Hiệu quả đầu tư phát triển của Tổng Công ty Điện Lực Việt Nam (EVN)

LỜI MỞ ĐẦU Theo tiến trình phát triển của đất nước và xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo đất nước bắt tay vào một thời kì đổi mới toàn diện về nhận thức và định hướng phát triển kinh tế .Hệ thống kinh tế đã có sự chuyển hướng rõ rệt trong tất cả các lĩnh vực từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ giao thông vận tải đến thương mại dịch vụ . Với định hướng đúng đắn ấy, Nhà nước bắt đầu tách chức năng

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả đầu tư phát triển của Tổng Công ty Điện Lực Việt Nam (EVN), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quản lý nhà nước ra khỏi chức năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,thực hiện xây dựng các đầu kéo phát triển kinh tế đát nước thông qua việc hình thành các tổng công ty lớn .Trong bối cảnh đó, Tổng Công Ty Điện Lực Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 562/TTg và Điều lệ hoạt động của Tổng công ty được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Nghị địng số 14/CP ngày 27/01/1995. Kể từ khi thành lập,Tổng công ty đã thể hiện được vị trí quan trọng của mình trong phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Công ty đã thực hiện nhiều dự án quan trọng để xây dựng nguồn điện và mạng lưới cung cấp điện cho sản xuất kinh doanh và sinh hoạt cho người dân.Trong quá trình đầu tư phát triển, Tổng công ty đã đạt được nhiều kết quả quan trọng và cơ bản đáp ứng được nhu cầu về điện. Tuy nhiên, Tổng công ty vẫn còn những tồn tại như: tiến độ xây dựng các nhà máy thủy điện vẫn còn chậm, vẫn tình trạng thiếu điện vào mùa khô, mạng lưới truyền tải điện chưa hợp lý dẫn đến thất thoát điện năng …Để đứng vững và phát triển hơn nữa đòi hỏi Tổng công ty phải có những giải pháp thiết thực để khắc phục những tồn tại này. Để hiểu sâu hơn về vấn đề này em chọn đề tài: “Hiệu quả đầu tư phát triển của Tổng Công ty Điện Lực Việt Nam (EVN)”.Do khả năng thu thập tài liệu và hiểu biết thực tế có hạn nên em chỉ viết trong phạm vi những vấn đề thực hiện các dự án phát triển nguồn điện và lưới điện của Tổng công ty Điện lực Việt Nam hiện nay.Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Kế Tuấn đã hướng dẫn thực hiện bài viết này. PHẦN I: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ VÀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ I.Tổng quan về hoạt động đầu tư: 1. Khái niệm về đầu tư: Hiện nay có nhiều định nghĩa về đầu tư nhưng một định nghã tổng quát nhất là: đầu tư là việc sư dụng các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để thu được các kết quả đó.Các nguồn lực đó có thể là tài chính, tài nguyên thiên nhiên,sức lao động và trí tuệ.Các nguồn lực này được sử dụng một cách hợp lý để tạo ra các kết quả tốt với một chi phí thấp nhất.Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm của các tài sản tài chính,tài sản vật chất ,tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực cao hơn có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong đầu tư có ba loại đầu tư chính .Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng từ có giá để hưởng lãi sất định trước hoặc lãi suất tùy thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của công ty phát hành .Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư .Đàu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán .Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán và người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ .Đầu tư phát triển trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực cho nền sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội .Nói một cách cụ thể hơn đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng,sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và đào tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội . Do phạm vi nghiên cứu liên quan nên ở đây chỉ quan tâm đến loại đầu tư phát triển .