Hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Naforimex

Chương 2 Thực trạng hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại công ty Naforimex I. Một số nét khát quát về công ty Naforimex. 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển. Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Hà Nội (tên giao dịch quốc tế là HA NOI FOREST PRODUCTS EXPORT - IMPORT AND PRODUCTION CORPORATION, viết tắt là NAFORIMEX HA NOI) là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, cơ quan chủ quản trực tiếp là Tổng công ty lâm sản Việt Nam. Ti

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Naforimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền thân của công ty là Tổng công ty xuất nhập khẩu lâm thổ sản ra đời năm 1960 trực thuộc Bộ Ngoại thương, đây là Tổng công ty độc quyền của Nhà nước về xuất nhập khẩu các mặt hàng lâm thổ sản toàn miền Bắc. Vì vậy, thời kỳ này, kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty lên tới sáu, bảy chục triệu USD mỗi năm. Năm 1985, Tổng công ty được chuyển giao từ Bộ Ngoại thương sang Bộ Lâm nghiệp với tên gọi Tổng công ty xuất nhập khẩu lâm sản Hà Nội. Năm 1990, Tổng công ty sát nhập với hai đơn vị lớn là Liên hiệp chế biến cung ứng lâm sản I và Công ty xuất nhập khẩu lâm đặc sản Ngọc Khánh thành Tổng công ty dịch vụ sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản I. Tháng 12 năm 1995, để phù hợp với sự phát triển khách quan của nền kinh tế thị trường trên cơ sở phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước đồngthời với việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước, Tổng công ty dịch vụ sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản I đã sát nhập với một số đơn vị thành viên của tổng công ty lâm sản Việt nam thành lập nên Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Hà Nội theo quyết định số 73/NN- TCCB-QĐ ngày 23/01/1996 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Hà Nội là doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nướcViệt Nam. Trụ sổ chính của công ty tại số 19 Bà Triệu, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Hiện nay công ty còn có chi nhánh tại thành phố Hải Phòng. Theo pháp luật hiện hành, công ty có quyền chủ động tổ chức bộ máy quản lý, tổ chức kinh doanh như: tuyển dụng lao động, liên doanh liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước, chủ động sản xuất, chủ động tổ chức xây dựng các phương án kinh doanh và tìm kiếmthị trường tiêu thụ. 2. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty. Xuất phát từ yêu cầu thị trường trong nước và nước ngoài, trên cơ sở các điều kiện đảm bảo sản xuất kinh doanh, dịch vụ, công ty xây dựng kế hoạch định hướng và tổ chức thực hiện thắng lợi, nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh, đáp ứng ngày càng nhiều hàng hoá phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và trong xuất khẩu các ngành nghề: * Sản xuất chế biến các mặt hàng từ gỗ và lâm sản nói chung để cho tiêu thụ trong nước, đồng thời tập trung chế biến một số mặt hàng có chất lượng cao phù hợp với quy định của Nhà nước về xuất khẩu lâm sản và nhu cầu người tiêu dùng như: ván gỗ ép, bàn ghế, ván tinh chế trang trí nội thất, các mặt hàng song, mây, tre, luồng, nứa... * Thu mua, tái chế các mặt hàng từ đặc sản rừng, từ sản phẩm nông lâm kết hợp để sản xuất và xuất khẩu như: dầu hồi, hoa hồi, quế các loại, dầu và tinh dầu, nhựa các loại, thuốc nam và dược liệu rừng nói chung, các sản phẩm từ động vật rừng, các sản phẩm nông lâm kết hợp. * Làm dịch vụ uỷ thác xuất nhập khẩu, xuất khẩu trực tiếp lâm sản, đặc sản rừng và sản phẩm nông lâm kết hợp, nhập khẩu gỗ lâm sản( những loại gỗ cần mà không có), thiết bị máy móc, hàng tiêu dùng phục vụ cho sản xuất tái xuất khẩu và sinh hoạt. * Thực hiện các dịch vụ khác liên quan đến lâm nghiệp.: Mở rộng liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế với nước ngoài, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, góp phần tích cực vào