Hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An

Lời nói đầu Sau hơn 10 năm đổi mới, các doanh nghiệp Nhà nước đạt được sự tăng trưởng kinh tế một cách hết sức khó khăn. Thực tế cho thấy muốn có một kết quả kinh tế tăng trưởng cao, một mặt các doanh nghiệp phải huy động các nguồn lực mới, mặt khác phải sử dụng chúng hết sức thận trọng, theo một quy hoạch cơ cấu mang tính dài hạn, tổng thể và có chiến lược. Công việc kinh doanh ngày nay không chỉ còn giới hạn trong nước, mà ngày càng có quan hệ với các khu vực và quốc tế. Do vậy, câu hỏi đặt r

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả Sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đối với các doanh nghiệp Nhà nước là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của mình cả trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Với trình độ còn thấp, tiềm lực của các doanh nghiệp còn yếu, hầu như trên tất cả các mặt, thì việc nâng cao hiệu quả đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các doanh nghiệp. Làm thế nào để có đủ vốn, để sử dụng có hiệu quả về vốn và các nguồn lực khác, để đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng, để thoát khỏi nguy cơ phá sản và để chiến thắng trên thị trường cạnh tranh đang là bài toán khó với tất cả các doanh nghiệp. Công ty Bánh kẹo Tràng An đang ở trong hoàn cảnh đó và mục tiêu nóng bỏng nhất là làm sao để nâng cao hiệu quả kinh doanh lên nữa, để Công ty ngày càng phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu. Trong thời gian tìm hiểu ở Công ty, tôi nhận thấy đây là vấn đề thời sự đang được quan tâm không chỉ ở Ban Giám đốc mà tất cả cán bộ công nhân viên trong Công ty. Vì vậy, tôi chọn đề tài: “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An” cho khoá luận tốt nghiệp của mình. Hiệu quả kinh doanh là một khái niệm rộng, liên quan tới nhiều yếu tố trong quá trình sản xuất. Do thời gian tìm hiểu có hạn nên tôi chỉ tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề chính dựa trên phân tích kết quả kinh doanh và những tồn tại của Công ty trong những năm qua để đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Luận văn tốt nghiệp có 3 chương gồm: Chương 1: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Chương 2: Hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An. Chương 3: Một số biện pháp cơ bản nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An. Chương 1 hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường I. Vị trí của vấn đề hiệu quả kinh doanh đối với một doanh nghiệp 1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh: Kinh doanh là việc thực hiện một số hoặc thực hiện tất cả các công đoạn của qúa trình từ đầu tư sản xuất đến tiêu thụ hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời. Các doanh nghiệp quan tâm nhất chính là vấn đề hiệu quả sản xuất. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với phạm trù lợi nhuận, là hiệu số giữa kết quả thu về với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh doanh cao hay thấp phụ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và quản lý của mỗi doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, gắn với cơ chế thị trường, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh như: lao động, vốn, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu,... nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả. Khi đề cập đến hiệu quả kinh doanh các nhà kinh tế dựa vào từng góc độ xem xét để đưa ra các định nghĩa khác nhau [1,2,3]. Ta có thể rút ra khái niệm về hiệu quả như sau: “Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện sự tập trung của phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và trình độ chi phí chi phí nguồn lực đó trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh” (Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh). Hiệu quả kinh doanh ngày nay càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh giá việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, cần hiểu hiệu quả kinh doanh một cách toàn diện trên cả hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế có mối quan hệ khăng khít nhưng cũng có mâu thuẫn. Vì vậy, vấn đề ở đây là tạo sự thống nhất giữa lợi ích của doanh nghiệp với lợi ích của toàn xã hội. Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn, điều đòi hỏi đặt ra ở đây cho doanh nghiệp là không được vì lợi ích trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được đặt trong mối quan hệ mật thiết chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, vì doanh nghiệp là một tế bào, một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Lợi ích của toàn xã hội, của doanh nghiệp bao giờ cũng phải phù hợp nhau. Thực tế cho thấy có những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lợi cho mình nhưng lại không cần thiết cho xã hội, cũng có thể gây tác hại cho xã hội như ô nhiễm môi trường, thất nghiệp, các tệ nạn,... Mâu thuẫn này cho thấy sự không trùng hợp giữa tiêu chuẩn hiệu quả xã hội với hiệu quả của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh chính là hiệu quả của lao động xã hội, nó phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố đầu vào của quá trình kinh doanh để đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Song nó cũng là thước đo trình độ tiết kiệm các yếu tố đầu vào, nguồn nhân lực xã hội. Tiêu chuẩn hoá hiệu quả đặt ra là tối đa hoá kết quả hoặc tối thiểu hoá chi phí dựa trên nguồn lực sẵn có. Ngoài ra, chúng ta cần phải phân biệt sự khác nhau và mối quan hệ giữa hiệu quả kinh doanh và kết quả kinh doanh. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được sau một qúa trình kinh doanh nhất định. Trong kinh doanh thì kết quả cần đạt được bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Kết quả được phản ánh bằng chỉ tiêu định tính như số lượng sản phẩm tiêu thụ, doanh thu, lợi nhuận,... và cũng có thể phản ánh bằng chỉ tiêu định lượng như uy tín, chất lượng sản phẩm. Về hình thức hiệu quả kinh doanh luôn là phạm trù so sánh thể hiện mối tương quan giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Kết quả chỉ là cái cần thiết để tính toán và phân tích hiệu quả, muốn đánh giá được hiệu quả kinh doanh phải dựa trên các kết quả đạt được của từng lĩnh vực. Vì vậy, hai khái niệm này độc lập và khác nhau nhưng lại có mối quan hệ mật thiết với nhau. 2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập và tất cả các tổ chức kinh tế đều bình đẳng cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần trên thị trường. Tăng khả năng cạnh tranh, đứng vững trong cơ chế thị trường bắt buộc các doanh nghiệp phải làm ăn có hiệu quả. Hiệu quả càng cao thì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp càng lớn. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, làm ăn không có lãi thì doanh nghiệp chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ bị chính thị trường đào thải. Hơn nữa, nâng cao hiệu quả kinh doanh là yêu cầu thiết yếu của quy luật tiết kiệm. Việc tiết kiệm và hiệu quả kinh doanh có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là hai mặt của vấn đề. Ngược lại, việc tiết kiệm càng lớn thì hiệu quả kinh doanh càng cao. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải thực hiện quy luật đó. Nói tóm lại, đánh giá và phân tích hiệu quả được coi là một trong những công cụ để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh không những cho biết việc sản xuất đạt được ở trình độ nào, mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích và đưa ra các biện pháp thích hợp trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2. ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đối với nền kinh tế quốc dân: Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế quan trọng, phản ánh yêu cầu của quy luật tiết kiệm thời gian, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, trình độ sản xuất và mức độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất trong cơ chế thị trường. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất càng hoàn thiện, càng nâng cao hiệu quả. Càng nâng cao hiệu quả thì càng hoàn thiện quan hệ sản xuất và trình độ hoàn thiện của quan hệ sản xuất càng cao yêu cầu của quy luật kinh tế ngày càng thoả mãn và điều kiện quản lý kinh tế cơ bản ngày càng được phát huy đầy đủ hơn vai trò và tác dụng của nó. Tóm lại, càng nâng cao hiệu quả kinh doanh đem lại cho quốc gia sự phân bố, sử dụng các nguồn lực càng hợp lý và ngược lại sử dụng các nguồn lực càng hợp lý thì càng hiệu quả. Đối với bản thân doanh nghiệp: Hiệu quả kinh doanh là cơ sở để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên. Đối với mỗi doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường thì việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát triển về vốn, qua đó doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường, vừa giải quyết tốt đời sống người lao động, vừa đầu tư mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh. Do vậy, hiệu quả chính là căn cứ quan trọng và chính xác để doanh nghiệp đánh giá các hoạt động của mình. Nhận thức đúng đắn về hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Đối với người lao động: Hiệu quả sản xuất kinh doanh là động lực thúc đẩy, kích thích người lao động hăng say sản xuất, luôn quan tâm tới kết quả lao động của mình. Nâng cao hiệu quả kinh doanh đồng nghĩa với việc nâng cao đời sống người lao động trong doanh nghiệp. Nâng cao đời sống sẽ tạo động lực trong sản xuất, làm tăng năng suất lao động, tăng năng suất lao động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh: Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp gồm nhiều chỉ tiêu chất lượng, nó liên quan tới các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó nó chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, chỉ tiêu về doanh số bán hàng và tổng chi phí ảnh hưởng mạnh và trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh. Các nhân tố đó có thể tác động đến hai chỉ tiêu một cách tích cực hoặc tiêu cực hoặc tác động có tính hai mặt tuỳ từng thời điểm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu nhân tố này để phát huy hay hạn chế sự tác động của nó đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó làm cơ sở để đề ra các đường lối, chính sách thích hợp. 1. Nhân tố khách quan: 1.1. Giá cả và các mặt hàng cạnh tranh. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp cùng ngành và cùng sản xuất một ngành hàng hoặc một nhóm hàng có thể trở thành bạn hàng của nhau trong kinh doanh, giúp nhau về vốn, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm. Nhưng ngược lại, các doanh nghiệp này là những đối thủ của nhau trên thị trường đầu vào và đầu ra. Đối với thị trường đầu vào: Doanh nghiệp muốn tăng lợi nhuận, từ đó để đồng nghĩa nâng cao hiệu quả kinh doanh buộc phải tìm mọi giải pháp để giảm chi phi, nhất là chi phí vật tư, nguyên vật liệu, bằng cách mua chúng trực tiếp từ người sản xuất, tránh nhập qua nhiều khâu trung gian và so sánh giá cả cũng như chất lượng từ các nhà cung cấp để có quyết định lựa chọn yếu tố đầu vào đúng đắn. Đối với thị trường đầu ra: Trong nền kinh tế thị trường, giá cả sản phẩm thuộc nhân tố khách quan, nó phụ thuộc vào nhu cầu tiêu dùng. Nếu doanh nghiệp định giá sản phẩm của mình cao hơn giá của thị trường thì tất yếu sức mua hàng hoá đó sẽ giảm, ngược lại nếu doanh nghiệp định giá quá thấp, hiệu quả kinh doanh sẽ ảnh hưởng. Do đó, các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình chính sách giá cả hợp lý, linh hoạt, thúc đẩy doanh số bán hàng, chiếm lĩnh thị trường và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.2. Nhân tố sức mua Nhân tố này chịu sự tác động của: giá cả, chất lượng sản phẩm, thu nhập, thói quen và thị hiếu của người tiêu dùng. Nhưng bản thân nhân tố sức mua chịu ảnh hưởng của nhân tố số lượng và cơ cấu mặt hàng sản xuất. Mỗi một sản phẩm của doanh nghiệp có hiệu quả riêng nên nhân tố sức mua khác nhau, làm cho hiệu quả chung của doanh nghiệp cũng thay đổi. Nếu sản xuất kinh doanh các mặt hàng phù hợp với nhu cầu, có hiệu quả cao, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ mặt hàng của doanh nghiệp thì hiệu quả của doanh nghiệp cũng tăng lên. Do vậy, đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ nhân tố này để có kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. 