Đầu tư phát triển rất đa dạng và phong phú bao gồm các hoạt động đầu tư phát triển hoạt động sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng_kỹ thuật, đầu tư phát triển văn hóa …xuất phát từ đặc trưng kỹ thuật của các hoạt độnh trong mỗi xông cuộc đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm các hoạt động chuẩn bị đầu tư, mua sắm các yếu tố đầu vào của quá trình đầu tư, thi công xây lắp công trình, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và xây lắp cơ bản khác có liên quan đến sự phát huy tác dụng sau này của công cuộc đầu tư phát triển . 2. Phân loại hoạt động đầu tư: *Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư cho tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc thiết bị …); đầu tư tài sản tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác…và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất khác. *Theo cơ cấu tái sản xuất có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu .Trong đó đầu tư theo chiều rộng cần vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian hoạt động để thu hồi vốn lâu, tình chất kĩ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao .Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lựợng vốn ít, thời gian thực hiện không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng . *Theo phân cấp quản lý ,dự án đầu tư đựơc chia làm ba nhóm A, B và C tùy theo tính chất và quy mô của dự án,trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ,UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định . *Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư, có thể chia thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học ki thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng … *Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi vốn, có thể chia thành đầu tư ngắn hạn và đầu tư dài hạn. *Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, có thể chia thành: - Đầu tư gián tiếp: Trong ngừoi bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các cính phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặcn có hoàn lại với lãi suất thấp cho các chính phủ các nước khác vay để phát triển kinh tế xã hội … - Đầu tư trực tiếp: Trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. *Theo nguồn vốn: + Vốn huy động trong nước: vốn tích lũy của ngân sách, của doanh nghiệp, tiết kiệm của dân cư. + Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp. Ngoài ra còn có thể phân dự án đầu tư theo vùng lãnh thổ, phân chia theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo các tiêu thức khác nữa. II. Hiệu quả đầu tư và các chỉ tiêu đánh giá: 1. Khái niệm và phân loại hiệu quả đầu tư: Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế-xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kì nhất định. Để đáp ứng nhu càc quản lý và nghiên cứu thì có thể phân loại hiệu quả đầu tư theo các tiêu thức sau đây: - Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả kĩ thuật hiệu quả quốc phòng. - Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư của từng dự án, từng doanh nghiệp, từng ngành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế-xã hội .Hiệu quả tài chình là hiệu quả kinh tế được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp còn hiệu quả kinh tế-xã hội là hiệu quả tổng hợp được xem xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế. - Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. -Theo cách tình toán, có hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối .Hiệu quả tuyệt đối là hiệu quả được tính bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí. Còn hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí. 2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư : 2.1. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư : Hiệu quả tài chính (Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kì khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung . Etc được coi là hiệu quả khi Etc >Etc0. Trong đó: Etc0 – chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đạt tiêu chuẩn hiệu quả. Để đánh giá hiệu quả tài chính chúng ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi một chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và sử dụng trong những điều kiện nhất định. Các chỉ tiêu này được xét trên hai phương diện khác nhau là đối với dự án đầu tư và đối với doanh nghiệp thực hiện đầu tư. * Đối với dự án đầu tư: Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư bao gồm : 2.1.1. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần tình cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động trong từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần phản ánh hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư .Các chỉ tiêu này phải được tính chuyển về mặt bằng tiền tệ theo thời gian. 2.1.2. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư: Trong đó : RRi là mức sinh lời của vốn đầu tư năm i Wipv là lợi nhuận năm I tính chuyển về thời điểm hiện tại . Iv0 là vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại (tại thòi điểm dự án bắt đầu hoạt động) Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm trên một đơn vị vốn đầu tư (1000đ, 1000000đ,…). Trong đó: NPV - là thu nhập thuần tính về thời điểm hiện tại . Chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần tính cho một đơn vị vốn đầu tư. 2.1.3. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) Chỉ tiêu này cho biết thời gian ma dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm . Dự án có hiệu quả khi T T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao. 2.1.4. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) : Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR r giới hạn .Tỷ suất giới hạn được xác định căn cứ vào cấc ngườn vốn huy động của dự án .Chẳng hạn dự án vay vốn đầu tư thì tỷ suất giới hạn là lãi suất vay; nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư thi tỷ suất giới hạn là mực chi phí cơ hội của vốn; nếu huy động vốn từ nhiều nguồn, tỷ suất giới hạn là tỷ suất bình quân từ các nguồn huy động v.v… * Đối với doanh nghiệ thực hiện đầu tư: Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính được tính như sau: 2.1.1.1. Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư: Tính cho từng năm: Trong đó: Wi là lợi nhuận thuần của dự án j () với j=1,2,…,m là tổng lợi nhuận thuần của các dự án hoạt động năm i . Ivb là vốn đầu tư thực hiện trong năm i của doanh nghiệp . Ivr là vốn đầu tư thực hiện chưa phát huy tác dụng ở cuối năm của doanh nghiệp. Ive là vốn đầu tư phát huy tác dụng ở cuối năm i. Tình bình quân: Trong đó: là vốn đầu tư được phát huy tác dụng bình quân năm thời kì nghiên cứu tính theo mặt bằng với lợi nhuận thuần . là lợi nhuận bình quân năm của thời kì nghiên cứu tính theo giá trị ở mặt bằng hiện tại của tất cả các dự án hoạt động trong kì . 2.1.1.2. Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư giảm kì nghiên cứu (t) so với kỳ trước (t-1): K là hệ số mức ảnh hưởng của đầu tư. 2.1.1.3. Chỉ tiêu mức tăng năng suất lao động của từng năm hoặc bình quân năm thời kì so trước thời kỳ do đầu tư: Trong đó: là mức tăng năng suất lao động bình quân năm thời kỳ t so với thời kỳ t-1. là mức tăng năng suất lao động năm i so với năm i-1. 