Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty vận tải số 3

Lời nói đầu Làm thế nào để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh luôn là vấn đề đặt ra cho mọi nhà quản lý cả về lý luận lẫn thực tiễn. Không một nhà kinh doanh nào lại muốn mình tồn tại trong tình trạng thua lỗ, để một mai bị phá sản. Để tránh khỏi tình trạng thua lỗ, và thu được nhiều lợi nhuận trong kinh doanh, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải thường xuyên tiến hành phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh ,tức là phải xem xét đánh giá, phân tích rõ ràng các kết quả đạt được nhằm tìm ra các ngu

doc56 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty vận tải số 3, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yên nhân ánh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó có những biện pháp hữu hiệu để điều chỉnh kịp thời, và lựa chọn đưa ra quyết định tối ưu nhất nhằm đạt được mục tiêu mong muốn. Nhận thức rõ được tầm quan trọng và vai trò quyết định của việc phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với sợ tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong thời gian thực tập tại Công ty vận tải Ô tô số 3 tôi quyết định chọn đề tài “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty vận tảI số 3” làm luận văn tốt nghiệp. Bố cục luận văn gồm 3 chương: Chương I: Giới thiệu chung về Công ty vận tải Ô tô số 3. Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty vận tải Ô tô số 3. Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty vận tải Ô tô số 3. Chương 1 Giới thiệu chung về Công ty vận tải Ô tô số 3 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty. Để tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của ngành Giao thông vận thải nói chung, vận tải ô tô nói riêng và để thực hiện kế hoạch vận chuyển hàng hóa, cung cấp phục vụ nhu cầu của đồng bào dân tộc miền núi các tỉnh Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La), tháng 3 năm 1983 Bộ Giao thông vận tải đã ban hành quyết định số 531/QĐ - BGTVT thành lập Xí nghiệp vận tải ô tô số 3. Xí nghiệp này mới được hình thành trên cơ sở sát nhập 3 xí nghiệp đã tồn tại từ trước: Xí nghiệp vận tải hàng hóa số 20 Xí nghiệp vận tải hàng hóa số 2 Xí nghiệp vận tải hàng hóa quá cảnh C1. Qua nhiều năm hoạt động vận tải hàng hóa, Xí nghiệp đã hoàn thành những nhiệm vụ và mục tiêu được giao một cách xuất sắc. Vào năm 1993, khi nền kinh tế nước ta đã chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, chấm dứt thời kỳ bao cấp. Và để theo kịp bước chuyển của nền kinh tế, Xí nghiệp đã đổi tên thành Công ty vận tải Ô tô số 3. Công ty vận tải Ô tô số 3 là một doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, có tài sản riêng, hạch toán kinh tế độc lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp hiện hành. Trụ sở chính của Công ty đặt tại số 1 Cảm Hội - Phường Đông Mác, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Do những kết quả trong nhiều năm hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty đã được Đảng, Nhà nước và các cơ quan cấp trên tặng thưởng nhiều huân, huy chương và bằng khen....Một số tập thể, cán bộ công nhân viên được phong tặng danh hiệu anh hùng. Ngoài ra Công ty còn được chọn làm mô hình thí điểm cho các chính sách mới của Đảng và Nhà nước về kinh tế như: Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đổi mới khoa học công nghệ, cải cách cơ cấu quản lý,... 