Hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư

Mục lục Lời nói đầu Trong những năm bắt đầu công cuộc đổi mới, khi nguồn viện trợ nước ngoài bị cắt giảm đột ngột, nguồn đầu tư từ ngân sách eo hẹp, các doanh nghiệp nhà nước gặp nhiều khó khăn, vốn tiềm ẩn trong dân chưa huy động được nhiền, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành một chủ trương cấp thiết. Luồng vốn FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng, ổn định và phát triển kinh tế. Ngày nay, trước những đòi hỏi bứ

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệu quả của hoạt động xúc tiến đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c xúc của giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn FDI đã trở thành một bộ phận không thể tách rời trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, không chỉ của riêng nước ta, mà của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong cuộc cạnh tranh này, moi quốc gia đều đã nhận thức được vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong việc thu hút vốn FDI và không ngừng phát triển cac hoạt động này. Cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư cũng chính là cạnh tranh thu hút vốn FDI. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, nội dung của khoá luận này xin được trình bày về thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam và đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động này. Xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới Tiến sỹ Vũ Thị Kim Oanh – Bộ môn Đầu tư, Khoa kinh tế ngoại thương, Trường Đại học Ngoại Thương – người đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành khoá luận. Xin chân thành cảm ơn các thày cô giáo Bộ môn Đầu tư và các thày cô giáo khoa Kinh tế ngoại thương – những người đã trang bị cho em những kiến thức thiết thực và bổ ích cho quá trình viết khoá luận cũng như công tác sau này. Xin trân trọng cảm ơn ! Chương 1 Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và hoạt động xúc tiến đầu tư 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài - vai trò và xu hướng 1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong vòng 20 năm trở lại đây hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) ngày càng có vị trí quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngày nay các quốc gia đều nhận thức được những lợi ích to lớn mà FDI đem lại cho nước chủ nhà. Bên cạnh việc cung cấp một nguồn tài chính lâu dài, FDI còn tạo điều kiện cho việc chuyển giao nguồn tài sản phi vật chất như công nghệ, tay nghề và bí quyết quản lý, do đó góp phần đẩy nhanh tăng trưởng và phát triển. FDI cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp trong nước. Theo cách định nghĩa và phân loại trong Tài liệu hướng dẫn về Cán cân Thanh toán của của quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Đầu tư nước ngoài của tư nhân được chia làm 3 loại: Đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp và phương thức đầu tư khác. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó, một thực thể của một nền kinh tế có mối liên hệ lâu dài với một doanh nghiệp hoạt động trong một nền kinh tế khác.[1] Cụm từ "mối liên hệ lâu dài" ở đây được hiểu là mối quan hệ tồn tại trong một thời gian dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp cũng như mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đầu tư đối với công việc điều hành doanh nghiệp. Cách định nghĩa của OECD lại đưa ra một mức chuẩn về tỉ lệ góp vốn: một doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một doanh nghiệp liên doanh hoặc không liên doanh trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu tối thiểu là 10% cổ phần phổ thông hoặc 15% quyền biểu quyết.[2] Điểm mấu chốt trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài chính là quyền kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải mọi quốc gia đều sử dụng ngưỡng 10% để xây dựng định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bởi vậy các số liệu thống kê lượng vốn FDI của các tổ chức khác nhau có thể không giống nhau. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gồm 3 phần Vốn cổ phần, bao gồm cả vốn điều lệ của chi nhánh và các khoản góp vốn khác. Lợi nhuận tái đầu tư dưới dạng cổ phần hoặc chuyển nợ liên công ty. Các khoản vốn tương ứng với các khoản chuyển nợ liên công ty. Có 2 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư mới - Greenfield Investment (thành lập mới doanh nghiệp liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài) Mua lại và sáp nhập -Merger & Acquisition (mua lại và sáp nhập một doanh nghiệp hiện có hoặc mua cổ phiếu của các công ty cổ phần hoặc đã được cổ phần hoá) ở nhiều quốc gia, mua lại và sáp nhập là một hình thức quan trọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức này chưa phổ biến ở Việt Nam do những quy định hạn chế cổ phần nước ngoài trong doanh nghiệp nội địa. Cùng với những chính sách cải cách đầu tư đang trong giai đoạn bắt đầu được thực thi, mua lại và sáp nhập có thể trở thành hình thức quan trọng trong đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam những năm tới. 1.1.2. Vai trò của FDI đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư FDI có thể mang lại cho nước tiếp nhận đầu tư rất nhiều lợi ích, có những lợi ích trực tiếp và xác định, song cũng có những lợi ích gián tiếp khó nhận biết hơn. Dưới đây là những lợi ích cơ bản mà FDI mang lại cho nền kinh tế các nước đang phát triển Bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển, giúp các nước này thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nếu như trong thời kỳ 1991-1995, vốn FDI chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội tại Việt Nam thì thời kỳ 1996-2000, tỉ lệ này là 24%.[14] Nguồn vốn này đã góp phần đưa Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, giúp khi thác và nâng cao hiệu quả sử dụng những nguồn lực trong nước tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Hiện nay, vốn FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tạo công ăn việc làm - Lợi ích dễ thấy nhất của FDI chính là tạo nhiều việc làm ổn định cho người lao động nước sở tại, tăng thu nhập và cải thiện mức sống cho người dân. Tổng sỗ lao động hiện đang làm việc tại các cơ sở có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên khắp thế giới ước tính đến năm 2001 là khoảng 54 triệu người. Khu vực FDI cũng thu hút hơn một nửa số lao động trong lĩnh vực sản xuất của Singapo. Tại Hồng Kông, Malaixia và Srilanka tỉ lệ lao động trong khu vực này cũng đang tăng lên nhanh chóng so với tổng lao động xã hội. Tăng thu ngân sách - FDI đóng góp vào ngân sách nhà nước thông qua các khoản thuế. Ngay cả khi các doanh nghiệp liên doanh được miễn hoàn toàn thuế thu nhập của doanh nghiệp liên doanh, nhà nước vẫn có thể tăng thu ngân sách từ thuế thu nhập cá nhân nhà đầu tư và các loại thuế gián tiếp khác. Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam trong thời kỳ 1996-2000 là khoảng 1,45 tỉ USD, chiếm 6-7% tổng ngân sách.[12] Tại Trung Quốc, tổng số thuế thu được từ khu vực FDI trong năm 2001 đã tăng 30% so với năm 2000, chiếm 19% tổng số thuế thu được vào ngân sách trong năm.[18] ảnh hưởng tích cực đến đầu tư trong nước- Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ kích thích đầu tư nội địa và các công ty này có thể trở thành các kênh phân phối hoặc trở thành công ty cung ứng của các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, sức ép cạnh tranh từ các công ty nước ngoài cũng kích thích các công ty nội địa tăng cường đầu tư. Chuyển giao công nghệ - FDI có thể giúp nước tiếp nhận đầu tư tiếp cận được với công nghệ mới trên thế giới qua thông qua việc đầu tư hoàn toàn dây chuyền sản xuất mới tại các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc góp vốn bằng công nghệ trong doanh nghiệp liên doanh. Nâng cao tay nghề cho người lao động - Người lao động ở nước sở tại làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có điều kiện tiếp thu các kĩ năng mới về kỹ thuật và quản lý, nhờ đó tăng năng suất cũng như hiệu suất lao động. Năng suất lao động của các doanh nghiệp FDI trong khu vực sản xuất tại Ailen, Hà Lan và một số nước đang phát triển ở Châu á như Trung Quốc, Đài Loan, Singapo đều cao gấp hai lần hoặc hơn so với năng suất lao động trong các công ty nội địa.[10] Đẩy mạnh xuất khẩu - Rất nhiều hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có định hướng xuất khẩu. Nhờ quy mô và khả năng tiếp cận với mạng lưới phân phối và mạng lưới marketing quốc tế, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài dễ dàng xâm nhập thị trường xuất khẩu hơn so với các công ty nội địa. Nếu có cách quản lý thích hợp, nhiều quốc gia có thể tận dụng hoạt động FDI để tăng mức xuất khẩu của nước họ và thu ngoại tệ. Trong năm 2000, tổng doanh thu xuất khẩu của khu vực FDI chiếm tới 50.8% toàn bộ doanh thu xuất khẩu của Trung Quốc[18], 23% tổng doanh thu xuất khẩu của Việt Nam.[12] Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước - Trong quá trình tương tác với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các công ty nội địa có thể nâng cao chất lượng cũng như uy tín của mình, do đó tăng cường được sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tăng cường cạnh tranh nền kinh tế - FDI góp phần kích thích tăng trưởng chung của một nền kinh tế nhờ đẩy mạnh cạnh tranh trong những ngành mà có chỉ một số ít các công ty nội địa đang chiếm vị trí độc tôn. 1.1.3. Các nhân tố tác động đến dòng chảy FDI. 1.1.3.1. Toàn cầu hoá Trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, các công ty đều có khả năng chọn lựa địa điểm sản xuất thích hợp nhất nhằm giảm giá thành sản xuất. Tiến trình toàn cầu hoá đã đem lại cho các quốc gia có nguồn lao động rẻ như Việt Nam khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh của mình và thu hút nhiều hơn nguồn vốn FDI. Điều quan trọng là các quốc gia này phải đảm bảo giảm thiểu các rào cản trong quá trình xâm nhập và hoạt động của nhà đầu tư, các chi phí hoạt động khác phải ở mức hợp lý, và những hạn chế mang tính quan liêu trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh phải dần được dỡ bỏ. Nếu các quốc gia không tận dụng tốt những cơ hội này, họ sẽ đánh mất tính cạnh tranh và tụt lại phía sau làn sóng phát triển toàn cầu. 1.1.3.2. Khu vực hoá Quá trình toàn cầu hoá đã đưa đến sự hình thành các liên kết khu vực như EU, ASEAN, APEC,… Các liên kết này nhằm tạo ra các khu vực kinh tế rộng lớn hơn trong đó lợi thế tương đối cũng như lợi thế kinh tế quy mô được phát huy tối đa. 1.1.3.3. Các sự kiện tác động tới nền kinh tế Việt Nam trong tương lai gần. Có 3 sự kiện lớn đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam cũng như chiến lược thu hút và xúc tiến đầu tư của Việt Nam. Việt Nam cam kết gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN và thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan. Theo cam kết tự do hoá thương mại, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu đối với phần lớn hàng hoá nhập khẩu từ ASEAN xuống mức tối đa là 20% vào năm 2003 và tiếp tục giảm xuống 0 -5% vào đầu năm 2006. Thuế nhập khẩu trung bình đối với hàng hoá có xuất xứ ASEAN sẽ giảm 50% kể từ đầu năm 2004. Thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng sợi, da, gỗ, thủy tinh, gốm sứ và thực phẩm từ ASEAN sẽ giảm hơn 60% từ đầu năm 2004. Các nước ASEAN khác cũng cam kết giành cho hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam điều kiện ưu đãi tương tự.[3] Chương trình hợp tác thương mại của ASEAN đem lại cho Việt Nam cơ hội xâm nhập thị trường khu vực. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức từ việc thực hiện khu vực tự do mậu dịch ASEAN, các công ty Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu giá rẻ, chất lượng cao. Nhà nước cũng sẽ không thể áp dụng các biện pháp quản lý hạn ngạch để bảo vệ các công ty nội địa. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết năm 2001 và hiện đang trong quá trình thực hiện. Hiệp định này kêu gọi cắt giảm 30 - 50% thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng công nghiệp và nông nghiệp, dỡ bỏ hạn ngạch đối với hầu hết các mặt hàng trong vòng 3 - 7 năm và bao gồm các điều khoản cam kết tạo điều kiện cho các công ty Mỹ xâm nhập vào khu vực dịch vụ. Quyền tự do buôn bán của các công ty Mỹ cũng sẽ được thực thi trong vòng 3 - 6 năm . Theo tinh thần của hiệp định, Việt Nam đã mở cửa thị trường cho các công ty Mỹ trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại, viễn thông. Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng được chú trọng. Việt Nam sẽ phải xoá bỏ các biện pháp đầu tư trong thương mại ( Trade-related Investment Measures). Hai nước cam kết sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình trong vấn đề bảo vệ Quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại ( Trade-related Intellectual Property Rights).[4] Các quy định về đầu tư cũng sẽ được ban hành rõ ràng và kịp thời sau khi đã có sự bàn bạc tham khảo ý kiến, do đó làm tăng tính rõ ràng của hệ thống các quy định pháp lý về hoạt động đầu tư. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam Việt Nam đưa ra các điều khoản cam kết cụ thể vào tháng 1 năm 2002. Phiên họp thứ 5 của nhóm làm việc về vấn đề gia nhập của Việt Nam vào tháng 4/2002 đã xem xét các đàm phán thỏa thuận song phương của Việt Nam và kế hoạch hành động đối với một số hiệp định của WTO. Phiên họp thứ 6 vào tháng 12/2002 đã đánh đấu sự khởi đầu của quá trình đàm phán trở thành thành viên của WTO. Thực hiện tiến trình gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải cam kết thực hiện các điều khoản sau:[5] Không phân biệt đối xử: Tất cả các thành viên WTO đều phải áp dụng nguyên tắc tối huệ quốc trong chính sách thương mại của mình, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá dịch vụ nội địa với nước ngoài và không phân biệt đối xử giữa các quốc gia. Từng bước dỡ bỏ các rào cản thương mại qua các vòng đàm phán Tăng tính có thể dự đoán của các chính sách thương mại bằng cách tuân thủ các cam kết về mở cửa thị trường và hạ thấp các rào cản thương mại. Hạn chế sử dụng các biện pháp phi thuế quan * * * Xu hướng đầu tư quốc tế, khu vực cũng như ảnh hưởng của những sự kiện trên đây đều là những nhân tố quan trọng tác động đến dòng chảy FDI vào Việt Nam nói riêng và của thế giới nói chung.Ngiên cứư chiến lược thu hút và xúc tiến đầu tư giai đoạn tới cũng nhất thiết phải tính đến những ảnh hưởng từ các yếu tỗ này. 1.1.4. Xu hướng đầu tư quốc tế và khu vực những năm tới 1.1.4.1. Xu hướng đầu tư quốc tế những năm tới Sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng ở Mỹ vào giữa năm 2000 đã dẫn tới một đợt suy thoái kinh tế không chỉ ở Mỹ mà cả trên phạm vi thế giới. Sự suy thoái này cùng với tình trạng ảm đạm kéo dài của nền kinh tế Nhật Bản những năm qua đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới các nước Châu á. Vụ khủng bố xảy ra vào tháng 11/2001 tại Mỹ càng khiến khung cảnh suy thoái toàn cầu trầm trọng hơn, do đó làm chững lại dòng chảy FDI vốn là dấu hiệu của sự ổn định và phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Đầu tư FDI của thế giới năm 2000 đã tăng 18% so với năm 1999, đạt hơn 1600 tỉ USD. Nhưng sang năm 2001 lại giảm mạnh xuống chỉ còn khoảng 850 tỉ USD, tương đương với mức đầu tư của năm 1998. Đây là lần sụt giảm đầu tiên của đầu tư quốc tế kể từ năm 1991. Dòng vốn FDI vào các nước phát triển cũng giảm 50% so với mức giảm 14% ở các nước đang phát triển. Toàn cảnh đầu tư FDI của thế giới giai đoạn 1991-2001 được tổng hợp trong bảng dưới đây: Bảng1 - Tình hình đầu tư FDI của thế giới 1991-2001(Đơn vị: tỉ USD) 1991-1995 1996-2000 1999 2000 2001 Thế giới 1124,2 4626 1320,4 1632,7 851,9 Mỹ 349,1 647,1 155,4 152,4 156 Nhật 103,4 127,9 22,3 31,5 38,5 Châu Âu 642 2660,2 762,4 1011,7 394,1 NICs châu á 34,3 72,1 12,6 16 8,1 Nguồn: Báo cáo đầu tư thế giới 2002,UNCTAD. (World Investment Report 2002) Sự suy giảm trong đầu tư quốc tế cho thấy sự đi xuống của nền kinh tế toàn cầu. Trong bối cảnh đó, sức ép cạnh tranh gay gắt càng thúc giục các công ty tìm kiếm địa điểm đầu tư có giá thành sản xuất rẻ hơn nữa. Những nền kinh tế có giá cả đầu tư thấp sẽ là điểm tìm đến của các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, dòng vốn FDI cũng sẽ bắt nguồn từ các nước có thị trường nội địa tăng trưởng chậm hơn so với thị trường ngoài nước. Theo Báo cáo đầu tư thế giới (World Investment Report 2002) do UNCTAD thực hiện, đã có một sự phân phối lại nguồn vốn FDI tới các nước đang phát triển cũng như khu vực Đông và Tây Âu. Đây là những nơi có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với các nước phát triển. Năm 2001, vốn FDI vào các khu vực này chiếm 28% (các nước đang phát triển) và 4% (Đông - Trung Âu) tổng vốn FDI toàn thế giới so với 18% và 2% của 2 năm trước đó. Cùng với xu hướng suy giảm đầu tư nói chung, sự phân phối lại nguồn vốn FDI này đã gây nên mức tụt giảm kỉ lục trong đầu tư vào các nước phát triển năm qua. Điều này thể hiện rất rõ trong biểu đồ thống kê dòng vốn đầu tư nước ngoài vào 10 nền kinh tế lớn của thế giới trong hai năm 2000và 2001. Các nước lớn như Mỹ, Canada, Đức, Bỉ đều phải chứng kiến một mức suy giảm tới hơn 50% so với mức đầu tư FDI của năm 2000. Biểu đồ 1: Đầu tư FDI vào 10 nền kinh tế lớn của thế giới 2000 và 2001 Nguồn: UNCTAD, Dữ liệu về FDI và TNC Mặc dù có những ảnh hưởng xấu từ sự sụt giảm nhu cầu đầu tư của những nền kinh tế lớn nhất trên thế giới, triển vọng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong trung hạn (3 năm tới) vẫn rất hứa hẹn. Theo điều tra của UNCTAD, các TNC lớn đều có ý định mở rộng phạm vi kinh doanh quốc tế với trọng tâm nhằm vào cả sản xuất và phân phối. Hình thức mở rộng được ưa chuộng vẫn là Mua lại và sáp nhập ở các nước phát triển và Đầu tư mới ở các nước đang phát triển. [6] Cuộc điều tra do Cơ quan đảm bảo đầu tư đa phương (MIGA) tiến hành năm 2001 cũng cho kết quả tương tự. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, 79% số công ty được điều tra vẫn cho thấy kế hoạch mở rộng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm tới. Các doanh nghiệp sản xuất chiếm ưu thế hơn về đầu tư FDI so với các doanh nghiệp dịch vụ. [7] Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) cũng đưa ra kết quả tương tự trong cuộc điều tra tiến hành vào tháng 7, 8 năm 2001. 72% các TNCs Nhật Bản nói rằng họ sẽ tăng cường mở rộng hoạt động tại nước ngoài (con số này của các năm trước chỉ là 55%.[8] Các nước đang phát triển và các thị trường đang mở rộng giành được sự chú ý của các nhà đầu tư và chiếm tới hơn một nửa trong số 20 điểm đầu tư được ưa thích nhất. Việt Nam cũng nằm trong số đó. Mỹ và Tây Âu vẫn được đánh giá là địa điểm ưa thích của các nhà đầu tư nước ngoài. [9] 1.1.4.2. Xu hướng đầu tư khu vực những năm tới Châu á là khu vực đang ngày càng có vị trí quan trọng thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI. Năm 2002, Châu á đã vượt qua châu Mỹ La Tinh chiếm vị trí thứ 3 trong số các khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhiều nhất, sau Bắc Mỹ và Châu Âu. Theo điều tra của A.T Kearney năm 2002, hơn một nửa trong số 10 nước có những bước tiến tích cực nhất về thu hút đầu tư so với năm trước đó nằm ở khu vực Châu á Thái Bình Dương. [9] Biểu đồ dưới đây cho thấy 10 nước đang phát triển thuộc nhóm những điểm đầu tư được TNC lựa chọn nhiều nhất trong giai đoạn 2002 – 2005 theo điều tra của UNDTAD trong Báo cáo đầu tư thế giới 2002. Trung Quốc là nước có được tỉ lệ lựa chọn cao nhất bởi các TNC : 22%, tiếp đến là hai nước Đông Nam á Malaixia và Thái Lan với tỉ lệ là10%.