2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội: 2.2.1 Giá trị gia tăng thuần túy ký hiệu là NVA (Net value added): Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế -xã hội của hoạt động đầu tư .NVA là mức chêng lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính toán như sau: Trong đó NVA lá giá trị gia tăng thuần túy do đầu tư mang lại . O(Output) là giá trị đầu ra của dự án . MI(Material input) là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên . Iv là vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dựng nhà xưởng, mua máy móc, thiết bị … NVA bao gồm 2 yếu tố:chi phí trực tiếp trả cho người lao động ký hiệu là Wg(wage) (tiền lương, tiền thưởng kể cả phụ cấp ).Và thặng dư xã hội ký hiệu là SS (social surplus). Thặng dư xã hội thể hiện thu nhập của xã hội từ dự án thông qua thuế gián thu, trả lãi vay, lãi cổ phần, đóng bảo hiểm, thuê đấtm, tiền mua phát minh sáng chế … Đối với các dự án có liên quan đền các yếu tố nước ngoài (liên doanh, vay vốn từ bên ngoài, thuê lao động nước ngoài ), thì giá trị gia tăng thuần túy quốc gia (tíng cho cả đời dự án (NNVA) được tính như sau : Trong đó: PR là giá tri gia tăng thuần túy được chuyển ra nước ngoài. 2.2.2 Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án: Ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án khác được thực hiện do do đòi hỏi của sự án đang được xem xét. Trong khi tạo việc làm cho một số lao động, thì sự hoạt động của dự án mới cũng có thể làm cho một số lao động ở các cơ sở sản xuất kinh doanh khác bị mất việc do các cơ sở này không cạnh tranh nổi với sản phẩm của dự án mà phải thu hẹp sản xuất. trong số những lao động của dự án, có thể có một số là người nước ngoài .Do đó số lao động của đất nước có việc làm từ việc sẽ chỉ bao gồm lao động trực tiếp và lao động gián tiếp phục vụ cho dự án, trừ đi số lao động mất việc ở các cơ sở có liên quan và số người nước ngoài làm việc cho dự án. 2.2.3. Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư: Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. Để xác định chỉ tiêu này trước hết phải xác định nhóm dân cư hoặc vùng được phân phối giá trị tăng thêm (NNVA) của dự án. Sau đó xác định phần giá trị tăng thêm do dự án tạo ra mà nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ thu được .Cuối cùng tình chỉ tiêu tỷ lệ giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt đọng bình thường của dự án. III.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư: 1.Những nhân tố thưộc về môi trường vĩ mô : * Những yếu tố thuộc về tiến bộ khoa học kỹ thuật : Các hoạt động đầu tư phải đi theo trào lưu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Do đó sự tiiến bộ của khoa học kỹ thuật có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho quá trinh thực hiện và vận hành dự án nhưng cũng có thể gây ra những rủi ra cho dự án chẳng hạn như:nếu đối thủ của doanh nghiệp tiếp cân với tiến bộ khoa học kỹ thuật trước thì họ có khả năng cạnh tranh vè giá cả và chất lượng sản phẩm từ đó đưa đến những rủi ro cho dự án về mặt giá cả hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm. * Những yếu tố kinh tế: Những nhân tố kinh tế có thẻ ảnh hưởng đến dự án bao gồm: khả năng tăng trưởng GDP-GNP trong khu vực thực hiện dự án; tiònh trạng lạm phát; tiền lương bình quân; tỷ giá hối đoái; những lợi thế so sánh của khu vực so với những nơi khác. Sự thay đổi của một trong những nhân tố này dù ít hay nhiều cũng tác động đến dự án. Do đó trước lúc đầu tư chủ đầu tư phải đánh giá một cách tỷ mỉ những yếu tố này để đảm bảo chức năng sinh lời và bảo toàn vốn của dự án. Qua việc xem xét, đánh các yếu tố trên ta mới sơ bộ nhận định được hiệu quả kinh tế của dự án cũng như các yếu tố rủi ro có thể xảy ra để đưa ra biện pháp phòng ngừa . * Những yếu tố thuộc về chính sánh của nhà nước: Chiến lược đầu tư có sự chi phối