1.3. Thời vụ Trong sản xuất và tiêu dùng luôn có nhân tố thời vụ. Thời vụ sản xuất và thời vụ tiêu dùng có khi phù hợp nhau nhưng có khi lại mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này ảnh hưởng tới thời gian dự trữ, ảnh hưởng tới chi phí dự trữ, từ đó tác động đến hiệu quả. Nhân tố này quyết định cơ cấu mặt hàng kinh doanh của doanh nghiệp trong từng thời kỳ do đó ảnh hưởng tới công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhưng nhân tố này rất phức tạp, không phải thời vụ sản xuất và tiêu dùng cứ phù hợp nhau là giảm được thời gian dự trữ mà hiệu quả kinh doanh tăng. 1.4. Tài nguyên môi trường Tài nguyên môi trường cũng có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh rất lớn đối với nền kinh tế. Nếu như nguồn tài nguyên dồi dào sẽ làm cho giá nguyên vật liệu rẻ, chi phí sản xuất giảm dẫn đến giá thành sản phẩm giảm và làm tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế sẽ cao hơn. Bên cạnh những thuận lợi về tài nguyên môi trường mang lại cũng có lúc nó lại ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí khắc phục hậu quả thiên tai, chi phí an toàn lao động, giá nguyên vật liệu tăng do tài nguyên thiên nhiên khan hiếm cũng làm cho hiệu quả kém đi. 1.5. Môi trường kinh tế vĩ mô và các chế độ, chính sách của Nhà nước Từ khi Nhà nước thay đổi cơ chế, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, phát triển đất nước theo định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá bộ mặt nền kinh tế có nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp trong nước có thể liên doanh, liên kết với nước ngoài mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, các chính sách đầu tư thông thoáng hơn. Mục tiêu phát triển của doanh nghiệp phải xuất phát từ định hướng phát triển của đất nước. Lợi ích của doanh nghiệp gắn chặt với lợi ích kinh tế - xã hội của đất nước. Một trong những công cụ chính của Nhà nước để điều tiết nền kinh tế là các chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, luật pháp. Đó là hệ thống các nhân tố tác động trực tiếp hay gián tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu chính sách lãi suất tín dụng quy định mức lãi suất quá cao sẽ gây cản trở cho việc vay vốn của doanh nghiệp và làm tăng chi phí vốn, lợi nhuận giảm và hiệu quả kinh doanh cũng sẽ giảm. 2. Nhân tố chủ quan. 2.1. Lao động Lao động là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Mọi nỗ lực đưa khoa học kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại vào sản xuất để nâng cao hiệu quả kinh doanh đều do con người tạo ra và thực hiện chúng. Song để đạt được điều đó đội ngũ nhân viên lao động cũng cần phải có một lượng kiến thức chuyên môn ngành nghề cao, góp phần vào ứng dụng trong sản xuất tốt, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trên thị trường mang lại lợi ích cho doanh nghiệp. 2.2. Vốn kinh doanh Vốn kinh doanh cũng là một yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mọi doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh lớn, nó sẽ là cơ sở cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Vốn là nền tảng, là cơ sở cho doanh nghiệp hoạt động, góp phần đa dạng hoá phương thức kinh doanh, đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá mặt hàng, xác định đúng chiến lược thị trường. Ngoài ra, vốn còn giúp cho doanh nghiệp đảm bảo độ cạnh tranh cao và giữ ưu thế lâu dài trên thị trường. 2.3. Trang thiết bị kỹ thuật Ngày nay, có lẽ công nghệ là nguồn thay đổi năng động nhất trong tương lai. Sự thay đổi này mang lại những thách thức cũng như những đe doạ đối với các nhà doanh nghiệp. Một số ý kiến cho rằng nó là: “sự phá huỷ của sáng tạo” nhờ đó những sản phẩm mới thay thế các sản phẩm cũ rất thường xuyên. Nhưng cũng nhờ nó mà con người được giải phóng sức lao động, năng suất tăng lên rất nhiều lần trong cùng một thời gian, dẫn tới tăng hiệu quả. Mặt khác, trang thiết bị kỹ thuật không những đáp ứng cho khách hàng sản phẩm tốt, hình dáng đẹp, không xâm hại đến sức khoẻ mà còn thoả mãn những nhóm khách hàng đòi hỏi sản phẩm có thuộc tính đặc biệt. 2.4. Nhân tố quản trị trong doanh nghiệp. Quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp công nghiệp là việc tổ chức bộ máy quản lý và tổ chức sản xuất sao cho hợp lý. Nhân tố quản trị liên quan trực tiếp đến việc lập kế hoạch kinh doanh, tổ chức thực hiện kinh doanh hay nói cách khác là liên quan đến toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp muốn có bộ máy quản trị tốt phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn cao, không những nắm vững kiến thức về tổ chức quản lý và kinh doanh mà còn phải nắm bắt được xu hướng biến động về nhu cầu tiêu dùng, thích ứng với cơ chế thị trường, phải có khả năng nhìn xa trông rộng, khả năng tiên đoán, phân tích các tình huống để hoạch định cho mình một bước đi trong tương lai. Hơn nữa, việc lựa chọn bộ máy quản trị phù hợp với từng doanh nghiệp, từng loại hình kinh doanh, đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, thống nhất, linh hoạt sẽ giúp cho quá trình sản xuất trôi chảy, có thể kết hợp các nguồn lực đầu vào tối ưu nhất, từ đó nâng cao hiệu quả. III. các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 1. Một số quan điểm trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Trong cơ chế thị trường hầu hết các doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh đều chú trọng đến hiệu quả, để quá trình sản xuất diễn liên tục đòi hỏi hiệu quả của nó phải cân đối với các mối quan hệ khác. Do vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh phải dựa vào các quan điểm sau đây: - Đảm bảo tính thực tiễn sự thống nhất giữa nhiệm vụ chính trị và kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. - Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội. - Căn cứ vào kết quả cuối cùng cả về hiện vật và giá trị để đánh giá hiệu quả kinh doanh. 2. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần nghiên cứu và nhận thức đúng các phương pháp đánh giá hiệu quả kinh doanh. Có một số phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh chủ yếu sau: 2.1. Phương pháp chi tiết Mọi kết quả kinh doanh đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng: Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Mọi kết quả kinh doanh biểu hiện các chỉ tiêu đều bao gồm nhiều bộ phận. Chi tiết các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của các bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả đạt được. Với ý nghĩa đó, phương pháp chi tiết theo bộ phận cấu thành được sử dụng rộng rãi trong phân tích mọi mặt kết quả kinh doanh. Ví dụ: trong phân tích giá thành, chỉ tiêu đơn giá đơn vị sản phẩm hoặc mức chi phí thường được chi tiết theo các khoản mục giá thành. Chi tiết theo thời gian: kết quả kinh doanh bao giờ cũng là kết quả của một quá trình. Do nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan, tiến độ thực hiện quá trình đó trong từng đơn vị thời gian xác định thường không đồng đều. Chi tiết theo thời gian sẽ làm cho việc đánh giá kết quả kinh doanh được sát, đúng và tìm các giải pháp có hiệu quả cao cho công việc kinh doanh. Tuỳ theo đặc tính của quá trình kinh doanh, tuỳ nội dung kinh tế của chỉ tiêu phân tích và tuỳ mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoản thời gian và chỉ tiêu chi tiết cho phù hợp. Chi tiết theo địa điểm: Phương pháp này nhằm đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của từng bộ phận, phạm vi và địa điểm khác nhau, nhằm khai thác mặt mạnh và khắc phục mặt yếu kém của bộ phận và phạm vi hoạt động khác nhau. 2.2. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được sử dụng rộng rãi nhất trong phân tích hiệu quả kinh doanh với mục đích đánh giá hiệu quả, đánh giá vị trí và xu hướng biến động của đối tượng phân tích. Các chỉ tiêu phân tích có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phân tích. Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích, người ta thường tiến hành so sánh bằng hai cách: so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối. Các chỉ tiêu đưa ra so sánh cần phải thống nhất với nhau: - Đảm bảo tính thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu. - Đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu. - Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính của các chỉ tiêu cả về số lượng, thời gian và giá trị. 2.2.1. Phương pháp so sánh tuyệt đối: Phương pháp này cho ta biết được khối lượng, quy mô tăng giảm của doanh nghiệp qua các thời kỳ phân tích hoặc giữa các doanh nghiệp với nhau. = - Mức tăng giảm trên chỉ phản ánh về lượng, thực chất của việc tăng giảm trên không nói là có hiệu quả, tiết kiệm hay lãng phí. Phương pháp này được dùng kèm với các phương pháp khác khi đánh giá hiệu quả giữa các kỳ 2.1.2. Phương pháp so sánh tương đối Phương pháp này cho ta biết mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này có ba dạng: Dạng giản đơn: Tỷ lệ so sánh = Trong đó: Gi: Trị số chỉ tiêu kỳ phân tích Go:Trị số chỉ tiêu kỳ gốc Nếu kết quả lớn hơn 100% thì doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại Dạng có liên hệ: Mọi kết quả kinh doanh đều có mối quan hệ mật thiết với nhau giữa các mặt, các bộ phận... do vậy phương pháp giản đơn không phản ánh được toàn diện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà chỉ phản ánh được một khía cạnh đơn thuần. Tỷ lệ so sánh= Trong đó: Gli: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ phân tích Glo: Trị số chỉ tiêu cần liên hệ kỳ gốc Phương pháp này chỉ ra hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với mối liên hệ với các nhân tố ảnh hưởng khác. Dùng phương pháp này giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng về thực chất hiệu quả kinh doanh của mình, xem xét hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có mang lại hiệu quả hay không. Dạng kết hợp: Mức tăng giảm tương đối = Phương pháp này cho ta biết kết cấu, quan hệ, tốc độ phát triển của các chỉ tiêu. Trong phân tích thường kết hợp cả hai phương pháp so sánh tuyệt đối và tương đối để đánh giá toàn diện các chỉ tiêu so sánh. 2.3. Phương pháp loại trừ Loại trừ là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả kinh doanh bằng các loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác. Phương pháp loại trừ có hai loại: Phương pháp thay thế liên hoàn: Là phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhóm nhân tố đến sự biến động của các chỉ tiêu phân tích. Phương pháp này được sử dụng trong phân tích hiẹu quả kinh doanh nhằm đánh giá mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố tới đối tượng phân tích bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác tác động tới đối tượng phân tích. Phương pháp số chênh lệch: Phương pháp số chênh lệch là một dạng đặc biệt của phương pháp thay thế liên hoàn nhằm phân tích các nhân tố thuận lợi ảnh hưởng tới sự biến động của các chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp này chỉ áp dụng đối với trong trường hợp nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng tích số và cũng có thể áp dụng trong trường hợp các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu bằng thương số. 