xây dựng kinh tế và xã hội của địa phương sở tại và của cả nước. Tạo được nhiều công ăn việc làm, thực hiện phân phối theo lao động và công bằng xã hội, trả lương phù hợp với chế độ chính sách nhà nước, nâng cao thu nhập, tổ chức tốt đời sống và hoạt động của xã hội, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, ngoại ngữ, nghiệp vụ và tay nghề cao cho công nhân viên chức. Bảo toàn và phát triển vốn, thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước và địa phương sở tại. 3. Cơ cấu tổ chức: Công ty hoạt động theo cơ chế thị trường, kinh doanh thương mại thuần tuý nên bộ máy tổ chức được tổ chức một cách gọn nhẹ, nhưng vẫn đảm bảo các mục tiêu của công ty, đó là: Bảo toàn và phát triển vốn. Bảo đảm thu nhập cán bộ công nhân viên. Thực hiện nghiêm chỉnh giao nộp nghĩa vụ ngân sách Kinh doanh có lãi. Giám đốc Khối quản lý Khối nghiệp vụ Phòng kinh doanh tổng hợp I Phòng kinh doanh tổng hợp II Phòng kinh doanh tổng hợp III Phòng kinh doanh đặc sản Phòng kinh doanh gỗ Chi nhánh Hải Phòng Văn Phòng Công ty Phòng Kế toán tài chính Tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty hiện là 68 người, đứng đầu là giám đốc công ty do tổng công ty Lâm sản Việt Nam bổ nhiệm. Giám đốc vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho công nhân viên chức quản lý công ty theo chế độ một thủ trưởng. Giám đốc có quyền quyết định việc hoạt động, điều hành công ty theo đúng kế hoạch, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của Đại hội công nhân viên chức. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Nhà nước và tập thể về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Giúp việc cho giám đốc có một kế oán trưởng, trưởng, phó các phòng ban và các chức danh lãnh đạo của các đơn vị trựcthuộc. Công ty có hai phong ban phụ trách về quản lý, năm phòng ban thuộc khối nghiệp vụ và một chi nhánh tại Hải Phòng. a) Khối quảnlý: Thực hiện các công việc quản lý công ty. b) Khối nghiệp vụ: *Phòng kinh doanh tổng hợp I,II,III. Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu các sản phẩm về lâm nghiệp. Trực tiếp tổ chức liên doanh, liên kết, chế biến các sản phẩm là gỗ, lâm sản, sản phẩm nông lâm kết hợp, tổ chức dịch vụ tiêu thụ sản phẩm. Trực tiếp xuất khẩu, nhận uỷ thác theo hình thức đổi hàng các vật tư, thiết bị máy móc, hàng hoá phục vụ sản xuất và đời sống. *Phòng kinh doanh đặc sản: Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho cá đơn vị kinh tế các mặt hàng đặc sản rừng. Kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng ngoài đặc sản theo sự điều tiết của giám đốc công ty. *Phòng kinh doanh gỗ: Trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các đơn vị các mặt hàng từ gỗ. Kinh doanh các mặt hàng ngoài gỗ theo sự điều tiết của giám đốc công ty. *Chi nhánh công ty tại Hải Phòng: Là đơn vị tự hạch toán phụ thuộc, mở tài khoản tại các ngân hàng, có con dấu riêng, hạch toán bao sổ. Nhiệm vụ của chi nhánh giống như các phòng kinh doanhcủa công ty. Ngoài ra, chi nhánh còn được liên doanh, liên kết với các thành phần kinh doanh nhằm phát huy hiệu quả sử dụng nhà đất, kho tàng, bến bãi, được giám đốc công ty duyệt phù hợp vớiquy định của Nhà nước. 4. Đặc điểm của công ty. a) Đặc điểm về mặt hàng kinh doanh: Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Hà Nội là một doanh nghiệp hạch toán kế toán độc lập. Mục tiêu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận và góp phần thúc đẩy nền kinh tế trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất chế biến và kinh doanh xuất nhập khẩu lâm sản, do đó mặt hàng chủ yếu là gỗ, song mây, tre trúc, động vật có nguồn gốc từ gây nuôi. Các sản phẩm khác không thuộc danh mục cấm của Nhà nước và các lâm đặc sản khác như: quế, dầu thông, xa nhân, ý dĩ, hoa hồi, tùng hương, hạt sen..., chim thú, cây cảnh các loại. Bên cạnh đó, công ty còn kinh doanh một số mặt hàng như lâm nông, hải sản làm trọng tâm để từng vước vươn tới kinh doanh đa dạng hoá. Chính vì vậy, công ty đã cải tiến