từ các yếu tố về chính trị và chính sánh của Nhà nước. Bởi vậy, trong suốt quá trình hoạt động đầu tư đều phải bám sát theo những chủ trương và sự hướng dẫn của Nhà nước: cần chú trọng đến các mối quan hệ quốc tế đặc biệt là các nhân tố tù sự hội nhập ASEAN và bình thường hoá quan hê Việt Mỹ, các chủ trương chính sách của nhà Nước về thực hiện công cuộc đổi mới và mở cửa xem đó là những nhân tố quyết định đến chiến lược đầu tư dài hạn của chủ đầu tư. * Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên : Trong quá trình xây dựng và triển khai các dự án đầu tư không thể không chú trọng đến các điều kiện tự nhiên nơi mà các dự án đi vào hoật động bởi vì trên thực tế, các dự án đầu tư tại đây đều chịu ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên. Nếu các điều kiện tự nhiên ở tại dự án không thuận lợi sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công của dự án điều đó có thể gây rủi ra cho khả năng thu hồi vốn. Ngược lại, nếu các điều kiện thuận lợi thì khả năng thu hồi vốn đầu tư là rất lớn. * Những nhân tố thuộc về văn hoá-xã hội: Khía cạnh văn hoá-xã hội từ lâu đã có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến công cuộc đầu tư : chẳng hạn như khi dự án được triển khai và đi vào hoạt động thì nó phải được xem xét là có phù hợp với phong tục tập quán văn hoá nơi đó hay không, các điều lệ và quy định xã hội có chấp nhận nó hay không. Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh hưởng nhiều và lâu dài đối với dụ án. Do đó cần phân tích một cách kĩ lưỡng trước khi đầu tư để tối ưu hoá hiệu quả đầu tư. 2. Các yếu tố thuộc về môi trường vi mô của doanh nghiệp: + Khả năng tài chính: đây là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư. Năng lực tài chính mạnh ảnh hưởng đến vốn, nguyên vật liệu, máy móc… cấp cho dự án và do đó ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng của dự án. Năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn đầu tư tư các thành phần kinh tế khác. + Năng lực tổ chức: có thể coi đây là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng nhiều nhất đến hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Nếu năng lực tổ chức tốt sẽ nâng cao chất lượng dự án, tiết kiệm chi phí và từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư. + Chất lượng nhân lực: mọi sự thành công của doanh nghiệp đều được quyết định bởi con người trong doanh nghiệp. Do đó chất lượng của lao động cả về trí tuệ và thể chất có ảnh hưởng rất quan trọng đến kết quả hoạt động kinh doanh nói chung và kết quả hoạt động đầu tư nói riêng . + Trình độ khoa học-công nghệ: xe máy thi công hiện đại có ảnh hưởng lớn đến tiến độ và chất lượng của dự án, do đó ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Ngoài ra nó cũng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp trong việc thu hút vốn đầu tư và đấu thầu để có các dự án. PHẦN 2:THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CỦA TỔNG CÔNG TY ĐIỆN LỰC VIỆT NAM I.Tổng quan về Tổng công ty Điện Lực Việt Nam: Tổng công ty Điện Lực Việt Nam là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực chính là sản xuất, truyền tải và kinh doanh điện năng. Được thành lập ngày 10/10/1994 theo Quyết định số 562/TTg và Điều lệ tổ chức hoạt động của Tổng công ty được Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 14/CP ngày 27/01/1995. Với sơ đồ tổ chức của như sau : Đến cuối năm 2002, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam đã có nhiều nhà máy điện mới vào vận hành, ngoài 14 nhà máy điện có công suất vừa và lớn , hàng chục trạm diesel và thuỷ điện nhỏ trong năm 2001, bổ sung thêm 633MW công suất cho hệ thống, nâng tổng công suất lắp đặt của hệ thống điện Việt Nam lên tới 8.860 MW. Sản lượng điện năm 2002 đạt 35.801 triệu kWh, thủy