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là một ván đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh. Do đó để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu bộ phận 3.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động, toàn bộ các khâu của quá trình kinh doanh trong doanh nghiệp. Nhóm chỉ tiêu tổng hợp chia làm hai loại: 3.1.1 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng - Tỷ suất lợi nhuận theo vốn kinh doanh: được tính bằng cách lấy lợi nhuận so với vốn kinh doanh đã bỏ ra (vốn cố định và vốn lưu động) Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn kinh doanh bỏ ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó có tác dụng khuyến khích việc quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm đồng vốn trong mỗi khâu của quá trình kinh doanh, chỉ tiêu này được xác định bằng công thức: Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh = Tỷ suất lợi nhuận theo vốn tự có: được tính băng cách lấy tổng số lợi nhuận so với vốn tự có của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết 1đồng vốn tự có của doanh nghiệp sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức: Tỷ suất lợi nhuận theo vốn tự có = Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu: Chỉ tiêu này được so sánh giữa phần lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được và doanh thu tiêu thụ. Nó cho biết cứ một đồng doanh thu đạt được thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỉ suất lợi nhuận càng cao thì hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt. Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu = 3.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh số lượng Gồm các chỉ tiêu: -Tổng lợi nhuận -Tổng doanh thu -Tổng chi phí 3.2. Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận Bên cạnh các chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh tế của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng tất cả các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất trong một thời kì nhất định, thì người ta còn sử dụng các chỉ tiêu bộ phận để phân tích hiệu quả kinh tế của từng mặt hoạt động, từng yếu tố cụ thể. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận đảm nhận hai chức năng sau: + Phân tích có tính chất bổ xung cho chỉ tiêu tổng hợp để trong một số trường hợp kiểm tra và khẳng định rõ kết luận được rút ra từ các chỉ tiêu tổng hợp. + Phân tích hiệu quả của từng mặt hoạt động, hiệu quả sử dụng của từng yếu tố sản xuất kinh doanh nhằm tìm biện pháp tối đa hoá chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp. Đây là chức năng chủ yếu của hệ thống chỉ tiêu này. Mối quan hệ giữa chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp và chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận không phải là mối quan hệ cùng chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng lên thì có thể những chỉ tiêu bộ phận tăng, giảm hoặc không đổi. 3.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn Để có các yếu tố đầu vào doanh nghiệp cần có một lượng vốn kinh doanh nhất định, nếu thiếu vốn hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ bị ngừng trệ hoặc kém hiệu quả. Đánh giá hiệu sử dụng vốn kinh doanh sẽ thấy được chất lượng quản lý, vạch ra khả năng tiềm tàng để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này được xác định thông qua công thức doanh lợi so với toàn bộ vốn sản xuất kinh doanh. Nhưng để thấy rõ hơn hiệu quả sử dụng vốn ta phải đi sâu vào đánh giá từng bộ phận cấu thành vốn đó là hiệu quả sử dụng vốn cố định và hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Số vòng quay toàn bộ vốn (SVv) Trong đó: SVV là số vòng quay của vốn. TR: là doanh thu. VKD: là vốn kinh doanh bình quân trong kì. và vốn kinh doanh được tính theo công thức V1... Vn số vốn sản xuất kinh doanh tại thời điểm thống kê. n là số thời điểm thống kê. Chỉ tiêu này phản ánh sức sản xuất kinh doanh của toàn bộ số vốn, số vòng quay của vốn càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. - Hiệu quả sử dụng vốn cố định + Sức sản xuất của vốn cố định = Chỉ tiêu này cho thấy năng suất của vốn cố định, cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thu được bao nhiêu đồng doanh thu. + Sức sinh lời của vốn cố định = Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cố định càng lớn. - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Vốn lưu động là giá trị ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghệp. Nó tham gia toàn bộ, trực tếp vào quá trình sản xuất kinh doanh và thường chiếm tỉ trọng rất lớn. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động thường được xác định bằng các chỉ tiêu cơ bản sau: + Sức sản xuất của vốn lưu động = Chỉ tiêu này phản ánh trong một thời kì nhất định vốn lưu động luân chuyển được bao nhiêu vòng hay một đồng vốn lưu động tham gia vào quả trình sản xuất kinh doanh sẽ tạo được bao nhiêu đồng doanh thu. Nó có thể được dùng để so sánh giữa các thời kì của một đơn vị hoặc giữa các đơn vị cùng qui mô trong một thời kì. Sức sinh lời của vốn lưu động = Nó phản ánh chất lượng hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kì. Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong kì càng cao. 3.2.2. Hiệu quả sử dụng lao động Trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, lao động của con người có tính chất quyết định nhất. Sử dụng lao động có hiệu quả sẽ làm tăng khối lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu sau để đánh giá xem doanh nghiệp đã sử dụng lao động có hiệu quả hay không. Năng suất lao động bình quân trong kỳ Trong đó: W: năng suất lao động bình quân trong kỳ Q: Giá trị (số lượng) sản phẩm tạo ra trong kỳ L: Tổng lao động bình quân sử dụng trong kỳ + Mức thu nhập hoặc lợi nhuận đạt được trên một lao động Trong đó: HLĐ : Mức thu nhập bình quân (lợi nhuận) trên một lao động P: Lợi nhuận đạt được trong kì Hai chỉ tiêu phản ánh đầy đủ về hiệu quả sử dụng lao động trong kì của doanh nghiệp cả về mặt số lượng và chất lượng. Tuy nhiên để đánh giá toàn diện hơn về hiệu quả sử dụng lao động, người ta con sử dụng một số chỉ tiêu như hiệu suất sử dụng lao động hoặc hiệu suất sử dụng thời gian lao động. Các chỉ tiêu này cho phép ta đánh giá hiệu quả sử dụng lao động và sử dụng số lượng thời gian lao động hiện có, giảm số lượng lao động dư thừa, nâng cao hiệu suất sử dụng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Công thức xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh trên được tổng hợp qua bảng sau: Chỉ tiêu Công thức xác định * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu Lợi nhuận trong kỳ Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh trong kỳ * Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh bộ phận Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Sức sinh lời của vốn lưu động Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân Sức sản xuất của vốn lưu động Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Hiệu quả sử dụng vốn cố định Sức sinh lời của vốn cố định Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân Sức sản xuất của vốn cố định Tổng doanh thu tiêu ._.thụ sản phẩm trong kỳ Vốn cố định bình quân Hiệu quả sử dụng lao động Năng suất lao động Tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Lợi nhuận bình quân tính cho một lao động Lợi nhuận trong kỳ Tổng số lao động bình quân trong kỳ Trên đây là một số vấn đề chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở vận dụng các vấn đề lý thuyết chung đã đề cập, em đã vận dụng để tìm hiểu thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty Bánh kẹo Tràng An để phân tích các hiệu quả kinh doanh mà Công ty đã đạt được. Đồng thời vạch rõ những khó khăn, vướng mắc, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chương 2 hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty bánh kẹo Tràng An I. Giới thiệu chung về công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty: Công ty Bánh kẹo Tràng An là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc bộ Công nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các mặt hàng bánh kẹo phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Trụ sở của Công ty đặt tại: 800A - Đường Hoàng Quốc Việt - phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy - Hà Nội. Tên giao dịch: Trangan Confectionery Company Viết tắt: TRANGANCO Sau đây là những chặng đường Công ty đã trải qua: Giai đoạn từ 1959 - 1961: Miền Bắc nước ta sau ba năm khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh (1955 - 1957) đã có nhiều tiến bộ. Để thực hiện công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta đã đề ra kế hoạch ba năm (1958-1960) cải tạo và phát triển kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, tháng 1-1959 Tổng công ty Nông thổ sản miền Bắc (thuộc Bộ Nội thương) đã xây dựng một cơ sở thử nghiệm nghiên cứu hạt trân châu với chín cán bộ công nhân viên của Tổng công ty gửi sang. Giữa năm 1959, nhà máy chuyển sang ngiên cứu sản xuất miến. Tháng 4-1960 công trình thử nghiệm đã đem lại kết quả ngày 25-12-1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời đánh dấu bước ngoặt đầu tiên cho cho quá trình phát triển của nhà máy sau này. Giai đoạn từ 1962 - 1967: Đến năm 1962, xưởng miến Hoàng Mai thuộc Bộ Công nghiệp Nhẹ quản lý. Tuy khó khăn về trình độ chuyên môn nhưng năm nào doanh nghiệp cũng hoàn thành kế hoạch. Năm 1965 xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch với tổng giá trị sản lượng 2999,815 nghìn đồng . Bên cạnh đó, xí nghiệp Hoàng Mai đã có nhiều tiến bộ trong công tác tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn, nâng cao tay nghề công nhân và cải thiện đời sống của người lao động trong xí nghiệp. Năm 1966 nhiệm vụ của nhà máy đã có sự chuyển hướng để phù hợp với tình hình mới. Thực hiện chủ trương của Bộ công nghiệp nhẹ, Bộ thực phẩm đã lấy nơi đây làm công tác các đề tài thực phẩm. Từ đây nhà máy mang tên gọi mới: Nhà máy thực nghiệm thực phẩm Tràng An. Giai đoạn từ 1961 - 1992 Tháng 6-1970 thực hiện chủ trương của Bộ lương thực thực phẩm, nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân xưởng kẹo của nhà máy bánh kẹo Hải Châu bàn giao sang với công suất 900 tấn/năm với nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nha, giấy tinh bột. Đến tháng 12-1976 nhà máy phê chuẩn thiết kế mở rộng nhà máy với công suất 6000 tấn/năm. Đến 1980 nhà máy chính thức có hai tầng với tổng diện tích sử dụng 2500 m2. Năm 1981-1985 là thời gian ghi nhận bước chuyển biến của nhà máy từ giai đoạn sản xuất thủ công sang cơ giới hoá. Bắt đầu từ năm 1981, nhà máy lại được chuyển sang Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý nhưng vẫn với tên gọi: Nhà máy thực phẩm Tràng An. Năm 1988, do việc sát nhập các nhà máy trực thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lý. Thời kì này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới, dần thực hiện luận chứng kinh tế. Sản phẩm của nhà máy được tiêu thụ rộng rãi trong cả nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Một lần nữa nhà máy đổi tên thành Nhà máy xuất khẩu kẹo Tràng An. Tốc độ tăng sản lượng hàng năm từ 1%-15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần tiến tới cơ giới hoá 70%-80% với số vốn Nhà nước giao từ 1-1-1993 là 5454 triệu đồng. Giai đoạn từ 1993 đến nay Tháng 1-1993, nhà máy chuyển về trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Trước tình hình biến động của thị trường nhiều doanh nghiệp đã phá sản nhưng Tràng An vẫn đứng vững và vươn lên. Tháng 7-1993 Nhà máy xuất khẩu kẹo Tràng An được quyết định đổi tên thành Công ty bánh kẹo Tràng An, với tên giao dịch là TRANGANCO trực thuộc Bộ công nghiệp quản lý. Mặt hàng sản xuất chính là bánh kẹo như: kẹo sữa dừa, kẹo hoa quả, kẹo sôcôla, bánh biscuit, bánh kem.. Tháng 5-1993 Tràng An chính thức liên doanh với Nhật Bản và Hàn Quốc thành lập công ty liên doanh Trangan-Kotubuki và Trangan-Kameda, Trangan- Miwon nhưng đến nay chỉ còn Trangan-kotubuki và Trangan-Miwon. Trải qua hơn một phần tư thế kỉ, Tràng An mang nhiều tên gọi khác nhau, qua nhiều bộ phận quản lý, đánh dấu sự thay đổi từng loại hình sản xuất và phản ánh xu thế phát triển của Nhà máy. Công ty bánh kẹo Tràng An bằng tiềm lực sẵn có với nỗ lực không ngừng vươn lên đã tự khẳng định mình và tiếp tục thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn. Tính đến nay, Công ty đã có 5 xí nghiệp thành viên và 2 công ty liên doanh. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Nhiệm vụ của công ty bánh kẹo Tràng An được qui định như sau: - Sản xuất và kinh doanh các loại bánh kẹo để cung cấp cho thị trường. - Xuất khẩu các sản phẩm của công ty và công ty liên doanh, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất của công ty và thị trường. - Ngoài sản xuất bánh kẹo là chính công ty còn kinh doanh các mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống và thúc đẩy sự phát triển của công ty ngày càng lớn mạnh. Ngoài ra, công ty còn có nhiệm vụ sau: + Bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao. + Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước. + Thực hiện phân phối theo lao động: chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho CBCNVC, nâng cao trình độ chuyên môn. Như vậy, mục tiêu chung của công ty là đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước, đồng thời không ngừng phát triển qui mô doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân trong công ty. 3. Bộ máy tổ chức quản lý của công ty Bộ máy quản lý của công ty bánh kẹo Tràng An được tổ chức theo cơ cấu hỗn hợp trực tuyến. Các phòng ban chức năng chỉ thuần tuý làm công tác tham mưu cố vấn cho các nhà quản lý cấp cao và những người điều hành, các phòng ban này không có quyền chỉ đạo đối với đơn vị cấp dưới theo kiểu trực tiếp. Với cách quản lý này công ty giải phóng nhà quản lý cấp cao khỏi việc giải quết những vấn đề sự vụ, do đó có nhiều thời gian để xây dựng và lựa chọn các chiến lược phát triển. Ngoài ra cách quản lý này còn tạo điều kiện cho chuyên gia phát huy sáng kiến của mình. Cơ cấu tổ chức quản lý và cơ cấu sản xuất của công ty có mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với nhau tạo động lực phát huy hiệu quả trong công việc. Thông tin của lãnh đạo cấp cao nhanh chóng được truyền đạt cho cán bộ cấp dưới và có được nhanh thông tin phản hồi, thông tin có tính nhất quán và tính chính xác cao. * Cơ cấu quản trị: Đứng đầu bộ máy quản trị là tổng giám đốc, người quản trị công ty theo chế độ 1 thủ trưởng, có quyết định điều hành hoạt động sản xuất của công ty theo đúng kế hoạch, chính sách pháp luật của nhà nước và chịu trách nhiệm trước tập thể lao động về kết quả sản xuất, kinh doanh của Công ty. Tổng giám đốc là người đại diện cho công ty trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Phó tổng giám đốc tài chính có chức năng tham mưu cho tổng giám đốc về công tác quản trị tài chính. Trực thuộc Phó tổng giám đốc tài chính gồm 2 phòng: Tài vụ và Kế toán. Phòng Tài vụ có chức năng huy động vốn cho sản xuất, thanh toán các khoản nợ, vay và trả (nội bộ và đối ngoại) Phòng Kế toán có chức năng tính giá thành sản phẩm, xác định kết quả sản xuất kinh doanh (lãi hay lỗ). Phó tổng giám đốc kỹ thuật có chức năng chỉ đạo, kiểm tra chất lượng sản phẩm, tham mưu cho tổng giám đốc về kỹ thuật khi công ty có nhu cầu đầu tư dây chuyền sản xuất. Trực thuộc phó tổng giám đốc kỹ thuật gồm 2 phòng: Kỹ thuật và KCS có chức năng theo dõi việc thực hiện các quá trình công nghệ, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu và chế thử sản phẩm mới. Phó tổng giám đốc kinh doanh chịu trách nhiệm về quản trị nguyên vật liệu và tiêu th sản phẩm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty luôn nhịp nhàng đều đặn. Phó tổng giám đốc kinh doanh giám sát hoạt động của phòng Kinh doanh. Phòng Kinh doanh có chức năng lập kế hoạch sản xuất kinh doanh (ngắn hạn và dài hạn), cân đối kế hoạch, điều độ sản suất và chỉ đạo kế hoạch cung ứng vật tư sản xuất, ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, thu mua vật tư thiết bị tiêu thụ sản phẩm, tổ chức hoạt động Marketing từ qúa trình sản xuất đến tiêu thụ, thăm dò và mở rộng thị trường, lập ra các chiến lược tiếp thị quảng cáo, lập phương án phát triển cho Công ty. Các nhóm thuộc phòng kinh doanh là hệ thuộc các cửa hàng, nhóm Marketing, nhóm cung ứng vật tư, nhóm xây dựng cơ bản, nhóm điều hành sản xuất, nhóm vận tải, nhóm bốc vác, kho tàng. Văn phòng có chức năng lập định mức thời gian cho các loại sản phẩm, xác định mức tiền lương, tiền thưởng cho toàn bộ công nhân viên của công ty, tuyển dụng lao động, phụ trách vấn đề bảo hiểm an toàn lao động vệ sinh công nghiệp, phục vụ và tiếp khách. * Cơ cấu sản xuất: Cơ cấu sản xuất của công ty được chuyên môn hoá tới từng xí nghiệp, mỗi xí nghiệp được phân công chế biến những sản phẩm nhất định và tổ chức sản xuất theo phương pháp dây chuyền liên tục. Sự mạnh dạn đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức sản xuất được công ty thực hiện năm 1996: - Tập trung 3 phân xưởng sản xuất kẹo thành xí nghiệp kẹo. - Tập trung 2 phân xưởng sản xuất bánh thành xí nghiệp bánh. - Tập trung các bộ phận in hộp, cắt giấy, nề mộc, cơ điện ... thành xí nghiệp phụ trợ. - Sát nhập Nhà máy thực phẩm Việt Trì vào công ty. - Sát nhập Nhà máy bột dinh dưỡng vào công ty. 4. Một số đặc điểm sản xuất kinh doanh của công ty Bánh kẹo Tràng An 4.1. Đặc điểm về lao động. Đặc điểm sản xuất của Công ty là lao động nhẹ nhàng, đòi hỏi sự khéo léo của người lao động nên lao động nữ chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80%. Trong những năm qua lực lượng lao động của Công ty không ngừng lớn mạnh cả về số lượng cũng như chất lượng. Từ một Công ty chỉ có 1000 lao động đến nay con số này lên tới gần 2000 lao động. Điều này cho thấy trong những năm qua Công ty hoạt động rất có hiệu quả, từ đó dẫn tới mở rộng hoạt động sản xuất. Số lượng cán bộ công nhân viên được bố trí như sau: Bảng 1: Số lượng và cơ cấu lao động của Công ty Đơn vị tính: người Stt Nội dung Tổng số Hành chính XN Kẹo XN Bánh XN Phụ trợ XN Việt Trì XN Nam Định 1 Lao động dài hạn 1048 109 365 90 41 387 56 2 Lao động 1-3 năm 608 43 170 172 5 203 15 3 Lao động thời vụ 314 5 47 51 0 211 0 4 Tổng số 1970 157 582 313 46 801 71 5 Lao động gián tiếp 259 157 14 13 7 40 28 -Nghiệp vụ kinh tế 189 132 8 8 1 25 15 -Nghiệp vụ kỹ thuật 56 25 5 5 5 9 7 -Phục vụ, vệ sinh 20 3 2 2 1 6 66 6 Lao động trực tiếp 1711 0 568 300 39 761 43 (Nguồn: Phòng tổ chức của công ty) Với tổng số công nhân viên là 1970 người (năm 2001), trong đó 1656 người làm việc thường xuyên tại Công ty, còn 314 người làm theo thời vụ (ví dụ vào những dịp lễ, tết..) đã tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của Công ty. Ban giám đốc không chỉ quan tâm đến số lượng lao động mà còn chú trọng đến chất lượng lao động. Công ty thường xuyên mở các lớp đào tạo tại doanh nghiệp, cử người đi học nước ngoài về quản lý kinh tế và tổ chức các cuộc thi tay nghề lên bậc thợ cho công nhân. Hiện nay, Công ty có 164 người có trình độ đại học, 37 người đạt trình độ cao đẳng và 44 người đạt trình độ trung cấp, bậc thợ bình quân toàn Công ty là 4/7. Nếu đem so sánh các Công ty sản xuất bánh kẹo nói chung thì Công ty Bánh kẹo Tràng An có trình độ đại học và trình độ chuyên môn vào loại khá, điều này, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Bảng 2: Cơ cấu lao động theo trình độ. ĐVT: người Chỉ tiêu lao động Đại học Cao đẳng Trung cấp Công nhân kỹ thuật 1.Cán bộ kỹ thuật 35 15 6 2.Cán bộ quản lý 129 22 38 3.Công nhân bậc 6-7 305 4.Công nhân bậc 4-5 507 5.Công nhân bậc 3 722 Tổng số 164 37 44 1534 (Nguồn: Phòng tổ chức của công ty) Số lượng cán bộ làm công tác lãnh đạo quản lý, làm công tác khoa học kỹ thuật là 245 người, chiếm 15% trong tổng số lao động. Trong đó, trình độ đại học chiếm 9,9%, cao đẳng chiếm 2,23% và trình độ trung cấp chiếm 2,87%. Đối với đặc điểm của ngành sản xuất bánh kẹo thì đây là một tỷ lệ khá cao, thể hiện số cán bộ có trình độ quản lý có trình độ cao, tạo điều kiện tốt cho Công ty trong việc điều hành sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. 4.2. Đặc điểm về công nghệ, thiết bị sản xuất. - Đặc điểm về trang thiết bị. Trước đây máy móc thiết bị của Công ty phần lớn là lạc hậu cũ kỹ, năng suất thấp. Nhưng từ năm 1991 trở lại đây, Công ty đã nhập các thiết bị của các nước công nghiệp tiên tiến như: Đức, Italia, Đan Mạch, Nhật Bản. Tuy nhiên, các thiết bị có công suất nhỏ và vừa, đây là chiến lược dài hạn đúng đắn của Công ty do nhận định về thị trường Việt Nam tương đối bình ổn về nhu cầu bánh kẹo trong tương lai, môi trường cạnh tranh khốc liệt và tỷ lệ hao mòn vô hình về tài sản tăng nhanh. Bảng 3: Thiết bị công nghệ sản xuất của Công ty Tên thiết bị sản xuất Nước sản xuất Năm sử dụng Công suất (Kg/giờ) 1. Thiết bị sản xuất kẹo - Nồi nấu kẹo chân không. - Máy gói kẹo cứng. - Máy gói kẹo mềm, kiểu gấp xoắn. - Máy gói kẹo mềm kiểu gói gối. - Dây chuyền kẹo Jelly đổ khuôn. - Dây chuyền kẹo Jelly cốc. - Dây chuyền kẹo Carmen béo. Đài loan Italia Đức Hà Lan Australia Inđônêxia Đan Mạch 1991 1994 1996 1997 1997 1998 1999 300 500 600 1000 2000 120 200 2. Thiết bị sản xuất bánh. - Dây chuyền sản xuất bánh qui. - Dây chuyền phủ sôcôla. - Dây chuyền sản xuất đóng gói bánh. Đan Mạch Đan Mạch Nhật Bản 1994 1994 1996 300 200 300 (Nguồn: Phòng vật tư của công ty) Như vậy, trình độ trang thiết bị sản xuất bánh kẹo của Công ty Bánh kẹo Tràng An đã có sự đầu tư hợp lý. Bên cạnh các trang thiết bị hiện đại tự động hoá Công ty còn kết hợp sử dụng kỹ thuật thủ công truyền thống. Việc đầu tư thêm máy móc thiết bị không chỉ làm tăng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn góp phần đa dạng hoá sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm và phát triển sản phẩm của Công ty - Đặc điểm về qui trình công nghệ Hầu hết các qui trình công nghệ sản ở Công ty rất đơn giản, chu kỳ ngắn, qúa trình chế biến sản phẩm nằm gọn trong một phân xưởng nên công tác tổ chức và quản lý chất lượng sản phẩm tương đối thuận tiện. Các dây chuyền sản xuất nửa tự động, nửa thủ công hoặc một vài khâu trong dây chuyền là tự động, một vài khâu thủ công. Sau đây là các sơ đồ qui trình công nghệ sản xuất của ba chủng loại sản phẩm chính là kẹo mềm, kẹo cứng và bánh các loại. Sơ đồ 1: Qui trình công nghệ sản xuất bánh Biscuit Shortening, Magarin Đánh trộn bông xốp Bổ xung glucô, lecithin Đường xay, bột mì, hương liệu Đánh trộn Máy dập hình Nướng bánh Băng tải nguội Đóng túi Xếp hộp thành phẩm Sơ đồ 2: Qui trình sản xuất kẹo mềm Đường kính, mật, tinh bột Hoà tan Lọc Đánh trộn Làm nguội Nấu kẹo Quật keo Phụ liệu hương liệu Cán kẹo Sắt kẹo Sàng kẹo Gói tay Chặt miếng Lăn côn Vuốt kẹo Gói máy Sơ đồ 3: Qui trình sản xuất kẹo cứng Đường kính, glucô Hoà, lọc đường Thùng chứa Nấu tại nồi nấu liên tục Phòng làm lạnh Thành hình Sàng, làm nguội Hương liệu Bơm dịch nhân Tạo dịch nhân Lựa chọn Bao gói Đóng thành phẩm Nhập kho (Nếu kẹo có nhân) Cả ba qui trình công nghệ trên tuy không phức tạp nhưng mỗi bước đều phải tuân theo các chỉ tiêu kỹ thuật. Nếu một trong các chỉ tiêu kỹ thuật bị vi phạm như vệ sinh, thừa thiếu nguyên vật liệu, già lửa, non lửa,... sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn nhiệt độ quá cao hoặc áp suất quá cao sẽ gây ra hiện tượng già lửa, kẹo cứng, ăn khó nhai. Nếu nấu ở áp suất thấp gây ra non lửa, kẹo thường hay bị chảy nước, khó bảo quản. Biện pháp để tránh sai sót trong quá trình sản xuất là Công ty phải luôn nâng cao tay nghề cho công nhân và phổ biến thường xuyên về các chỉ tiêu kỹ thuật cần đạt được. Đồng thời, kết hợp hài hoà giữa máy móc và thủ công, đưa nguyên vật liệu vào sản xuất phải kịp thời phù hợp với qui trình công nghệ cả về số lượng và chất lượng. 