[10] Biểu đồ 2- Các nước thu hút FDI mạnh nhất thuộc khu vực Châu á trong giai đoạn 2002-2005 Nguồn: UNCTAD - Báo cáo đầu tư thế giới năm 2002 Tuy nhiên, triển vọng này không phải có ở tất cả các thị trường trong khu vực. Một mặt, các nhà đầu tư đều hướng tới các thị trường tiềm năng như Trung Quốc, Nhật Bản, Australia và Hồng Kông. Tuy nhiên, các thị trường khác ở Châu á vẫn duy trì sức hút ở mức cũ, thậm chí còn sút. Mặc dù các nhà đầu tư quan tâm hơn tới các nước Châu á so với những năm trước đây, họ vẫn e ngại khi quyết định đầu tư vào các thị trường này. Theo điều tra của A.T Kearney tháng 9/2002, Trung Quốc đã vượt qua Mỹ là nước liên tiếp đứng đầu 5 năm trước đó để trở thành nước hấp dẫn đầu tư số 1 trên thế giới. Các nhà đầu tư ngày nay có cái nhìn lạc quan đối với thị trường Trung Quốc hơn những năm trước đây và hơn bất cứ quốc gia nào khác. Nhiều công ty chưa từng đầu tư vào Trung Quốc trước đó có ý định thử đầu tư vào đây trong vòng 3 năm tới. Nhân tố quyết định cho sự thành công đầy ấn tượng này của Trung Quốc chính là tình hình tương đối ổn định về chính trị, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và sự kiện Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của WTO năm 2002. [9] Cũng theo điều tra của Kearney, bên cạnh Indonesia là nước kể từ năm 1998 đã liên tục có FDI ròng dưới 0-đầu tư FDI ra nước ngoài vượt quá đầu tư FDI vào trong nước, các nước ASEAN trong đó có Singapo, Malaixia, Thái Lan và Philippin tiếp tục đánh mất dần sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Việt Nam là nước duy nhất nằm ngoài xu hướng ảm đạm này. Biểu đồ 3 - Vốn FDI ròng vào một số quốc gia Đông Nam á Nguồn: FDI Confidence Index-Global Business Policy Council, 9/2002-A.T.Kearney. Thiếu cơ hội mở rộng thị trường cũng như giá thành sản xuất cao đã khiến Singapo đánh mất lợi thế cạnh tranh của mình trong các ngành công nghiệp nặng cũng như công nghiệp nhẹ (đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử). Do đó Singapo đã rơi từ vị trí thứ 13 xuống thứ 22 trong FDI Confidence Index. Tuy nhiên, Singapo vẫn là điểm đến của các nhà đầu tư trong lĩnh vực điện tử và các lĩnh vực phi tài chính. Đặc biệt Singapo vẫn là địa điểm thu hút đầu tư quốc tế nhiều nhất của khu vực. Đầu tư FDI vào Singapo đã tăng 59%, lần đầu tiên đạt mức 9 tỉ USD kể từ năm 1998. Để đối phó với sự suy giảm lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực điện tử, Singapo đã tập trung phát triển ngành y sinh học, coi đây là cơ sở cho tăng trưởng sản xuất giai đoạn tiếp theo. Đồng thời, Singapo cũng chú trọng cải thiện hạ tầng cơ sở cũng như chấn chỉnh các công ty mũi nhọn giàu tiềm năng trong ngành công nghiệp này bằng rất nhiều nguồn quỹ đầu tư và vốn của doanh nghiệp. Kết quả là các công ty hàng đầu trong lĩnh vực kỹ thuật sinh học của Châu Âu và Nhật Bản đã trở lại đầu tư vào Singapo. Malaixia trong năm này cũng rơi ra khỏi nhóm 25 nước ưu thích nhất của các nhà đầu tư. Sự bất ổn về chính trị, tâm lí lo ngại nạn khủng bố cũng như mối quan hệ phức tạp giữa chính trị và giới doanh nghiệp là nguyên nhân chính dẫn đến mất lòng tin từ các nhà đầu tư. Trước tình hình này, Chính phủ Malaixia đã đưa ra một số biện pháp khích lệ động viên bao gồm trợ cấp mở rộng tái đầu tư trong khoảng thời gian từ 5 - 15 năm và ưu đãi thuế đối với lợi nhuận thu được từ ngành công nghiệp máy móc và thiết bị. Cuộc điều tra này cũng cho thấy Việt Nam đã gia nhập nhóm 25 nước dẫn đầu thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực công nghiệp nhẹ. Một kết quả rất quan trọng của cuộc điều tra này là Trung Quốc gia nhập WTO sẽ tăng sức hấp dẫn đầu tư cho khu vực ASEAN và các nước Châu á khác (đây là nhận định của 48% công ty được điều tra). [9] 1.2. Hoạt động xúc tiến đầu tư 1.2.1. Khái niệm xúc tiến đầu tư Vốn đầu tư FDI không tự nhiên đến với quốc gia nào. Trong bối cảnh các quốc gia đều thực hiện tự do hoá đầu tư, các công ty đa quốc gia chỉ bị hấp dẫn bởi nơi nào có điều kiện phù hợp nhất. Bởi vậy sự cạnh tranh giữa các quốc gia để thu hút nguồn vốn FDI ngày càng gay gắt, nhất là trong điều kiện đầu tư quốc tế có xu hướng suy giảm trong những năm sắp tới. Cũng vì lẽ đó, thay vì đưa ra các quy tắc, luật lệ đối với các nhà đầu tư, các quốc gia giờ đây lại tìm đến giải pháp xúc tiến để thu hút họ. Trọng tâm của giải pháp này là khái niệm xúc tiến đầu tư và các kĩ thuật xúc tiến đầu tư cũng như việc đề ra các chiến lược phù hợp với các yêu cầu và điều kiện đầu tư. Vai trò ngày càng quan trọng của vốn FDI đã khiến hoạt động xúc tiến đầu tư trở nên sôi nổi hơn bao giờ hết, không chỉ đối với các nước phát triển mà đối với cả các nước đang phát triển. Hoạt động xúc tiến đầu tư ngày càng trở nên phức tạp, nó không chỉ đơn thuần là mở cửa thị trường nội địa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tiến hành vận động chung chung. Không có một cách định nghĩa nhất quán cho khái niệm xúc tiến đầu tư, song theo nghĩa hẹp, xúc tiến đầu tư được coi là một loạt các biện pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua một chiến lược marketing hỗn hợp bao gồm chiến lược sản phẩm (Product strategy), chiến lược giá cả (Pricing strategy) và chiến lược xúc tiến (Promotional strategy). Chiến lược sản phẩm: Sản phẩm, theo khái niệm xúc tiến đầu tư, được hiểu là chính quốc gia tiến hành xúc tiến đầu tư, xây dựng chiến lược sản phẩm là việc quốc gia đó xây dựng chiến lược marketing phù hợp. Để làm được điều này, họ cần phải nắm được những lợi thế cũng như bất lợi nội tại của nước mình trong mối tương quan đến các đối thủ cạnh tranh. Chiến lược giá cả: Giá cả ở đây chính là giá cả xây dựng và hoạt động của nhà đầu tư ở nước tiếp nhận, bao gồm giá sử dụng cơ sở hạ tầng, chi phí cố đinh, thuế ưu đãi, thuế bảo hộ… Chiến lược xúc tiến: bao gồm các hoạt động nhằm phổ biến thông tin hoặc tạo dựng hình ảnh của quốc gia đó và cung cấp các dịch vụ đầu tư cho những nhà đầu tư có triển vọng. 1.2.2. Vai trò của xúc tiến đầu tư Xúc tiến đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng nhất là khi các chủ đầu tư còn đang trong giai đoạn tìm hiểu, thăm dò, lựa chọn địa điểm đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư đến cho chủ đầu tư những thông tin liên quan đến ý định đầu tư của họ, giúp họ có được một tầm nhìn bao quát về quốc gia đó để cân nhắc, lựa chọn. Như vậy hoạt động xúc tiến đầu tư giúp các chủ đầu tư rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến quyết định. Sau bước tạo dựng hình ảnh khâu tiếp theo của xúc tiến đầu tư là tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng, có thể nói ở đây hoạt động xúc tiến đầu tư đã "chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài"[19], cung cấp cho họ lượng thông tin kịp thời, chính xác, tạo điều kiện cho họ nhanh chóng tính toán sổ sách, mức độ sinh lợi, rủi ro để đi đến quyết định đầu tư. Bên cạnh đó, các dịch vụ đầu tư giúp các chủ đầu tư có được thông tin về thị trường nội địa, được tư vấn về lực lượng nhân công cũng như về thủ tục đăng ký, cấp phép, được giúp tháo gỡ khó khăn trong quá trình thực hiện dự án… để chủ đầu tư có thể nhanh chóng đi vào hoạt động một cách thuận lợi và hiệu quả. Với ý nghĩa đó, xúc tiến đầu tư đã trở thành nội dung chính của hoạt động thu hút vốn FDI. Cạnh tranh giữa các quốc gia trong thu hút vốn FDI cũng chính là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến đầu tư. 1.2.3. Các bộ phận của chương trình xúc tiến đầu tư Các bộ phận của chương trình xúc tiến đầu tư bao gồm : Các chính sách và môi trường đầu tư Các chiến lược xúc tiến đầu tư Cơ quan thực thi các chiến lược này. Thành công của mỗi bộ phận đều ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thu hút FDI của quốc gia đó. 1.2.3.1. Chính sách đầu tư. Chính sách đầu tư là một tập hợp các chính sách thương mại và các chính sách kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, các nhà đầu tư lại thường đặc biệt quan tâm đến các nhân tố như điều kiện cho phép đầu tư, các chế độ ưu đãi, tỉ giá hối đoái, chính sách hỗ trợ vốn, luật đất đai, cơ sở hạ tầng, các quy định về hồi hương hay xung công tài sản. Trong ngắn hạn hoặc trung hạn, có thể còn có một khung chính sách riêng biệt để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Song sau đó, xu hướng là áp dụng chung một chính sách cho cả đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. 