điện chiếm 50.80%, nhiệt điện than chiếm 13.60%, nhiệt điện dầu khí chiếm 29.40% và nguồn Diezel và IPP chiếm 6,2%. Hiện có 7 công ty điện lực kinh doanh điện năng đến khách hàng, trong đó có 3 công ty điện lực vùng và 4 Công ty Điện lực thành phố: Công ty Điện lực 1, 2, 3; Công ty Điện lực Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố HCM, Đồng Nai. Ngoài các hoạt động chính là sản xuất và kinh doanh điện năng, các hoạt động trên các lĩnh vực khác của Tổng công ty Điện Lực Việt Nam cũng rất đáng kể. Có 5 đơn vị thực hiện chức năng tư vấn: Viện Năng lượng, Công ty Tư vấn điện 1, 2, 3, 4. Các dịch vụ tư vấn bao gồm: Tổng sơ đồ phát triển ngành điện, qui hoạch phát triển lưới điện khu vực và tư vấn cho khách hàng như khảo sát, thiết kế, giám sát thi công các công trình nguồn điện (thuỷ điện, nhiệt điện, tuabin khí, diesel...), các công trình lưới điện (cấp điện áp tới 500 KV). II.Thực trạng đầu tư và hiệu quả đầu tư của Tổng công ty Điện Lực Việt Nam: 1.Những thành tựu đạt được 1.1.Tổ chức lại sản xuất: Sau 10 năm hoạt động theo mô hình Tổng công ty 91, hướng tới xây dựng tập đoàn kinh tế mạnh của đất nước, tiếp tục phát huy truyền thống, EVN tổ chức lại sản xuất phù hợp yêu cầu nhiệm vụ mới. Đến nay, Tổng công ty có 56 đơn vị thành viên, phục vụ điện lực trên phạm vi toàn quốc. EVN đã bảo toàn và phát triển  được vốn kinh doanh của Nhà nước giao, sản xuất, kinh doanh luôn có lãi và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước. So với  năm 1995, nguyên giá tài sản cố định năm 2005 tăng 3,77 lần, đạt 105.617 tỷ đồng, vốn kinh doanh tăng 1,64 lần, đạt 32.339 tỷ đồng. So với khi mới thành lập Tổng Công ty, điện sản xuất tăng gấp ba lần (từ 14,6 tỷ kWh tăng lên 44 tỷ kWh), tổng công suất nguồn điện tăng gần hai lần (từ 4.549,7 MW tăng lên 8.843 MW). Thực hiện Chỉ thị của Chính phủ về việc xây dựng Tổng công Điện lực Vlệt Nam thành tập đoàn kinh tế mạnh, EVN sẽ nắm 100% vốn đối với các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc, các nhà máy điện pbục vụ đa mục tiêu như chống lũ, tưới tiêu, đẩy mặn, giao thông vận tải, phát điện, để bảo đảm phát huy hiệu quả tổng hợp của nhà máy theo thiết kế, bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, điều hòa thị trường điện và tạo sức mạnh về tài chính cho công ty mẹ trong Tập đoàn Điện lực sau này. Các nhà máy do EVN tiếp tục nắm giữ 100% vốn bao gồm: Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện YaLy, Thủy điện Trị An. Trong tương lai sẽ có thêm một số nhà máy mới đã và sẽ xây dựng như các nhà máy thủy điện Tuyên Quang, Bản Vẽ, Sơn La và Nhà máy điện nguyên tử... EVN còn nắm giữ 100% vốn dưới hình thức công ty  thành viên hạch toán độc lập Nhà máy điện Phú Mỹ là một trung tâm điện lực lớn, tiêu thụ khí để ổn định thị trường tiêu thụ khí và góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia...  Công tác đào tạo cũng được lãnh đạo Tổng công ty hết sức quan tâm, hiện nay Tổng công ty có bốn trường, trong đó có một trường cao đẳng, một trường trung học và hai trường công nhân kỹ thuật, hàng năm đào tạo hàng nghìn cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ và tay nghề cao. Tổng công ty cũng có quy chế để hằng năm tài trợ cho hàng chục học sinh là con em cán bộ, công nhân, viên chức, lao động trong ngành đạt thành tích cao trong các kỳ thi học sinh giỏi trong nước đưa ra nước ngoài đào tạo để trở thành những kỹ sư tài năng, những nhà quản lý  giỏi sau này trở về phục vụ trong ngành. 1.2.