4.3. Đặc điểm về vốn Vốn là một trong những yếu tố đầu vào không thể thiếu được trong quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong thực tế, có rất nhiều Công ty phải ngừng hoạt động vì thiếu vốn nhưng Công ty bánh kẹo Tràng An lại có năng lực khá mạnh về vốn so vơí các doanh nghiệp Nhà nước khác. Do hoạt động kinh doanh của Công ty trong nhiều năm qua có hiệu quả. Thật vậy qua bảng 4 chúng ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu của công ty tăng rõ rệt, năm 1999 là 45,6 tỷ đồng sang năm 2000 tăng lên 48,05 tỷ đồng sang năm 2001 tăng lên 50,738 tỷ đồng. Công ty đã thật sự làm ăn có hiệu quả, không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh nên nguồn vốn chủ sở hữu qua các năm không ngừng lớn mạnh, kết hợp với khả năng huy động vay từ nguồn khác. Qua các năm tăng lên rất nhiều, chứng tỏ công ty đã chiếm được lòng tin của các tổ chức cho vay. Với tiềm lực đó Công ty có rất nhiều thuận lợi trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng mở rộng thị phần được khẳng định là có triển vọng. Bảng 4: Cơ cấu vốn của Công ty Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Giá trị (Tỷ đồng) % Giá trị (Tỷ đồng) % Giá trị (Tỷ đồng) % I. Cơ cấu vốn 1. Vốn lưu động 47,22 37,28 46,89 38,31 47,1 38 2. Vốn cố định 79,44 62,77 75,5 61,69 76,65 62 Tổng số 126,66 100 122,39 100 123,75 100 II. Nguồn vốn 1. Vốn chủ sở hữu 45,6 36 48,05 39,29 50,738 41,00 2. Vay ngắn hạn 74,95 59,1 64,68 52,84 56,75 45,85 3. Vay từ nguồn khác 6,11 4,9 9,66 7,9 16,262 13,15 Tổng số 126,66 100 122,39 100 123,75 100 Nguồn: Phòng tài vụ của công ty 4.4. Đặc điểm sản phẩm Công ty Bánh kẹo Tràng An qua nhiều năm hoạt động, sản phẩm cùng với tên gọi của Công ty đã khẳng định được thế mạnh trên thị trường. Ngày nay, với kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại của các nước Italia, Đức, Đan mạch, Australia, Nhật Bản… sản phẩm của Tràng An đã được người tiêu dùng ưa thích, xứng đáng với danh hiệu Hàng Việt Nam chất lượng cao. Hiện nay, Công ty sản xuất gần 100 chủng loại bánh kẹo. Do đặc tính của sản phẩm không phải đầu tư theo chiều sâu mà chủ yếu bằng đa dạng hoá sản phẩm, nên Công ty luôn cố gắng, nghiên cứu, tìm kiếm các sản phẩm mới. Việc nhập thêm một số dây chuyền sản xuất kẹo Jelly, Caramen đã giúp cho Công ty có những sản phẩm đặc trưng. Đặc điểm chủ yếu của bánh kẹo là những sản phẩm thuộc đồ ăn ngọt phục vụ chủ yếu cho các dịp lễ, tết do đó tình hình sản xuất của Công ty mang tính thời vụ. Thành phần chủ yếu là các nguyên liệu hữu cơ, dễ bị vi sinh phá huỷ, nên thời hạn bảo hành ngắn, thông thường là 60 ngày, riêng kẹo càphê là 180 ngày, tỷ lệ hao hụt tương đối lớn và yêu cầu vệ sinh cao. Khác với sản phẩm thông thường, quá trình để hoàn thành sản phẩm bánh kẹo ngắn chỉ trong ba giờ, vì vậy không có sản phẩm dở dang. Sản phẩm của Công ty được chia thành các loại chính như sau: Tên sản phẩm Công suất sản xuất Bánh Ngọt 7 Tấn/ ngày Mặn 5 Tấn/ ngày Kẹo Cứng 10 Tấn/ ngày Mềm 8 Tấn/ ngày Dẻo 12 Tấn/ ngày Kẹo cứng là mặt hàng truyền thống của Công ty, bao gồm: Kẹo Caramen béo, hoa quả, Wandisney, kẹo tây du ký,... Mỗi loại sản phẩm kẹo cứng có hương vị khác nhau như dứa, Socola, Ô mai, dừa, Cốm, Me. Kẹo cứng có nhân lần đầu tiên sản xuất ở Việt Nam tại Công ty bánh kẹo Tràng An với dây truyền sản xuất nhập từ Ba Lan. Nó có đặc trưng về mùi thơm, dòn, dễ ăn, hương vị hài hoà. Tuy nhiên, trong Công ty thì sản kẹo mềm và kẹo dẻo chiếm ưu thế hơn cả về số lượng và chất lượng do nhu cầu hiện nay trên thị trường về kẹo thì kẹo mềm và kẹo dẻo vẫn được nhiều người yêu thích hơn. Kẹo dẻo của Công ty gồm: Jelly chíp chíp, Gôm, mè xửng, Jelly đổ khuôn. Kẹo mềm gồm: kẹo bắp bắp, mơ, sữa dừa, cốm,... Về sản phẩm bánh, Công ty đã kịp thời nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại tiên tiến của Italia, Đan Mạch,... để cho ra xưởng các loại bánh Biscuit, bánh Craker, bánh kem xốp,... phục vụ cho nhu cầu sở thích của từng đối tượng tiêu dùng. 4.5. Đặc điểm thị trường bánh kẹo ở nước ta hiện nay và các đối thủ cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Tràng An. Ngay sau khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, thị trường bánh kẹo ở nước ta trở nên hết sức sôi động. Nó có sự góp mặt của hàng trăm đơn vị cung cấp bánh kẹo trong nước như Công ty đường Biên Hoà, Công ty đường Quảng Ngãi, Công ty Vinabico, Hải Hà, Hải Châu, Kinh Đô,... Bên cạnh đó, còn có các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống như: Kẹo dừa bến tre, Bánh đậu xanh Rồng Vàng, Bánh Cốm, Bánh kẹo nhập khẩu từ biên giới Việt Nam - Campuchia, Việt Nam - Trung Quốc, rồi bánh kẹo nhập lậu, nguồn sản xuất bất hợp pháp, hàng nhái nhãn hiệu, không bảo đảm vệ sinh thực phẩm. Do đó, trong những năm gần đây sản phẩm trên thị trường nước ta tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, ta có thể thấy rõ qua bảng dưới đây: Bảng 5: Tình hình sản xuất bánh kẹo trong toàn quốc. Khu vực cung cấp 1999 2000 2001 Sản lượng (tấn) % Sản lượng (tấn) % Sản lượng (tấn) % DN Nhà nước 60.606.08 42,72 61.500 41,55 63.720 42,29 Công ty Liên doanh 20.345 14,34 22.000 14,86 19.865 13,18 Các thành phần kinh tế khác 47.620 33,57 49.500 33,46 50.100 33,25 Nhập Khẩu 13.286 9,37 15.000 10,13 17.000 11,28 Tổng cộng 141.849 100 148.000 100 150.685 100 So với năm trước 104,33 101,81 Nguồn: Phòng kinh doanh của công ty Qua bảng trên ta thấy sản xuất kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh như vậy Công ty bánh kẹo Tràng An phải chịu một sức ép rất lớn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 4.5.1. Đối thủ cạnh trang trong nước Sản phẩm của Tràng An có mặt ở cả ba vùng Bắc, Trung, Nam. Trong đó, thị trường miền Bắc là thị trường chính của Công ty và chiếm tỷ trọng tiêu thụ lớn nhất. Miền Trung cũng đã tiêu thụ một phần nhưng ở miền Nam lượng tiêu thụ rất ít so với Miền Bắc và miền Trung mặc dù dân cư rất đông. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt về khả năng tiêu thụ là thị hiếu tiêu dùng của từng vùng là khác nhau. ở thị trường miền Bắc mà cụ thể là tại Hà Nội, Tràng An có một đối thủ cạnh tranh lớn là Công ty bánh kẹo Hải Châu. Hải Châu cũng sản xuất một số sản phẩm tương tự như của Tràng An nhưng giá cả lại thấp hơn. Đây là một khó khăn lớn của Tràng An. Ngoài ra cũng ngay tại thị trường Hà Nội, Tràng An còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Công ty khác như Công ty bánh kẹo Hải Hà, đặc biệt kẹo cốm Hải Hà chất lượng cao, mùi vị đặc trưng của cốm đã có uy tín với người tiêu dùng, bánh kẹo của Công ty sữa Vinamilk như bánh Petibeur, sản phẩm của nhà máy 19-5, bánh kẹo Thiên Hương, Hữu Nghị,... Thị trường miền Trung và miền Nam thì các đối thủ chủ yếu của Tràng An là các Công ty đường như: Quảng Ngãi, Lam Sơn, Biên Hoà. Các đối thủ cạnh tranh này có một lợi thế rất lớn đó là nguyên liệu đường tự sản xuất được, một nguyên liệu chủ yếu của bánh kẹo nên chi phí đầu vào thấp hơn hẳn so với Tràng An. Mặt khác, họ lại không phải chịu thuế với các sản phẩm đường nên gía thành thấp hơn hẳn so với Tràng An và trạng thái đó là cạnh tranh không cùng trên một mặt bằng. Ngoài ra, Tràng An còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Công ty liên doanh Perfetti, kẹo cao su có nhân Bloop, kẹo sữa Apenliebe và Công ty chế biến thực phẩm Kinh Đô với sản phẩm bánh các loại đặc biệt là Snack Bim Bim. 4.5.2. Đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Bên cạnh các đối thủ cạnh tranh trong nước. Tràng An còn phải chịu sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngôài như các nước ASEAN và Trung Quốc. Các sản phẩm bánh kẹo của các nước ASEAN có chất lượng cao nhưng giá lại đắt, nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng có thu nhập cao, đây là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của Doanh nghiệp. Còn đối với bánh kẹo của Trung quốc có giá rất rẻ, chất lượng đa dạng, phong phú và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Đây là đối thủ trực tiếp nguy hiểm của Công ty. Từ những đánh giá và nhận định thực tiễn ở trên về các đối thủ cạnh tranh công ty cần đề ra những sách lược và đối lược phù hợp, thích ứng với từng đối thủ. II. hiệu quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Tràng An. 1. Tình hình kinh doanh và khả năng chiếm lĩnh thị trường của Công ty. 1.1. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty một số năm gần đây. Trước năm 1986, Công ty bánh kẹo Tràng An sản xuất và kinh doanh theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp của nhà nước. Mọi chỉ thị, chỉ tiêu kế hoạch do nhà nước giao Công ty đều cố gắng hoàn thành và vượt mức kế hoạch được giao. Sau năm 1986, với chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà Nước ta, Tràng An nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung như được thổi luồng sinh khí mới. Đó là việc nhà Nước ta xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết của nhà nước. Chính tại thời điểm này, Công ty đã khẳng định mình hơn bao giờ hết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Tốc độ tăng sản lượng hàng năm từ 10-15%. Từ sản xuất thủ công là chính Công ty đã chuyển sang cơ giới và bán tự động hoá và lợi nhuận không ngừng tăng từ số vốn của Nhà nước giao cho. Cùng với sự hội nhập và phát triển của nền kinh tế thế giới, với tư duy nhạy bén và tầm nhìn chiến lược của thời đại. Tháng 5 năm 1993 Công ty đã liên doanh với Nhật Bản tạo ra hình thức hợp tác đầu tư 2 bên cùng có lợi. Cũng trong giai đoạn này, Tràng An có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ nhất từ 30-35%/ năm. Sản phẩm của Công ty được xuất khẩu sang một số thị trường nước ngoài như Đông Âu, ASEAN,... Đối với thị trường trong nước, sản phẩm của Công ty có mặt hầu hết 61 tỉnh thành trong cả nước. Sinh ra trong chiến tranh, trưởng thành và phát triển trong sản xuất và xây dựng. Công ty bánh kẹo Tràng An đã không ngừng phát triển, sản phẩm của Công ty ngày càng thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng, đáp ứng lòng mến mộ và tin yêu của nhân dân, xứng đáng một trong những doanh nghiệp hàng đầu sản xuất bánh kẹo trong cả nước. Với gần 40 năm xây dựng và phát triển trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Tràng An đã không ngừng đổi mới và phát triển. Cùng với việc nâng cao chất lượng sản phẩm và đầu tư thiết bị máy móc hiện đại để cho ra đời nhưng sản phẩm mới có chất lượng cao, đa dạng, phong phú về chủng loại, màu sắc, giá cả đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Do vậy mà trong một số năm qua Công ty dẫn đầu về doanh số bán và năm 2000 được bình chọn vào “Top Ten” - Hàng Việt Nam chất lượng cao. Hiện nay với công suất hơn 11.000 tấn/ năm, doanh số bán trung bình đạt 164 tỷ đồng/ năm, Công ty được coi là một trong những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả. Kết quả kinh doanh của Công ty trong những năm gầm đây được phản ánh như sau: (xem bảng 6). Bảng 6: Kết quả kinh doanh của Công ty bánh kẹo Tràng An từ năm 1998-2001 Stt Chỉ tiêu Đ. vị tính 1998 1999 2000 2001 1 Giá trị tổng sản phẩm Tỷ đồng 133,35 135,5 132,8 138 2 Doanh thu Tỷ đồng 153,38 161,5 162,5 168 3 Chi phí bán hàng Tỷ đồng 2,01 1,953 1,987 2,125 4 Chi phí quản lý Tỷ đồng 12,795 13,144 15,058 15,732 5 Nộp ngân sách Tỷ đồng 16,017 16,17 18,2 20,45 6 Lợi nhuận Tỷ đồng 0,325 0,2 0,3 0,38 7 Sản Lượng Tấn 10.694 10700 9.840 10.850 8 Thu nhập bình quân Ng.