1.2.3.2. Chiến lược xúc tiến đầu tư Chiến lược xúc tiến đầu tư là cách thức tổ chức một loạt các hoạt động xúc tiến đầu tư nhằm tăng mức đầu tư vào một quốc gia. Hoạt động xúc tiến đầu tư bao gồm 3 nhóm hoạt động chính. Tạo dựng hình ảnh: Các biện pháp tạo dựng hình ảnh hay uy tín được sử dụng cả trong thị trường trong nước lẫn thị trường ngoài nước nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin về kế hoạch đầu tư của một quốc gia, các chính sách và chế độ đãi ngộ, các thủ tục và yêu cầu khi đầu tư cũng như những tiến bộ, thành tựu của quốc gia đó. Các hoạt động tạo dựng hình ảnh bao gồm sản xuất và phát hành các băng video, sách giới thiệu, tờ rơi… tổ chức các buổi giới thiệu ngắn, tiến hành các hoạt động quan hệ công chúng và quảng cáo. Hoạt động tạo dựng hình ảnh phải đi kèm với việc tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng và cung cấp dịch vụ cho các nhà đầu tư. Những hoạt động như quảng cáo hay quan hệ công chúng tốt nhất nên sử dụng các dịch vụ chuyên nghiệp khi tiến hành. Tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng: Khâu này đòi hỏi phải sử dụng đến các công cụ như thư từ, điện thoại, hội thảo đầu tư, cơ quan đại diện và tiến hành marketing trực tiếp đến cá nhân các nhà đầu tư. Những hoạt động này có thể được thực hiện nhằm vào các đối tượng cả ở trong và ngoài nước. Cung cấp các dịch vụ đầu tư: Hoạt động này đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ trước khi cấp phép, cấp phép và sau cấp phép. Yêu cầu của hoạt động này là phải thiết thực và năng động. Chiến lược xúc tiến đầu tư phải kết hợp được tất cả các kĩ thuật trên sao cho phù hợp với các yêu cầu cũng như tiềm năng của mỗi quốc gia. Ttrọng tâm của các hoạt động này thay đổi tuỳ theo từng quốc gia và tuỳ theo từng giai đoạn để thích ứng với các điều kiện và nhu cầu ưu tiên khác nhau. Thông thường một chiến lược xúc tiến đầu tư có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng các dịch vụ đầu tư bởi điều quan trọng là những dự án tiềm năng phải được hiện thức hoá thành hành động đầu tư thực tế và nếu các nhà đầu tư cảm thấy thoả mãn thì điều đó cũng có nghĩa là quốc gia đó sẽ thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư khác nữa. Để thực sự đạt được hiệu quả, các chiến lược xúc tiến đầu tư đều phải có mục tiêu rõ ràng, phù hợp với mục tiêu chung. Xác định mục tiêu của chiến lược liên quan đến việc lựa chọn quốc gia, lĩnh vực cũng như các công ty để tiến hành chương trình xúc tiến. Việc này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và hoạch định một cách chi tiết, cụ thể. 1.2.3.3. Cơ quan thực thi chính sách xúc tiến đầu tư. Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều đã chuyển từ giai đoạn đầu của xúc tiến đầu tư - chủ yếu liên quan đến việc mở cửa thị trường đối với các nhà đầu tư nước ngoài - sang giai đoạn thứ 2 là tích cực thu hút nguồn vốn FDI chảy vào trong nước. Xu hướng này biểu hiện rõ rệt qua việc các quốc gia đều thành lập Uỷ ban xúc tiến đầu tư (Investment Promotion Agency). Theo Báo cáo đầu tư thế giới 2002 của UNCTAD , số lượng các Cơ quan xúc tíên đầu tư trên thế giới ngày càng tăng nhanh kể từ thập kỷ 1990. Hiện nay, trên thế giới đã có 164 Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia và hơn 250 Cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. [10] Xúc tiến đầu tư không phải là hoạt động không có thể lấy thu bù chi. Điều này có nghĩa là mọi chi phí cho hoạt động này đều bắt nguồn từ ngân sách Nhà nước, song đôi khi có thể đến từ khu vực tư nhân. Cũng vì lẽ đó mà hầu hết các tổ chức xúc tíên đầu tư đều là một cơ quan của Chính phủ. Khi thực hiện xúc tiến đầu tư tại một số địa phương quan trọng, một yêu cầu quan trọng là phải có hiểu biết chính xác về các điểm dự kiến đầu tư tại địa phương đó và nắm vững có yếu tố có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Bởi vậy, các quốc gia rộng lớn thường xây dựng một mạng lưới cơ qu._.an xúc tiến địa phương để tiến hành các chương trình xúc tiến ở từng vùng, tỉnh và bang của quốc gia đó. Cũng theo Báo cáo đầu tư thế giới 2002 thì 2/3 trong số các Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia được điều tra đều có một mạng lưới cơ quan xúc tiến đầu tư cấp địa phương. Đây thường là những tổ chức hoạt động độc lập, không phải với tư cách là các chi nhánh của các Uỷ ban xúc tiến quốc gia. Các Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia thường chỉ đóng vai trò điều phối và hướng các nhà đầu tư đến Cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương nhằm tránh những cạnh tranh không cần thiết. Một số cơ quan xúc tiến địa phương được chu cấp chi phí hoạt động bởi Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia hoặc chính quyền địa phương.