sản xuất đầu tư vào dây chuyền công nghệ, kỹ năng quản lý, đồng thời tổ chức mạng lưới chế biến nhỏ nằm ngay tại các địa phương mà vẫn đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật và giảm bớt chi phí vận chuyển. Sau đó, sản phẩm sản xuất tại các địa phương này sẽ được đưa về công ty và các đơn vị trực thuộc để tinh chế và tiêu thụ. Hiện nay, các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu của công ty như sau: Bảng 1: Các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu. Mặt hàng nhập khẩu chính Mặt hàng xuất khẩu chính 1. Gỗ tròn, gỗ xẻ. 1.Sản phẩm gỗ tinh chế 2. Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải 2. Hàng lâm, nông, hải sản. 3. Hàng tiêu dùng. 3. Sản phẩm song mây, tre trúc. 4. Hàng hoá khác. 4. Hàng hoá khác. (Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh của công ty ) Như vậy, bên cạnh một số mặt hàng lâm sản, công ty còn kinh doanh xuất nhập khẩu một số mặt hàng có lợi thế thương mại khác như: máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, phụ tùng thay thế các loại, hoá chất dùng trong công nghiệp, trang trí nội thất và hàng tiêu dùng. Ngoài ra, công ty còn làm một số dịch vụ khác như xuất nhập khẩu uỷ thác, làm dịch vụ vận chuyển gỗ với các nước bạn để tăng doanh thu và có thêm bạn hàng kinh doanh mới. Nhờ có những chính sách hợp lý đẩy mạnh xuất nhập khẩu mặt hàng truyền thống, đồng thời phát huy hiệu quả kinh doanh những mặt hàng có lợi thế thương mại khác, công ty đã thu được nhiều thành công đáng kể, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn lưu động, hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao. b) Đặc điểm về thị trường và đối thủ cạnh tranh của công ty. Bước sang nền kinh tế thị trường, nước ta đã mở cửa và giao lưu với nhiều nước trên thế giới, trên cơ sở phá bỏ cơ chế độc quyền về ngoại thương. Xuất nhập khẩu lâm sản trước đây là Naforimex độc quyền, nay được mở ra cho mọi ngành, mọi địa phương có lâm sản đều được trực tiếp xuất khẩu. Những thị trường nước ngoài mà trước đây chỉ biết đến Naforimex thì nay có thể tìm đến nhiều công ty khác, cả công ty của các Bộ cũng như công ty của các địa phương, thậm chí công ty cấp huyện, vì vậy việc tìm kiếm thị trường trở nên rất cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp. Là một doanh nghiệp nhà nước nhưng không được bao tiêu về tiêu thụ sản phẩm như trước đây. Do vậy, công tác tìm kiếm thị trường là yêu cầu bức thiết đặt ra. Tuy nhiên, công ty cũng vẫn phải tham gia sản xuất hàng hoá xuất khẩu- chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta và vẫn phải đảm bảo cung ứng nội địa phục vụ cho nhu cầu trong nước. Đầu những năm 1990, do cung ứng nội địa bắt đầu gặp khó khăn, cơ chế quản lý cũ đã hoàn toàn bị xoá bỏ. Các đơn vị tiêu thụ gỗ do uỷ ban thành phố chỉ định cho công ty cung ứng gỗ không còn, mặt hàng gỗ không còn là vật tư nữa mà đó chính là hàng hoá. Trước tình hình đó,các cơ sở có nhu cầu về gỗ thuộc các thành phần kinh tế có quyền kinh doanh mua bán gỗ nên nhiều cửa hàng tư nhân mọc lên khắp nơi đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng với đầy đủ các chủng loại gỗ khác nhau. Nhưng những năm giữa và cuối thập kỷ 90, công ty đã xác định phương hướng và từng bước chuyển dần phần lớn sang sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu, công ty đã đưa sản phẩm của mình chào hàng ở các nước châu á như: Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Nhật Bản...và sang các thị trường khó tính như: Anh, Pháp, Mỹ...Do điều kiện nghành công nghiệp chế biến nước ta còn ở trình độ thấp nên sản phẩm của công ty xuất sang các nước chỉ là sản phẩm sơ chế. Sở dĩ các sản phẩm của công ty vẫn có khả năng cạnh tranh trên thị trường được coi là khó tính như thị trường Pháp Mỹ...trước hết là nhờ giá lao động thấp, trình độ tay nghề của công nhân đã được nâng cao trong điều kiện tiếp nhận công nghệ mới đã cho phép thoả mãn những tiêu chuẩn khắt khe. Vấn biết trong điều kiện kinh tế thị trường mở cửa là