2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty: Mặt hàng kinh doanh chủ yéu của Công ty vận tải ô tô số 3 là cung cấp dịch vụ vận tải và kinh doanh xuất nhập khẩu. Đối với dịch vụ vận tải: Công ty chú trọng vào những tuyến đường như: Hà Nội đi các tỉnh tây bắc và các tỉnh lân cận, thực hiện vận chuyển hàng hoá cuang cấp và phục vụ nhu cầu của đồng bào dân tộc miền núi như; Lai châu, Sơn la… ngoài ra còn ký kết hợp đồng vận chuyển hàng hoá với các nước bạn trong khu vực như nước cộng hoà Dân Chủ nhân dân Lào, Vương quốc Cam Phu Chia, và Trung Quốc. Bên cạnh việc vận chuyển hàng hoá Công ty còn mở thêm các xưởng bảo dưỡng - Sữa chữa khôi phục các phương tiện giao thông vận tải . Những mặt hàng mà Công ty chủ yếu vận chuyển tuyến Tây Bắc là Than , Phân bón, Xi măng, sắt thép ,thực phẩm… và khách hàng chủ yếu của Công ty là Công ty Xi măng Bỉm Sơn, Công ty phân lân Văn Điểm, Tổng Công ty than Việt Nam , và các Công ty Lâm Sản Lai Châu, Sơn la, Điện Biên … Đối với kinh doanh xuất nhập khẩu :Công ty chú trọng vào việc xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống như: Mây Tre đan, thủ công Mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng và một số mặt hàng Lâm Sản như: Cà Phê,Lạc, Gạo…còn đối với mặt hàng nhập khẩu thì Công ty chủ yếu vào nhập khẩu một số mặt hàng như máy móc, thiết bị vận tải và xăng dầu. Đây là những mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty vận tải Ô tô số 3. Mô hình tổ chức quản lý của Công ty được phản ánh qua sơ đồ dưới đây Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty. Ban giám đốc Đảng uỷ Công đoàn Phòng tổ chức lao động Phòng kế toán tài chính Phòng kỹ thuật Phòng KCS Phòng cung ứng DV nhiên liệu Phòng hành chính quản trị Phòng xuất nhập khẩu Đội xe 302 Đội xe 304 Đội xe 306 Đội xe 308 Đội xe 310 Đội xe 312 Đội xe 314 Xưởng BC SC số 1 Xưởng BC SC số 2 Phân xưởng lắp ráp xe máy Hệ thống trạm, bãi đỗ xe trên tuyến a. Ban giám đốc: - Một giám đốc phụ trách chung. - Một phó giám đốc phụ trách kinh tế (PGĐ kinh doanh). - Một phó giám đốc phụ trách kỹ thuật (PGĐ kỹ thuật). Ban giám đốc có nhiệm vụ điều hành, lãnh đạo, kiểm tra, đánh giá mọi hoạt động của Công ty. Từ đó đề ra những kế hoạch cho kỳ kinh doanh tiếp cũng như các biện pháp để thực hiện mục tiêu. Giám đốc là người trực tiếp chịu trách nhiệm với cấp trên và Nhà nước về mọi quyết định của mình. Hai phó giám đốc và trưởng phòng có nhiệm vụ giúp việc cho giám đốc. Ngoài ra bên cạnh đó còn có Đảng ủy và công đoàn làm tham mưu cho giám đốc. b.Các phòng ban. - Phòng tổ chức lao động. + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế - hành chính. Phòng tổ chức lao động là tham ưu cho Đảng ủy, giám đốc trong việc tổ chức xây dựng bộ máy quản lý Công ty, quản lý nhân sự, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho công nhân viên, lập kế hoạch và quản lý quỹ lương, thưởng, làm thủ tục đóng và chi trả BHXH, giải quyết BHLĐ, an toàn giao thông cho phù hợp với chính sách, chế độ Nhà nước và đặc điểm của Công ty. Phòng tổ chức lao động đặt trực tiếp dưới sự chỉ đạo của giám đốc Công ty. - Phòng kế toán tài chính. + Chức năng: Phòng có chức năng phản ánh và giám sát tất cả các hoạt động kinh tế trong toàn Công ty, là một phòng giữ vị trí quan trọng trong việc điều hành, quản lý kinh tế, thông tin kinh tế trên mọi lĩnh vực kinh doanh vận tải, xuất nhập khẩu và các dịch vụ khác. Phục vụ trực tiếp cho lãnh đạo Công ty điều hành chỉ đạo sản xuất. Phòng có chức năng kiểm tra việc thực hiện, sử dụng vật tư tài sản tiền vốn đưa vào sản xuất phải đảm bảo đúng chế độ Nhà nước mang lại hiệu quả, đảm bảo phát triển được nguồn vốn Nhà nước giao. - Phòng kỹ thuật. + Chức năng: Trong quản lý kỹ thuật, kinh tế phòng kỹ thuật làm tham mưu cho giám đốc Công ty với công tác quản lý phương tiện, quản lý khoa học - công nghệ, thiết bị cơ điện, bảo dưỡng sửa chữa xe máy. Duy trì và phát triển trình độ kỹ thuật từ phòng đến các đội xe về nghiệp vụ và đổi mới phương tiện kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh ngày càng một tăng. - Phòng KCS (Kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng). + Chức năng: Phòng có chức năng kiểm tra chất lượng của sản xuất vận tải, chất lượng của phương tiện vận tải. Nhắm đảm bảo các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty được thực hiện đúng kế hoạch và đạt chất lượng. - Phòng cung ứng dịch vụ, nhiên liệu. + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế phòng làm tham mưu cho ban giám đốc trong việc mua, bán, dịch vụ vật tư phục vụ cho sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời làm dịch vụ vật tư - nhiên liệu cho thị trường. Phòng là đơn vị dự toán tự trang trải như: Chi trả lương hàng tháng cho cán bộ công nhân viên trong phòng và các tài khoản chi phí khác có liên quan. - Phòng kinh doanh nhập khẩu. + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế và kinh doanh thương mại phòng kinh doanh xuất nhập khẩu làm tham mưu cho ban giám đốc Công ty trong việc kinh doanh xuất nhập khẩu cho ngành giao thông vận tải. - Phòng hành chính quản trị. + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý hành chính - y tế phòng hành chính là phòng làm tham mưu cho giám đốc trong việc quản lý nhà cửa, đất đai, hộ khẩu, sức khỏe và các tài sản khác phục vụ sinh hoạt, đời sống cán bộ công nhân viên chức. - Đội xe (có 7 đội) + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế, đội xe là đơn vị sản xuất trực tiếp của Công ty. Chịu trách nhiệm trước giám đốc về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị theo quy chế của Công ty và luật pháp của Nhà nước. - Xưởng bảo dưỡng - sửa chữa (2 xưởng). + Chức năng: Trong lĩnh vực quản lý kinh tế - kỹ thuật xưởng bảo dưỡng, sửa chữa là đơn vị sản xuất và dịch vụ của Công ty, xưởng bảo dưỡng, sửa chữa chịu trách nhiệm trước giám đốc về công tác bảo dưỡng sửa chữa nhằm duy trì tính năng, kỹ thuật của xe. Góp phần nâng cao chất lượng của xe, hoàn thành kế hoạch vận tải. Xưởng bảo dưỡng, sửa chữa là đơn vị tự hạch toán nội bộ lấy thu bù chi. Với cơ cấu tổ chức như trên thì giám đốc là người điều hành, lãnh đạo mọi hoạt động của Công ty. Công ty thực hiện mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước. Trên cơ sở đó thực hiện quyền làm chủ của người lao động, nhằm giải quyết đúng mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa người lao động với tập thể dưới sự giúp đỡ của tổ chức Công đoàn. 4. Các yếu tố nguồn lực của Công ty vận tải ô tô số 3. 4.1. Tình hình vốn kinh doanh của Công ty. Theo cơ chế quản lý ở nước ta khi các doanh nghiệp Nhà nước được thành lập thì đều được Nhà nước cấp vốn để hoạt động. Mức độ cấp vốn phụ thuộc vào qui mô, tầm quan trọng của doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân. Đối với Công ty vận tải ô tô số 3 tổng số vốn Nhà nước cấp là 3.432.418.000đ (vào ngày 30 tháng 03 năm 1991). Tổng số vốn đó có cơ cấu như sau: + Vốn ngân sách cấp: 806.229.000đ. + Vốn bổ sung: 2.671.198.000đ. Qua 10 năm hoạt động kể từ khi nhận vốn Nhà nước giao, tổng số vốn của Công ty luôn được bảo toàn và phát triển với mức tăng trưởng khá vì thế đến nay đã gấp khoảng 7 lần vốn cấp ban đầu. Tính đến tháng 12 năm 2000, cơ cấu vốn kinh doanh của Công ty đã thay đổi hẳn: Tổng số vốn: 21.150.955.000đ. Vốn ngân sách Nhà nước cấp: 4.764.636.000đ. Vốn tự bổ sung: 16.386.319.000đ. 4.2. Tình hình về lao động của Công ty. Về lực lượng lao động của Công ty đa phần đều có trình độ chuyên môn liên quan đến chuyên ngành vận tải ô tô. Hầu hết các lái xe đều được đào tạo chính qui, qua các trường đào tạo của Bộ Giao Thông, Bộ Quốc Phòng,... Số cán bộ công nhân viên tốt nghiệp đại học, trung cấp giao thông theo các chuyên ngành cơ khí ô tô, kinh tế vận tải chiếm một tỷ lệ khá cao, trong tổng số cán bộ công nhân viên chức của Công ty. Hiện nay Công ty vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng lao động, vấn đề dư thừa lao động trong Công ty do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là do chuyên môn của một số nhân viên không phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh hiện nay vì số lao động này đã được đào tạo khá lâu từ thời bao cấp trong thời gian này lực lượng lao động của Công ty đã được đào tạo khá nhiều vì vậy đã không sử dụng hết. Vấn đề lao động, việc làm đời sống và chính sách xã hội luôn làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi phải giải quyết từng bước. Vì thế, công tác tổ chức lao động luôn phải đi trước một bước trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. - Trong năm 2000 Công ty đã thuyên giảm được 16 người và đã có nhiều thay đổi trong bố trí lao động, số lao động hiện nay là 412 người. 