năng lực quản lý, điều hành của Giám đốc doanh nghiệp:
- Nâng cao vai trò trách nhiệm của Giám đốc doanh nghiệp nhà nước trong quản lý điều hành các hoạt động của doanh nghiệp theo hướng: năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám quyết định và dám chịu trách nhiệm trước pháp luật và người lao động về kết quả lỗ lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh.
- Xác lập cơ chế bổ nhiệm, bãi nhiệm Giám đốc doanh nghiệp nhà nước một cách thực chất và hiện hữu. Nghĩa là cần xem Giám đốc là một nghề và do vậy đã là Giám đốc thì phải được đào tạo và thi tuyển. Sự tồn tại của Giám đốc trong một doanh nghiệp phải căn cứ vào hiệu quả do quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Không nên chấp nhận tình trạng đã là Giám đốc thì cứ yên vị cho đến tuổi về hưu nếu không vấp phải những sai phạm pháp luật, mặc dù doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, cứ thua lỗ kéo dài.
- Phải đặt sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhà nước với sự ổn định việc làm và nâng cao đời sống của người lao động, cùng các mục tiêu xã hội và môi trường sinh thái thông qua năng lực quản lý và điều hành của Giám đốc doanh nghiệp và phải có cơ chế về thu nhập cho Giám đốc doanh nghiệp tương xứng với hiệu quả kinh doanh mang lại, nhằm kích thích những quyết định đúng đắn, năng động, sáng tạo và để mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, nhưng đồng thời phải xử lý nghiêm khắc đối với những Giám đốc quá liều lĩnh, thiếu trách nhiệm đẩy doanh nghiệp rơi vào tình trạng khủng hoảng, kém hiệu quả.
+ Đối với sự trợ giúp của các đoàn thể
- Phát huy vai trò thủ lĩnh của Chủ tịch Công đoàn và Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong doanh nghiệp nhà nước ở tỉnh Quảng Nam đối với nhiệm vụ đoàn kết tập hợp mọi nguồn lực trong đoàn viên thanh niên và đoàn viên công đoàn tham gia hưởng ứng tích cực và có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước với tinh thần trách nhiệm là thành viên doanh nghiệp.
- Tham gia quản lý và giám sát các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước trên tinh thần xây dựng dân chủ nhằm phối hợp, thực hiện và hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp giữ vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp đối với người lao động.
- Thực hiện chức năng trợ giúp cho cấp uỷ Đảng và Giám đốc doanh nghiệp huy động sử dụng có hiện quả mọi nguồn lực từ các phong trào hành động Cách mạng, thông qua đó mà phát hiện những nhân tố mới tiếp tục giáo dục rèn luyện để đào tạo, bổ sung cho tổ chức cơ sở Đảng và doanh nghiệp nhà nước nguồn nhân lực mới mang yếu tố nội tại để thực hiện nhiệm vụ kế thừa.
- Giải pháp này thực hiện được sẽ giúp cho doanh nghiệp xây dựng được bầu không khí tập thể đoàn kết thống nhất tạo nên sức mạnh cả về tư tưởng đến hành động và do vậy mọi khó khăn trở ngại trong kinh doanh sẽ từng bước được tháo gỡ và hẳn nhiên sẽ mang lại cho doanh nghiệp nhiều hiệu quả.
Kết luận chương 3
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam trong những năm qua và hiện tại vẫn còn nhiều khó khăn, qui mô còn nhỏ, năng lực cạnh tranh thấp, kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân của sự tồn tại này là do thiếu những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2006 - 2010 và những năm tiếp theo đã được Đại hội tỉnh Đảng bộ Quảng Nam lần thứ XIX thông qua, đặc biệt là đẩy mạnh quá trình đầu tư cơ sở hạ tầng khu kinh tế mở Chu Lai, khu thương mại tự do và phấn đấu đến năm 2020 Quảng Nam trở thành tỉnh Công nghiệp, đồng thời với sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới sẽ tạo ra những điều kiện cạnh tranh mới mang tính chất toàn cầu, đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam phải tập trung hơn nữa mọi nổ lực vươn lên để tự khẳng định và tồn tại.
Với những giải pháp nêu trên, nếu thực hiện được đồng bộ, hy vọng sẽ giúp cho doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam phát huy được nhiều lợi thế, đón bắt được cơ hội và tạo được nhiều hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Kết luận
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định "Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước" trên cơ sở đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa và cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đồng thời tạo điều kiện về hành lang pháp lý cũng như môi trường kinh doanh để doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh, tồn tại và phát triển.
Đối với doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn 2001-2005 hầu hết là qui mô vừa và nhỏ, phạm vi hoạt động còn giới hạn, cơ cấu ngành nghề còn chồng chéo, phân tán, không thể hiện được vai trò mở đường, dẫn dắt cho các loại hình kinh tế khác, cơ sở vật chất, phương tiện và điều kiện phục vụ sản xuất kinh doanh chưa được đầu tư tương xứng, công nghệ thiết bị quá cũ kỹ, lạc hậu, không đảm bảo năng lực cạnh tranh, dẫn đến hiệu quả kinh doanh còn thấp kém.
Để có thể thực hiện được vai trò là lực lượng kinh tế nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, bảo đảm cho kinh tế địa phương những cân đối cơ bản, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của kinh tế tỉnh nhà, doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp nêu ở chương 3 trên cơ sở định hướng phát triển doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX. Hy vọng sẽ tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc, tạo ra được năng lực cạnh tranh mới, hội đủ điều kiện để tham gia vào quá trình hội nhập của nền kinh tế và nâng cao được hiệu quả kinh doanh.