có sự cạnh tranh, cạnh tranh giúp các doanh nghiệp luôn luôn phải cố gắng, tích cực, nhạy bén và sáng tạo...Bởi vậy, khi nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu, các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp tư nhân đã có cơ hội, đã gây sức ép đến hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Nhu cầu thị trường luôn luôn thay đổi, đặc biệt là thị trường thế giới luôn có nhu cầu về sản phẩm mới, do vậy công tác dự tính lập kế hoạch phát triển sản phẩm phải được thực hiện một cách nghiêm túc và khoa học mới có thể đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh doanh. c) Đặc điểm về tài chính. Trước hết phải khẳng định năng lực tài chính của công ty là một chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật hết sức quan trọng trong quá trình đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Naforimex là một công ty thương mại đơn thuần, do đó vốn lưu động luôn chiếm tỷ trọng lớn trong vốn sản xuất kinh doanh. Vì vậy, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty, ngoài những chỉ tiêu như: tỷ suất ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, mức nộp ngân sách...thì các chỉ tiêu về vốn lưu động cũng rất quan trọng. Sau đây là một số chỉ tiêu tài chính cơ bản của công ty Naforimex. Bảng 2. Bảng 2: Các chỉ tiêu tài chính cơ bản của công ty. Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 A. Tổng tài sản 23.601.422.301 49.514.969.663 45.809.086.416 I. Tài sản lưu động 21.545.700.883 47.628.741.924 44.076.932.802 1.Vốn bằng tiền 1.153.484.414 3.263.631.987 3.215.851.110 2.Đầu tư tài chính ngắn hạn 0 0 0 3.Các khoản phải thu 13.559.495.817 36.471.988.363 32.240.590.512 4. Hàng tồn kho 5.495.512.203 5.526.304.320 6.321.894.082 5.Tài sản lưu động khác 1.337.208.399 2.364.547.154 2.298.597.098 II. Tài sản cố định 2.005.721.468 1.886.497.739 1.732.153.614 B. Tổng nguồn vốn 23.601.422.301 49.514.969.663 45.809.086.416 I. Nợ phải trả 8.150.172.557 33.084.079.448 29.412.290.886 Nợ ngắn hạn 7.918.451.512 32.690.704.942 28.594.967.643 II.Vốn chủ sở hữu 15.451.249.744 16.430.890.215 16.396.795.530 Nguồn vốn kinh doanh 10.051.799.326 10.064.254.326 10.064.254.326 ( Nguồn: Bảng cân đối kế toán của công ty 1999, 2000, 2001). II. Phân tích thực trạng hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty 3 năm gần đây: 1999, 2000, 2001. Hiệu quả kinh doanh của một công ty không chỉ là hiệu quả kinh tế, hiệu quả tài chính mà còn phải là hiệu quả xã hội nữa. Vì vậy, bên cạnh việc phân tích hiệu quả tài chính để thấy được hiệu quả kinh tế của công ty, ta còn phải phân tích hiệu quả xã hội để đánh giá được sự đóng góp của công ty vào đời sống xã hội của đất nước. A. Hiệu quả kinh tế. Doanh thu. Doanh thu và chi phí là hai chỉ tiêu mà bất cứ nhà quản trị nào cũng đều quan tâm khi đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của bất cứ một doanh nghiệp nào. Doanh thu và lợi nhuận trong kỳ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả tài chính, trong khi doanh thu có mối quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thì chi phí lại có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lợi nhuận. Là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, công ty Naforimex chịu ảnh hưởng mạnh của tình hình biến động kinh tế khu vực và thế giới, đặc biệt là những biến động trên thị trường thế giới. Tổng doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua được biểu hiện ở bảng kết quả hoạt động kinh doanh. Về tổng doanh thu: Tổng doanh thu của công ty không ngừng tăng qua các năm, nhất là trong năm 2001, tổng doanh thu đạt được 51.482 triệu đồng, tăng 101,44 % so với năm 2000. Tuy nhiên mức tăng này vẫn không cao bằng mức tăng năm 2000 so với năm 1999 đạt 156.85%, đây là mức tăng cao nhất trong 3 năm gần đây. Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ. Doanh thu thuần là chỉ tiêu dùng để đo lường các hệ số về hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu thuần tăng sẽ làm cho các chỉ tiêu tăng theo nhưng với điều kiện là các nhân tố khác không đổi. Doanh thu thuần của công ty vẫn tăng mạnh, năm 1999 là 32.157 triệu đồng, sang năm 2000 tăng 18.282 tức 156.78%. Năm 2001, doanh thu thuần tiếp tục tăng nhưng mức tăng không đáng kể, bằng 101.76% năm 2000( 889 triệu đồng). Doanh thu của công ty phụ thuộc vào lượng hàng hoá bán ra và giá bán đơn vị sản phẩm, các mặt hàng của công ty chủ yếu là gỗ, các sản phẩm về gỗ và đặc sản rừng...Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực ra thị trường thế giới. Lượng và giá bán các mặt hàng này phụ thuộc vào vị thế của sản phẩm trên thị trường, với công ty kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động kinh doanh của công ty còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau trong thời gian qua: - Tỷ giá biến động: 1 USD =11.000 VNĐ trước khủng hoảng tăng lên đến trên 14.000 VNĐ. Trong giai đoạn từ năm 1999-2001, Nhà nước đã hai lần điều chỉnh tỷ giá. Tỷ giá là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu. Vì không thể tổng kết hết được toàn bộ chi phí và kết quả của toàn bộ các hợp đồng theo từng hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu riêng rẽ nên chỉ có thể đơn cử một ví dụ đặc trưng về sự ảnh hưởng của tỷ gía đến hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty: Ngày 8/11/2000, công ty ký hợp đồng nhập khẩu: + 17.000 chiếc đồng hồ đo nước loại CD one class C với giá 18 Euro/ chiếc. + 3 bộ đồng hồ thử với giá 400 Euro/ bộ. Trong khi đó, công ty lại ký hợp đồng nội cho lô hàng trên: + 17.000 chiếc đồng hồ đo nước loại CD one class C với giá 17 USD/ chiếc. + 3 bộ đồng hồ thử với giá 380 USD/ bộ. Giá trên là giá đã bao gồm thuế nhập khẩu 10% và thuế VAT 5%. Như vậy, với tỷ giá 1USD= 15.300 VND và 1 Euro = 13.500 VND, ta có thể thấy hiệu quả như sau: Lợi nhuận = Doanh thu - Chi phí Doanh thu = [( 17.000 x 17 USD) + ( 3 x 380 USG)] x 15.300VND = 4.439.142.000 VND. Chi phí = [( 17.000 x 18 Euro) + (3 x 400 Euro)] x 13.500VND = 4.147.200.000 VND. Lợi nhuận = 291.942.000 VND. Nhưng đến thời điểm thực hiện hợp đồng thì tỷ giá đã biến động rất lớn: 1USD = 15.370 VND 1 Euro = 15.600 VND Như vậy, ta có thể tính hiệu quả như sau: Doanh thu = [( 17.000 x 17 USD) + [( 3 x 380 USD)] x 15.370VND = 4.459.451.800 VND Chi phí = [( 17.000 x 18 Euro) + ( 3 x 400 Euro)] x 15.600 VND = 4.792.320.000 VND Như vậy, theo dự kiến khi ký hợp đồng, công ty sẽ thu về một số lợi nhuận là 291.942.000 VND( bao gồm cả thuế nhập khẩu 10% và VAT 5%) nhưng do sự biến động của tỷ giá mà lúc thực hiện hợp đồng, công ty đã chịu lỗ một số tiền là 332.868.200 VND. Đây chỉ là đơn cử một ví dụ trong đó tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty thời gian qua. Hiện nay, được sự cho phép của Nhà nước, hầu hết các khách hàng xuất nhập khẩu uỷ thác qua công ty đã rút về tự doanh làm ảnh hưởng đáng kể kim ngạch xuất khẩu. Ba luật thuế mới được áp dụng đồng thời: Luật thuế GTGT, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất nhập khẩu. VAT với tỷ lệ trung bình 10% đối với hàng nhập khẩu phần nào đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty năm 1999. Sang năm 2000- năm thứ hai thực hiện luật thuế GTGT song vẫn còn nhiều khó khăn. Nhờ đã có rất nhiều cố gắng trong việc tìm kiếm hợp đồng, mở rộng thị trường, tìm kiếm bạn hàng mới bên cạnh việc duy trì mới quan hệ với những bạn hàng cũ, doanh thu của công ty đã tăng hơn so với năm 1999. Trong thời gian này, khủng hoảng giảm dần, tỷ giá hốiđoái không có biến động lớn. Trong bối cảnh nền kinh tế của các nước châu á vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ, cơ chế quản lý của Nhà nước thay đổi thì hoạt động của công ty vẫn đạt được những mức tăng trưởng như vậy là một điều đáng kể. Chi phí. Lợi nhuận của công ty phụ thuộc vào chi phí và do vậy chi phí ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Chi phí gồm có: giávốn hàng bán và chi phí kinh doanh, trong đó chi phí kinh doanh lại gồm chi phí khâu