[10] Chức năng cốt lõi của cơ quan xúc tiến đầu tư là tư vấn về chính sách đầu tư hoặc cung cấp dịch vụ tư vấn. Rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư cũng đảm nhiệm cả việc cấp giấy phép và hoạch định chính sách đầu tư. * * * Tầm quan trọng của mỗi bộ phận trong chương trình xúc tiến đầu tư thay đổi tuỳ theo mỗi quốc gia. Đối với một số quốc gia rộng lớn với một thị trường quy mô và nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào thì vai trò của chính sách đầu tư được đặt lên hàng đầu. Tuy nhiên, đối với các quốc gia có thị trường nhỏ hơn và nguồn tài nguyên không mấy phong phú thì điều tối quan trọng là phải tập trung xây dựng một chiến lược xúc tiến năng động cùng với một cơ quan hoạt động hiệu quả nhằm thực thi tốt chiến lược đó. Thực tiễn đã cho thấy một chính sách đầu tư hợp lý đi cùng với một chiến lược xúc tiến năng động và được tiến hành một cách chuyên nghiệp sẽ làm nên thành công của hoạt động xúc tiến đầu tư. Kinh nghiệm của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển trong việc thu hút FDI đều cho thấy rằng Chính phủ các quốc gia cần phải đảm nhiệm tốt hai nhiệm vụ sau: Cải cách chính sách đầu tư để hạn chế những khó khăn mà nhà đầu tư phải đối mặt khi xây dựng một dự án mới. Thiết lập một cơ quan xúc tiến đầu tư với đầy đủ quyền hạn, tư cách pháp lý độc lập và ngân quỹ cần thiết để hoạch định và tiến hành một chiến lược xúc tiến đầu tư phù hợp với yêu cầu, lợi thế cũng như tiềm năng của quốc gia đó. chương 2 Thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam 2.1. Vài nét về hoạt động FDI tại Việt Nam Vốn đăng ký Với chính sách mở cửa đầu tư và những nỗ lực của Chính phủ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài, tính đến tháng 12 năm 2002, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam đã lên tới 39tỉ USD với 3.669 dự án được cấp phép[11,12.13.14]. Trong suốt thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, vốn FDI tại Việt Nam hầu như không đáng kể. Cho tới năm 1991, tổng số vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ đạt 213 triệu USD. Tuy nhiên, lượng vốn FDI đăng ký bắt đầu tăng lên nhanh chóng kể từ năm 1992 và đạt tới đỉnh cao năm 1996 với 8,6 tỉ USD.[11] Nguyên nhân của sự tăng trưởng đầy ấn tượng này là kỳ vọng của các nhà đầu tư vào tiềm năng của một nền kinh tế mới chuyển đổi kinh tế từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các nhà đầu tư cũng bị thu hút bởi các yếu tố tích cực như lực lượng lao động dồi dào với chi phí nhân công thấp… Bên cạnh đó còn có các lý do khách quan như xu hướng đầu tư vào các nền kinh tế mới nổi ở Châu á và đây cũng là thời điểm các quốc gia trong khu vực ( Malaysia, Singapore, Thái Lan,…) bắt đầu xuất khẩu tư bản. Là một nước mới chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Đông Nam á, Việt Nam đã tận dụng được các điều kiện thuận lợi khách quan này. Trong giai đoạn 1991 – 1996, nguồn vốn FDI đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khắc phục tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Bước sang giai đoạn 1997 – 1999 Việt Nam đã phải chứng kiến một sự tụt giảm mạnh số vốn FDI đăng ký, giảm 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999. Nguyên nhân của tình trạng này chính là cuộc hủng hoảng tài chính Châu (năm nhà đầu tư lớn nhất đầu tư vào Việt Nam ở thời điểm này đến từ các nước Châu). Do những khó khăn trong việc kinh doanh ở quê hương, họ đã phải tạm ngừng hoặc huỷ bỏ kế hoạch đầu tư ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải rút vốn ra khỏi khu vực Châu á. Thêm vào đó, khủng hoảng tài chính đã kéo theo việc mất giá các đồng tiền của khu vực Đông Nam á. Việt Nam vì thế trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các dự án đầu tư hướng vào xuất khẩu. Khó khăn ngày càng lộ rõ khi các nhà đầu tư bắt đầu nhận thấy những triển vọng về nhu cầu của thị trường không giống như dự đoán trước đó. Lượng vốn đăng ký lại tăng trở lại với mức tăng 25,8% vào năm 2000 và 22,6% vào năm 2001 tuy nhiên vẫn không được bằng 1/3 lượng vốn FDI của năm 1996. Lượng vốn tăng này chính là nguồn vốn FDI đầu tư cho 2 dự án lớn là dự án xây dựng đường ống dẫn Nam Côn Sơn ( năm 2000) với tổng số vốn là 2,43 Tỉ USD và dự án điện BOT Phú Mĩ (năm 2001) với tổng số vốn là 0,8 USD.[12,13] Sang năm 2002, lượng vốn FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỉ USD chỉ đạt mức 54,5% so với lượng vốn đăng ký của năm 2001.[14] Có rất nhiều nguyên nhân có sự tụt giảm này: Trước hết là tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu. Thêm vào đó sự sụp đổ nền kinh tế bong bóng ở Mỹ và tình trạng suy thoái triền miên của Nhật Bản cũng ảnh hưởng đến các nước Châu á. Sau khủng hoảng, các nước ASEAN đã đưa ra nhiều chế độ ưu đãi, đồng thời tích cực tăng cường các hoạt động xúc tiến nhằm thu hút đầu tư nước ngoài. Các hoạt động của họ cũng lôi kéo được các nhà đầu tư đang hoạt động ở Việt Nam. Nhu cầu thị trường nội địa thấp, giá cả đầu tư cao, cùng với các thủ tục pháp lý phức tạp là những nhân tố khác góp phần làm giảm dòng vốn FDI vào trong nước. Ban đầu các nhà đầu tư nước ngoài đã kỳ vọng rất nhiều vào thị trường nội địa rộng lớn với 80 triệu dân. Tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người thấp, và mức tiêu dùng không cao, đã làm nản lòng một số nhà đầu tư. Thêm vào đó, các nhà đầu tư còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn khác trong quá trình kinh doanh. Tất cả những điều này đã làm giảm sức hấp dẫn của Việt Nam với họ. Sự sụt giảm đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năm 2002 so với 2 năm trước đó thực sự phản ánh tình trạng xấu đi của nền kinh tế toàn cầu. Sự gia tăng vốn FDI đăng ký trong năm 2000 và 2001 không phải là một dấu hiệu khả quan, mà đó chỉ là thời điểm cấp phép cho một vài dự án lớn vốn đã được đàm phán và chuẩn bị từ vài năm trước đó. Một dấu hiệu tốt lành là lượng vốn bổ sung đang tăng dần qua các năm. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã hoạt động hiệu quả và đang dần mở rộng quy mô hoạt động. Vốn hoạt động Vốn hoạt động trước năm 1997 chỉ chiếm khoảng 30% tổng vốn đăng ký[11]. Các nhà đầu tư bấy giờ chỉ có ý định “đặt chỗ” tại Việt Nam, rồi sau đó thực hiện chiến lược “xem xét và chờ đợi” trước khi tiến hành bất kỳ hoạt động đầu tư thực sự nào. Trong giai đoạn 1997-1999, lượng vốn đăng ký giảm mạnh, tuy nhiên vốn hoạt động lại giảm ở mức thấp hơn rất nhiều. Năm 1999 và năm 2000, lượng vốn hoạt động thực sự đã vượt qua cả lượng vốn đăng ký[12]. Vốn hoạt động năm 2002 đạt khoảng 2,345 triệu USD, cao hơn 70% so với lượng vốn đăng ký.[14] Cho đến cuối năm 2000, tỷ lệ vốn đăng ký chuyển sang hoạt động đã đạt mức 53%. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy chất lượng của nguồn vốn FDI đăng ký. Tuy nhiên, vẫn có một mối liên hệ mật thiết giữa vốn đăng ký và vốn hoạt động. Sự sụt giảm vốn đăng ký gây nên tâm lý lo ngại trong các nhà đầu tư nên tất nhiên sẽ ảnh hưởng tới lượng vốn hoạt động những năm tới. Toàn cảnh vốn đầu tư và vốn hoạt động từ năm 1992 cho tới cuối năm 2002 được thể hiện trong biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 4- Tình hình vốn FDI đăng kí và thực hiện giai đoạn 1992-2002 Nguồn:Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm từ 1992-2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Quy mô dự án Trong khi lượng vốn đăng ký sụt giảm thì số dự án được cấp phép lại tăng lên. Quy mô trung bình của dự án đầu tư giảm từ 13 triệu USD/1 dự án năm 1998 xuống còn 1,9 triệu USD/1 dự án năm 2002.