4.3. Điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật của Công ty. Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì cơ sở vật chất - kỹ thuật luôn có ảnh hưởng vô cùng quan trọng. Nó là một nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công ty vận tải ô tô số 3 là một trong những doanh nghiệp có chức năng vận tải hàng hóa, nhưng cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty hiện nay có thể nói là chưa hiện đại và đồng bộ. Khả năng thực tế chung của ngành vận tải nước ta hiện nay chưa đáp ứng kịp thời với sợ phát triển chung của xã hội mà mới chỉ dừng ở mức đáp ứng về cơ bản những nhu cầu cần thiết phục vụ cho ngành. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty được đánh giá cụ thể hơn qua những chi tiết dưới đây. - Phương tiện vận tải. Trong những năm trước đây, phương tiện vận tải của Công ty chủ yếu là do Liên Xô (cũ) chế tạo, trong đó phổ biến là các loại xe ô tô Zill 30, Kamaz ngoài ra còn có xe giải phóng của Trung Quốc. Với các loại xe này Công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong những năm trước đây - khi Nhà nước tăng giá xăng (thời kỳ chiến tranh vùng Vịnh). Đứng trước tình hình ấy, ban lãnh đạo Công ty đã quyết định cải tạo đoàn xe: Đối với xe Zill 30 khi chưa có điều kiện thay thế xe khác thì có thể thay động cơ Diezel. Biện pháp này làm giảm được chi phí tăng sức vận tải, giá thành vận chuyển giảm. Hiện nay Công ty đã chú trọng đầu tư mua sắm nhiều loại xe mới, mở rộng các phương án liên doanh vận tải sửa chữa: Các phương án liên doanh của Công ty được thực hiện theo những hình thức chủ yếu dưới đây: - Hình thức góp vốn 100% của bên liên doanh (lái xe). Theo hình thức này Công ty có trách nhiệm cung cấp giấy tờ hợp lệ để xe có thể hoạt động và nếu có điều kiện thì Công ty còn cung cấp hàng hóa. Ngược lại bên liên doanh (lái xe) phải trả cho Công ty một khoản phí nhất định theo thỏa thuận giữa 2 bên. - Hình thức cùng góp vốn. Bên góp vốn có thể góp theo khả năng tài chính của mình còn lại Công ty sẽ chịu trách nhiệm đóng góp. Mọi sự phân chia về quyền lợi và trách nhiệm liên quan đều được thỏa thuận trong hợp đồng giữa hai bên. Bảng 1: Số lượng xe hiện nay do Công ty quản lý. Chủng loại xe Nước chế tạo Năm 1999 Năm 2000 Số lượng (chiếc) Tổng trọng tải (tấn) Số lượng (chiếc) Tổng trọng tải (tấn) Hinô Nhật 5 35 6 42 ChengLong Trung Quốc 12 72 15 90 Kamaz Nga 10 60 10 60 IFAW50L Đức 55 275 50 250 Zill 130 (động cơ Diezl) Nga 102 612 93 558 Tổng số 184 1054 171 1000 Nguồn: Báo cuối năm 1999 - 2000 của phòng kỹ thuật. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà số lượng xe của năm 2000 giảm so với năm 1999 với tỷ lệ giảm là 7,6%, một trong những nguyên nhân cơ bản là do một số loại xe của Nga và của Đức không còn phù hợp với điều kiện hiện nay do xe có trọng tải không phù hợp, được sử dụng đã lâu, tiêu tốn nhiều nguyên liệu. Tuy số lượng xe năm 2000 có giảm hơn so với năm 1999 nhưng hiệu quả kinh doanh của năm 2000 vẫn cao hơn năm 1999 nguyên nhân đó là do Công ty đã nhập nhiều xe của Nhật Bản và Trung Quốc hơn năm 1999 loại xe này phù hợp hơn có hiệu quả hơn so với loại xe của Nga vì có trọng tải phù hợp hơn... - Xưởng bảo dưỡng - sửa chữa và cơ sở sản xuất công nghiệp. Hiện nay Công ty có 2 xưởng bảo dưỡng - sửa chữa, 1 xưởng lắp ráp xe máy. - Xưởng bảo dưỡng - sửa chữa số 1: Nằm theo tuyến quốc