mua, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Chi phí Tỷ suất phí = Doanh thu Phân tích chi phí để đánh giá chất lượng công tácquản lý và sử dụng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua phân tích chi phí, ta còn chỉ rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến sự tặng giảm chi phí kinh doanh, từ đó đề ra các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí và giảm tỷ suất phí. Đánh giá xem doanh nghiệp chi phí có hợp lý không thì ta phải đánh giá các chỉ tiêu: chi phí phân bổ cho các khâu có hợp lý không, tốc độ tăng chi phí năm nay so với năm trước, so với tốc độ tăng doanh thu. Về giá vốn hàng bán: Qua số liệu bảng 3 và biểu đồ 1 cho thấy: năm 2000, tốc độ tăng giá vốn hàng bán là 155.88%, tương đương với tốc độ tăng doanh thu thuần (156.85%) và tốc độ tăng tổng doanh thu(156.85%). Điều đáng lo ngại hơn là sang năm 2001, tốc độ tăng giá vốn hàng bán tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu thuần, điều đó chứng tỏ đồng vốn được sử dụng không hiệu quả: bỏ ra nhiều vốn hơn mà doanh thu lại tăng với tốc độ chậm hơn. Hơn nữa, nhìn vào tỷ trọng giá vốn hàng bán so với doanh thu thuần, ta thấy tỷ trọng này là rất lớn, như vậy chứng tỏ của doanh nghiệp làm ăn rất ít lợi nhuận. Điều này là do công ty kinh doanh những mặt hàng chủ yếu dưới dạng nguyên liệu, ít hàm lượng chế biến, vì vậy một khi giá vốn đã cao thì tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu sẽ thấp, ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Công ty cần phát triển các mặt hàng có hàm lượng chế biến cao để thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Về chi phí kinh doanh (gồm chi phí khâu mua, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp). Đây là các khoản chi phí liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, nhìn chung công ty thường tìm cách giảm và hạn chế tới mức thấp nhất loại chi phí này song vẫn phải đảm bảo mức hợp lý của nó. Những khoản chi phí này tuy chỉ chiếm tỷ trọng không lớn đối với công ty nhưng khi phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận. Công ty Naforimex cần đánh giá tính hợp lý của từng chi phí và tìm mọi biện pháp tiết kiệm. Chi phí quản lý doanh nghiệp hầu như được giữ ở mức bình quân là 1.087 triệu đồng so với quy mô của công ty thì đây là mức cao. Công ty cần phải hạ thấp loại chi phí này để tăng lợi nhuận. Còn đối với chi phí bán hàng thì có sự tăng lên qua các năm, đặc biệt là năm 2000 tăng 129.89%. Điều này một phần do lãi vay ngân hàng tính vào chi phí bán hàng nên tỷ trọng nợ vay ngân hàng tăng qua các năm cũng là nguyên nhân làm cho chi phí này tăng. Tính chung cả các loại chi phí trên thì ta thấy: tỷ trọng chi phí trong doanh thu thuần rất cao, năm 2000 có giảm nhẹ nhưng đến năm 2001 lại tăng, như vậy tỷ suất lợi nhuận sẽ rất thấp, chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động thu được ít lợi nhuận. Hơn nữa, tỷ suất phí có tốc độ tăng bằng và hơn doanh thu thuần, điều này chứng tỏ doanh nghiệp quản lý chi phí không hiệu quả. Trong thời gian tới, doanh nghiệp phải tìm cách giảm tỷ suất phí, cụ thể là giảm chi phí kinh doanh tại vì giá vốn và giá bán là cố định, muốn tăng lợi nhuận thì phải cắt giảm các chi phí kinh doanh. Giảm chi phí kinh doanh hợp lý nghĩa là giảm tỷ suất phí trong điều kiện không ngừng mở rộng doanh thu và tiết kiệm chi phí. Giảm tỷ suất phí nhưng không ngừng nâng cao văn minh thương nghiệp (chất lượng hàng hoá, chất lượng phục vụ khách hàng...). Giảm tỷ suất phí nhưng không được vi phạm các chính sách Nhà nước quy định đối với doanh nghiệp. 3. Lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp gồm: lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính, lợi nhuận bất thường, trong đó lợi nhuận kinh doanh là bộ phận lớn hơn cả, thu được do việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ do sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đem lại. Trong phạm vi của khoá luận này cũng chỉ đi phân tích lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh Cách tính: Lợi nhuận kinh doanh = Lợi nhuận gộp - Chi phí bán hàng - Chi phí quản lý. Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - Giá vốn hàng bán. Doanh thu thuần = Doanh thu bán hàng - Các khoản giảm trừ. Qua bảng kết quả kinh doanh của công ty 3 năm gần đây, ta thấy: năm 2000, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng 280 triệu đồng, tăng 150.9% năm 1999, năm 2001 giảm xuống, chỉ đạt 97.59% năm 2000. Hơn nữa, xét về tốc độ tăng lợi nhuận thì tốc độ tăng lợi nhuận không bằng tốc độ tăng doanh thu năm 2000. Lợi nhuận giảm, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể ra đây như việc thu mua hàng hoá xuất nhập khẩu chưa có sự phân tích kỹ thị trường, nghiên cứu nguồn hàng cung cấp, ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá tác động vào gía cả hàng hoá mua vào làm cho giá vốn hàng bán tăng cao. Tuy công ty vẫn thu được lợi nhuận nhưng tỷ suất lợi nhuận lại quá nhỏ, không bằng cả lãi suất ngân hàng, điều này chứng tỏ công ty đang làm ăn không hiệu quả. Hơn nữa, tỷ suất này lại đang giảm với tốc độ đáng kể. Công ty cần có những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý chi phí để từ đó góp phần làm nâng cao lợi nhuận, cụ thể là công ty cần tiếp tục duy trì xu hướng giảm chi phí gián tiếp và bắt đầu giảm chi phí trực tiếp, tránh lãng phí không cần thiết đẩy giá vốn hàng bán tăng lên làm giảm lợi nhuận. Về tài chính, công ty cần tăng cường quản lý các khoản phải thu, giảm các khoản nợ vay tránh tình trạng tỷ lệ các khoản phải thu và tỷ lệ nợ vay cao như hiện nay. 4. Hiệu quả tài chính qua một số chỉ tiêu cụ thể. Quy mô VLĐ của công ty không ngừng tăng qua các năm, tốc độ bình quân mỗi năm khoảng 106%. Để có cái nhìn cụ thể về tình hình sử dụng vốn lưu động, chúng ta đi sâu phân tích các chỉ tiêu trong bảng 3: Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. a) Tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động là một trong các chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ. Do vậy, để rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo có thể sử dụng tốt VLĐ hơn, ta cần nghiên cứu từng chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển VLĐ. Doanh thu thuần Số vòng quay VLĐ (VVLĐ) = VLĐ bình quân Về số vòng quay VLĐ( VVLĐ): VLĐ đầu năm + VLĐ cuối năm VLĐ bình quân năm = 2 Trong đó: Năm 2000, số vòng quay VLĐ đạt 3,45 vòng/ năm, tăng so với năm 1999 chỉ đạt 2,36 vòng/ năm. Nhưng đến năm 2001, số vòng quay VLĐ chỉ còn 3,32 vòng/ năm. Điều này cho thấy việc năng cao hiệu quả sử dụng VLĐ của công ty chưa mang tính liên tục, và chưa đạt hiệu quả cao nhất của đồng VLĐ. Hơn nữa, hệ số này còn thấp so với các công ty cạnh tranh cùng ngành. Xem xét mức độ ảnh hưởng của doanh thu thuần và VLĐ bình quân đến hệ số luân chuyển, ta thấy: * Năm 2000 so với năm 1999: - Do ảnh hưởng của doanh thu thuần trong kỳ đến số vòng quay VLĐ: 50.349 32.157 D1 = - = 1,34 13.627 13.627 Do ảnh hưởng của VLĐ bình quân trong kỳ đến số vòng quay VLĐ: 50.439 50.439 D2 = - = - 0,25 14.637 19.627 Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng: D = D1 + D2 = 1,34 - 0,25 = 1,09 Như vậy, số vòng quay của VLĐ năm 2000 tăng 1,09 vòng so với năm 1999 trong đó doanh thu thuần tăng làm cho số vòng quay tăng 1,34 lần trong khi vốn lưu động bình quân tăng chậm hơn đã làm giảm 0,25 số vòng quay. Năm 2001 so với năm 2000: Tính toán tương tự như trên ta có: 51.328 50.439 D1 = - = 0,06 14.637 14.637 -Do ảnh hưởng của doanh thu thuần: 51.328 51.328 D2 = - = - 0,19 15.481 14637 - Do ảnh hưởng của VLĐ bình quân: Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng: D = D1 + D2 = 0,06 - 0,19 = -0,13 Năm 2001, số vòng quay VLĐ giảm là do tốc độ tăng của doanh thu thuần chậm hơn so với tốc độ tăng của VLĐ bình quân. Doanh thu thuần năm 2001 tăng 889 triệu đồng, bằng 101,76% so với năm 2000. Trong khi đó,VLĐ bình quân năm 2001 tăng 844 triệu đồng, bằng 105,77% so với năm 2000. Do đó số vòng quay năm 2001 giảm 0,13 vòng. Đây không phải là kết quả thuận lợi cho công ty, vì vậy, trong những năm tiếp theo, công ty cần phải có những giải pháp mới để nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh. Về thời gian một vòng luân chuyển VLĐ: Đây là chỉ tiêu khá quan trọng vì qua đó ta tính được số VLĐ mà công ty tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ. 