Đầu tư đồng bộ nguồn và lưới điện: Điện bắt đầu được sử dụng tại Việt  Nam từ cuối thập niên 70 của thế kỷ thứ 19 nhưng đến năm 1975, sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất nước nhà, tổng công suất các nguồn điện trong cả nước mới đạt 1.326,3MW; tổng sản lượng điện đạt 2,95 tỷ kWh. Trong đó miền Bắc đạt 1,271 tỷ kWh, miền nam có 1,614 tỷ kWh và miền Trung chỉ có 65 triệu kWh. Cả nguồn và lưới điện của nước ta ở thời điểm đó còn quá thấp, chưa kết nối thành hệ thống điện thống nhất, luôn phải đối mặt với sự thiếu điện nghiêm trọng và khó khăn. Để thực hiện thành công tổng sơ đồ phát triển điện lực đã được Chính phủ phê duyệt, ngành điện đã đồng tâm, hợp lực vượt qua mọi khó khăn thách thức, đẩy mạnh tiến độ xây dựng các nhà máy điện: Phả Lại, Hòa Bình, Trị An, Thác Mơ, Vĩnh Sơn, tua-bin khí hỗn hợp Bà Rịa. Ngành điện cũng khẩn trương xây lắp và đưa vào vận hành các tuyến đường dây và trạm đồng bộ với các nhà máy điện mới như đường dãy 220 kV Vinh -Đồng Hới, đường dây 110 kV Đồng Hới - Huế - Đà Nẵng, đồng thời cải tạo nâng cấp một loạt hệ thống lưới điện cũ từ 66 kV lên 110 kV.  Đặc biệt, sau hai năm khẩn trương xây dựng, ngày 27-5-1994, hệ thống điện cao áp 500 kV Bắc Nam mạch 1, dài 1.487 km chính thức đi vào hoạt động, đánh dấu bước ngoặt lịch sử phát triển của điện lực Việt Nam: Kể từ thời điểm này, hệ  thống điện cả nước Việt Nam chính thức hợp nhất và được chỉ huy điều độ từ một trung tâm điều khiển Trung tâm điều độ Hệ thống điện quốc gia. Hệ thống điện 500 kV xuyên Việt còn là nền tảng để hệ thống điện Việt Nam có khả năng kết  nối với hệ thống điện của các nước Đông-Nam Á và tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước trong khu vực. Từ đây, vị thế của EVN không ngừng được tăng cao trong tiến trình hội nhập một cách đầy đủ thị trường khu vực và quốc tế. Hệ thống vận 500 kV Bắc Nam vận hành ổn định, an toàn liên tục trong hơn 10 năm qua đã tăng cường hỗ trợ giữa các hệ thông điện ở cả ba miền của đất nước, nhất là việc duy trì mức công suất dự phòng hợp lý toàn hệ thống điện quốc gia tùy theo mùa và từng thời điểm cụ thể trong năm; nâng cao sự ổn định và tin cậy của các hệ thống điện miền do tổ máy tăng lên, kết lưới mạnh hơn, kể cả trong trường họp bình thường và khi có sự cố; đồng thời tăng cường tính kinh tế của cả hệ thống. Nhằm bảo đảm cung ứng điện năng cho nhu cầu ngày càng cao của các ngành kinh tế xã hội, an ninh-quốc phòng và đời sống của nhân dân, EVN đã và đang tiếp tục phát huy nội lực thực hiện tổng sơ đồ phát triển điện lực giai đoạn IV và giai đoạn V hiệu chỉnh, cho đến giữa năm 2005 Tổng công ty Điện Lực Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ: Bảng 1: Sản lượng điện cung cấp cho nền kinh tế - 2005 (Tính đến tháng 08 năm 2005 ) Sản lượng điện cung cấp cho nền KTQD đạt 29,456 tỷ kWh Trong đó: Công nghiệp-Xây dựng chiếm: 45,36% Quản lý-tiêu dùng dân cư chiếm: 42,2% Khách hàng trực tiếp mua điện 7.793.721  Nguồn: Báo cáo họat động của EVN -2005 Bảng 2: Mạng lưới cung cấp điện của EVN 2005 (Số liệu đến hết ngày 30 tháng 06 năm 2005) Số huyện có điện lưới quốc gia: 525/536 (97,95%) Số xã có điện lưới quốc gia: 8.619/9.024 (95,51%) Số hộ có điện lưới quốc gia: 11.767.358/13.235.380 (88,91%) Số xã có giá điện trên 700 đ/kWh: 100 (1,16%) Không còn xã có giá điện trên  900 đ/kWh Nguồn: Báo cáo hoạt động của EVN - 2005 Bảng 3: Thực trạng vốn của EVN Đơn vị: Tỷ đồng 1995 2005 Nguyên giá TSCĐ 28.015,2 105.617 Vốn kinh doanh 19718,9 32.339 Nguồn: Báo cáo hoạt động của EVN - 2005 Bảng 4: Sản lượng điện và mang lưới phủ điện của EVN 2005 2010 Sản lượng điện 53 tỷ KWh 93 tỷ KWh Số huyện có điện 97,95% 100% Nguồn: Báo cáo kinh doanh của EVN - 2005 Phấn đấu năm 2005 đạt sản lượng điện phát ra 53 tỷ kWh, đến năm 2010 đạt 93 tỷ kWh và năm 2020 đạt hơn 2000 tỷ kWh. Để đạt mục tiêu này, trong 3 năm (2001-2003) ngành điện xây dựng xong và đưa vào vận hành sáu nhà máy có tổng công suất 3.100 MW, khởi công xây dựng bảy nhà máy có tổng công suất 2.200 MW, trong năm năm tới (2006-2010) xây dựng