Hiệu quả kinh tế của việc áp dụng thiết bị công nghệ mới trong sản xuấtxi măng của Công ty xây lắp Thương Mại I

Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học quản lý và kinh doanh hànội Khoa quản lý doanh nghiệp *********************************** luận văn tốt nghiệp Đề tài: Hiệu quả kinh tế của việc áp dụng thiết bị công nghệ mới trong sản xuất xi măng của Công ty Xây Lắp Thương Mại I Giáo viên hướng dẫn : PGS-TS Phạm quang Huấn Sinh viên thực hiện : Trần Hải Anh Lớp : 4a04 Msv : 99d45 Chuyên ngành: Quản lý kinh doanh Chuyên sâu : Quản lý doanh nghiệp Luận văn được bảo vệ tại hội đồng chấm luận văn

doc47 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1445 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả kinh tế của việc áp dụng thiết bị công nghệ mới trong sản xuấtxi măng của Công ty xây lắp Thương Mại I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tốt nghiệp Trường Đại học Quản lý và kinh doanh Hà Nội ngày... tháng... năm 2003 Lời mở đầu Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, những thành tựu to lớn của nó đã và đang đẩy nhanh sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội của các nước trên thế giới. Công nghệ đã làm tăng sức mạnh cơ bắp và tinh thần của con người. Thông qua sự phát triển của nhiều nước cho thấy công nghệ là nhân tố quyết định khả năng của một nước đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội với tốc độ cao và ổn định. Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của khoa học và công nghệ hiện đại, Đảng ta đã khẳng định từ nay đến năm 2020 phấn đấu xây dựng nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp, khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Theo hướng này các doanh nghiệp Việt nam phải coi đổi mới công nghệ là một biện pháp chủ yếu hàng đầu để phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh, dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường. Qua hơn 15 năm đổi mới, các doanh nghiệp công nghiệp nói chung đã có nhiều cố gắng đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội. Tuy nhiên những kết quả này là còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đối với cơ khí nước ta, việc sản xuất trong ngành bị hạn chế bởi máy móc cũ kĩ và hệ thống sản xuất lỗi thời. Các cơ sở sản xuất có đặc điểm là thiết bị và máy móc sản xuất cũ kỹ và hỗn tạp có nguồn gốc từ nhiều nước khác nhau. Nguồn nhân lực thuộc bí quyết của ngành lại có giới hạn. Hậu quả là tỉ lệ phế phẩm cao, năng lực cạnh tranh thấp không đáp ứng được nhu cầu thị trường… Điều này đặt ra vấn đề cấp bách cần giải quyết đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lí doanh nghiệp để đưa ngành cơ khí đi lên tương xứng với tầm quan trọng của nó, cũng như việc đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước hiện tại và tương lai và việc hướng tới xuất khẩu. Vì vậy em đã chọn đề tài:” Hiệu quả kinh tế của việc áp dụng thiết bị công nghệ mới trong sản xuất xi măng của Công ty Xây Lắp Thương Mại I “ cho luận văn tốt nghiệp của mình. Bài viết gồm 3 chương: Chương I: lý luận chung về đổi mới công nghệ Chương II: Thực trạng thiết bị công nghệ trong xí nghiệp xi măng nội thương của Công ty xây lắp thương mại I. Chương III: Giải pháp đổi mới công nghệ máy nghiền xi măng 9 tấn/h và hiệu quả kinh tế sau đổi mới. Để hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô khoa Quản lý doanh nghiệp của trường Đại học Quản lý kinh doanh Hà Nội đặc biệt là PGS .TS Phạm quang Huấn đã tận tình giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này. Do kiến thức hạn chế, đây lại là bước đầu làm quen với hình thức nghiên cứu khoa học nên không tránh khỏi những sai sót, kính mong được sự thông cảm và giúp đỡ của các thầy giáo, cô giáo. Chương I : Lý luận chung về đổi mới công nghệ (ĐMCN) Và hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ I. Nhận thức về đổi mới công