đồng 700 730 750 900 9 Tổng vốn Tỷ đồng 110,750 126,66 122,39 123,75 -Vốn lưu động Tỷ đồng 40,350 47,22 46,89 47,1 - Vốn cố định Tỷ đồng 70,4 79,44 75,5 76,65 10 Số công nhân viên Người 1921 1832 1962 1970 (Nguồn: Phòng tài vụ và phòng hành chính) 1.2. Tình hình kinh doanh các mặt hàng: Tình hình các mặt hàng tiêu thụ được thể hiện qua bảng số 7. Bảng 7: Tình hình tiêu thụ một số mặt hàng năm 2000 - 2001 (ĐVT: tấn) Stt Mặt hàng 2000 2001 Sản xuất Tiêu thụ Tỷ trọng % Sản xuất Tiêu thụ Tỷ trọng % 1 Kẹo Jelly các loại 835 800 95,8 1050 989 94,2 2 Kẹo cứng nhân 681,2 684,95 100,55 760,64 720 94,65 3 Kẹo tây du ký 375,8 509,1 135,47 525,8 530 100,8 4 Kẹo bắp bắp 97,83 90,62 92,63 96,8 97,5 100,7 5 Kẹo cốm 512,4 528,9 133,22 530,5 503,67 94,94 6 Kẹo socola 563,8 627,5 95,98 630 625,8 99,33 7 Bánh kem xốp 700 689,25 98,46 725,3 730,6 100,7 8 Bánh qui các loại 1300 1486 114,30 1568 1538 98,08 9 Bánh cẩm chướng 746,8 768,9 102,96 795,2 786,4 98,9 10 Bánh Layơn 3,834 3,026 78,92 3,65 3,45 94,52 Nguồn: Phòng kinh doanh của công ty Bảng trên phản ánh tình hình tiêu thụ các mặt hàng chủ yếu đại diện cho gần 100 chủng loại sản phẩm. Hầu hết khối lượng các mặt hàng tiêu thụ đều sát với khối lượng sản suất của Công ty. Điều này chứng tỏ công tác điều hành sản xuất của Công ty là rất tốt, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người tiêu dùng, không xảy ra tình trạng thiếu sản phẩm cung cấp cho thị trường. Mặt khác, trong năm 2001 hầu hết các mặt hàng trên đều tăng khối lượng tiêu thụ. Cụ thể, kẹo Jelly tăng 89 tấn (898 - 800), kẹo cứng nhân tăng 35,05 tấn (720 - 684,95), kẹo tây du ký tăng 20,9 tấn (530 - 509,1), kẹo bắp bắp tăng 6,88 tấn (97,5 - 90,62), bánh kem xốp tăng 41,35 tấn (730,6 - 689,25), bánh qui tăng 52 tấn (1538 - 1468), bánh cẩm chướng tăng 17,5 tấn (768,4 - 786,9), bánh Lay ơn tăng 0,424 tấn (3,45 - 3,026). Duy chỉ có kẹo cốm và kẹo Socola giảm với một lượng không lớn, đối với kẹo cốm giảm 25,23 tấn (503,67 - 528,9), kẹo Socola giảm 1,7 tấn. Sở dĩ có sự thay đổi về tinh hình tiêu thụ là do: Lượng tiêu thụ kẹo Socola, kẹo Cốm giảm là do trong năm 1999, 2000 Công ty chưa đưa ra sản phẩm mới, có chất lượng cao có thể thay thế được kẹo Socola, kẹo Cốm là sản phẩm truyền thống được nhiều Công ty bánh kẹo khác sản xuất. Trong tương lai, Công ty có kế hoạch sản xuất một số loại sản phẩm và thúc đẩy tiêu thụ. Bánh cẩm chướng có hiệu quả kinh doanh thấp nhưng lại c._. nghệ thiết bị, tiến tới cơ giới hoá, tự động hoá, đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm sôcôla, cao su, bánh biscuit.. Hoàn chỉnh các phương tiện vận chuyển (các hệ thống vận chuyển bằng băng chuyền giữa các khâu sản xuất từ thành phẩm đến nhập kho.) -Đảm bảo tự túc phần nguyên vật liệu đường, glucoza, sữa tinh bột,dầu thực vật để sản xuất bánh kẹo. Không nhập khẩu bột mì, sử dụng bột mì xay nghiền trong nước. Tự túc in trong nước một số phụ liệu như giấy nhôm, giấy sáp, băng dán, nhãn túi, hộp sắt,... -Đa dạng hoá sản phẩm: sản xuất các sản phẩm bánh kẹo đường, không đường, có chất béo hoặc không và các sản phẩm nâng cao thể lực. Tổng số đầu tư phát triển ngành bánh kẹo dự tính từ đây đến năm 2005 là 440 tỷ đồng Việt Nam (tương đương với gần33.846.000 USD) 2. Phương hướng phát triển của Công ty Bánh kẹo Tràng An đến năm 2005 Với 40 năm tồn tại và phát triển, Công ty bánh kẹo Tràng An đã từng bước trưởng thành và mở rộng hơn về qui mô. Mục tiêu của Công ty là đến năm 2005, Công ty Bánh Kẹo Tràng An thực sự trở thành doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo lớn nhất Việt Nam, Với trang thiết bị hiện đại, công nghệ sản xuất tiên tiến và có đủ khả năng cạnh tranh với bánh kẹo của cả nước và trên thế giới. Đây là mục tiêu to lớn phản ánh quyết tâm của toàn cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Để đạt được mục tiêu trên Công ty đã đề ra một số phương hướng sau: -Năng lực sản xuất của Công ty theo thiết kế đạt 20.000 tấn /năm. Hiện nay, Công ty mới chỉ khai thác được 60%. Vì vậy, một trong những biện pháp quan trọng là nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị đã đầu tư. -Thường xuyên thay đổi mặt hàng, cải tiến mẫu mã, bao bì, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và hiệu quả sản xuất. -Nghiên cứu, sử dụng nguyên vật liệu trong nước, thay thế hàng nhập khẩu nhằm hạ giá thành sản phẩm, hạn chế được sự biến động của ngoại tệ. -ổn định và nâng cao hiệu quả kinh doanh tại thị trường cũ, mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường phía Nam và thị trường xuất khẩu, ưu tiên khôi phục lại thị trường Đông Âu từng bước thâm nhập thị trường ASEAN và hướng tới thị trường Châu Mĩ và Bắc Mỹ. -Nghiên cứu, mở rộng phạm vi khoán cho các đơn vị xí nghiệp thành viên từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sao cho sâu sát, hợp lý và chặt chẽ. -Nâng cao chất lượng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của sản phẩm bánh kẹo do Công ty sản xuất. Phấn đấu đạt qui trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9002. II. Những Biện pháp cơ bản nhằm nâng cao Hiệu quả kinh doanh của Công ty Bánh Kẹo Tràng An. Với những thành công đã có, Công ty bánh kẹo Tràng An tự hào là một trong các doanh nghiệp Nhà nước đi đầu trong hoạt động sản xuất tự chủ và có hiệu quả trong kinh doanh. Không ai phủ nhận thành tích mà Tràng An đã đạt được. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, khi mà hiện tại chưa bắt đầu, tương lai đang đối đầu và thách thức, nếu tự bằng lòng với những gì mình đạt được rất có thể Công ty sẽ gặp khó khăn trong những năm tiếp theo. Qua thời gian thực tập tại Công Ty và từ kết quả đánh giá về hiệu quả kinh doanh cũng như nêu ra những điểm yếu và nguyên nhân, em mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An trong tương lai. 1. Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu thị trường. Hiện nay, vấn đề quan tâm nhất của Công Ty là tăng sản lượng tiêu thụ và giảm thiểu hàng tồn kho vì bánh kẹo có tỷ số doanh lợi thấp, nếu lượng hàng tồn kho lớn sẽ làm cho Công ty hoạt động không có hiệu quả. Muốn được khối lượng tiêu thụ thì sản phẩm sản xuất ra phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Do vậy Công ty phải có một lực lượng cán bộ nghiên cứu thị trường đủ mạnh mẽ cả về chất lượng và số lượng. Hiện nay Công ty chưa có phòng Maketing; công việc nghiên cứu thị trường do phòng Kinh doanh đảm nhiệm nên hiệu quả đạt được chưa cao. Cán bộ nghiên cứu thị trường gồm có 14 người mà công ty có gần 200 đại lý đặt tại 35 tỉnh, thành; trung bình một cán bộ nghiên cứu thị trường phải phụ trách 14,29 đại lý đặt tại 2,5 tỉnh thành. Nếu như tính thời gian theo dõi một tháng thì cán bộ phải đến kiểm tra các đại lý chỉ có đủ 1,54 ngày kể cả thời gian di chuyển. Điều này dẫn đến các cán bộ phụ trách các thị trường ngoại tỉnh không nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng, các chính sách bán hàng của các đối thủ cạnh tranh từ đó gây khó khăn cho Công ty trong việc hoạch định các chính sách phân phối. Hơn nữa, Công ty không có phòng Marketing nên thu thập thông tin thường rời rạc, khó tổng hợp để nghiên cứu. Việc thành lập phòng Marketing là xuất phát từ yêu cầu của công việc, đòi hỏi Công ty phải có hệ thống thu thập và xử lý thông tin khép kín. Từ thực trạng trên, Công ty có thể thành lập phòng Marketing chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, có nghiệp vụ kỹ thuật Marketing để phân tích, đánh giá thị trường sâu sát từ đó đưa các loại sản phẩm và chính sách bán phù hợp. Lợi ích của Công ty khi thành lập phòng Marketing: Thứ nhất: Khi có phòng Marketing Công ty nắm được tình hình thị trường sâu sát hơn, giúp cho việc lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch huy động vốn sát với yêu cầu thực tế, tránh tình trạng quá dư thừa hoặc thiếu trong việc cung cấp sản phẩm ra thị trường. Thứ hai: Công ty nắm bắt được nhu cầu của khách hàng, sức mua tăng giảm của từng loại sản phẩm, sức mua theo thời vụ để tìm sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ và lập kế hoạch sản xuất từng mặt hàng cho từng tháng.Ví dụ: một số loại bánh cao cấp thường chỉ tăng khối lượng sản xuất vào các dịp lễ tết, lễ hội. Thứ ba: giúp Công ty hiểu rõ hơn về các đối thủ cạnh tranh, so sánh các chính sách giá cả, chất lượng sản phẩm và các chính sách hỗ trợ bán hàng của họ với công ty của mình, liệu hiện nay các chính sách giá đang áp dụng có mang lại hiệu quả cho Công ty hơn các đối thủ cạnh tranh khác không. Từ đó tạo điều kiện cho Công ty điều chỉnh mức chiết khấu hiện nay từ 2%-5% tuỳ theo từng mặt hàng cho các đại lý, qui định mức thưởng cho 20 đại lý có doanh số bán cao nhất và hỗ trợ giá cho các thị trường ở xa. Thứ tư: Giúp cho Công ty chủ động cho sản xuất kinh doanh, có thái độ phù hợp trên từng thị trường, từng đối tượng khách hàng và linh động theo từng thời điểm biến động của môi trường sản xuất kinh doanh. Thứ năm: giúp cho Công ty giải quyết đầu vào và đầu ra một cánh nhanh chóng, giảm tồn kho và đặc biệt tăng cường kinh doanh những mặt hàng có hiệu quả, tạo điều kiện cho Công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khó khăn khi thành lập phòng Marketing Nếu duy trì 14 cán bộ nghiên cứu thi trường ở phòng Kinh doanh sang phòng Marketing thì họ vẫn không nắm bắt được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó, đòi hỏi Công ty phải tuyển thêm một số lượng lớn nhân viên Marketing. Vì vậy, hàng tháng Công ty phải trả thêm một khoản lương khá lớn. - Chi phí cho việc thành lập một phòng mới rất tốn kém như mua sắm bàn ghế điện thoại, máy vi tính, phòng làm việc,... mất khoảng trên 100 triệu đồng. - Bộ máy quản lý của Công ty cồng kềnh hơn, gây khó khăn cho việc quản lý. - Chi phí bán hàng tăng lên do tăng chi phí Marketing. Tuy nhiên, những khó khăn và tăng chi phí này chỉ mang tính trước mắt, xét về chiến lược dài hạn và phấn đấu hoàn thành kế hoạch đến năm 2005 thì việc lập phòng Marketing là một yêu cầu tất yếu. Vì khó khăn nhất hiện nay của Công ty là vấn đề tiêu thụ sản phẩm mà tỉ suất lợi nhuận bánh kẹo thấp, nếu như khâu tiêu thụ là không tốt kéo theo hiệu quả kinh doanh giảm xuống. Vì thế, Công ty cần phải đặc biệt chú trọng tới công tác nghiên cứu thị trường, đẩy mạnh sản lượng tiêu thụ. Xuất phát từ nhu cầu đó việc thành lập phòng