lộ 6 (Hà Nội - Tây Bắc) thuộc địa phận Chương Mỹ, Hà Tây. Đây là xưởng có vai trò quan trọng trong chiến lược trọng tâm của Công ty. Xưởng có 50 cán bộ công nhân viên với cơ sở vật chất kỹ thuật cao (mới đi vào hoạt động tháng 11 năm 1997) có mặt bằng sử dụng 20.000m2 có ga ra, nhà kho và văn phòng giao dịch. - Xưởng bảo dưỡng- sửa chữa số 2: Tại xã Hoàng Liện, Thị trấn Văn Điển, đây là một mô hình mới về cách quản lý, qui mô của xưởng số 2 cũng tương đương với xưởng số 1. - Phân xưởng lắp ráp xe máy: Dây chuyền lắp ráp được đặt tại khu vực Nhật Tân, Quận Tây Hồ, Thành phố Hà Nội. Dây chuyền được nhập từ Thái Lan, với quy trình lắp ráp khá hiện đại, đội ngũ công nhân có tay nghề cao. Các loại xe được lắp ráp tại đây như Honda, Suzuki, Yamaha, Kawasaki. - Trị sở giao dịch và các trạm điều độ, các trạm vận tải của Công ty. + Trụ sở chính của Công ty: Dãy nhà 5 tầng số 1 Cảm Hội, Phường Đông Mác, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Được đầu tư những trang thiết bị thiết yếu để phục vụ quản lý và giao dịch hội họp. Khu nhà xây năm 1993 với hình thức khang trang hiện đại, với các thiết bị văn phòng: fax, điện thoại, máy vi tính...đã tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên phát huy được năng lực, trình độ của mình. Hiện nay Công ty còn có một trạm điều độ và đại lý hàng hóa đóng tại trụ sở số 312 phố Minh Khai, Hà Nội. Ngoài ra còn các trạm vận tải, kho chứa hàng khác được đặt tại nhiều nơi: Nhật Tân (Tây Hồ), Văn Điển (Thanh Trì), Cầu Am (Hà Đông), Quán Gánh (Hải Phòng), Điện Biên, Mai Châu, Sơn La....Đây là những địa điểm mà Công ty luôn cần vì đều nằm ở những nơi Công ty nhận và giao hàng hóa. Ngoài ra Công ty còn có những bãi đỗ xe xen kẽ trong các xưởng và khu vực quanh Hà Nội: Bãi Chèm, An Dương..... Chương 2 Thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty vận tải ô tô số 3 1. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, lúc lên kế hoạch đến suốt quá trình thực hiện luôn có các yếu tố tác động làm cho kết quả đi lệch với kế hoạch đã vạch ra. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng, ngoài việc cho ta biết đó là nhân tố nào, đặc điểm của nó ra sao còn giúp ta dự đoán được sự biến động của các yếu tố và ảnh hưởng của chúng đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể đưa ra các biện pháp khắc phục. Căn cứ vào các ảnh hưởng, tác động của các nhân tố lên hiệu quả kinh tế, người ta chia làm 2 nhóm: Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. 1.1.1. Môi trường kinh tế. Môi trường kinh tế có vai trò quan trọng nhất, quyết định nhất đối với sự hình thành và hoàn thiện môi trường kinh doanh. Đồng thời nhân tố này cũng có ảnh hưởng to lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định sẽ làm cho thu nhập của các tầng lớp dân cư tăng, khả năng thanh toán cảu họ cũng tăng lên dẫn đến sức mau các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng về mọi mặt như, chất lượng, số lượng, giá cả… thì doanh nghiệp đó sẽ thành công và hiệu quả kinh doanh sẽ rất cao. Nhưng bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì mức sống được nâng cao cũng co nghĩa là chi phí về tiền lương của các doanh nghiệp cũng tăng lên. Điều này sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh so với sản phẩm cùng loại nhưng được sản xuất ở những đơn vị có chi phí tiền lương cho sản phẩm thấp hơn. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao và ổn định chứng tỏ hoạt động kinh doanh của có doanh nghiệp có hiệu quả cao, khả năng tích tụ và tập trung tư bản lớn. Do đó họ sẽ đầu tư và phát triển sản xuất với quy mô lớn, như vậy tư liệu về sản xuất lại tăng, các doanh nghiệp có nhiều cơ hội kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh điều này sẽ tất yếu làm tăng năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng tăng. Nếu một doanh nghiệp sản xuất sử dụng nguyên vật liệu ngoại nhập thì tỷ giá hối đoái có một ý nghĩa rất quan trọng. Khi nền kinh tế ở một quốc gia bị biến động thì chắc chắn sẽ dẫn tới sự biến động của tỷ giá hối đoái. Điều này không có lợi cho các doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu từ những quốc gia đó vì giá nguyên vật liệu được tính bằng ngoại tệ tăng cao do tỷ giá hối đoái biến động. Trong khi đó doanh nghiệp phải dùng nội tệ để thanh toán nên rõ ràng sẽ có một khoản chênh lệch khá lớn trong kế hoạch và thực hiện việc mua nguyên vật liệu. Có thể lấy ví dụ như cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á năm1998 đã làm ảnh hưởng nhiều không những đến nền kinh tế của những nước bị khủng hoảng và cả những nước có liên quan như nước ta. Do đó giá trị của đồng nội tệ cũng là một nhân tố tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia cũng như từng doanh nghiệp đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ, các doanh nghiệp trong nước sẽ gặp nhiều khó khăn vì khi đó giá bán của hàng hoá hay dịch vụ được tính bằng ngoại tệ sẽ cao hơn những hàng hoá cùng chủng loại được tính bằng nội tệ. Như vậy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ bị suy giảm rõ dệt. Hơn nữa khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu hàng hoá bởi vì giá của chúng rẻ hơn và như vậy cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay ở thị trường trong nước. Nhưng ngược lại nếu đồng nội tệ giảm giá thì cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ tăng cả ở thị trường trong nước và thị trường ngoài nước bởi vì khi đó giá bán các hàng hoá của các doanh nghiệp giảm đi ít hơn so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Như vậy các doanh nghiệp sẽ thu được khách hàng, có điều kiện thuận lợi để nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Nếu nền kinh tế có mức lạm pháp cao thì các doanh nghiệp sẽ không đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là đầu tư tái sản xuất mở rộng và đầu tư đổi mới vì các doanh nghiệp lo sợ không đảm bảo về mặt hiện vật các tài sản. Lúc đó đồng tiền không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng sinh lợi của đồng tiền là không có. Hơn nữa rủi do kinh doanh khi có lạm phát cao là rất lớn. 1.1.2. Môi trường chính trị, luật pháp Môi trường chính trị bao gồm các chính sách của chính phủ, cấu trúc chính trị, hệ thống quản lý hành chính và môi trường luật pháp bao gồm các bộ luật và sự thể hiện của các quy định, có thể cản trở hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp. Môi trường luật pháp và chính trị có thể tác động theo một số hướng, nó có thể hạn chế các hoạt động mà những người kinh doanh được phép tiến hành. Môi trường pháp lý lành mạnh vừa tạo cơ chế cho các doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, lại vừa có thể điều chỉnh các hoạt động kinh tế vi mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả của riêng mình mà còn phải chú ý đảm bảo lợi ích kinh tế của mọi thành viên trong xã hội. Với tư cách một đơn vị cơ sở hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có nghĩa vụ chấp hành mọi luật pháp quy định với các hoạt động liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp không thể không nằm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó. 1.1.3. Môi trường văn hóa - xã hội. Tình trạng việc làm, điều kiện xã hội, trình độ dân trí và mức độ phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân, phong cách, lối sống, những đặc điểm truyền thống về tâm lý, xã hội... Nói cách khác mọi yếu tố văn hóa, xã hội đều tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Nếu trình độ văn hóa cao sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp rất nhiều trong việc đào tạo đội ngũ lao động. Từ đó tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp và sẽ tác động tiêu cực trong trường hợp ngược lại. 1.1.4. Môi trường tự nhiên và