nghệ 1. Công nghệ là gì ? Thuật ngữ công nghệ gần đây được nhiều ngừơi của các lĩnh vực, các ngành khác nhau nhắc tới. Trong khi bắt đầu công nghiệp hoá, người ta dùng công nghệ (techologie) với nghĩa hẹp là các phương pháp, giải pháp kỹ thuật, trong các dây chuyền sản xuất. ở Việt Nam cho đến nay, công nghệ thường được hiểu là quá trình tiến hành công đoạn sản xuất, là thiết bị để thực hiện một công nghệ ( do đó công nghệ thường là tính từ của một cụm thuật ngữ như quy trình công nghệ, thiết bị công nghệ, dây chuyền công nghệ. .. ). Cũng có quan niệm cho rằng “ công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành mục tiêu sinh lợi”. Việc đưa ra một định nghĩa khái quát được bản chất của công nghệ là việc làm cần thiết vì chúng ta không quản lý được nếu không hiểu nó là cái gì. Các tổ chức Quốc tế về khoa học – Công nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc đưa ra một định nghĩa công nghệ có thể dung hoà các quan điểm, đồng thời tạo thuận lợi cho những phát triển và hoà nhập các quốc gia, trong toàn khu vực và trên phạm vi toàn cầu . Theo tổ chức phát triển công nghiệp liên hợp quốc (UNIDO) : “công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp” . Định nghĩa này đứng trên góc độ của một tổ chức phát triển công nghiệp, nhấn mạnh tính khoa học là thuộc tính của công nghệ và khía cạnh hiệu quả khi xem xét việc sử dụng công nghệ cho một mục đích nào đó . Theo uỷ ban kinh tế - xã hội Châu á - Thái Bình Dương (ESCAP): “ Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật dùng để biến đổi vật liệu và thông tin”. Sau đó ESCAP mở rộng “Nó bao gồm tất cả các kỹ năng kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế tạo dịch vụ quản lý, thông tin”. Định nghĩa này của ESCAP được coi là một bước ngoặt trong lịch sử quan niệm về công nghệ. Định nghĩa không coi công nghệ phải gắn chặt với quá trình sản xuất, chế tạo các sản phẩm cụ thể, mà mở rộng khái niệm ra các lĩnh vực dịch vụ và quản lý. Những công nghệ mới mẻ dần dần trở thành thông dụng: Công nghệ du lịch, công nghệ ngân hàng, công nghệ đào tạo, công nghệ văn phòng … Chúng ta có thể hiểu khái quát “ Công nghệ là tập hợp các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuất thành sản phảm vì mục đích sinh lợi”. “Công cụ”, “phương tiện” ở đây được hiểu theo nghĩa rộng. Nó không chỉ là những công cụ vật chất của sản xuất mà còn là bất kỳ công cụ và bí quyết có liên quan nào được dùng chế tạo và sử dụng công cụ vật chất…, đó để thể hiện các hoạt động biến đổi. Hơn nữa khi nói về công nghệ nó còn được hiểu đó là các kiến thức và kinh nghiệm về khoa học - kỹ thuật, sản xuất, quản lý và thương mại . Bất cứ một công nghệ dù đơn giản cũng phải có bốn thành phần tác động qua lại lẫn nhau để tạo ra sự biến đổi mong muốn . Các thành phần này được hàm chứa trong hai khía cạnh được gọi là “ Phần mềm” và “Phần cứng” của công nghệ. Phần cứng là biểu hiện của máy móc, trang bị, công cụ, nguyên vật liệu. Phần mềm là vấn đề kỹ năng, thông tin, tổ chức, quản lý: Một là, công nghệ hàm chứa trong vật thể bao gồm mọi phương tiện vật chất như các dụng cụ, trang bị, máy móc, vật liệu phương tiện vận chuyển, nhà máy… Trong công nghệ chế tạo, các máy móc, thiết bị thường lập thành dây chuyền công nghệ. Phần này thường được gọi phần vật tư kỹ thuật Technoware(T) Hai là, công nghệ hàm chứa trong con người như kỹ năng, kinh nghiệm, tính sáng tạo, sự khôn ngoan, gia truyền, khả năng lãnh đạo, đạo đức kinh doanh, tính cần cù, trực cảm tài nghệ... phần này được gọi là phần con người - Humanware (H) nó biểu thị năng lực của con người trong sự vận hành và duy trì hoạt động của mọi phương tiện biến đổi . Ba là, công nghệ hàm chứa trong tài liệu như dữ liệu thiết kế, khái niệm, phương pháp, kế hoạch, các định mức, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật các hướng dẫn nghiệp vụ, bí quyết kỹ thuật. Phần này được