[11,14] Hình thức đầu tư: Có 3 hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, và hợp đồng hợp tác kinh doanh. BOT (xây dựng – kinh doanh- chuyển giao) không phải là một hình thức mới của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một doanh nghiệp BOT có thể mang hình thức của doanh nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. tuy nhiên do mang đặc thù nên hình thức này vẫn được thống kê riêng biệt. Tình hình phân phối vốn FDI theo hình thức đầu tư cho đến năm 2002 được tổng hợp trong biểu đồ dưới đây: Biểu đồ 5 – Phân phối FDI theo hình thức đầu tư cho tới 2002 Theo vốn đăng ký: Theo số dự án Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm từ 1992-2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Doanh nghiệp liên doanh: trước năm 1998 đây là hình thức đâu tư FDI phổ biến nhất. Tuy nhiên do những bất đồng giữa 2 bên trong quá trình điều hành và tình trạng thiếu vốn cho mở rộng hoạt động của bên Việt Nam, rất nhiều doanh nghiệp liên doanh đã chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài. Song ở một số ngành như vận tải và du lịch, đây vẫn là một hình thức bắt buộc. Tính đến năm 2002, hình thức này đã chiếm 30% số dự án đã cấp phép và 51% tổng số vốn đã đăng ký. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: từ sau Việt Nam tiến hành đổi mới luật đầu tư năm 1996 và xoá bỏ những hạn chế trong việc thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hình thức này đã phát triển nhanh chóng, đến năm 2002 đã chiếm 66% tổng số dự án và 36% tổng số vốn đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh doanh: hình thức này cho đén năm 2002 đã chiếm 3,9% tổng số dự án và 10% tổng số vốn đăng ký. Hình thức này phổ biến ở các ngành viễn thông, dầu mỏ, khí đốt – các ngành mà hai hình thức trên không được cho phép. Hiện tại ở Việt` Nam mới có 6 dự án BOT với tổng số vốn đăng ký là 1,3 tỷ USD, chủ yếu trong ngành công nghiệp cung cấp nước và năng lượng. Lĩnh vực đầu tư Nguồn vốn FDI tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất. Ngành công nghiệp nặng đứng hàng đầu, chiếm khoảng 21% tổng số vốn đăng ký, tiếp theo là xây dựng và kinh doanh khách sạn. Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp chỉ chiếm 6% tổng số vốn mặc dù nhà nước đã có chế độ ưu đãi đặc biệt cho các dự án đầu tư vào những ngành này. Biểu đồ 6 – Phân phối FDI theo lĩnh vực đầu tư cho tới năm 2002 Theo vốn đăng ký Theo số dự án Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm từ 1992-2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Khu vực dịch vụ bao gồm các ngành ngân hàng, viễn thông, quảng cáo, y tế, giáo dục chỉ chiếm một tỷ lệ thấp do những rào cản hạn chế gia nhập nhằm bảo hộ các công ty trong nước và chính phủ có thể kiểm soát được khu vực này. Trong tương lai các rào cản này sẽ dần xoá bỏ theo tiến trình thực hiện hiệp định thương mại Việt Mỹ và đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Khu vực đầu tư Mặc dù các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nằm rải rác trên cả 61 tỉnh thành của Việt Nam, song hầu hết ngồn vốn FDI lại tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm tại miền Nam như TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu và một số khu vực miền Bắc như Hà nội, Hải Dương, Hải Phòng và Quảng Ninh. Bên cạnh thành phố HCM và Hà nội là 2 thành phố dẫn đầu, Đồng Nai đứng ở vị trí thứ 3 với 409 dự án, trị giá 5,4 tỷ USD. Tiếp theo là Bình Dương với 618 dự án trị giá 2,9 tỷ USD và Bà Rịa Vũng Tàu với 79 dự án trị giá 1,8 triệu USD. .Các tỉnh miền Nam thu hút khoảng 73% tổng số dự án được cấp phép và 60% tóng số vốn đăng ký trong khi ở miền Bắc các tỷ lệ này là 19,4% và 26,4%. Miền Trung là nơi tiếp nhận ít vốn FDI nhất.Bất lợi của miền Trung trong cạnh tranh thu hút FDI là sự thiếu thốn hạ tầng cơ sở, quy mô thị trường nhỏ và thiếu lực lượng lao động lành nghề. Chế độ ưu đãi của Chính phủ cũng không thể bù đắp được các chi phí tăng thêm mà các nhà đầu tư phải trả khi đầu tư vào đây. Biểu đồ 7 – Phấn phối FDI theo vùng Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm từ 1992-2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tác động của hoạt động FDI đến nền kinh tế Việt Nam Với ý nghĩa hết sức quan trọng, hoạt động FDI đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội với những đóng góp tích cực tới nền kinh tế Việt Nam, bao gồm: Phát triển những ngành nghề mới, sản phẩm mới. Hiện nay, khu vực FDI đang chiếm 100% thị phần các ngành thăm dò và khai thác dầu, sản xuất ôtô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, thiết bị văn phòng… Khu vực FDI cũng chiếm 60% sản lượng đầu ra ngành cán thép, 28% sản lượng ngành xi măng, 33% sản phẩm điện tử và 76% thiết bị y tế... Giúp Việt Nam tiếp cận thị trường quốc tế và khai thác tiềm năng xuất khẩu. FDI chiếm một thị phần lớn trong các ngành xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam, ví dụ như 42% trong ngành giầy dép, 25% trong ngành dệt và 84% trong ngành cung cấp linh kiện điện tử và máy tính Khuyến khích việc nâng cấp và ứng dụng các công nghệ mới tiên tiến tại các công ty nội địa là nhà cung ứng hoặc khách hàng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này góp phần cải thiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. Đóng góp vào ngân sách Chính phủ. Trong giai đoạn 1996-2000, hoạt động FDI đã đóng góp 1,45 tỷ USD, chiếm 6-7% tổng ngân sách Nhà nước. Nếu tính cả đóng góp của ngành gas và dầu khí, thì con số này sẽ lên tới gần 20%. Theo dự đoán, đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách Nhà nước sẽ còn tăng nhanh hơn nữa bởi hiện nay đang có nhiều dự án hoạt động đã đến giai đoạn thu lợi nhuận. Cải thiện trình độ quản lý và trình độ kỹ thuật của lực lượng lao động. Khu vực FDI hiện đang thu hút 350.000 lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Điều này góp phần cải thiện thu nhập của người lao động, tăng mức độ tiêu dùng và nhu cầu thị trường. Góp phần mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tích cực hỗ trợ Việt Nam trong việc gia nhập ASEAN, ký hiệp định khung với EU, bình thường hoá quan hệ và ký hiệp định hợp tác thương mại song phương với Mỹ.