360 Thời gian của một vòng luân chuyển = Vòng quay VLĐ Năm 1999, thời gian của 1 vòng quay VLĐ là 152,5 ngày. Theo như phân tích ở trên, năm 2000 vòng quay VLĐ tăng nên thời gian của một vòng quay giảm xuống còn 104,3 ngày. Thời gian ngắn thì tốc độ thu hồi vốn nhanh nên doanh nghiệp thu được những lợi ích sau: tiết kiệm được VLĐ; tiết kiệm được chi phí trả lãi tiền vay; chi phí bảo quản, lưu kho bãi và tiết kiệm được các khoản hao hụt. Ngoài ra, doanh nghiệp còn tạo nhiều công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu của xã hội về mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh, tăng uy tín doanh nghiệp. Đây là mức tăng hiệu quả nhất trong 3 năm gần đây. Thời gian một vòng quay cũng như số vòng quay của VLĐ đều chịu tác động của quy mô VLĐ và doanh thu thuần. Năm 2001, doanh thu thuần tăng, đạt 101,76% so với năm 2000 nhưng không tăng nhanh bằng mức tăng của VLĐ bình quân, đạt 105,77% so với năm 2000. Điều này làm cho thời gian một vòng quay VLĐ tăng lên 108,4 ngày, tăng 3,45% so với năm 2000. Doanh thu thuần V = x (T-T’) 360 Thời gian luân chuyển VLĐ ngoài việc phản ánh hiệu quả sử dụng VLĐ còn giúp ta tính được so vốn tiết kiệm hay lãng phí trong kỳ. Trong đó: T, T’: thời gian luân chuyển kỳ này và kỳ trước. V: Vốn lưu động tiết kiệm hay lãng phí. Năm 2000 so với năm 1999: 50.429 V = x ( 104,3 -152,5) 360 V = - 6.735 triệu đồng 51.328 V = x ( 108,4 -104,3) 360 Năm 2001 so với năm 2000: Từ số liệu trên ta thấy: năm 2000, công ty đã tiết kiệm dược số lượng lớn VLĐ, lên tới 6.753 triệu đồng. Nhưng đến năm 2001, công ty đã lãng phí mất 585 triệu đồng, điều này có thể lý giải được vì năm 2001 là thời điểm nhập hàng mà công ty chưa kịp tiêu thụ, mức tồn kho lớn. Nhưng một điều dễ nhận thấy là trong 3 năm gần đây, hoạt động kinh doanh của công ty có nhiều biến động. Vì vậy, trong những năm tiếp theo, công ty cần có những biện pháp đièu chỉnh để tránh sự biến động quá lớn, tiến tới ổn định và nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ. Một chỉ tiêu không kém phần quan trọng khi đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ là Hệ số đảm nhiệm VLĐ. Hệ số này cho thấy năm 1999 để có 1 đồng doanh thu thuần thì phải sử dụng 0,113 đồng VLĐ, sang năm 2000, hệ số này tăng lên 0,29 và đến 2001, muốn có 1 đồng doanh thu thì phải sử dụng 0,3 đồng VLĐ. Hệ số này đang trong chiều hướng bất lợi cho công ty: vốn huy động ngày càng nhiều mà doanh thu lại không tăng tương ứng với số vốn bỏ ra, chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn chưa thật hiệu quả. b) Sức sinh lời của VLĐ. Để đánh giá chính xác và đầy đủ hơn về hiệu quả sử dụng VLĐ, ta cần xem xét và đánh giá thêm chỉ tiêu hiệu quả về lợi nhuận của công ty. Đây là chỉ tiêu phản ảnh khả năng sinh lời của đồng vốn. Đây là chỉ tiêu quan trọng vì mọi hoạt động đều hướng tới lợi nhuận. Lợi nhuận Khả năng sinh lời của VLĐ = Vốn lưu động Năm 1999, một đồng vốn lưu động tạo ra 0,07338 đồng LNTT và 0,04036 đồng LNST, thấp hơn so với năm 2000. Năm 2000, sức sinh lời của VLĐ tăng và đạt mức cao nhất trong 3 năm gần đây( với 2 chỉ tiêu tương ứng là 0,10319 và 0,05671). Năm 2000, LNTT và LNST bằng 150,9% và 150,91% năm 1999 trong khi đó quy mô VLĐ chỉ tăng 1.010 triệu đồng( bằng 107,4% năm 1999). Vì vậy mà một đồng VLĐ tạo ra nhiều đồng lợi nhuận hơn. Năm 2001, sức sinh lợi của VLĐ giảm : 1 đồng VLĐ chỉ tạo ra 0,09515 đồng LNTT và 0,05232 đồng LNS._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuong2.doc
  • docBang.doc
  • docchuong1.doc
  • docchuong3.doc
  • docket luan.doc
  • docloi mo dau.doc
  • docMuc luc.doc
  • doctai lieu tham khao.doc