gọi là phần thông tin của công nghệ – Inforware (I), biểu thị những vấn đề đã được tư liệu hoá, tồn trữ trong các tri thức đã được tích luỹ để rút ngắn thời gian hoạt động của con người . Bốn là, công nghệ hàm chứa trong các thể chế như thẩm quyền, trách nhiệm, tác động qua lại, sự liên kết, phối hợp, điều hành hoạt động, động cơ... Phần này được gọi là phần tổ chức công nghệ – Orgaware (O) biểu thị mọi khung tổ chức để cho việc hoạch định chiến lược kế hoạch, tổ chức động viên, thúc đẩy kiểm soát các hoạt động...Với thành phần công nghệ được hiện thân trong thể chế và khoa học quản lý trở thành nguồn lực. 2. Thực chất và các giai đoạn đổi mới công nghệ a. Thực chất đổi mới công nghệ Đổi mới công nghệ là chủ động thay thế một phần đáng kể cốt lõi cơ bản, hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác. Do công nghệ luôn biến đổi trong chu trình sống của nó nên đổi mới công nghệ là nhu cầu tất yếu và phù hợp quy luật phát triển . Cơ sở đổi mới công nghệ là phải có phát minh sáng chế ( phát minh là cái gì đó mới được đưa ra và được khoa học công nhận. Trong lĩnh vực công nghệ đa số phát minh là kết hợp cái mới và các yếu tố đang tồn tại . Sáng chế là phát minh được áp dụng lần đầu ) Khi nghiên cứu đổi mới công nghệ nhất thiết phải chú ý ba khía cạnh có sự tham gia của xã hội : Nhu cầu của xã hội; Các nguồn lực của xã hội; Đặc thù tình cảm của xã hội. Nếu thiếu một trong ba yếu tố đó thì đổi mới công nghệ không có khả năng được áp dụng hay không có khả năng thành công . Đổi mới công nghệ trong công nghiệp nói chung được thể hiện qua các kết quả: Chế tạo, sử dụng thiết bị mới, vật liệu mới, năng lượng mới hoặc cải tiến; Quá trình tiến bộ hơn; Nâng cao chất lượng sản phẩm . Đổi mới công nghệ sẽ dẫn đến đổi mới sản phẩm. Đổi mới sản phẩm đặt ra nhu cầu, nội dung, cách thức cho đổi mới công nghệ. Có nhiều hình thức đổi mới công nghệ: Nếu xét theo quan hệ giữa đổi mới công nghệ và đổi mới các yếu tố đầu vào, sẽ có hai hình thức đổi mới: Đổi mới đi thẳng tức là cả hai yếu tố lao động (L) , máy móc thiết bị , vốn (V) cũng được tiết kiệm theo tỷ lệ như nhau, đổi mới công nghệ đi xiên tức là với điều kiện giá không đổi, tỷ lệ tối thiểu V/L tăng lên, lao động sẽ được tiết kiệm. Trong trường hợp này, để tạo ra cùng một lượng đầu ra, chi phí lao động sẽ ít hơn là chi phí thiết bị, vốn . Xét một cách tổng quát, công nghệ được đổi mới nhờ các nguồn sau: Sử dụng công nghệ truyền thống hiện có, cải tiến và hiện đại hoá công nghệ này Tự nghiên cứu, phát triển, ứng dụng công nghệ mới . Nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài thông qua mua sắm trang thiết bị và chuyển giao công nghệ . Doanh nghiệp có thể áp dụng một hoặc cả hai hình thức chuyển giao công nghệ là dọc hoặc ngang. Chuyển giao dọc là quá trình chuyển giao diễn ra trình tự từ nghiên cứu cơ bản chuyển sang nghiên cứu ứng dụng triển khai và công nghiệp hoá, đây là hình thức chuyển giao cổ điển. Còn chuyển giao ngang là quá trình chuyển giao một công nghệ đã được triển khai từ một nơi, môt khu vực, một nghành, một quốc gia sang một nơi, một khu vực, một quốc gia khác. Ngoài ra doanh nghiệp có thể phát triển công nghệ bằng cách tận dụng các cơ hội khác thông qua kiểu truyền bá qua các kênh gián tiếp theo kiểu không có tính chất pháp lý như những cuộc tham quan, nghiên cứu khảo sát, hội thảo, hội nghị, sách báo và các xuất bản phẩm, các cuộc triển lãm và hội chợ thương mại hoặc các hoạt động tình báo . Đối với các nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng, trong những năm trước mắt nhập công nghệ nước ngoài là hướng chủ yếu. Đồng thời phải có chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa việc sáng tạo, tự nghiên cứu để sản sinh ra công nghệ. Chuyển giao ở trong nước thì không những chỉ làm công nghệ phụ thuộc vào nước ngoài mà còn không phát huy được lợi thế về lao động của nước ta cũng