NHữNG CÔNG TRìNH KHOA HọC CủA TáC GIả liên quan đến đề tài
1. Ngô Đức Trung (1998), "Một số vấn đề về quản lý nhằm củng cố và phát triển doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam - Đà Nẵng". Sách nghiên cứu “Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong qúa trình đổi mới”, Tạp chí sinh hoạt lý luận, Phân viện Đà Nẵng.
2. Ngô Đức Trung (12/2006), "Đào tạo nguồn nhân lực - một trong những giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam", Tạp chí sinh hoạt lý luận, Phân viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực 3.
3. Ngô Đức Trung (2007), "Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam với vấn đề giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động", Tạp chí sinh hoạt lý luận, Phân viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khu vực 3, (số 01).
4. Ngô Đức Trung (2007), "Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam", Tạp chí Đà Nẵng ngày nay, (số 01).
5. Ngô Đức Trung (01/2007), "Mối quan hệ giữa Ngân hàng và doanh nghiệp - một yếu tố cần thiết trong kinh doanh", Chuyên san Tạp chí Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban đổi mới & phát triển doanh nghiệp tỉnh Quảng Nam, Tổng hợp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn năm 2001,2002,2003,2004,2005, Quảng Nam.
2. Ban đổi mới & phát triển doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, Tổng hợp báo cáo tài chính doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, Quảng Nam.
3. Ban đổi mới & phát triển doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, Báo cáo tổng hợp tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhà nước năm 2001,2002,2003,2004,2005.
4. Bộ Tài chính (2005), Hướng dẫn một số điều tại Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác, Thông tư 33/2005/TT-BTC, Hà Nội.
5. PGS-TS Nguyễn Cúc, PGS-TS Kim Văn Chính (2006), Sở hữu nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
6. Chính phủ (1996), chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, Nghị định số 50/CP, Hà Nội.
7. Chính phủ (2001), Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Nghị định 63/2001/NĐ-CP, Hà Nội.
8. Chính phủ (1999), Sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 59/CPngày 03/10/1996 của Chính phủ, Nghị định 27/1999/NĐ-CP, Hà Nội.
9. Chính phủ (1996), Ban hành quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước, Nghị định 59/CP, Hà Nội.
10. Chính phủ (2004), Ban hành qui chế quản lý tài chính của Công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác, Nghị định 199/2004/NĐ-CP, Hà Nội.
11. Công ty Xây dựng & Cấp thoát nước Quảng Nam, Báo cáo Tài chính Công ty Xây dựng & Cấp thoát nước Quảng Nam các năm 2001,2002,2003,2004,2005, Quảng Nam.
12. Cục Thống kê tỉnh Quảng Nam, Niên giám thống kê Quảng Nam các năm 2001,2002,2003,2004,2005 và tư liệu, Quảng Nam.
13. TS Trần Thái Dương (2004), Chức năng kinh tế của nhà nước- lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công An Nhân dân, Hà Nội.
14. Đảng cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Đảng cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết hội nghị lần thứ III Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng bộ tỉnh Quảng Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XIX, Quảng Nam.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội Nghị lần thứ 2 ban chấp hành Trung ương Khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các doanh nghiệp nhà nước, Quy định số 96- QĐ/TW, Hà Nội
23. Phạm Minh Hạc (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá - những điều cần khắc phục, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
24. PGS.TS Lê Hồng Hạnh (2002), Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. PGS.PTS Nguyễn Đình Kháng và PTS Vũ Văn Phúc (1999), Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. Luật Doanh nghiệp nhà nước (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Luật Doanh nghiệp nhà nước (2004), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. PGS.TS Ngô Quang Minh (chủ biên) (2001), Kinh tế nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. GS.TS Lê Hữu Nghĩa, TS Đinh Văn Ân (đồng chủ biên) (2004), Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam, lý luận và thực tiễn (kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. TS Nguyễn Huy Oánh (2004), Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh với xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
31. TS Chu Tiến Quang (2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn – thực trạng & giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Báo cáo thực hiện kế hoạch dạy nghề 2001 - 2005 và dự kiến kế hoạch 2006 - 2010.
33. Sở Tài chính Quảng Nam, Tổng hợp, phân tích, báo cáo tình hình tài chính doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005.
34. PGS-TS Lê Văn Tâm, TS Ngô Kim Thành (2004), Giáo trình Quản trị doanh nghiệp, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
35. TS Nguyễn Thế Thắng (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học, Nxb Lao động, Hà Nội.
36. Thủ tướng Chính phủ (1998), Đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước, Chỉ thị 20/1998/CT-TTg, Hà Nội.
37. Thủ tướng Chính phủ (2002), Ban hành tiêu chí, danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước và Tổng Công ty nhà nước, Quyết định số 58/2002/QĐ-TTg, Hà Nội.
38. Thủ tướng Chính phủ (2003), Phê duyệt phương án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Nam đến năm 2005, Quyết định số 72/2003/QĐ-TTg, Hà Nội.
39. GS.TS Nguyễn Văn Thưởng (2004), Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.
40. Trung tâm đào tạo Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng (1999), Quản Lý Chất Lượng- những vấn đề cơ bản, Hà Nội.
41. Nguyễn Ngọc Tuân (2002), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới phát triển kinh tế ở nước ta, Nxb Khoa học xã hội, chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
42. PGS.TS Trần Văn Tùng (2004), Cạnh tranh kinh tế, Nxb Thế giới, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2480.doc