Marketing là một đòi hỏi tất yếu. 2. Tiết kiệm nguyên vật liêu nhằm hạ giá thành sản phẩm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thật, chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao, không những thế giá cả sản phẩm cũng luôn được quan tâm. Vì vậy, Công ty bánh kẹo Tràng An cần quan tâm tới các yếu tố giảm chi phí nhằm hạ giá thành sản phẩm. Trong giá thành các sản phẩm kẹo, tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu chiếm tỉ trọng lớn: Kẹo cứng 73,4%, kẹo mềm 72,1%,... Do đó, việc giảm chi phí nguyên vật liệu đóng vai trò quyết định trong công tác hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhiên, với các sản phẩm bánh kẹo của Công ty không thể giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách giảm thành phần nguyên vật liệu, bớt đi nguyên vật liệu dưới mức công thức kỹ thuật hoặc giảm chất lượng nguyên vật liệu để có giá nhập nguyên vật liệu rẻ hơn, như vậy sẽ không đảm bảo chất lượng sản phẩm. Muốn vậy Công ty cần giảm chi phí nguyên vật liệu bằng cách tiết kiệm tối đa lượng tiêu hao, lãng phí nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng công tác thu mua nguyên vật liêu, đổi mới công nghệ sản xuất, sản xuất nghuyên vật liêu thay thế rẻ hơn nhưng chất lượng vẫn đảm bảo, giảm chi phí vận chuyển nguyên vật liệu. Trong quá trình sản xuất bánh kẹo, các tiêu hao lãng phí nguyên vật liêu thường xảy ra như :rơi vãi nguyên vật liệu, không thu hồi nước đường triệt để rửa nồi, khi nấu kẹo còn để trào bồng nhiều ra ngoài. Với định mức tiêu hao nguyên vật liệu được Công ty qui định như sau: - Kẹo cứng với sản lượng 3tấn/ ca tiêu hoa 2,5% tức tiêu hao là 75kg (287.000đ). - Kẹo mềm với sản lượng 8tấn/ ca tiêu hoa 3% tức tiêu hao là 240kg (612.000đ). Nếu độ ẩm của nguyên vật liệu đưa vào sản xuất không cao hơn tiêu chuẩn qui định và độ keo được phân tích chính xác thì mức tiêu hao đó còn quá lớn buộc Công ty cần phải quan tâm. Đối với các tổ nấu, hoà đương thì tiêu hao nguyên liệu chủ yếu chiếm ở khâu này (trên 70% lượng tiêu hao). Do đó, tổ nấu cần giảm bớt tình trạng trào, bồng khi hoà, rơi vãi đường. Đối với quá trình sản xuất các loại bánh người tổ trưởng cần tổ chức thu gom ngay nguyên vật liệu còn thừa sau khi cắt khuôn, đồng thời loại bỏ những chiếc bánh bị vỡ, bị hỏng, khẩn trương giao cho bộ phận đánh trộn bột chế biến để tái chế nhằm đưa vào sản xuất. Việc làm này vừa tiết kiệm được nguyên vật liệu vừa giảm thiểu được sự vận chuyển đến nơi sản xuất. Đối với các sản phẩm là kẹo các tổ kiểm tra chất lượng cần thu hồi các loại kẹo quạn sử dụng, kẹo không đảm bảo chất lượng hoặc trọng lượng đem tái chế sản xuất lại. Hơn nữa, để có thể tiết kiệm được nguyên vật liệu, Công ty cần phải tiếp tục kiểm tra chặt chẽ nguyên vật liệu, cân, đo, đong, đếm theo công thức ghi sổ sách và giao cho những người có trách nhiệm quản lý. Nếu làm tốt những công tác trên không chỉ giúp cho Công ty tiết kiệm được nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm mà còn nâng cao chất lượng sản phẩm, giữ vững uy tín của Công ty trong việc đảm bảo sức khoẻ của người tiêu dùng. Điều này thực sự cần thiết trong việc nâng cao sức cạnh tranh của Công ty Bánh kẹo Tràng An. 3. Tăng cường đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ có trọng điểm. Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng đến việc tăng năng suất lao động và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, Công ty phải nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất kinh doanh, vì các sản phẩm có hàm lượng khoa học và công nghệ cao sẽ thắng thế trong các cuộc canh tranh. So với các giải pháp nêu trên thì việc đầu tư theo chiều sâu là mang tính chiến lược lâu dài, có tác động tới vị thế của Công ty trong tương lai. Do nhu cầu sản xuất phát triển, Công ty đã không ngừng đầu tư máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ nước ngoài, với nguồn vốn vay là chủ yếu nên chưa thể thay thế toàn bộ máy móc cũ, chưa đồng bộ hoá tất cả các dây chuyền sản xuất được. Do đó, Công ty vẫn phải sử dụng máy móc thiết bị cũ, thiếu đồng bộ dẫn đến lãng phí nguyên vật liệu, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Trước tiên, Công ty cần phải kiểm tra, đánh gía lại máy móc, thiết bị, xác định lại khu vực, bộ phận nào cần phải đầu tư ngay. Do sự hạn chế về vốn nên Công ty phải chú trọng đầu tư vào những dây chuyên sản xuất trọng điểm, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, vượt quá khả năng tài chính, vừa không đem lại hiệu quả, vừa gây lãng phí. Như thực trạng hiện nay, Công ty cần đầu tư vào xí nghiệp kẹo, chuyên sản xuất kẹo cứng, kẹo mềm, máy móc nhập của Ba lan từ 1975-1976, sử dụng trên 20 năm nay đã lạc hậu về kỹ thuật, khó đổi mới sản phẩm, ảnh hưởng đến năng suất, sử dụng vật tư kém hiệu quả. Việc đầu tư mua sắm thiết bị mới tăng chất lượng sản phẩm kẹo là rất cần thiết, trước mắt, Công ty cần chú ý đến những máy móc, thiết bị sau: -Hệ thống nồi nấu kẹo của Ba Lan từ năm 1975, nay đã xuống cấp gây nên tình trạng kẹo bị hồi nhập đường cần phải thay thế. -Hệ thống làm lạnh thủ công cần được thay thế hoặc sửa chữa để đáp ứng nhu cầu sản xuất. -Tại xí nghiệp bánh vẫn tồn tại một lò nướng bánh kem xốp của Trung Quốc nhập năm 1977. Đây là lò nướng bánh thủ công dùng than nên nhiệt độ không đều, không ổn định, do đó bánh có thể bị cháy hay già lửa hoặc bánh trắng mặt do nhiệt độ lò không thích hợp, cần thay đổi. Về lâu dài, Công ty cần đầu tư mới toàn bộ dây chuyền sản xuất kẹo mềm, máy móc thiết bị đầu tư phải thích hợp với trình độ tay nghề của công nhân, với khả năng tài chính của Công ty, có như vậy mới tạo được hiệu quả cao trong sản xuất. Cùng với việc đổi mới máy mọc thiết bị, nhập các dây chuyền hiện đại. Công ty phải thường xuyên tổ chức bảo dưỡng, bảo quản sửa chữa theo định kỳ, đảm bảo thực hiện tốt các mắt xích tu sửa nhằm đáp ứng tiến độ sản xuất, năng xuất lao động và chất lường sản phẩm. Đổi mới công nghệ cần đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, khai thác sử dụng có hiệu quả. Đổi mới công nghệ cần tiến hành đồng thời với tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý nhằm phân công đúng người đúng việc, đúng khả năng, đảm bảo thực hiện nghiêm ngặt qui trình công nghệ. Công nghệ đổi mới được lựa chọn phải nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Cuối cùng, việc đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, điều quan trọng là phải có vốn. Cũng như nhiều doanh nghiệp Nhà nước khác, Công ty bánh kẹo Tràng An cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư theo chiều sâu. Tuy vậy, đây chỉ là giải pháp mang tính định hướng, cần phải hoạch định thường xuyên trong kế hoạch dài hạn. 4. Huy động thêm vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc huy động và sử dụng có hiệu quả là một trong những nội dung của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.Trong những năm qua công tác sử dụng vốn của Công ty còn tồn tại một số đặc điểm sau: +Cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định còn chưa hợp lý. Tỷ trọng vốn lưu động còn thấp, nhất là tiền mặt, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán. +Sức sinh lời của vốn còn thấp, số vòng quay toàn bộ vốn chỉ đạt 1,32 vòng. Do đó, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tôi xin đưa ra một số bước thực hiện các giải pháp như sau Bước một: Xác định nhu cầu về vốn kinh doanh. Trong vốn kinh doanh, nhu cầu về vốn cố định và vố lưu động thường khác nhau. Xác định được nhu cầu thực tế về vốn là việc làm khó nhưng giúp cho Công ty biết rõ được lượng vốn cần từ đó xem xét lượng vốn thiếu cần huy động. Đối với vốn cố định: Nhu cầu về vốn cố định chủ yếu là để đổi mới máy móc thiết bị, nhập thêm một số đây chuyền sản xuất mơí. Tuy nhiên, nhu cầu của vốn cố định mang tính dài hạn vì cần một lượng vốn lớn, trước mắt Công ty chưa đáp ứag được. Tuy nhiên, mục tiêu đến năm 2005, Công ty cần đổi mơí dây chuyền sản xuất kẹo dừa, đồng bộ hoá các dây chuyền sản xuất kẹo cứng, sản xuất kẹo cốm mềm... Do vậy, lượng vốn cần huy động khoảng hơn 80 tỷ đồng (theo phương hướng hoạt động của Công ty ). Đối với vốn lưu động: Nhu cầu tối thiểu của vốn lưu động chủ yếu dùng trong các lĩnh vực dự trữ, trong sản xuất thành phẩm và các khâu có liên quan tới tiêu thụ. Do đó, Công ty cần phải lập kế hoạch nhu cầu về vốn lưu động sát với thực tế tránh tình trạng ứ đọng vốn lưu động ảnh hưởng tới tiến độ sản xuất kinh doanh. Bước hai: Huy động từ các nguồn. Năm 2001 Công ty có tổng số vốn là 123,75 tỷ đồng số vốn này vẫn chua đáp ứng đủ nhu cầu về vốn của Công ty. Riêng vốn lưu động chỉ đáp ứng khoang 60-80% nhu cầu. Căn cứ vào lượng vốn còn thiếu, Công ty sẽ huy động vốn từ các nguồn sau - Vay ngân hàng: đây là nguồn vốn có thể huy động được nhiều nhất. Hiện nay, Công ty phải trả lãi 0,75 %/ tháng tương ứng 600-700 triệu đồng. Ngoài ra, vay ngân hàng phải có tổ chức bao lãnh, có dự án khả thi và mất nhiều thời gian chờ đợi, xét duyệt nhiều lúc không đáp ứng kịp thời về vốn cho thời đIểm sản xuất kinh doanh. Do vậy, trong thời gian tới Công ty nên chuyển sang tìm nguồn vốn bổ sung khác, hạn chế vay ngân hàng. Tuy nhiên, đây vẫn là nguồn cung cấp vốn với số lượng lớn. Khuyến khích công nhân viên trong Công ty góp vốn mua cổ phần: đây là hình thức huy động vốn mới đối với Công ty nên nó chưa mang lại hiệu quả cao. Trong năm 2001, Công ty huy động nguồn vốn từ 1970 cán bộ công nhân viên đóng góp hơn 6,5 tỷ đồng, trung bình mỗi người đóng góp hơn 3 triệu, con số này vẫn còn thấp so với số tiền còn nhàn rỗi trong công nhân viên. Công ty cần tích cực tuyên truyền quảng cáo, để không chỉ những người trong Công ty mà cả những người ngoài Công ty vẫn có thể tham gia đóng góp trực tiếp hay gián tiếp, đồng thời nên ấn định mức lãi suất 0,6%/tháng (không kì hạn), trong khi đó lãi suất của ngân hàng trả 0,5%,như vậy lãi suất của Công ty cao hơn lãi suất của ngân hàng 0,1% nhằm thu hút nhiều người tham gia. Thực hiện mức lãi suất này so với mức lãi suất của ngân hàng là 0,75% tháng thì Công ty có thể giảm lãi suất phải trả là 0,15%. Thực hiện tốt các biện pháp này sẽ nâng tổng số tiền đóng góp của công nhân viên trong công ty đến năm 2002 là 8 tỷ đồng và đến 2005, Công ty phấn đấu nâng số tiền này nên khoảng hơn 10 tỷ đồng. - Liên kết với các Công ty cung cấp nguyên vật liệu, ký kết các hợp đồng trả chậm và người mua thanh toán trước tiền hàng nhằm chiếm dụng vốn. Phương hướng huy động vốn hiệu quả nhất và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty hiện nay đó là: Công ty nên đẩy mạnh tiến độ cổ phần hoá tuy nhiên đánh giá lại tài sản là việc làm hết sức khó khăn. Do vậy, Công ty cần tiến hành càng sớm càng tốt, thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Mục tiêu của Công ty là sang năm 2002 phải hoàn tất việc cổ phần hoá và hồ sơ để trình lên Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, tiến tới việc công ty sẽ tham gia thị trường chứng khoán. Đây là một thị trường huy động vốn tiềm năng đối với những công ty làm ăn có hiệu quả muốn mở rộng sản xuất kinh doanh, đặc biệt với công ty Bánh kẹo Tràng An, đây cũng là một kênh huy động vốn hiệu quả. Bước 3: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty cần đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ làm tăng vòng quay vốn lưu động. Đặc điểm của sản phẩm bánh kẹo là có tỷ suất sinh lời thấp nên việc giảm tối đa lượng thành phẩm tồn kho sẽ làm giảm tình trạng ứ đọng vốn. Mặt khác, trong