như sẽ lãng phí năng lực hiện có của các ngành. Kích thích nhập công nghệ và khuyến khích sáng tạo, sản sinh công nghệ ở trong nước là hai mặt của một vấn đề thống nhất chúng phải được kết hợp tối ưu. b. Các giai đoạn đổi mới công nghệ Đầu tư đổi mới công nghệ là một hình thức của đầu tư phát triển nhằm hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình độ nguồn nhân lực; tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cạnh tranh thông qua cải tiến, đổi mới sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi quốc gia mỗi doanh nghiệp, đầu tư đổi mới công nghệ được thực hiện theo từng phần hoặc kết hợp bảy giai đoạn : Giai đoạn1: Nhập công nghệ để thoả mãn nhu cầu tối thiểu . Giai đoạn 2: Tổ chức cơ sở hạ tầng kinh tế ở mức tối thiểu để tiếp thu công nghệ nhập . Đôi khi bên cung cấp công nghệ giúp đỡ xây dựng cơ sở hạ tầng ( giao thông, liên lạc , năng lượng ..) và sau đó bên nhận công nghệ trả bù lại. Giai đoạn 3: Tạo nguồn công nghệ từ nước ngoài trong dạng nhập linh kiện, thiết bị, nhà máy và tiến hành lắp ráp trong nước. Sản phảm tiêu thụ tại thị trường trong nước và có hướng tới thị trường nước ngoài. Giai đoạn này tạo khả năng sử dụng lực lượng lao động trong nước và phát triển đội ngũ doanh nghiệp . Giai đoạn 4: Mua sáng chế ( Licence) về công nghệ của nước ngoài nhưng chế tạo sản phẩm trong nước. Như vậy giai đoạn này bắt đầu đóng góp vào công việc xây dựng năng lực công nghệ quốc gia thông qua những dây chuyền sản xuất, chế tạo. Giai đoạn 5: Sử dụng năng lực nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ (R&D) ở trong nước nhằm tạo lập năng lực nội sinh, thích nghi công nghệ nhập với hoàn cảnh địa phương. ở đây bắt đầu xuất hiện năng lực đổi mới công nghệ, đánh đấu sự quá độ từ tình trạng bị động công nghệ sang chủ động công nghệ. Lúc này đất nước bắt đầu bước vào con đường kiểm soát số phận công nghệ của mình . Giai đoạn 6: Sử dụng và phát triển mạnh mẽ khả năng R&D của đất nước để đổi mới công nghệ, cung cấp sản phẩm cho thị trường nội địa. Xây dựng tiềm lực xuất khẩu công nghệ, đảm bảo nền độc lập công nghệ quốc gia. Chìa khoá thành công của Nhật Bản trong phát triển công nghệ chính là sự làm chủ giai đoạn này ở một số lĩnh vực quan trọng như ôtô, điện tử dân dụng ... đã dẫn đến việc xuất khẩu nhiều công nghệ . Giai đoạn 7: Phát triển mạnh mẽ năng lực đổi mới công nghệ với nhịp độ liên tục xuất hiện sản phẩm mới. Cơ sở nghiên cứu khoa học được hoàn thiện ở mức cao, có những nguồn lực lớn lao tạo thuận lợi cho môi trường sáng tạo triển khai công nghệ. Các nước đang phát triển thường đã trải qua 4 giai đoạn đầu và làm chủ phần nào giai đoạn 5 thể hiện khả năng độc lập công nghệ của quốc gia.Một công nghệ cũng chỉ phát triển trong một giai đoạn nhất định theo chu kỳ : Xuất hiện - Tăng trưởng – Trưởng thành - Bão hoà. Chu kỳ này gọi là “vòng đời công nghệ”. Đầu tư đổi mới công nghệ cũng phải căn cứ vào “vòng đời” này để quyết định thời điểm đầu tư thích hợp nhằm đảm bảo hiệu quả của đồng vốn đầu tư. II. Vai trò và nhân tố ảnh hưởng đổi mới công nghệ 1. Vai trò đổi mới công nghệ . Công nghệ là yếu tố cơ bản của sự phát triển . - Tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới công nghệ là động lực của phát triển kinh tế - xã hội, phát triển ngành mới đại diện cho tiến bộ khoa học - công nghệ. Dưới tác động của đổi mới công nghệ cơ cấu ngành sẽ đa dạng, phong phú và phức tạp hơn: Các ngành có hàm lượng khoa học - công nghệ cao sẽ phát triển nhanh hơn so với ngành truyền thống hao tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng . - Tiến bộ khoa học – công nghệ, đổi mới công nghệ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên liệu. Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . - Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ giải quyết được các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, cải thiện điều kiện sống và làm việc, giảm lao động nặng nhọc, độc hại, biến đổi cơ cấu lao động theo hướng: Nâng cao tỷ trọng lao động chất xám, lao động có kỹ thuật, giảm lao động phổ thông, lao động đơn giản. 2. Nhân tố ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ . Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu một số lượng lớn các yếu tố tác động đến quá trình truyền bá và thay thế . Các yếu tố đó có thể chia làm hai nhóm . Có những nhân tố sau đây ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ : a. Các yếu tố phía cầu . Các đặc điểm xã hội, tâm lý, nhu cầu, kinh tế địa phương của người áp dụng công nghệ; Quy mô đầu tư cần thiết cho công nghệ; Mức lợi nhuận đầu tư vào công nghệ; Tính thích ứng của công nghệ được sáng chế với công nghệ đang hiện hành; Ưu thế thấy rõ của công nghệ; Độ phức tạp và hiệu quả của sáng chế; Các đặc tính chất lượng của sáng chế; Tuổi thọ và tốc độ lỗi thời của công nghệ đang sử dụng; Tình trạng phát triển của toàn bộ nền kinh tế; Môi trường ra quyết định và các yếu tố tổ chức và chính trị có liên quan Số lượng người đã áp dụng sáng chế và số lượng người chưa áp dụng. b. Các yếu tốsau đây từ phía cung (nguồn lực xã hội) ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ. Năng lực công nghệ cơ sở; Năng lực công nghệ ngành; Năng lực công nghệ quốc gia; Chiến lược và đường lối chính sách nhà nước . 2. Yêu cầu đối với đổi mới công nghệ. - Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội . Các nguồn lực xã hội là vốn, lao động, tài nguyên(thiên nhiên & nhân tạo) không phải là vô hạn. Sử dụng chúng có hiệu quả là việc làm cần thiết, cấp bách đối với doanh nghiệp, quốc gia. Tuy nhiên điều này không phải là tất cả mà phải gắn với hiệu quả về mặt xã hội như: an toàn và bảo vệ môi trường, đóng góp vào kích thích phát triển các ngành kinh tế. Vì vậy có nhiều chỉ tiêu đánh giá hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực này, đó cũng là những chỉ tiêu quan trọng để nghiên cứu và ra quyết định chính sách đầu tư cũng như đổi mới công nghệ . - Tạo sự chuyển biến về chất , trong quá trình sản xuất , kinh doanh.Về quá trình sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ cần đạt yêu cầu: tăng cường cơ khí hoá, tự động hoá, tin học hoá một phần hay toàn bộ quy trình sản xuất, từng bước sử dụng máy móc thay thế con người ở những công việc nặng nhọc, nguy hiểm và theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động đơn giản, tăng tỷ trọng lao động phức tạp, lao động mang yếu tố chất xám, cải tiến và tối ưu hoá hệ thống tổ chức và công nghệ trong khu vực sản xuất, kinh doanh cũng như trong quản lý… nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm , hàng hoá dịch vụ . Về sản phẩm đầu ra, đổi mới công nghệ phải cho kết quả hàm lượng công nghệ trong giá trị gia tăng của sản phẩm ngày càng chiếm tỷ trọng cao, thể hiện ở chỗ giá trị mới của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ sau đổi mới công nghệ sẽ làm cho hàm lượng các yếu tố đầu vào truyền thống ( nhiên- nguyên vật liệu, lao động ) giảm đi, hàm lượng công nghệ tăng lên . Đây là một yêu cầu rất quan trọng nhằm mục tiêu tăng năng lực cạnh tranh cũng như khẳng định sự tồn tại của doanh nghiệp. Về cơ cấu sử dụng nguyên liệu, năng lượng truyền thống và cái mới, đổi mới công nghệ phải nhằm tăng dần tỷ lệ sử dụng các loại nguyên vật liệu mới. Nền sản xuất xã hội với các công nghệ truyền thống đang dần phải thay đổi mục tiêu của mình do sự giới hạn của nguồn tài nguyên (theo dự đoán năm 2040-2050 nguồn tài nguyên dầu mỏ của thế giới sẽ cạn kiệt và chấm dứt nền văn minh công nghiệp dựa trên dầu mỏ ) .Thực tế hiện nay cho thấy cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đang định hình với những đặc trưng mới về chất như : Có tính tự động cao, là sự kết hợp giữa công nghệ điện tử, công nghệ tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ và đáy đại dương cùng các công nghệ chế biến sâu không có phế liệu , sử dụng nguyên vật liệu mới có khả năng tái sinh, không gây ô nhiễm môi trường . Đầu tư đổi mới công nghệ là nhằm các mục đích trên . Về tính chất đổi mới sản phẩm đầu ra thì đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu làm cho danh mục, chủng loại mẫu mã, công dụng và giá cả hàng hoá, dịch vụ được đổi mới hoặc đổi mới theo hướng đa dạng hoá hơn, nhỏ gọn hơn, đa chức năng hơn, tiện lợi hơn, tinh xảo hơn, tiết kiệm năng lượng và rẻ hơn, tiến tới tạo ra nhiều sản phẩm và dịch vụ hoàn toàn mới . - Đổi mới công nghệ phải gằn liền với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Chiến lược phát triển kinh tế và chiến lược đóng vai trò quan trong trong định hướng phát triển công nghệ cũng như đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nhằm một mặt có được những ưu đãi và hỗ trợ nhất định ( về thông tin vốn ) của chính phủ, mặt khác đảm bảo cho doanh nghiệp có được hướng đi đúng , tiết kiệm nguồn lực, tránh được những rủi ro không đáng có - Đổi mới công nghệ phải nhằm mục tiêu từng bước bắt kịp từng bước trình độ công nghệ so với các nước trong khu vực và thế giới, tiến tới chủ động sáng tạo công nghệ theo mô hình nghiên cứu triển khai (R&D) - Đổi mới công nghệ phải gằn liền với phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Mục tiêu hết sức quan trọng của đổi mới công nghệ; và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng thường xuyên ở mức cao. Tuy nhiên đạt được điều đó thôi chưa đủ, đổi mới công nghệ còn phải nhằm giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên cũng như xã hội, nâng cao trình độ trí tuệ của người lao động làm cho họ thích nghi và làm chủ máy móc thiết bị công nghệ mới. đồng thời có khả năng sáng tạo hơn trong hệ thống sản xuất kinh doanh. III-Phân tích tình hình sử dụng máy móc thiết bị A.Tuỳ theo mức độ tham gia vào quá trình sản xuất,kinh doanh ,số lượng máy móc thiết bị sản xuất của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: +Máy móc thiết bị hiện có +Máy móc thiết bị đã lắp +Máy móc thiết bị làm việc thực tế 1.Phân tích tình hình sử dụng số liệu máy móc thiết bị sản xuất của doanh nghiệp cần tính và phân tích các chỉ tiêu sau: Hệ số lắp đặt thiết bị hiện có(H1) . H1 = Số lượng thiết bị đã lắp đặt bình quân Số lượng thiết bị hiện có bình quân -Hệ số này phản ánh trình độ kịp thời của việc lắp đặt số lượng thiết bị hiện có và có thể huy động vào sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Qua hệ số này cũng phát hiện một cách tương đối số lượng thiết bị đã được đưa về doanh nghiệp nhưng chưa được lắp đặt. Hệ số sử dụng thiết bị đã lắp đặt vào sản xuất(Hsl) Hsl = Số thiết bị làm việc thực tế bình quân Số thiết bị đã lắp đặt bình quân Hệ số này phản ánh mức độ huy động máy móc thiết bị đã lắp đặt vào sản xuất,qua hệ số này cũng phát hiện một cách tương đối số thiết bị dự trữ hoặc lắp đặt rồi nhưng chưa được sử dụng. Hệ số sử dụng máy móc thiết bị hiện có(Hs) Hs = Số thiết bị làm việc thực tế bình quân Số thiết bị đã lắp đặt bình quân Hệ số này phản ánh một cách khái quát tình hình sử dụng số lượng máy móc thiết bị hiện có của doanh nghiệp. Mối quan hệ giữa ba chỉ tiêu trên biểu hiện bằng một phương trình kinh tế: Hs= H1 x Hsl Phương trình kinh tế trên cho thấy: muốn nâng cao hệ số sử dụng thiết bị hiện có, phải nâng cao hệ số lắp đặt thiết bị hiện có và hệ số sử dụng thiết bị đã lắp đặt. Trên cơ sở đó , cần xác định rõ nguyên nhân ảnh hưởng đến tình hình lắp đặt , mức độ huy động máy móc thiết bị vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó có thể kiến nghị những biện pháp khai thác mọi khả năng tiềm tàng về năng lực sản xuất của máy móc thiết bị. 2.Phân tích tình hình sử dụng thời gian làm việc của máy móc thiết bị Hệ số sử dụng thời gian chế độ = Thời gian làm việc thực tế của thiết bị Thời gian làm việc