cơ sở hạ tầng. Điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có thể tạo ra những thuận lợi cũng như khó khăn trong việc phát triển các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và thậm chí cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Lợi thế về yếu tố tự nhiên có thể mang đến kết quả tốt trong kinh doanh. Các nhân tố về điều kiện tự nhiên bao gồm tài nguyên thiên nhiên của đất và việc phân bố vị trí địa lý của các doanh nghiệp. Vị trí đị lý sẽ tạo điều kiện thu hút khách hàng, khuyếch trương sản phẩm, mở rộng thị trường, giảm các chi phí thương mại phục vụ cho hoạt động sản xuất do giá nguyên vật liệu nội địa rẻ, chi phí vận tải thấp… với nhân tố tự nhiên là điều kiện tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động trong công tác cung ứng các nhân tố đầu vào, sản xuất hàng hoá vật chất đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường phải hạn chế nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài. Ngược lại các nhân tố tự nhiên không thuận lợi sẽ tạo khó khăn từ ban đầu cho doanh nghiệp và khả năng thành công trong kinh doanh sẽ ít hơn. Cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò rất quan trọng trực tiếp làm giảm chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Điều quan trọng hơn là cơ sở hạ tầng tác động trực tiếp đến thời gian vận chuyển hàng hóa của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng còn ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí đầu tư hoặc gây cản trở đến việc cung ứng vật tư, kỹ thuật, hoạt động mua bán hàng hóa, và do đó tác động xấu đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. 1.2. Nhóm nhân tố bên trong của doanh nghiệp. 1.2.1. Số lượng và chất lượng của lực lượng lao động. Lao động là một trong những nguồn lực không thể thiếu, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặc dù hiện nay với tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật. áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đó là điều kiện tiên quyết. Song cả về lý luận lẫn thực tiễn không thể coi nhân tố con người là thứ yếu. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp, lực lượng lao động tác động trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh điều đó thể hiện ở những mặt sau. Chính nguồn lao động bằng khả năng sáng tạo của mình có vai trò quyết định việc tạo ra những công nghệ mới, thiết bị máy móc mới, có hiệu quả hơn trước, hoặc cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, hiệu suất so với trước. Ngoài ra, lao động (con người) còn trực tiếp điều khiển máy móc, thiết bị tạo ra cho doanh nghiệp và hiệu quả của quá trình này thể hiện sự tận dụng tốt các nguồn lực của quá trình sản xuất. Hơn nữa, chính con người còn trực tiếp lựa chọn, thực hiện cách thức phối hợp trong tổ chức lao động. Chính vì vậy việc chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp sao cho phù hợp với yêu cầu thực tế được coi là nhiệm vụ hàng đầu của mọi doanh nghiệp đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta. 1.2.2. Trình độ quản lý của doanh nghiệp Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn đạt được hiệu quả kinh doanh cao, lãnh đạo cũng như cán bộ và lực lượng trực tiếp sản xuất phải có trình độ chuyên môn, quản lý. Lãnh đạo doanh nghiệp là những cán bộ quản lý ở mức cao nhất trong doanh nghiệp là người vạch ra chiến lược, trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Họ phải nắm vững chuyên môn, am hiểu thị trường để có khả năng phân tích, nghiên cứu và báo thị trường, phải có kiến thức về kinh doanh, pháp luật và phải có kinh nghiệm để từ đó có cơ sở đưa ra ccá quyết định và phương án kinh doanh sáng suốt đúng đắn, biết bố trí cán bộ phù hợp với năng lực của mình. Các thành viên của ban lãnh đạo có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ chuyên môn cao, kinh nghiệm phân tích, đánh giá năng