Hiệu quả kinh Doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty bảo hiểm Bảo Hiểm Nhà Rồng _ Bảo Long Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện nhờ đó mà các nhu cầu vui chơi giải trí, đi lại giao lưu văn hóa,kinh tế giữa các nước, các vùng ngày càng được chú trọng. Do nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa, hành khách ngày càng tăng đòi hỏi hệ thống giao thông và phương tiện đi lại cũng phát triển theo. Trong đó nổi lên là hình thức giao thông đường bộ với những ưu điểm là tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tươn

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1666 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả kinh Doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty bảo hiểm Bảo Hiểm Nhà Rồng _ Bảo Long Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đối nhanh, giá cả hợp lý. Nhưng việc đi lại, vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới cũng dễ gặp phải những tai nạn, rủi ro bất ngờ không thể lường trước được như: đâm va, lật đổ, hỏa hoạn. Những rủi ro này ảnh hưởng lớn đến tính mạng và tài sản của nhân dân, là mối đe dọa lớn cho chủ xe vì họ không những phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại lớn mà mình gây ra cho người thứ ba mà còn phải gánh cả phần chi phí sửa chữa bản thân phương tiện của mình. Để khắc phục những tổn thất có thể xảy ra cho cả hai phía, bảo hiểm đã ra đời Với những suy nghĩ như trên và với một sự quan tâm thực sự đối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba_một nghiệp vụ quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, em mong muốn được nghiên cứu sâu hơn về nghiệp vụ này: thực tiễn, hoạt động, tiềm năng cũng như hạn chế của nó và đóng góp một số ý kiến trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ này. Ðó là lý do em chọn đề tài: " Hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nghiệm dân sự(BHTNDS ) của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty bảo hiểm Bảo Hiểm Nhà Rồng _ Bảo Long Hà Nội". Sau một thời gian tìm hiểu, học hỏi qua các tài liệu liên quan và nhờ sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ chuyên môn của công ty Bảo Long Hà Nội, đặc biệt là các cán bộ của phòng nghiệp vụ I của công ty_nơi em thực tập, đã cung cấp cho em những kiến thức quan trọng và những số liệu thực tế, nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô Th.S Bùi Quỳnh Anh, em đã hoàn thành bài chuyên đề tốt nghiệp này. Thông qua nó, em được củng cố những kiến thức cơ bản đã học ở trường, đồng thời tích lũy được nhiều kiến thức thực tế rất bổ ích. Em tin rằng sẽ giúp em rất nhiều cho công tác của mình sau này. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với sự quan tâm giúp đỡ đó. Lần đầu làm quen với thực tế và hiểu biết còn hạn chế của mình, bài viết của em không thể tránh khỏi có thiếu sót, em mong các thầy cô giáo sẽ tận tâm đóng góp ý kiến sửa đổi, bổ sung cho chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNGI: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI VỚI NGƯỜI THỨ BA VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ I. Khái quát chung 1.Khái quát về bảo hiểm trách nhiệm và bảo hiểm TNDS. 1.1 Bảo hiểm trách nhiệm Trong cuộc sống, mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật TNDS cho từng hành vi ứng xử của mình. Nhìn chung, khi một người gây ra thiệt hại cho người khác do sự bất cẩn của mình thì phải chịu trách nhiệm trước thiệt hại đó. Đối với một cá nhân, có nhiều căn nguyên có thể làm phát sinh trách nhiệm pháp lý. Ví dụ, khi một cá nhân sử dụng một chiếc xe ôtô, người đó có thể gây tai nạn cho người khác, theo quy định, cá nhân đó sẽ phải bồi thường các thiệt hại cho phía nạn nhân. Mỗi một cá nhân cũng phải bồi thường thiệt hại do vật nuôi của anh ta gây ra cho người khác… Những người làm công tác chuyên môn như bác sỹ, kế toán viên, luật sư…đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghề nghiệp của mình. Nếu họ bất cẩn trong chuyên môn gây ra các thiệt hại về tài chính cho đối tượng mà mình phục vụ (chẳng hạn đưa ra lời tư vấn không chính xác gây thiệt hại) thì họ phải bồi thường. Đối với một doanh nghiệp, theo quy định của luật pháp nhiều nước, chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm thanh toán khoản tiền bồi thường và các chi phí y tế cho người lao động mà sử dụng khi những người lao động đó bị tại nạn trong quá trình lao động hoặc bị mắc các bệnh do nghề nghiệp mà không phải do lỗi của người lao động. Một doanh nghiệp cũng có thể sẽ phải bồi thường các thiệt hại so tài sản của doanh nghiệp đó gây ra cho người khác (bất kể do lỗi của doanh nghiệp hay lỗi của người làm thuê) Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp (các nhà máy hoá chất, nhà máy công nghiệp…) có thể gây ra ô nhiễm môi trường và doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm nồi thường về thiệt hại về tài sản hoặc thương tích đối với người khác. Các nhà sản xuất hoặc phân phối phải chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do hàng hoá, sản phẩm của họ cung cấp gây ra cho khách hàng hoặc cho những người khác (phải chịu trách nhiệm đối với sản phẩm) do lỗi sản xuất, lỗi thiết kế, không có đủ các thiết bị an toàn, không có chỉ dẫn hay chú ý đầy đủ (“hút thuốc lá có thể có hại cho sức khoẻ”, “sử dụng thuốc không đúng chỉ dẫn có thể gây nguy hiểm cho sức khoẻ”…). Đối với một số sản phẩm, rủi ro trách nhiệm có thể là rất lớn, ví dụ như các sản phẩm liên quan đến ngành vân tải, máy móc thiết bị công nghiệp, đồ chơi, các sản phẩm cho trẻ sơ sinh Các thiệt hại trách nhiệm ở trên có thể phát sinh theo hợp đồng (giữa cá bên có liên quan trong hợp đồng, ví dụ theo hợp đồng lao động giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, theo hợp đồng giữa hãng vận chuyển và hành khách, theo hợp đồng mua bán giữa nhà sản xuất và khách hàng…) hay phát sinh ngoài hợp đồng (ví dụ các thiệt hại đối với bên thứ ba). Nhưng cho dù là phát sinh theo hợp đồng hay ngoài hợp đồng thì các trách nhiệm pháp lý đều dẫn tới thiệt hại tài chính một cách gián tiếp cho cá nhân hay doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm. Tuỳ theo mức độ lỗi hoặc thiệt hại của bên thứ ba mà thiệt hại trách nhiệm phát sinh có thể là rất lớn hoặc không đáng kể. Trong trường hợp thiệt hại trách nhiệm phát sinh là rất lớn, nó sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến tài chính của cá nhân hay doanh nghiệp. Do đó các cá nhân và doanh nghiệp cần phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm, để khi trạchs nhiệm pháp lý phát sinh, họ sẽ được công ty bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về mặt trách nhiệm dân sự 1.2 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba Trước hết ta xem xét thế nào gọi là trách nhiệm dân sự. Theo nghĩa rộng, trách nhiệm dân sự phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo quy định của pháp luật thì một chủ thể phải làm hoặc không được làm một việc nào đó vù lợi ích của một hay nhiều chủ thể khác (hay còn gọi là người có quyền). Người có nghĩa vụ dân sự mà không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có thể là thiệt hại về vật chất, có thể là thiệt hại về tinh thần. “Trách nhiệm bồi thường về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính đước thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí nhăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút. Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác, ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại” (Bộ luật dân sự nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trách nhiệm dân sự là một loại trách nhiệm pháp lý, dp đó nó mang những đặc tính chung của trách nhiệm pháp lý: Nó được coi là biện pháp cưỡng chế, thể hiện dưới dạng là trách nhiệm phải thực hiện và trách nhiệm nồi thường thiệt hại; nó đước áp dụng đối với người thực hiện hành vi trái pháp luật và do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục nhất định và việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế sẽ mang đến cho người thực hiện hành vi trái pháp luật theo những diều bất lợi. Xe cơ giới là các loại xe chạy trên đường bộ bằng động cơ của chính nó (trừ xe đạp máy). Về nguyên tắc người có quyền sở hữu đối với phương tiện xe cơ giới gọi là chủ xe. Nhìn chung họ là những người đứng tên trên giấy đăng ký xe và cả giấy lưu hành xe. Có những trường hợp chủ xe cũng là người trực tiếp điều khiển xe, không phải là người đứng tên trong giấy đăng ký xe. Trong trường hợp này người điều khiển xe chỉ đóng vai trò là người làm công ăn lương theo hợp đồng thuê mướn, tuyển dụng của chủ xe. Khi có tai nạn xảy ra, thông thường chủ xe phải là người chịu trách nhiệm bồi thường ngay cả khi họ klhông phải là người trực tiếp điều khiển xe. Nếu xe cơ giới được chủ xe giao quyền sử dụng và khai rhác xe cho người khác (người thuê xe), thì người thuê xe phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do việc sử dụng xe đó gây ra. Tuy nhiên việc xem xét quy kết trách nhiệm thuộc về ai cần phải lưu ý một số trường hợp. ▪ Người lái xe (do chủ xe thuê muớn hoặc tuyển dụng) gây tai nạn khi anh ta sử dụng xe vào việc riêng: Trường hợp này toà án vẫn phán quyết chủ xe phải bồi thường, nhưng trong phạm vi của mình chủ xe được quyền đòi hỏi trách nhiệm của người lái xe. ▪ Tai nạn xảy ra khi xe đang được cho người khác mượn: Trường hợp này người mượn xe để sử dụng phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên nếu chủ xe cho mượn cả lái xe của mình thì khi tai nạn xảy ra toà án vẫn phán quyết chủ xe chịu trách nhiệm bồi thường. Đồng thời toà án cũng không can thiệp vào việc người mượn xe tự nguyện đứng ra nồi thường thay cho chủ xe hoặc giúp đỡ cgo chủ xe bồi thường cho nạn nhân ▪ Tai nạn xảy ra khi xe lưu hành không được sự đồng ý của chủ xe: Trường hợp này nhìn chung người sử dụng xe không được phép của chủ xe thì phải chịu trach nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợip chủ xe cũng có lỗi trong việc để người khác chiếm dụng xe của mình, chẳng hạn chủ xe tời xe mà không rút chìa khoá điện. Trong trường hợp này, chủ xe cũng có thể phải liên đới bồi thường. ▪ Tai nạn do người vị thành niên gây ra: Nếu người vị thành niên điều khiển xe gây tai nạn thông thường cha mẹ họ là người chịu trách nhiệm bồi thường. Điều 17 Luật bảo về và chăm sóc trẻ em quy định: “Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của trẻ mình nuôi gây ra”. Điều 611 Bộ luật dân sự cũng quy định: “khi người thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà cong cha mẹ, thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, nếu tài sản của cha mẹ không đủ bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại xó tài sản thì lấy tài sản để bồi thường phần còn thiếu”; Trong trường hợp người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường ohần còn thiếu bằng tài sản của mình; Trường hợp người vị thành niên gây tai nạn trong thời gian chịu sự quản lý của người giám hộ, thì người giám hộ cũng có thẻ phải liên đới bồi thường. Như vậy, trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới với người thứ ba là trách nhiệmn hay nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do chủ xe hay lái xe gây ra cho người thứ ba so ciệc dử dụng xe đó gây tai nạn. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Giao thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng có một tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế. Sự phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân 7.12%/năm, giao thông vận tải đường bộ Việt Nam cũng tăng nhanh với tốc độ chóng mặt về số lượng xe lưu hành và các con đường cao tốc, đường nhựa, đường xá vươn tới mọi vùng sâu, xa của Tổ quốc. Kinh tế phát triển làm cho đời sồng và thu nhập của dân cư ngày càng cao hơn. Việc mua một chiếc xe máy không còn là vấn đề khó khăn ngay cả với hộ nông dân. Thậm chí, lớp người trung lưu và các nhà doanh nghiệp trẻ còn có ôtô con để đi lại. Đây là dấu hiệu đáng mừng, song cùng với sự phát triển của giao thông đuờng bộ là gia tăng tai nạn giao thông ngày một nhiều và với mức độ nghiêm trọng hơn. Dù Đảng và Nhà nước có cố gắng đưa ra các giải pháp đến đâu đi chăng nữa, thì cũng chỉ đem đến kết quả là kìm chế tốc độ gia tăng tai nạn chứ không thể ngăn chặn để tai nạn không xảy ra. Tai nạn giao thông là điều không thể tránh khỏi, trước hết bởi bản thân xe cơ giới lưu hành với tốc độ cao là một nguy cơ tiềm ẩn gây tai nạn vào bất kỳ lúc nào. Một trúc trặc nhỏ của xo cơ giới do bản thân xe gây ra hay do bất cẩn của người lái xe khi không phát hiện được tình trạng hư hỏng của xe như: Mất phanh, mất lái, nổ lốp. Nếu như xe đang chạy thì hư hỏng trên củ xe tất yếu đưa tới một tai nạn mà hậu quả không thể lường trước được. Thứ hai, tai nạn có thể xảy ra do sơ xuất bất cẩn của người lái xe như ngủ gật, quyên không bất xi nhan xin đường, dùng xe đột ngột… Ở Việt Nam, số lượng lái xe không đủ tiêu chuẩn tham gia giao thông không phải là nhỏ. Thứ ba, đường xá Việt Nam chất lượng chưa cao, nhiều con đường gỗ ghề, khúc khuỷu, thiếu các biển báo chỉ dẫn cần thiết, làm cho lái xe không chủ động và lường trước được những khó khăn để tránh tai nạn. Thứ tư, ý thức chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông còn chưa cao, kể cả người đi bộ và xe thô sơ, buôn bán họp chợ, để vật liệu xây dựng lấn lòng lề đường, làm tăng nguy cơ gây tai nạn. Có rất nhiều biện pháp mà Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhằm hạn chế tai nạn giao thông như: ▪ Tổ chức thường xuyên, rộng rãi trong toàn dân về luật an toàn giao thông. ▪ Tổ chức tập huấn đội ngũ lái xe an toàn ▪ Tổ chức các lớp về an toàn xe. ▪ Xây dựng hệ thống biển báo pano, áp phích. ▪ Thành lập ban chỉ đạo an toàn giao thông ▪ Tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng: Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về luật giao thông như chương trình “Tôi yêu Việt Nam” Tất cả các biện pháp trên tuy được các cấp, các ngành thực hiện thường xuyên và bằng nhiều cách khác nhau, song tai nạn giao thông vẫn xảy ra và ngày càng trầm trọng. Một khi chúng ta công nhận tai nạn giao thông đường bộ là một tòn tại khách quan, chỉ hạn chế chứ khó có thể tránh khỏi và vần đề quan trọng là khắc phục hậu quả tai nạn xảy ra một cách kịp thời và đầy đủ nhất. Tai nạn do xe cơ giới gây ra thường đưa đến những hậu quả khôn lường, gây thiệt hại rất lớn cho người và của. Những thiệt hại là rất lớn cho mỗi vụ tai nạn giao thông đường bộ thường gây hậu quả bồi thường nặng nề cho chủ phương tiện về TNDS theo Luật dân sự ngoài sự thiệt hại cho chính chủ phương tiện. Phần lớn trong các trường hợp tai nạn nghiêm trọng, chủ xe khôn đủ khả năng tài chính để bồi thường, nhiều trường hợp chủ xe, lái xe bị chết trong các vụ tai nạn hay bỏ trốn nên việc giải quyết tai nạn gặp khó khăn. Vấn đề là phỉa có nguồn tài chính sẵn sàng cho việc giải quyết hậu quả của các vụ tai nạn giao thông luôn luôn là mối quan tâm lo lắng của phía chủ xe; Cũng như đẻ bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân trong các vụ tai nạn, hạn chế tối thiểu tai nạn xảy ra là mối quan tâm của toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là một tất yếu khách quan và được phát triển từ loại hình tự nguyện sang bắt buộc. 3. Tác dụng của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Khi tai nạn xảy ra, việc giải quyết hậu quả của nó luôn là vấn đề phức tạp nhất, thường phát sinh những tranh chấp kéo dài. Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ guới là biện pháp kinh tế huy động dự đóng góp của các chủ xe, hình thành nên quỹ bảo hiểm. Quỹ này chủ yếu được sử dụng để bồi thường, bù đắp cho các chủ xe trong thời gian xe hoạt động gây tai nạn làm phá sinh TNDS của chủ xe. Bảo hiểm TNDS có tác dụng rất lớn đối với cả chủ xe, người thứ ba và cho xã hội. ▪ Đối với chủ xe: Bảo hiểm TNDS đã tạo tâm lý thoải mái, yên tâm, tự tin khi điều khiển các phương tiện tham gia giao thông; bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, tránh thiệt hại về kinh tế cho chủ xe; giúp chủ xe có ý thức trong việc đề ra các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn. ▪ Đối với người thứ ba: Công ty bảo hiểm thay mặt chủ xe bồi thường thiệt hại một cách nhanh chóng, đầy đủ nhấtm giúp cho người thứ ba ổn dịnh về mặt tài chính, tinh thần. Bên cạnh đó, Công ty bảo hiểm hỗ trợ cho chủ xe trong viịec thương lượng hoà giải với nạn nhân, tránh gây ra tai căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía người nhà nạn nhân. ▪ Đối với xã hội: Doanh nghiệp bảo hiểm muốn hoạt động kinh doanh tốt cần phải đưa ra các biện pháp hiệu quả đề phòng và ngăn ngừa tai nạn, tióch cực giảm thiểu các vụ tai nạn cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Điều này tác động đến sự ổn định, an toàn cho xã hội. Mặt khác, loại hình bảo hiểm này góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách Nhà nước trong việc giải quyết hậu quả các vụ tai nạn, cũng như trong việc xây dựng, thiết lập các biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn. Đồng thời nó còng đem đến nguồn thu cho ngăn sách. Như vậy, bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba càng khẳng định rõ hơn sự cần thiết và tầm quan tọng của nó. II. TÍNH CHẤT BẮT BUỘC CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS Cơ sở tiến hành bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba dưới hình thức bắt buộc. Do nhu cầu của sự tồn tại và phát triển kinh tế đất nước, các phương tiện giao thông đường bộ ngày càng tăng, đã tỏ rõ tính ưu việt của nó. Bên cạnh đó thì tại nạn do các phương tiện gây ra ngày một nhiều và rất nghiêm trọng. Nhiều khi trách nhiệm bồi thường thiệt hại vượt quá khả năng tài chính của chủ phương tiện gấp nhiều lần, gây khó khăn cho nạn nhân trong việc khắc phục hậu quả về tài sản, điều chỉnh thương tật, mai táng. Bảo hiểm TNDS trước hết là bảo vệ lợi ích của người bị nạn hoặc gia đình họ, đây là một vấn đề xã hội lớn chứ không phải chỉ quyền lợi của chủ xe. Vì vậy, tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại các cơ quan bảo hiểm là trách nhiệm của mỗi chủ xe. Trên thế giới, nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ra đời vào thế kỷ thứ XVIII, phát triển mạnh vào thế kỷ thứ XIX. HIện nay, hầu hết các nước đều quy định bắt buộc các chủ xe phải tham gia bảo hiểm TNDS. Một số nước có nền kinh tế phát triển như: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Nhật và Úc đã áp dụng hình thức bắt buộc từ những năm 40 của thế kỷ XX. Không chỉ dừng lại ở bắt buộc đối với chủ xe phải tham gia bảo hiểm TNDS mà còn quy định bắt buộc đối với doanh nghiệp bảo hiểm phải chấp nhận bảo hiểm theo đúng quyết định 23/2003/QĐ-BTC. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm TNDS của chủ xe theo đúng quy tắc, biểu phí và mức trách nhiệm được Bộ Tài Chính quy định, không được phép thấp hơn. Tuy nhiên, doanh nghiệp bảo hiểm có thể tăng mức trách nhiệm dân sự, dẫn đến tăng phí bảo hiểm theo yêu cầu của chủ xe. Điều này đảm bảo cho chủ xe tham gia giao thông luôn được đáp ứng nhu cầu khi đủ điều kiện có nhu cầu tham gia bảo hiểm. Từ những lý do đó, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị định 30/HĐBT ngày 10/03/1988 quy đinmh tất cả các xe hoạt động trên lãnh thổ nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều tham gia bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới tại cơ quan bảo hiểm. Đây là một chủ trương, một chính sách hoàn toàn đúng đắn và được duy trì cho đến nay nhằm đảm bảo lợi ích của người bị nạn khi tai nạn xảy ra, nâng cao trách nhiệm đối với chỉu phương tiện, giúp cơ quan quản lý số lượng xe lưu hành và thống kê đầy đủ các tai nạn để có những biện pháp quản lý xã hội, đồng thời nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh những quy định, chủ trương của Nhà nước. Năm 2003, Bộ trưởng Bộ Tài Chính ban Quyết định số 23/2003/QĐ-BTC ngày 25/02/2003 thay thế các Nghị định trước nhằm phù hợp với bước đi của nền kinh tế nước ta: Quy định về bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới III. ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA Đây là một trong những nghiệp vụ BHTN, vì vậy, nó cũng mang những nét đặc trưng của BHTN. Sau đay là một số đặc trưng cơ bản của nó: 1. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa, trách nhiệm đó là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm. Thông thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau: ▪ Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba ▪ Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức ▪ Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay của tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của toà án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra thiệt hại và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp toà án sẽ không căn cứ vàp mức độ lỗi để phán sử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Những trường hợp này thườn hay gặp ở các nước áp dụng hệ thống luật gọi theo tên tiến Anh là common law, ví dụ như ở nước Mỹ 2. Thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc Bảo hiểm trách nhiệm, ngoài việc đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm, còn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích công cộng và an toàn xã hội. Do vậy, loại hình bảo hiểm này thường được thực hiện theo hình thức bắt buộc. Nhìn chung, các bảo hiểm trách nhiệm thực hiện bắt buộc có liên quan đến ba nhóm hoạt động chủ yếu sau: ▪ Những hoạt động có nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn nhân trong cùng một sự cố (kinh doanh vận chuyển hành khách, sử dụng gas lỏng) ▪ Những hoạt động mà chỉ cần có một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến thiệt haịo trầm trọng về người (hoạt động của bác sĩ, sử dụng các dược phẩm) ▪ Những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể gây thiệt hại lớn về tài chính (môi giới bảo hiểm, tư vấn pháp luật) Dưới đây là một số loại hình bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện bắt buộc ở một số nước trên thế giới Bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc ở một số nước trên thế giới Nước Các loại hình bảo hiểm bắt buộc Pháp - Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, luật sư, củ thầu xây dựng, kiển toán, đại lý bảo hiểm, đại lý du lịch, công chứng viên - Bảo hiểm trách nhiệm của cửa hàng dược phẩm - Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động truyền máu, hoạt động nghiên cứu y sinh Đức - Bảo hiểm trách nhiệm của kiến trúc sư, công chứng viên, thám tử - Bảo hiểm trách nhiệm đối với hoạt động tư vấn thuế, kiểm toán, chế biến thực phẩm Indonesia - Bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe đối với thương tật và chết gây ra cho bên thứ ba - Chương trình bồi thường cho người lao động gồm cả hưu trí và sức khoẻ Mâco - Bảo hiểm trách nhiệm của chỉ xe đối với bên thứ ba - Bảo hiểm bồi thường cho người lao động - Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của đại lý du lịch - Bảo hiểm trách nhiệm công cộng trong việc quảng cáo bằng đèn nê-ông Nguồn: Điều tiết và kiểm soát bảo hiểm ở châu Á OECD. 1999 Bảo hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sự ở Châu Âu. Nhuyễn Ngọc Định, Nguyễn Tiến Hùng. Tạp chí Tài chính yháng 11/1999. Ở Việt Nam, Luật kinh doanh Bảo hiểm ban hành ngày 22/12/2000 đã nêu các bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc bao gồm: ▪ Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; ▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; ▪ Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 3. Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không Bởi vì thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn. Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, các công ty bảo hiểm thường đua ra giới hạn trách nhiệm, tức là các mức bồi thường tối đa của bảo hiểm (số tiền bảo hiểm ). Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự có thể rất lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường toàn bộ thiệt hại trách nhiệm dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm. Hạn mức trách nhiệm được áp dụng trong hầu hêt các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS: Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS của chủ sử dụng lao động với người lao động, Trách nhiệm của chủ hãng vận chuyển đối với hành khách, hàng hoá… Nhưng cũng có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS không áp dụng giới hạn trách nhiệm (thiệt hại TNDS phát sinh bao nhiêu, công ty bảo hiểm bồi thường bấy nhiêu), ví dụ như nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ tàu. IV. Nội cơ bản của BH TNDS của chủ xe cơ giớ đối với người thứ ba 1. Ðối tượng và phạm vi bảo hiểm 1.1. Ðối tượng bảo hiểm Người tham gia bảo hiểm thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể. Công ty bảo hiểm chỉ nhận bảo hiểm cho phần trách nhiệm dân sự của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển của người lái xe. Như vậy đối tượng được bảo hiểm là TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba khi xe lưu hành gây tai nạn. Đối tượng được bảo hiểm không được xác định trước. Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba bao gồm: - Điều kiện thứ nhất: Có thiệt hại về tài sản, tính mạng hoặc sức khoẻ của bên thứ ba. - Điều kiện thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các quy định khác của nhà nước… - Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba. - Điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi. Trên thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai, thứ ba là phát sinh TNDS của chủ xe (lái xe) đối với người thứ ba. Nếu thiếu một trong ba điều kiện đó TNDS của chủ xe sẽ không phát sinh và do đó sẽ không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do nguồn nguy hiểm cao độ mà không hoàn toàn do lỗi của chủ xe (lái xe). Ví dụ, xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển nên đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, TNDS vẫn có thể phát sinh nếu có đủ ba điều kiện đầu tiên. Chú ý rằng, bên thứ ba trong BHTNDS chủ xe cơ giới là những người trực tiếp bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn nhưng loại trừ: - Lái, phụ xe, người làm công cho chủ xe; - Những người lái xe phải nuôi dưỡng như cha, mẹ, vợ, chồng, con cái… - Hành khách, những người có mặt trên xe; Tài sản, tư trang, hành lý của những người nêu trên. 1.2. Phạm vi bảo hiểm Công ty bảo hiểm nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh TNDS của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của công ty bảo hiểm bao gồm: - Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba; - Thiệt hại về tài sản, hàng hoá… của bên thứ ba; - Thiệt hại về tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập; - Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả những biện pháp không mang lại hiệu quả); - Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân. Công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh TNDS trong các trường hợp sau: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe và người bị thiệt hại. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để tham gia giao thông theo quy định của điều lệ trật tự an toàn giao thông vận tải đường bộ. - Chủ xe hoặc lái xe vi phạm nghiêm trọng trật tự an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường; + Lái xe không có bằng lái hoặc bằng bị tịch thu, bằng không hợp lệ; + Lái xe bị ảnh hưởng của các chất kích thích như: Rượu, bia, ma tuý… + Xe trở chất cháy, chất nổ trái phép; + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa; + Xe đi vào đường cấm, đi đêm không có đèn hoặc chỉ có đèn bên phải; + Xe không có hệ thống lái bên phải. - Thiệt hại do chiến tranh, bạo động. - Thiệt hại gián tiếp do tai nạn như giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất kinh doanh. - Thiệt hại đối với tài sản bị cướp, mất cắp trong tai nạn. - Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ quốc gia, trừ khi có thoả thuận khác. Ngoài ra, công ty bảo hiểm cũng không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như vàng, bạc, đá quý, tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, thi cốt. 2. Số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm. Có nghĩa là, trong bất kỳ trường hợp nào thì số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm. Do tính đặc trưng của loại hình bảo hiểm này là đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm rất trừu tượng, không xác định được mức thiệt hại của người thứ ba. Vì vậy, trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, một hợp đồng thường xác định số tiền bảo hiểm dựa trên sự thoả thuận. Bộ Tài chính quy định hạn mức trách nhiệm tối thiểu bắt buộc cho mọi chủ xe. Trên cơ sở đó doanh nghiệp có thể đưa ra mức trách nhiệm tự nguyện cao hơn được Bộ Tài chính chấp thuận để chủ xe lựa chọn. Việc bán sản phẩm bảo hiểm theo nhiều mức có ý nghĩa đáp ứng mộ cách tốt nhất nhu cầu của chủ xe. Mức trách nhiệm cao hay thấp được thiết kế phụ thuộc vào các yếu tố như: Nhu cầu bảo hiểm và khả năng tài chính của chủ xe; tình hình thực tế tai nạn; loại phương tiện; và có cả khả năng đảm bảo của nhà bảo hiểm. Ðiều lưu ý là hạn mức trách nhiệm trong hợp đồng hoặc trong giấy chứng nhận bảo hiểm có ý nghĩa cho từng vụ tổn thất. Có nghĩa là: thường thời hạn bảo hiểm là một năm thì trong một năm được bảo hiểm, phương tiện có thể gây ra nhiều hơn một vụ tai nạn. Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm cho người được bảo hiểm được tính cho từng vụ tai nạn là độc lập theo hạn mức trách nhiệm đã ký kết. Ðối với những vụ tổn thất lớn mà giá trị thiệt hại vượt quá mức giới hạn trách nhiệm thì khi đó người được bảo hiểm phải tự gánh chịu phần vượt quá này. Trong cùng mọi điều kiện như nhau, mức trách nhiệm bảo hiểm có ảnh hưởng quyết định tới mức phí bảo hiểm mà người bảo hiểm phải đóng góp. Người được bảo hiểm sẽ đóng một mức phí cao hơn nếu họ được cung cấp một bảo hiểm có hạn mức trách nhiệm cao hơn. 3. Phí bảo hiểm và phương pháp tính phí bảo hiểm Phí bảo hiểm được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí BH TBDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượg đầu phương tiện của mình. Mặt khác, các phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất ._.gây tai nạn khác nhau nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện). Phí bảo hiểm gồm có hai phần: - Phần phí thuần: phần phí thu được dùng cho bồi thường tai nạn xảy ra. - Phần phụ phí: là khoản phí cần thiết để cơ quan bảo hiểm đảm bảo cho các khoản chi trong hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm (bao gồm: chi hoa hồng; chi quản lý hành chính; chi đề phòng hạn chế tổn thất; chi thuế nhà nước) Phí bảo hiểm tính cho mỗi đầu phương tiện đối với mỗi loại phương tiện (thường tính theo năm) là: P = f + d Trong đó: P – Phí bảo hiểm / đầu phương tiện f – Phí thuần d – Phụ phí (được qui định là tỷ lệ phần trăm nhất định so với tổng phí bảo hiểm). Phần phí thuần (f) được xác định theo công thức: Trong đó: Si - Số vụ tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i. Ti - Số tiền bồi thường bình quân 1 vụ tai nạn có phát sinh TNDS trong năm i. Ci - Số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm TNDS trong năm i. n - Số năm thống kê, thường từ 3 – 5 năm, i = (1,n) Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong thời kỳ đó. Đây là cách tính phí bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe trở hàng nặng… thì tính thêm tỷ lệ phụ phí so với mức phí cơ bản. Ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản. Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới một năm), thời gian tham gia bảo hiểm được tính tròn tháng và phí bảo hiểm được xác định như sau: Pngắn hạn = Hoặc: Pngắn hạn = Pnăm × Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng Trường hợp đã đóng phí (tham gia bảo hiểm) cả năm, nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiện không hoạt động nữa hoặc chuyển quyền sở hữu mà không chuyển quyền bảo hiểm thì chủ phương tiện sẽ được hoàn phí bảo hiểm tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm tròn tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được bảo hiểm bồi thường. Số phí hoàn lại được xác định như sau: Phoàn lại = Ví dụ, Chủ xe ô tô mua bảo hiểm TNDS cho cả năm 2005 vào ngày01/01/2005, phí bảo hiểm cả năm là 800.000. Nhưng đến 01/7/2006 xe không hoạt động nữa do chủ xe đi nước ngoài công tác. Cơ quan bảo hiểm sẽ hoàn lại số phí bảo hiểm tương ứng với thời gian còn lại là : Phoàn lại = 800000*6/12=400000(đồng) Nộp phí bảo hiểm là trách nhiệm của chủ phương tiện. Tuỳ theo số lượng phương tiện, công ty bảo hiểm sẽ quy định thời gian, số lần nộp và mức phí tương ứng có xét giảm phí theo tỷ lệ tổn thất và giảm phí theo số lượng phương tiện tham gia bảo hiểm (tối đa thường giảm 20%). Nếu không thực hiện đúng quy định sẽ bị phạt. Ví dụ: + Chậm từ 01 đến 02 tháng phải nộp thêm 100% mức phí cơ bản. + Chậm từ 02 đến 04 tháng phải nộp thêm 200% mức phí cơ bản. + Chậm từ 04 tháng trở lên nộp thêm 300% mức phí cơ bản… + Hoặc huỷ hợp đồng bảo hiểm. 4. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho nguời thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. ♦ Đối tượng của hợp đồng này là mức trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo quy định của pháp luật. Do đó, đặc điểm của nó là: ▪ Hợp đồng bảo hiểm chỉ tồn tại giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường khi người bị thiệt hại (người thứ ba) yêu cầu người tham gia bảo hiểm bồi thưòng. ▪ Hợp đồng bảo hiểm chỉ giới hạn trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế, không chịu các trách nhiệm khác của người tham gia bảo hiểm trước pháp luật như: Trách nhịm hành chính, trách nhiệm hình sự ▪ Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm không có và cũng không thẻ quy định về số tiền bảo hiểm, mà chỉ quy định hạn mức trách nhiệm bồi thường tối đa của doanh nghiệp bảo hiểm. Ví dụ, hạn mức trách nhiệm bồi thường tối đa trong bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới với người thứ ba là 30 trđ/vụ, về tài sản là 30 trđ/vụ ♦Nội dung của hợp đồng thể hiện mối quan hệ về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên tham gia và được quy định dưới hình thức điều khoản hợp đồng, có điều khoản do hai bên thoả thuận. Nội dung chủ yếu của một hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới với người thứ ba thông thường bao gồm: ▪ Đối tượng bảo hiểm ▪Hạn mức trách nhiệm ▪Rủi ro được bảo hiểm ▪Rủi ro loại trừ ▪Phí bảo hiểm ▪Thời hạn bảo hiểm ▪Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường ♦ Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia: ▪Về phía chủ xe: (lái xe), mặc dù đã tham gia bảo hiểm nhưng chủ xe vẫn là người có trách nhiệm chính trong việc ngăn ngừa tai nạn, làm công tác này chủ xe cần phối hợp với các ngành thực hiện biện pháp chủ yếu sau: Định kỳ hàng năm tiến hàng tổ chức các lớp tập huấn cho lái xe, phụ xe. Giáo dục, nhắc nhở lái, phụ xe tuyệt đối không vi phạm những điểm cấm đã quy định trong khi điều khiển xe. Bảo quản tốt các phương tiệnvận tải, phối hợp với các ngành liên quan định kỳ tiến hành kiểm tra thiết bị an toàn để đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật cho xe hoạt động tốt. Đề xuất kiến nghị với ngành giao thông vận tải, công an thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc sủa sang lại hệ thống đường xá. Tiến hành xây dựng các biển báo, panô, áp phích tại các đầu mối giao thông quan trọng và tại những đoạn đường có mối nguy hiểm cao Khi có tai nạn xảy ra, để giúp cho việc tính toán và giải quyết bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm được nhanh chóng và kịp thời, chủ xe bằng phương tiện nhanh nhất khai báo ngay cho cơ quan bảo hiểm về thực trạng tai nạn: Ngày, giờ, địa điểm xảy ra tai nạn Số đăng ký xe gây tai nạn Họ tên người lái xe Tên nạn nhân và địa chỉ của họ Mức độ nghiêm trọng của tai nạn Nguyên nhân xảy ra tai nạn và biện pháp xử lý ban đầu của chủ xe hoáclái xe Trách nhiệm khai báo phải đảm bảo tính trung thực, khách quan về mọi chi tiết, mọi điều được biết xung quanh vụ tai nạn Bên cạnh trách nhiệm vủa người tham gia bảo hiểm, chủ xe có những quyền lợi sau: Quyền được bồi thường từ phía nhà bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra Quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều khoản, điều kiện bảo hiểm Quyền yêu cầu nhà bảo hiểm bổ xung sủa đổi hợp đồng, đề xuất ý kiến mở rộng phạm vi bảo hiểm Quyền khiếu nại bồi thường thưo quy định Các quyền khác theo quy định của pháp luật ▪ Về phía doanh nghiệp bảo hiểm: Nhà bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; yêu cầu khách hàng cung cáo đầy đủ thông tin cần thiết đến hợp đồng bảo hiểm; yếu cầu khách hàng có những biện pháp để phòng hạn ché tổn thất… Bên cạnh đó, khi đưa ra các điều kiện, điều khoản của hợp đồng bảo hiểm nhà bảo hiểm phải giải thích rõ ràng cho chủ xe hiểu, vận động họ tham gia đầy đủ; Bảo hiểm cũng câng phối hợp với người tham gia bảo hiểm, các ngành có liên quan hỗ trợ kịp thời và có chế độ thưỏng phạt đối với những đơn vị thực hiện tốt hoặc chưa tốt trách nhiệm đề phòng, hạn chế tổn thất; Khi nhận được khai báo tai nạn của chủ xe, nhà bảo hiểm tiến hanh giám định nguyên nhân và hậu quả của vụ tai nạn nhanh chóng chi trả, bồi thường cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm, nếu không thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm có sự thông báo trả lợi kịp thời cho chủ xe biết. 5. Giám định tổn thất và giải quyết bồi thường Sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường, công ty bảo hiểm sẽ tiến hành giám định để xác định thiệt hại thực tế của bên thứ ba và bồi thường tổn thất. Ðể xác định được chính xác số tiền phải bồi thường, cơ quan bảo hiểm phải tiến hành giám định tổn thất,bao gồm: kiểm tra đối tượng giám định; phân loại tổn thất; xác định mức độ tổn thất; nguyên nhân gây tổn thất của người thứ ba; mức độ lỗi của chủ xe tham gia bảo hiểm… (Chú ý, nếu tai nạn xảy ra không gây thiệt hại cho người thứ ba hoặc gây thiệt hại cho những người không thuộc diện là người thứ ba thì không cần xác minh thiệt hại). Thiệt hại của bên thứ ba bao gồm: Thiệt hại về tài sản: Tài sản bị mất, bị hư hỏng hoặc bị hủy hoại; thiệt hại liên quan đến việc sử dụng tài sản và các chi phí hợp lý khác để ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục thiệt hại. Thiệt hại về tài sản lưu động được xác định theo giá trị thực tế (giá thị trường) tại thời điểm tổn thất còn đối với tài sản cố định, khi xác định giá trị thiệt hại phải tính đến khấu hao. Cụ thể: Giá trị thiệt hại = Giá trị mua mới (nguyên giá) - Mức khấu hao Thiệt hại về con người : bao gồm thiệt hại về sức khỏe và thiệt hại về tính mạng. Thiệt hại về sức khỏe bao gồm: + Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất hoặc giảm sút như: chi phí cấp cứu, tiền hao phí vật chất và các chi phí y tế khác( thuốc men, dịch chuyền, chi phí chiếu chụp X-quang…). + Chi phí hợp lý và phần thu nhập bị mất của người chăm sóc bệnh nhân (nếu có theo yêu cầu của bác sỹ trong trường hợp bệnh nhân nguy kịch) và khoản tiền cấp dưỡng cho người mà bệnh nhân có nghĩa vụ nuôi dưỡng. + Khoản thu nhập bị mất hoặc giảm sút của người đó. Thu nhập bị giảm sút là khoản chênh lệch giữa mức thu nhập trước và sau khi điều trị do tai nạn của người thứ ba. Thu nhập bị mất được xác định trong trường hợp bệnh nhân điều trị nội trú do hậu quả của tai nạn. Nếu không xác định được mức thu nhập này, sẽ căn cứ vào mức lương tối thiểu hiện hành. Khoản thiệt hại về thu nhập này không bao gồm những thu nhập do làm ăn phi pháp mà có. + Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Thiệt hại về tính mạng của người thứ ba bao gồm: + Chi phí hợp lý cho việc cho việc chăm sóc, cứu chữa người thứ ba trước khi chết (xác định tương tự như ở phần thiệt hại về sức khoẻ). + Chi phí hợp lý cho việc mai táng người thứ ba (những chi phí do thủ tục sẽ không được thanh toán). + Tiền trợ cấp cho những người mà người thứ ba phải nuôi dưỡng (vợ, chồng, con cái…đặc biệt trong trường hợp mà người thứ ba là người lao động chính trong gia đình). Khoản tiền trợ cấp này được xác định tùy theo quy định của mỗi quốc gia, tuy nhiên sẽ được tăng thêm nếu hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn. Như vậy, toàn bộ thiệt hại thực tế của bên thứ ba được tính như sau: Thiệt hại thực tế = thiệt hại về tài sản + thiệt hại về người (của bên thứ ba) Việc xác định số tiền bồi thường được dựa trên hai yếu tố đó là: - Thiệt hại thực tế của bên thứ ba; - Mức độ lỗi của chủ xe trong vụ tai nạn. Được tính theo công thức: STBT = (Lỗi của chủ xe) x (Thiệt hại của bên thứ ba) Trên thực tế, nếu người thứ ba là người không có thu nhập từ lao động (trẻ em chưa đến tuổi lao động, người tàn tật không có khả năn lao động… ); hoặc có thu nhập thấp thuộc các đối tượng chính sách của Nhà nước bị chết, nhưng gia đình nạn nhân không được hưởng các khhoản mất, giảm thu nhập do khi còn sống người này không phải nuôi dưỡng người khác… thì một khoản tiền bồi thường sẽ được trả trên tinh thần nhân đạo. Trong trường hợp có cả lỗi của người khác gây thiệt hại cho bên thứ ba thì: Số tiền ﴾Lỗi của Lỗi Thiệt hại của Bồi thường = chủ xe + khác﴿ x bên thứ 3 Sau khi bồi thường, công ty bảo hiểm được quyền đòi lại người khác số thiệt hại do họ gây ra theo mức độ lỗi của họ. Cần nhắc lại rằng, công ty bảo hiểm bồi thường theo thiệt hại thực tế nhưng số tiền bồi thường không vượt quá mức giới hạn trách nhiệm của bảo hiểm. V.CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ *Kết quả kinh doanh của một nghiệp vụ bảo hiểm, một loại hình bảo hiểm và của cả doanh nghiệp bảo hiểm được thê hiện ở hai chỉ tiêu chủ yếu là: Doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu của một doanh nghiệp bảo hiểm phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm), bao gồm: các bộ phận cấu thành doanh thu về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm; thu nhập từ hoạt động đầu tư và các khoản thu khác . Lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm được tính như sau: LNtrước thuế = DT - CF LNsau thuế = LNtrước thuế - TTN Với: - LN: Lợi nhuận DT: Doanh thu CF: Chi phí Trong đó, tổng chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ các khoản chi phục vụ cho toàn quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng một năm. Các chỉ tiêu doanh thu, chi phí, lợi nhuận cũng được tính riêng cho từng loại nghiệp vụ. Nhưng khi tính toán cần chú ý: những khoản chi nào có liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ phải được tính trực tiếp cho nghiệp vụ đó (như phí bảo hiểm , chi bồi thường, & ); những khoản thu, chi gián tiếp (chi quản lý doanh ghiệp, thu nhập đầu tư & ) phải được phân bổ theo tỷ lệ giữa doanh thu phí bảo hiểm nghiệp vụ so với tổng doanh thu phí bảo hiểm nói chung. * Hiệu quả kinh doanh - Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ chi phí công việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. - Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh chỉ có thể được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả và chi phí. Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản ánhchi phí ta được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Do bảo hiểm không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội nên khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp bảo hiểm ta phải trên góc độ cả về kinh tế và về dịch vụ phục vụ. - Hiệu quả kinh doanh bảo hiểm được thể hiện qua hai nhóm chỉ tiêu. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế và nhóm chỉ tiêu phản ánh hiêụ quả xã hội. + Chỉ tiêu hiệu quả kinh tế Ðứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí. H= (1) H= (2) Trong đó: H ,H : Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tính theo doanh thu và lợi nhuận. D : Doanh thu trong kỳ L : Lợi nhuận thu được trong kỳ. C : Tổng chi phí chi ra trong kỳ. Chỉ tiêu (1) nói lên: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu (2) phản ánh: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm . + Chỉ tiêu hiệu quả xã hội Ðứng trên góc độ xã hội, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm được thể hiện qua hai chỉ tiêu sau: H= (3) H= (4) Trong đó: H : Hiệu quả xã hội của doanh nghiệp bảo hiểm C : Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ. Kbt Số khách hàng được bồi thường trong kỳ. Ktg Số khách hàng được tham gia bảo hiểm trong kỳ. Chỉ tiêu (3) phản ánh: cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút được bao nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm . Chỉ tiêu (4) nói lên : cùng với một đồng chi phí đó đã góp phần giải quyết khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu. Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm có thể tính được các chỉ tiêu hiệu quả khác để phục vụ cho quá trình đánh giá và phát triển hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả đều phải đảm bảo nguyên tắc khi xây dựng là: mỗi chỉ tiêu phải phản ánh được trình độ sử dụng loại chi phí nào đó trong việc tạo những kết quả nhất định. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tốt phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của từng loại hình nghiệp vụ bảo hiểm . Do vậy, nâng cao hiệu quả kinh doanh của từng nghiệp vụ sẽ làm cho hiệu quả kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp bảo hiểm tăng lên, đáp ứng nhu cầu kinh tế- xã hội, giúp doanh nghiệp bảo hiểm tồn tại và phát triển, cạnh tranh được với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI BẢO LONG HÀ NỘI (GIAI ĐOẠN 2001 _ 2005) I. GIỚI THIỆU VỀ BẢO LONG HÀ NỘI 1. Quá trình thành lập và cơ cấu tổ chức của công ty 1.1Quá trìng thành lập Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng gọi tắt là Bảo Long Hà Nội được thành lập và chính thức đi vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm vào ngày 11/7/1995 theo giấy phép số 1529/ GP- UB ngày 11/7/1995 của UBND Thành phố Hồ Chí Minh, với sự góp vốn của nhiều doanh nghiệp lớn, có uy tín hoạt động trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dịch vụ … như: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt), công ty cổ phần ngoại thương và phát triển đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (FIDECO), công ty thương mại kỹ thuật và đầu tư (PETECH), ngân hàng ngoại thương Việt Nam (VIETCOMBANK) ngân hàng thương mại cổ phần á Châu (ABC), ngân hàng thượng mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam (MFB), Tổng công ty dịch vụ An Phú (ASC), và một số công ty khác… Là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam, quan nhiều năm thử thách và tự khẳng định mình, Bảo Long đã có bước đi vững chắc và đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường Bảo hiểm Việt Nam. Năm 1995 vốn điều lệ công ty là 24 tỷ đồng, chủ yếu hoạt động tại thị trường Hà Nội và Thành Phố Hồ Chi Minh, đến nay vốn điều lệ Bảo Long đã lên tới gần 100 tỷ đồng và công ty đã mở rộng phạm vi hoạt động trên toàn quốc với các chi nhánh tại Hà Nội, Phú Yên, Khánh Hoà, Vũng Tàu Cần Thơ, Đà Nẵng.Và hệ thống Tổng đại lý bảo hiểm trên khắp các tỉnh thành phố, trụ sở chính của công ty đặt tại Quận I- Thành Phố Hồ Chí Minh, cơ cấu tổ chức công ty bao gồm Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, 10 phòng ban, 9 chi nhánh và trên 10 văn phòng đại diện trên cả nước. Sau 9 năm đi vào hoạt động hiện nay công ty đã thực hiện hoạt động kinh doanh trên 40 nghiệp vụ ( trừ bảo hiển Hàng không) đã đạt mức tăng trưởng doanh thu bình quân 40%/ năm. 1.2 Cơ cấu tổ chức của Bảo Long Cơ cấu tổ chức của Bảo Long Hà Nội: Để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nhằm mục tiêu tăng trưởng thị phần, ngày 29/10/1996 công ty đã quyết định mở chi nhánh ở miền Bắc tại 52 Lý Thường Kiệt, Quận Hoàn Kiến TP Hà Nội và đến ngày 03/01/2004 chuyển về 30 Liễu Giai, Quận Ba Đình, Hà Nội. Cho đến nay đã 8 năm đi vào hoạt động chi nhánh đã từng bước hoàn thiện cả về măt tổ chức cũng như kinh doanh. Về mặt tổ chức do công ty bảo hiểm Nhà Rồng - Chi Nhánh Hà Nội mới đi vào hoạtt đông chưa lâu, công việc nhiều nên để đảm bảo hiệu quả công việc Chi nhánh đã tổ chức bộ máy quản lý một cách gọn nhẹ, hợp lý như sơ đồ 2 Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức của Bảo Long Hà Nội P.GIÁM ĐỐC Các P. Bảo Hiêm khu vực P.Kế toán& Tổng hợp P.NVII(P.Hàng hải & rủi ro kỹthuật) P.NVI(P. Phi hàng hải) Giám đốc chi nhánh là người chịu trách nhiệm chỉ đạo toàn bộ hoạt động kinh doanh, đại diện cho chi nhánh chịu trách nhiệm về mặt pháp lý cho các giao dịch của Chi nhánh. Giám đốc cùng các phòng, ban có chức năng điều hành hoạt động và quyết định mang tính chiến lược, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của Chi nhánh. Giám đốc là người chịu trách nhiệm giám sát trực tiếp các phòng ban. Các phòng đều chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc. Căn cứ vào tình hình nhiệm vụ đặt ra, tổ chức giới thiệu và bán sản phẩm sao cho hoàn thành vượt mức chỉ tiêu kế hoạch. Đồng thời tổ chức các bô phận khai thác giám định, bồi thường một cách khoa học và hợp lý, giải quyết các khiếu nại nhanh chóng, thuận tiện và chính xác nhằm nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng. Năm 2004 Bảo Long Hà Nội triển khai thêm phòng bảo hiểm khu vực tại Gia Lâm, Từ Liêm và phố Vọng, dự định trong thời gian tới công ty sẽ mở thêm các chi nhánh khác nhằm tăng thị phần và tăng doanh thu phí. 2. Chức năng và nhiệm vụ của các phòng: Phòng nghiệp vụ I: Có nhiệm vụ khai thác và bán các sảm phẩm sao cho hoàn thành vượt mức kế hoạch đã đề ra. Phòng chịu trách nhiệm bồi thường với mức phân cấp là 30 trđ/vụ, vượt qua 30 trđ thì hồ sơ chuyển cho công ty giải quyết. Tất cả các khách hàng của Bảo Long Hà Nội thì cán bộ Bảo Long Hà Nội giám định và hoàn tất hồ sơ, còn những nơi mà cán bộ chưa đến kịp thì các đơn vị làm đại lý giám định sơ bộ sau đó cán bộ Bảo Long Hà Nội đến giám định lại và hoàn tất hồ sơ, xem xét và giải quyết bồi thường với mức phân cấp. Về mặt kinh doanh, do nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh là mở rộng thị trường phía Bắc chủ yếu tập trung vào các nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm. Phòng nghiệp vụ I chịu trách nhiệm hướng dẫn và quản lý về nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới và nghiệp vụ bảo hiểm con người. Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc, Chi nhánh là đại diện duy nhất ở miền Bắc của công ty hiện nay trong khai thác, giám định bồi thường và nhiều dịch vụ liên quan khác, do đó Chi nhánh được phép triển khai hầu hết các nghiệp vụ mà công ty được phép kinh doanh. Cho tới nay, chi nhánh đă triển khai gần 20 nghiệp vụ bảo hiểm tập trùn chủ yếu vào xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển, bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm con người, bảo hiểm hoả hoạn và rủi ro đặc biệt. Chi nhánh còn chịu trách nhiệm thành lập và quản lý các tổng đại lý ở các tỉnh và thành phố. Các tổng đại lý này được hỗ trợ về mặt nghiệp vụ và tài liệu và chỉ khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới. Phòng NV II Chuyên kinh doanh về các nghiệp vụ hàng hải và rủi ro kỹ thuật, nhiệm vụ của phòng là hoàn thành kế hoạch do chi nhánh đặt ra. Phòng được phân cấp chỉ đạo và quản lý nghiệp vụ hàng hải. Cán bộ công nhân viên của phòng có nhiệm vụ khai thác và giám định về: Tàu thuyền, hàng hoá trên tàu và hàng hoá trong kho và các nghiệp vụ về xây dựng và kỹ thuật. Với đội ngũ nhân viên trẻ trung và năng động, cùng với phòng nghiệp vụ I đã hoàn thành vựơt mức kế hoạch đã đặt ra. Phòng kế toán và tổng hợp: Chịu trách nhiệm hoạch toán thu chi và hoạt động lễ tân của Chi nhánh. Hàng tháng, hàng quý, hàng năm lập báo cáo trình giám đốc và gửi cho công ty ở Thành Phố Hồ Chí Minh, phòng chịu trách nhiệm hoạch toán lương hàng tháng cho nhân viên, trả tiền hoa hồng cho đại lý, chi tạm ứng cho nhân viên và các hoạt động khác của Chi nhánh. Các văn phòng khu vực Các văn phòng khu vực cũng chiu trách nhiệm theo mức phân cấp là khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm mà chi nhánh đã triển khai nhằm đạt chỉ tiêu kế hoạch doanh thu, phòng cũng tự giám định những hợp đồng theo mức phân cấp. Các văn phòng khu vực chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc Chi nhánh, hàng tháng chịu trách nhiệm thống kê báo cáo gửi lên Chi nhánh phòng được các phòng 3. Tình hình hoạt động chung của Bảo Long Hà Nội trong một vài năm gần đây 3.1. Các nghiệp vụ dang được triển khai Hiện nay Bảo Long triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm chủ yếu sau đây (trong đó Bảo Long Hà Nội được phép kinh doanh hầu hết các nghiệp vụ): * Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu * Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển trong nước * Bảo hiểm tàu thuyền * Bảo hiểm tai nạn thuyền viên * Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt * Bảo hiểm tài sản và thiệt hại * Bảo hiểm kĩ thuật * Bảo hiểm trách nhiệm * Bảo hiểm tai nạn con người * Bảo hiểm du lịch * Bảo hiểm xe cơ giới 3.2. Kết quả đạt được Là công ty cổ phần đầu tiên hoạt động trên lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam. Qua nhiều năm thử thách và tự khẳng định mình, Bảo Long đã có những bước đi vững chắc và đã đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Năm1994 với vốn ban đầu chỉ là 24 tỷ đồng và chủ yếu hoạt động tại Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội tới nay vốn pháp định của Bảo Long đã tăng lên 70 tỷ đồng không chỉ hoạt động ở Tp. HCM và Hà Nội, Bảo Long đã mở thêm nhiều chi nhánh ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước: Phú Yên, Khánh Hoà, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Cần Thơ...và đã triển khai hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm hiện có trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đầu năm 2003 Bảo Long đã được tổ chức United Registrar of Systems (URS) của Anh Quốc cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng quản lý theo ISO 9001:2000. Bên cạnh đó Bảo Long còn hợp tác chặt chẽ với nhiều công ty bảo hiểm trong và ngoài nước nhằm trao đổi kinh nghiệm, đào tạo kỹ năng, nâng cao chất lượng dịch vụ, thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng theo phương châm “An toàn nhất, tin cậy nhất, hiệu quả nhất”. Bảng 1. Tình hình kinh doanh của công ty qua một số năm: Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 Thu phí bảo hiểm gốc 25,692 37,416 57,785 93.232 Thu phí nhận tái bảo hiểm 4,953 6,036 10,345 14.414 Chi bồi thường BH gốc 9,287 18,978 28,958 39.951 Chi bồi thường nhận tái BH 2,283 2,201 4,470 6.167 Lợi tức thuần hoạt động kinh doanh 3,541 2,338 3,289 7.499 Lợi tức hoạt động tài chính 1,533 3,762 5,007 5.862 Tổng lợi tức trước thuế 5,177 6,107 8,293 13.36 Lợi tức sau thuế 3,520 4,154 5,639 9.62 Nguồn: công ty Bảo Long Hà Nội Bảng 2. Doanh thu của chi nhánh qua một số năm: Đơn vị: tỷ đồng Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Kế hoạch 8,12 9,86 12,8 17,5 20,5 Thực hiện 8,568 10,63 13,5 17,12 21,32 Nguồn: chi nhánh Bảo Long Hà Nội Đối với chi nhán Bảo Long Hà Nội, đay là chi nhán được thành lập đầu tiên của Bảo Long. Về mặt kinh doanh, chi nhánh tại Hà Nội triển khai kinh doanh các nghiêp vụ bảo hiểm gốc tại địa bàn Hà Nội và các tỉnh phía bắc.Do chi nhánh cũng là đại diện của Công ty tại miền bắc nên hiện nay Chi nhánh triển khai hầu hết các nghiệp vụ mà Công ty được phép kinh doanh. Hiện nay, Chi nhánh tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá vận chuyển,bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm con người, bảo hiểm hỏa hoạn va các rủi ro đặc biệt. Doanh thu chiếm môt tỷ lệ không nhỏ trong tổng doanh thu của cả Công ty và không ngừng tăng lên qua các năm. 4. Phương hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới Hà Nội là trung tâm kinh tế chính trị và văn hoá của cả Nước, nơi đây tập trung hầu hết các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và các tổ chức kinh tế xã hội. Địa bàn hoạt động của chi nhánh chủ yếu ở Hà Nội và một số tỉnh phụ cận nằm trong tam giác kinh tế phía Bắc nên đây là một thị trường rất tiềm năng trong việc triển khai hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt là các nghiệp vụ lớn như: bảo hiểm xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm hàng hoá, xe cơ giới, con người...Trước một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng nhưng hệ thống của Bảo Long Hà Nội trong thời gian qua vẫn chưa làm chủ được các phân đoạn của thị trường nên đã gặp rất nhiều khó khăn trong khâu khai thác. Trong thời gian tới để đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng và theo định hướng phát triển chung của cả công ty, chi nhánh đã định hướng sự phát triển theo những mục tiêu và nhiệm vụ sau. Về tầm nhìn - sứ mệnh: Phấn đấu trở thành nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm tin cậy nhất, an toàn nhất và hiệu quả nhất tại Việt Nam; trở thành nhà bảo hiểm chuyên nghiệp và có uy tín tại Việt Nam, dần khẳng định vị trí và năng lực của công ty trên thị trường bảo hiểm. Về chiến lược: Chiến lược 1: Tiếp tục nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm, thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu khách hàng. Chiến lược 2: Phát triển và đào tạo đội ngũ nhân viên ngày một chất lượng. Chiến lược 3: Mở rộng phạm vi hoạt động của chi nhánh ra hầu hết các tỉnh phía bắc. Về cam kết chất lượng dịch vụ: Chất lượng là yếu tố mang tính quyết định đến thành công để đạt được sự thoả mãn của khách hàng. Để đạt được, công ty xác định và cam kết thực hiện theo Chính sách chất lượng, cung cấp đầy đủ nguồn lực cần thiết để thực hiện hệ thống chất lượng nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng hiện tại và trong tương lai. Phương án kinh doanh cụ thể: Trên cơ sở các căn cứ về vị trí và mục tiêu kinh doanh, chi nhánh xác định địa bàn kinh doanh chủ yếu trong một vài năm tới sẽ vẫn là Hà Nội và một số tỉnh phía bắc như Hải Phòng, Quảng Ninh, Lạng Sơn..., các khu công nghiệp vành đai và các tỉnh phụ cận Hà Nội bởi đây là nơi tập trung của các doanh nghiệp các văn phòng đại diện của các công ty trong và ngoài nước, uy tín của Bảo Long trên thị trường này còn yếu không như trong phía Nam nên chi nhánh cần tập trung để phát triển và củng cố thị phần. Mặc dù được kinh doanh hầu hết các sản phẩm của công ty nhưng chi nhánh hiện chỉ tập trung vào một số sản phẩm lớn nên trong tương lai sẽ tiếp tục mở rộng danh mục sản phẩm, đồng thời tiếp tục và củng cố mối quan hệ các khách hàng, từng bước đẩy mạnh hoạt động khai thác và nâng cao chất lượng dịch vụ. Tiến hành đào tạo ngắn hạn cho cán bộ về các nghiệp vụ bảo hiểm gốc, hỗ trợ cho cán bộ các nguồn tài liệu văn bản pháp luật và các tài liệu cần thiết để hỗ trợ kinh doanh; Hỗ trợ các cán bộ chi phí giao dịch; hỗ trợ các cán bộ mới, cán bộ trẻ về nguồn khách hàng ban đầu để họ dần quen với công việc và có thể tự tiếp tục củng cố và mở rộng các mối quan hệ khách hàng. II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO LONG HÀ NỘI (GIAI ĐOẠN 2001-2005) Từ lý thuyết và thực tế cho thấy: nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự ra đời là cần thiết, khách quan và ngày càng đi sâu vào cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự như một biện pháp kinh tế huy động sự đóng góp của các chủ xe khi phát sinh trách nhiệm dân sự của họ trong các vụ tai nạn giao thông. Trước sự cấp thiết mang tính xã hội của vấn đề nhằm đảm bảo trật tự an toàn xã hội, kỷ cương của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người bị tai nạn trong các vụ tai nạn giao thông, Bảo hiểm Việt Nam đã tiến hành bảo hiểm bắt buộc đối với nghĩa vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, cụ thể bằng nghị định 30/HÐBT ban hành ngày ngày 10/3/1998 quy định các chủ xe cơ giới phải tham gia bảo hiểm. Bảo Long Hà Nội đã triển khai nghiệp vụ này ngay sau khi thành lập. Sau một thời gian hoạt động bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, công ty Bảo Long Hà Nội đã thu được một số kết quả nhất định. Bất kì một nghiệp vụ bảo hiểm nào khi triển khai hoạt động cũng thường phải trải qua một số khâu công việc cụ thể: khâu khai thác, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất, khâu giám định và bồi thường,... 1. Khâu khai thác. Đối tượng tham gia bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là các chủ xe (lái xe). Vì vậy, số lượng xe tham gia giao thông ít nhiều phụ thuộc vào tình hình khai thác nghiệp vụ này. Bảng 3: Số lượng xe tham gia giao thông. Năm Tổng số Ôtô Xe máy Tốc độ tăng số tham gia giao thông (%) Ô tô xe máy 20._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32833.doc
Tài liệu liên quan