theo chế độ của thiết bị Hệ số sử dụng thời gian làm việc thực tế = Thời gian làm việc có ích của thiết bị Thời gian làm việc thực tế của thiết bị 3.Tình hình sử dụng năng lực sản xuất của máy móc thiết bị U = Q Tm Trong đó: U :Mức năng suất thiết bị Q :Khối lượng sản phẩm do thiết bị sản xuất ra Tm :Thời gian máy hao phí để sản xuất ra khỏi khối lượng sản phẩm Q Chỉ tiêu sử dụng về số lượng, thời gian hoạt động sản xuất, mức năng suất thiết bị, cần phân tích hệ số sử dụng đồng bộ các yếu tố của máy móc thiết bị theo công thức: Hệ số sử dụng tổng hợp máy móc, thiết bị sản xuất = Hệ số sử dụng năng suất thiết bị x Hệ số sử dụng thời gian của máy móc thiết bị x Hệ số sử dụng số lượng máy móc thiết bị 4.Phân tích mối quan hệ giữa thiết bị sản xuất và tài sản cố định Tỷ lệ cơ cấu thiết bị sản xuất trong tài sản cố định của doanh nghiệp được tính bằng công thức: Tỷ lệ thiết bị sản xuất = Giá trị bình quân thiết bị sản xuất đang sử dụng Giá trị bình quân TSCĐ đang sử dụng Mối quan hệ giữa tỷ lệ thiết bị sản xuất với tài sản cố định đang dùng vào hoạt động sản xuất được mô tả bằng công thức: Hiệu xuất sử dụng sản xuất tài sản cố định = Hiệu xuất sử dụng thiết bị sản xuất x Tỷ lệ thiết bị sản xuất trong TSCĐ Hs = Htb x Dtb 5.Phân tích ảnh hưởng tình hình sử dụng máy móc thiết bị đến kết quả sản xuất kinh doanh. Khối lượng sản phẩm làm việc bình quân Trong 1 ngày = Số máy đã lắp đặt bình quân x số máy làm việc thực tế của một máy x Độ dài bình quân của 1 ca x Hệ số ca máy x Hệ số sử dụng thiết bị đã lắp x Năng suất bình quân 1 giờ máy B. phân tích giá thành sản phẩm, lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh 1.thời gian hoàn vốn đầu tư. Thời gian hoàn vốn đầu tư là khoảng thời gian giar định mà vốn đầu tư bỏ ra có thể thu hồi lại được nhờ lợi nhuận và khấu hao cơ bản . Thời gian hoàn vốn đầu tư = Vốn đầu tư Lợi nhuận thuần tuý hàng năm + Khấu hao TSCĐ hàng năm 2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp . Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận = doanh thu – chi phí Tỷ suất lợi nhuận có thể tính theo giá thành, vốn hoặc doanh thu . Tỷ suất lợi nhuận trên giá thành = Lợi nhuận Giá thành sản phẩm Tỷ suất lợi nhuận trên vốn = Lợi nhuận Vốn kinh doanh Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu = Lợi nhuận Doanh thu bán hàng 3.Tính giá thành Đây là chỉ tiêu có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Gía thành biểu hiện trực tiếp khả năng quản lý về nhân sự ,về chi phí ... từ đó dễ dàng đánh gía hiệu quả SXKD Có 2 loại giá thành : Giá thành sản xuất = Chi phí nguyên vật liệu + Lương phải trả + Chi phí quản lý phân xưởng + Khấu hao TSCĐ Giá thành toàn bộ = Giá thành sản xuất + Chi phí tiêu thụ sản phẩm + Chi phí quản lý Doanh nghiệp Trong phân tích giá thành, chỉ tiêu đánh giá mức hạ giá thành rất quan trọng: Nó cho biết khả năng nâng cao hiệu quả SXKD của doanh nghiệp. + Mức hạ giá tuyệt đối Mức hạ giá thành = Số lượng sản phẩm kỳ kế hoạch x Giá thành sản phẩm kỳ kế hoạch - Giá thành sản phẩm kỳ báo cáo +Mức hạ gía thành tương đối Tỷ lệ giá thành = Tổng mức hạ giá thành Tổng giá thành sản phẩm Chương II: Thực trạng thiết bị công nghệ trong xí nghiệp xi măng nội thương của Công ty xây lắp thương mại I. I. Quá trình hình hành và phát triển của công ty xây lắp thương mại I Căn cứ vào yêu cầu và nhiệm vụ, Bộ nội thương đã ra quyết định số 217/QĐ- NT ngày 18\04\1969 về thành lập Công ty xây lắp nội thương I khu Nam sông Hồng gọi tắt là Công ty xây lắp Nội thương I, trụ sở đóng tại Vĩnh Tuy – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Nhiệm vụ của Công ty lúc đó là tổ chức thi công xây lắp các công trình xây dựng cơ bản của nghành Nội thương. Để tồn tại và phát triển Công ty Xây lắp Thương mại I phải luôn luôn thay đổi phương hướng hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như qui mô hoạt động của công ty để phù hợp với cơ chế và nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Ra đời trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc bước vào giai đoạn cực kỳ ác liệt, Công ty Xây lắp Thương mại I đã góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc. Công ty đã trực tiếp xây dựng các cửa hàng bách hoá, cửa hàng lương thực, thực phẩm, các cụm kho chứa hàng Đồng mô - Lạng sơn trên tuyến đường 17A Thái nguyên – Lạng sơn. Qua bao nhiêu năm kể từ khi thành lập công ty đã phát triển qua những giai đoạn sau: 1. Giai đoạn 1969- 1972. Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ. Bộ Nội Thương đã ra quyết định số 217/QĐ-NT ngày 18/04/1969 thành lập Công ty Xây lắp Nội Thương khu Nam Sông Hồng. Trụ sở đóng tại Vĩnh Tuy- Hai Bà Trưng –Hà Nội. Nhiệm vụ của Công ty lúc đó là tổ chức thi công xây lắp các công trình xây dựng cơ bản của nghành Nội thương. Có thể nói các hoạt động của Công ty trong giai đoạn này đã khẳng định được Công ty Xây lắp Nội Thương I là một đơn vị xây lắp chủ lực của Bộ Nội Thương hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cấp trên giao. Mặc dù chiến tranh phá hoại của Đế quốc Mỹ diễn ra ác liệt, Công ty vẫn trụ vững trên địa bàn hoạt động của mình. 2. Giai đoạn 1973-1978. Phát huy thành tích đã đạt được bước vào giai đoạn này Công ty đã tham gia xây dựng nhiều công trình, tạo cơ sở vật chất cho nghành Nội Thương nói riêng và Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa nói chung. Một điều đặc biệt cũng cần phải nói lên rằng công ty đã được Bộ và Nhà nước tin cậy giao nhiệm vụ thực hiện nghĩa vụ Quốc tế với nước bạn Lào anh em. Các công trình cụm Thương Nghiệp Na Kay, Na Then- Sầm Nưa đã để lại kỷ niệm không thể mờ phai trên đất nước Lào. Công ty đã không phụ lòng tin của Bộ và Nhà nước bạn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai nước Việt - Lào anh em. 3. Giai đoạn 1979-1981. Nhiệm vụ của Công ty trong giai đoạn này tham gia xây dựng nhiều kho tàng phục vụ cho nghành tại các tỉnh biên giới phía Bắc như: Kho Muối và các kho dự trữ tại Nà phặc - Cao Bằng, nhà máy bánh kẹo Hữu Nghị Hà Nội… Công ty đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của cấp trên giao. Cũng trong thời gian này công ty vinh dự được Bộ giao nhiệm vụ thi công khu nhà ăn liên hoàn tại trường Nguyễn Aí Quốc, sửa chữa và nâng cấp nhà sàn và nhà lưu niệm của Bác. 4. Giai đoạn 1982-1987. Tiếp tục đà đi lên với “chữ tín” của mình trong giai đoạn này công ty đã thi công được rất nhiều công trình như: trụ sở Tổng Công đoàn lao động Việt Nam tại 65 Quán sứ, cụm kho của Tổng công ty Bách hoá ở Giáp Bát… Đặc biệt trong năm 1987, mặc dù tình hình biên giới phía Bắc vẫn còn nhiều căng thẳng. Song cán bộ công nhân viên của công ty đã nhận nhiệm vụ thi công xây lắp công trình cửa hàng Bách hoá Vị Xuyên- công trình là quà tặng của Bộ Nội thương cho đồng bào dân tộc tỉnh Hà Tuyên. 5. Giai đoạn 1988-1993. Đất nước ta bước vào thời kì chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều doanh nghiệp đã không thích ứng kị thời nên đã gặp không ít khó khăn, thậm chí còn bị phá sản, giải thể. Song Công ty Xây lắp Thương Mại I đã sẵn có truyền thống trong lao động sản xuất, có đội ngũ CBCNV năng động sáng tạo đã thích ứng kịp thời để tồn tại và phát triển. Cũng trong giai đoạn này được Bộ giao thêm nhiệm vụ sản xuất xi măng và các sản phẩm từ xi măng như: panen, gạch lát các loại, tấm đan, ống cống, các loại kết cấu gỗ, thép. Ngoài ra Công ty còn phát triển thêm nhiệm vụ kinh doanh vật liệu xây dựng và hàng trang trí nội thất hỗ trợ cho xây lắp, thúc đẩy sản xuất và giải quyết công ăn việc làm. Một số mặt hàng mới như các loại cửa nhôm kính, cửa cuốn. Chính vì vậy với nhiệm vụ xây lắp Công ty đã có các công trình mang đậm dấu ấn của thời gian như: Trụ sở UBND Tỉnh Lạng Sơn, Viện Mắt TW… Có th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9513.doc