động, sáng tạo và có mối quan hệ với bên ngoài tốt thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không chỉ những lợi ích trước mắt như tăng lợi nhuận, doanh thu mà còn nâng cao uy tín của doanh nghiệp, lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Đây là yếu tố quan trọng mang tính chiến lược và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp một cách trực tiếp. Nếu họ làm việc tại doanh nghiệp đã lâu năm thì ngoài việc họ có kinh nghiệm, nắm vững khả năng và năng lực của doanh nghiệp… họ có gắn bó bản thân họ với doanh nghiệp, làm việc nhiệt tình hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên nếu họ hoạt động quá lâu trên một cương vị, một lĩnh vực thì cũng dễ dẫn đến sự bảo thủ, trì trệ trong quản lý, không thay đổi kịp với yêu cầu tư bên ngoài. Đây lại là một nguy cơ gây suy yếu cho hoạt động kinh doanh. Các cán bộ quản lý các doanh nghiệp có kinh nghiệm công tác, phong cách quản lý tốt, khả năng ra quyết định chính xác, kịp thời, biết xây dựng ê kịp quản lý và hiểu biết nhiều về thị trường, về kinh doanh sẽ là một lợi thế rất lớn cho doanh nghiệp. Họ là những người quản lý có đầy nhiệt huyết làm việc hết sức mình vì sự tồn tại và phát triển của Công ty. Mặt khác với những trình độ hiểu biết rộng các kiến thức chuyên môn khác nhau, họ có thể tạo ra nhiều ý tưởng sáng tạo, nhanh nhạy với sự thay đổi, điều này giúp cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thêm vững mạnh. Vai trò của cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp càng trở lên quan trọng khi doanh nghiệp đã đứng vững trên thị trường. Quy mô hoạt động lớn đòi hỏi các cán bộ quản lý cũng có thể ra quyết định, họ là những người điều hành các kế hoạch tác nghiệp của doanh nghiệp, vì thế quyết định của họ xác thực với thực tế hơn, tính khả thi cao hơn. Khi doanh nghiệp trưởng thành hơn, quy mô mở rộng hơn nhiều các phòng ban chức năng hơn thì sự sáng tạo, tinh thần đổi mới của các phòng ban sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự ảnh hưởng lớn của các cán bộ quản lý cấp doanh nghiệp, những người sáng tạo ra năng lực kinh doanh, tạo ra hiệu quả cho doanh nghiệp. Sự đồng bộ của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp đòi hỏi đến nguồn nhân lực trực tiếp tham gia sản xuất kinh doanh. Đây là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm hàng hoá cho doanh nghiệp. Họ có vai trò to lớn trong việc tạo ra và đảm bảo chất lượng sản phẩm, trình độ tay nghề cao và lòng nhiệt tình của lực lượng này sẽ tạo ra được những sản phẩm có chất lượng đảm bảo và góp phần tăng năng suất lao động. Đây là tiền đề để doanh nghiệp hoạt động tốt, nâng cao hiệu quả trong sản xuất và đứng vững trên thị trường. Như vậy, để có thể có được các nhân tố về trình độ quản lý trong doanh nghiệp thì tất cả các thành viên trong doanh nghiệp từ lãnh đạo, cán bộ quản lý đến lực lượng lao động trực tiếp cần không ngừng học hỏi nâng cao trình độ hiểu biết về mọi mặt của mình. Doanh nghiệp nên tổ chức đào tạo và đào tạo lẹi độ ngũ công nhân viên, và có chính sách đãi ngộ công bằng hợp lý với tất cả mọi người. Doanh nghiệp cần tạo ra niềm tin cho tất cả mọi người đẻ các hoạt động của họ đều vì sự phát triển của doanh nghiệp, vì lợi ích của bản thân họ và vì lợi ích của doanh nghiệp. 1.2.3. Vốn và tình trạng tài chính của doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường người ta thường dùng tiền tệ để đo lường giá trị của các loại tài sản. tài sản của doanh nghiệp là các tư liệu sản xuất, đối tượng lao động phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tổng số tài sản của doanh nghiệp và được gọi là vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì đều phải dựa vào vốn hay nói cách khác vốn có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. N._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29990.doc
Tài liệu liên quan