cơ chế thị trường Công ty không nên dự trữ quá nhiều nguyên vật liệu, vừa tăng chi phí dự trữ vừa làm chậm vòng quay của vốn. Đồng thời hạn chế tới mức tối đa sự lãng phí trong quá trình sản xuất. 5. Tăng cường công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực. Đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề có ý nghĩa quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của các doanh nghiệp. Đó cũng chính là tiền đề cần thiết nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty bánh kẹo Tràng An nói riêng. Để tạo ra một lực lượng lao động có đủ khảt năng thích ứng với những thách thức của môi trường kinh doanh hiện nay Công ty cần phải áp dụng hợp lý các hình thức và chương trình đào tạo dưới đây: * Đối với đội ngũ công nhân Thường xuyên mở các lớp đào tạo bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho công nhân cán bộ kỹ thuật. Để làm được điểu đó, hàng quí, hàng năm Công ty phải tổ chức kiểm tra tay nghề cho công nhân, trên cơ sở đó mà phân loại: - Công nhân có tay nghề khá trở lên - Công nhân có tay nghề trung bình - Công nhân có tay nghề kém: cần bồi dưỡng Công nhân có tay nghề kém phân làm hai loại:công nhân yếu về kiến thức chuyên môn và công nhân yếu về tay nghề. Trên cơ sở đó có kế hoạch đào tạo cho phù hợp. +Đối với công nhân yếu về kiến thức chuyên môn, phải tổ chức lớp để nâng cao trình độ hiểu biết về chuyên môn, nghành nghề, nắm vững qui trình công nghệ kỹ thuật. Có thể tổ chức lớp học ngoài giờ tuỳ theo tình hình sản xuất của Công ty. + Đối với công nhân có tay nghề yếu thì tuỳ theo tình hình sản xuất, có thể tách khỏi sản xuất để đào tạo tập trung hoặc tổ chức đào tạo kềm cặp tại chỗ, tốt nhất là phân công những công nhân có tay nghề cao, có kinh nghiệm sản xuất kèm cặp, hưóng dẫn những công nhân có tay nghề yếu. * Đối với đội ngũ cán bộ quản lý - Gửi các cán bộ là trưởng phòng, phó phòng nghiệp vụ đi nước ngoài và dự các lớp bồi dưỡng cán bộ. - Đối với đội ngũ nhân viên làm công tác chuyên môn nghiệp vụ thì kiến thức về kinh tế, ngoại ngữ, tin học, là rất cần thiết. Do đó, Công ty cần tạo điều kiện thuận lợi cho công nhân viên đi học thêm văn bằng hai ở các trường Đại học. Đặc biệt, Công ty cần chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên ở các phòng tổng hợp và một số các cán bộ trẻ có năng lực về chuyên môn, kiến thức thị trường, ngoại ngữ, nghiệp vụ Marketing làm cơ sở, nòng cốt cho phòng Marketing đi vào hoạt động có hiệu quả. Với các hoạt động trên, trong vòng một năm Công ty có thể nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, trình độ chuyên nghiệp vụ,kỹ năng quản lý của cán bộ công nhân viên toàn Công ty. Góp phần hoàn thiện công tác tổ chức bộ máy, quản lý lao động có hiệu quả. Nâng tỷ trọng đội ngũ lao động có trình độ đại học và trên đại học lên 80% tổng số lao động quản lý toàn Công ty. Bên cạnh biện pháp trên Công ty còn chú ý, quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ công nhân viên, áp dụng hình thức trả lương, khen thưởng hợp lý. Đặc biệt Công ty rất quan tâm, chú ý đến đời sống của chị em. Nhân dịp Quốc tế phụ nữ 8-3 hay ngày thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, hàng năm Công ty tổ chức hội thi nữ công gia chánh, cán bộ công đoàn giỏi, thi cắm hoa, thi vẻ đẹp ứng xử, khéo tay hay làm. Trên thực tế Công ty đã hình thành và phát triển 40 năm và trải qua thời kỳ bao cấp nên cơ cấu lao động khá cồng kềnh, một số máy móc thiết bị và công nghệ sản xuất mặt hàng còn lạc hậu, đòi hỏi nhiều lao động thủ công. Hiện nay tổng số lao động của toàn Công ty lên tới 1970 người, trong đó xí nghiệp kẹo chiếm 582 người và xí nghiệp bánh chiếm 313 người. Hai xí nghiệp này chiếm số lượng lớn lao động như vậy vì số công nhân gói kẹo thủ công xếp bánh vào hộp chiếm tỷ trọng cao. Việc có quá nhiều công nhân làm việc trong lĩnh vực này sẽ làm cho năng suất lao động giảm xuống dẫn đến khó hạ giá thành sản phẩm và hiệu quả kinh doanh sẽ giảm xuống. Do đó công ty cần phải thay đổi cơ cấu lao động sao cho hợp lý. Đối với tình hình thực tế của Công ty bánh kẹo Tràng An, muốn hạ giá thành sản phẩm thì cần tăng năng suất lao động và hạ chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm. Để thực hiện tốt việc giảm chi phí tiền công, Công ty cần phối hợp thực hiện các biện pháp sau: Thứ nhất: Nhập thêm một số máy gói kẹo thay thế cho việc gói kẹo bằng tay. Phương án này giúp cho Công ty rút dần những người có năng suất thấp, tuổi nghề cao hoặc ý thức trách nhiệm kém,... việc giảm số lao động xuống còn tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý và sử dụng lao động và tăng năng suất lao động. Nhưng trong điều kiện thực tế của Công ty một mặt Công ty muốn thực hiện việc nâng cao hiệu quả nhưng phải đảm bảo được lợi ích của xã hội, mặt khác phải đảm bảo việc huy động và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả nhất. Thứ hai: Xác định cơ cấu lao động tối ưu Đối với số lượng công nhân viên gần 2000 người đòi hỏi các nhà quản trị phải biết sử dụng và cơ cấu lại lao động sao cho mang lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Để có được cơ cấu lao động tối ưu, khi xây dựng phải dựa trên các căn cứ: -Qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm. -Cấp bậc công nhân kỹ thuật. -Định mức thời gian lao động. -Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Xuất phát từ các căn cứ trên, việc xác định lại cơ cấu lao động tối ưu được thực hiện như sau: Các loại lao động phụ và phụ trợ, tuỳ theo đặc điểm kinh tế và kỹ thuật của doanh nghiệp mà qui định tỷ lệ hợp lý so với công nhân chính. Các loại lao động quản lý, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng khâu, từng bộ phận mà tính định biên cán bộ quản lý không vượt quá 10% so với lượng công nhân sản xuất trực tiếp. Sắp xếp lại cơ cấu lao động tối ưu ngoài lợi ích giảm được chi phí nhân công mà còn là cơ sở để cho quá trình sản xuất diễn ra cân đối, nhịp nhàng và liên tục; là cơ sở để nâng cao hiệu quả quá trình sản xuất của Công ty. Một số lưu ý khi thực hiện biện pháp này. Công ty bánh kẹo Tràng An là doanh nghiệp Nhà nước nên nâng cao hiệu quả kinh doanh phải vừa đảm bảo lợi ích của Công ty, lợi ích của người lao động và lợi ích của cả xã hội; do vậy việc giảm bớt số lượng lao động xuống không được gây khó khăn cho đời sống của công nhân và cho Nhà nước. Khi thực hiện biện pháp trên Công ty cần lưu ý tới một số điểm sau: ã Giải quyết số lao động dư thừa bằng cách tăng năng suất của máy lên, bố trí công nhân làm việc ba ca hoặc làm việc thay phiên nhau. ã Đối với số công nhân viên lâu năm, Công ty cần kết hợp với vận động và thực hiện các chính sách hỗ trợ về kinh tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống vật chất của họ, khuyến khích họ tự nguyện xin nghỉ. ã Các biện pháp giảm lao động phải áp dụng dần, không nên tạo áp lực gây ức chế đối với công nhân, làm giảm sự say mê công việc dẫn đến giảm năng suất lao động. ã Việc phân và bố trí lại lao động phải đáp ứng được ba yêu cầu: phù hợp với năng lực, sở trường và nguyện vọng của từng người. III. Một số kiến nghị với Nhà Nước Thực tế trong những năm qua, Công ty Bánh kẹo Tràng An đã tồn tại trong môi trường kinh doanh phức tạp. Ngoài các nhân tố chủ quan ra các nhân tố khách quan đóng một phần không nhỏ tác động đến hiệu qủa kinh doanh của Công ty. Sau đây là những kiến nghị của Công ty Bánh kẹo Tràng An: -Trước năm 1999, Công ty bánh kẹo Tràng An nộp ngân sách thông qua thuế doanh thu 6% và nộp thuế VAT 10% chi phí đầu vào bắt đầu từ năm 2000 sự chênh lệch này đã làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và sự vươn lên của Công ty trong những năm sắp tới. -Nhà nước nên giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu dùng trong sản xuất: bột mì, hương liệu. Đồng thời giảm thuế xuất nhập khẩu để Công ty có thể tăng sản lượng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả kinh doanh. -Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu ngăn chặn bánh kẹo nhập khẩu và chống hàng nhập lậu, chống nạn hàng giả, hàng nhái mẫu. Đồng thời cần có ưu đãi về thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. -Đảm bảo thị trường tiền tệ ổn định, tạo điều kiện về vốn sản xuất cho doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về lãi suất vay, giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng về trả lãi ngân hàng và có thể có điều kiện đầu tư chiều sâu đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ. Kết luận Phân tích hiệu quả kinh doanh là một việc làm tất yếu khách quan có từ lâu trong sản xuất kinh doanh nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh cuả doanh nghiệp. Nó phát sinh và phát triển cùng với quá trình sản xuất kinh doanh, tính tất yếu của nó do yêu cầu sản xuất kinh doanh đòi hỏi và mục đích không ngừng vươn lên của con người. Nó có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với doanh nghiệp. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ và thực chất hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý sẽ nắm được các yếu tố tích cực và yếu kém tồn tại trong sản xuất kinh doanh, tìm ra nguyên nhân ảnh hưỏng đến hiệu quả đó rồi từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, đề ra các biện pháp khắc phục thích hợp để ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước, Công ty Bánh kẹo Tràng An đã có những thay đổi theo hướng tích cực, doanh thu ngày một tăng, hiệu quả ngày một cao và có vị trí vững chắc, uy tín trên thị trường trong nước. Song bên cạnh đó Công ty đã gặp không ít khó khăn, vẫn còn một số điểm vẫn tồn tại cần có biện pháp giải quyết để nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong giới hạn của đề tài khoá luận này tôi đã kết hợp sử dụng những kiến thức lý luận tiếp thu được từ nhà trường với những kiến thức thực tiễn trong quá trình tìm hiểu để phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty Bánh kẹo Tràng An. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu và khả năng có hạn nên bản khoá luận này không tránh khỏi những sai sót trong quá trình phân tích. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp chỉ dẫn của các thầy cô giáo và của lãnh đạo nhà máy để xây dựng bản khoá luận này được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lời biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế, đặc biệt là giáo viên T.S. Trịnh Thị Hoa Mai, là người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các cô chú trong phòng Kinh doanh đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành bản khoá luận này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS. TS. Hoàng Minh Đường & PTS. Nguyễn Thừa Lộc Quản trị doanh nghiệp thương mại - NXB Thống kê, 2000 2. GS. TS. Ngô Đình Giao Kinh tế vĩ mô - Đại học KTQD, 1999 3. PGS. TS. Phạm Ngọc Kiểm Thống kê doanh nghiệp - NXB Thống kê, 2000 4. Các bản báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1998- 2001 của Công ty bánh kẹo Tràng An. 5. Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam - NXB Thống kê 6. Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh 7. Hoạch định kinh doanh - Khoa Kinh tế - ĐH Quốc gia Hà Nội 8. Marketing căn bản - NXB Giáo dục 9. Phương thức hoạt động của Công ty bánh kẹo Tràng An. 10. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty bánh kẹo Tràng An 1996 - 2001. 11. Tạp chí công nghiệp Việt Nam số 24/1999; 6/2000; 19/2001. 12. Tạp chí tài chính: số 2/2001. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0257.doc
Tài liệu liên quan