và mở rộng thêm 32 nhà máy với tổng công suất 7.547 MW. Vốn đầu tư cho ngành điện cần tới 20.000 đến 30.000 tỷ đồng/năm (lớn hơn doanh thu hàng năm của ngành đoàn), trong khi tỷ lệ vốn tích lũy tái đầu tư chỉ đáp ứng được 30%, còn lại phải vay nước ngoài và huy động vốn trong Chủ động khắc phục tình trạng này, EVN đã thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân, trung ương và đa phương cùng làm nhằm phát huy cao nhất nội lực, đồng thời có giải pháp hữu hiệu để tăng khả năng vay vốn các nước và tổ chức quốc tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài và huy động các thành phần kinh tế trong nước đầu tư phát triển nguồn điện. Được Thủ tướng Chính phủ cho phép, EVN đã thành lập Công ty cổ phần và liên doanh với các doanh nghiệp ngoài EVN để đầu tư xây dựng các nhà máy điện chạy than Hải Phòng, Qủang Ninh và nhà  máy nhiệt điện chạy khí ở Ô Môn, tỉnh Hậu Giang. Tổng công ty đang kêu gọi liên doanh đầu tư xây dựng 2 nhà máy thủy điện Kanak An Khê và Sêrêpok3. Trong bốn năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3, EVN đã đầu tư xây dựng 15 công trình nguồn điện trọng điểm với tổng số vốn dự toán 72.500 tỷ đồng. Các công ty trong nước liên doanh với ngành điện hoặc đầu tư theo phương thức BOT xây dựng hàng chục nhà máy thủy điện quy mô nhỏ và vừa. Tính đến cuối năm 2004, tổng công suất lắp đặt các nhà máy điện trong toàn hệ thống điện Việt Nam đã đạt 11.197 MW, trong đó có 9.868 MW là của các nhà máy thuộc EVN, còn lại thuộc các thành phần kinh tế khác. Để đồng bộ với nguồn điện, toàn ngành đã xây dựng gần 200 nghìn km đường dây cao thế và hạ thế cùng với các trạm biến áp có tổng công suất 51.655 MVA, tăng gấp 2,8 lần so với năm 1995. Nhằm bảo đảm cung cấp điện liên tục, an toàn và ổn định, ngoài việc phát huy các nguồn điện mới, huy động tối đa nguồn điện của mình và mua ngoài, EVN còn chú trọng tăng cường năng lực truyền tải điện của các cấp điện áp, đẩy nhanh tiến độ thi công, đưa vào vận hành sớm đường dây 500 kV Phú Mỹ-Nhà Bè-Phú Lâm và hệ thống đường dây 500 kV Bắc Nam mạch 2, đoạn PLây Cu - Dốc Sỏi - Đà Nẵng. Hệ thống truyền tải điện 500 kv mạch 2 hoàn thành và chính thức hoạt động sẽ tăng cường độ an toàn ổn định và tin cậy của toàn hệ thống điện quốc gia, nâng cao chất lượng điện cho cả hệ thống trên cả 3 miền của đất nước, tạo điều kiện khai thác một cách  hiệu quả và tối ưu các nguồn điện hiện có. 1.3.Làm chủ kỹ thuật tiên tiến hiện đại: Một trong những thành công nổi bật nhất của EVN là quán triệt sâu sắc đường lối đổi mới của đảng và chính sách mở cửa của Nhà nước, nhanh  chóng tổ chức  học tập nâng cao trình độ, mạnh dạn tiếp cận nền khoa học - kỹ  thuật tiên tiến, hiện đại của ngành điện thế giới để từng bước nắm chắc và làm chủ trong quá trình đầu tư phát triển theo hướng hiện đại, đi tắt, đón đầu công nghệ mới nhất. Hiện nay, toàn Tổng công ty có một đội ngũ đông đảo cán bộ,  công nhân đạt trình độ cao, trong đó có 18.525 người tốt nghiệp đại học và trên đại học. Nhờ đó, từ chỗ chỉ quản lý, vận hành những nguồn điện và hệ thống đường dây nhỏ lẻ, lạc hậu, phân tán đã vươn lên nắm vững quy trình, quy phạm, quản lý, vận hành hiệu quả, an toàn các nhà máy điện lớn hiện đại và hệ thống đường dây siêu cao áp 500 kV đầu tiên dài gần 2.000 km, ngang tầm của thế giới. Công tác tư vấn xây dựng điện là khâu hết sức quan trọng, quyết định nhiều đến hiệu quả đầu tư xây dựng điện. EVN đã chỉ đạo các công ty tư vấn tập trung xây dựng chiến lược phát triển từ đào tạo nhân lực đến trang thiết bị, áp dụng công nghệ và tiến bộ kỹ thuật mới. Nhờ vậy, từ chỗ chỉ khảo sát,  thiết kế các công trình nhỏ, cấp điện áp thấp, kỹ thuật không phức tạp và là._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8785.doc
Tài liệu liên quan