[14] Biểu đồ dưới đây cho thấy tình hình doanh thu và xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Biểu đồ 8- Doanh thu và xuất khẩu của khu vực FDI tại Việt Nam 1991-2002 Nguồn: Báo cáo tình hình hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài các năm từ 1992-2002, Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.2. Thực trạng hoạt động xúc tiến đầu tư ở Việt Nam 2.2.1. Cơ quan phụ trách công tác xúc tiến đầu tư Tại Việt Nam, công tác xúc tiến đầu tư được phân chia giữa 3 đơn vị khác nhau: Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Chịu trách nhiệm hoạch định chính sách và chiến lược xúc tiến đầu tư Sở Kế hoạch và Đầu tư của tỉnh và thành phố: Chịu trách nhiệm thực thi những chính sách đầu tư đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoạch định và quản lý các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong phạm vi tỉnh. Ban Quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp: Quản lý các hoạt động FDI trong các khu chế xuất và khu công nghiệp tại địa phương. Cả 3 đơn vị trên đều là các cơ quan chính phủ thực hiện nhiều chức năng và nhiệm vụ khác ngoài công tác xúc tiến đầu tư. Vai trò chính của các cơ quan này đều là quản lý nhà nước. Tuy công tác xúc tiến đầu tư không được quy định rõ ràng như là chức năng của các cơ quan này song ở một chừng mực nào đó cũng có thể coi Bộ Kế hoạch và Đầu tư như cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia và coi Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố và Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp như cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. 2.2.1.1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hiện tại chưa có phòng ban nào của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đảm nhận hoàn toàn công tác xúc tiến đầu tư. Chỉ có một số phòng ban liên quan với chức năng như sau: Vụ Luật và Xúc tiến đầu tư chịu trách nhiệm lập dự thảo các quy định pháp lý và chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài đồng thời chịu trách nhiệm điều phối các hoạt động marketing đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Vụ Giám sát đầu tư đảm nhận công tác quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và giúp đỡ các doanh nghiệp này giải quyết những khó khăn trong quá trình thực hiện dự án. Do đó, Vụ Giám sát đầu tư chuyên về cung ứng các dịch vụ sau cấp phép. Vụ Đầu tư nước ngoài: Tiến hành các hoạt động tạo dựng hình ảnh, vận động các nhà đầu tư tiềm năng và cung ứng dịch vụ trước và trong khi cấp phép. Vụ Quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp: Chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài trong khu chế xuất và khu công nghiệp. Mặc dù mỗi Vụ có một chức năng chuyên trách riêng biệt nhưng không có một ranh giới rõ ràng về vai trò cũng như nhiệm vụ của các Vụ. Khi có một hoạt động quan trọng thì tất cả các Vụ có liên quan đều phải tham gia. Cơ cấu tổ chức này khiến cho việc phân biệt nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi Vụ tương đối khó khăn. Vai trò, nghĩa vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được quy định trong Nghị quyết 75/1995/ND-CP của Chính phủ ban hành ngày 01/5/1995. Sau đây là một số chức năng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được quy định trong Nghị quyết này: Định hướng và đề ra chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chuẩn bị và phát hành danh mục các dự án ưu tiên trên cần huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng hệ thống quy định pháp lý liên quan đến hoạt động xúc tiến đầu tư FDI nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hoạch định các chính sách đầu tư và đưa ra các văn bản hướng dẫn. Đưa các văn bản hướng dẫn tới các Bộ, ngành liên quan và Uỷ Ban Nhân Dân các tỉnh để xây dựng kế hoạch thu hút đầu tư. Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các chính sách của Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Điều hành các hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam. Phối hợp với các Bộ, ngành liên quan để giải quyết tất cả các vấn đề quan trọng liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài và tất cả các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. Thẩm định các dự án đầu tư (trừ những dự án do Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh và ban quản lý khu chế xuất khu công nghiệp chịu trách nhiệm thẩm định) và cấp giấy phép đầu tư.[15] Chức năng và nghĩa vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là rất rộng. Riêng về đầu tư trực tiếp nước ngoài, vai trò của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có vẻ tập trung vào việc xây dựng chính sách đầu tư và hoạch định các kế hoạch cũng như chiến lược xúc tiến đầu tư. 2.2.1.2. Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và thành phố Vai trò của các Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, thành phố đã được đề cập đến trong rất nhiều văn bản pháp lý như Quyết định 852/TTg ngày 12/11/1995 về việc thành lập một số cơ quan tại tỉnh và thành phố, hay Thông tư liên Bộ 01/BKH-TTCP/TTLB ngày 02/01/1996 chỉ rõ chức năng, nghĩa vụ, quyền hạn và tổ chức các Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh và thành phố. Một số nghĩa vụ được quy định trong Thông tư liên Bộ 01 như sau: Hỗ trợ việc thực thi các chính sách và quy định pháp lý liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tỉnh. Thực hiện chức năng điều phối, nhận các văn bản đăng ký đầu tư của các nhà đầu tư nội địa và nước ngoài muốn đầu tư vào tỉnh. Thu thập các ý kiến và kiến nghị của các nhà đầu tư. Cấp giấy phép theo sự uỷ thác của Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh. Góp ý và kiến nghị với Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh nhằm đưa ra chính sách phù hợp hơn với điều kiện đặc thù của mỗi tỉnh. Thực hiện các chức năng khác theo sự uỷ quyền của Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh.[16] Vai trò xúc tiến đầu tư của sở kế hoạch và đầu tư các tỉnh thành không được đề cập một cách rõ ràng trong bất kỳ văn bản pháp lý nào. Trong hầu hết mọi trường hợp, chức năng này sẽ được cụ thể hoá trong quyết định hoặc hướng dẫn của Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh. Mỗi Sở Kế hoạch và Đầu tư đều có một văn phòng do Phó Giám đốc Sở điều hành để quản lý các vấn đề như xác định nhà đầu tư tiềm năng, cấp giấy phép đầu tư, cung cấp các văn bản hướng dẫn về quy trình trước và sau cấp phép. Văn phòng này cũng có thể thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ tổng hợp cho các nhà đầu tư. Mọi công việc đều có thể được thực hiện ở đây. Văn phòng sẽ tự liên hệ với các bộ phận khác và cơ quan chức năng có liên quan để giải quyết các vấn đề phát sinh. Trong thực tế, Văn phòng thường cung ứng dịch vụ cấp phép và một số dịch vụ trước cấp phép. Rất hiếm khi các văn phòng này tham gia vào các dịch vụ sau cấp phép. Tại thành phố Hồ Chí Minh có một cơ quan độc lập mang tên Trung tâm Xúc tiến Thương mại Đầu tư tương tự như Trung tâm Xúc tiến Đầu tư Đà Nẵng của thành phố Đà Nẵng, đã được uỷ quyền thực hiện vai trò xúc tiến đầu tư trong quyền hạn pháp lý của mình. Cả hai trung tâm này đều hoạt động như những văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp, chịu trách nhiệm về các hoạt động trước cấp phép còn Sở Kế hoạch và Đầu tư của hai thành phố thì chỉ chịu trách nhiệm thẩm định, cấp giấy phép và quản lý sau cấp phép. Tuy nhiên hai trung tâm này vẫn phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ các nhà đầu tư trong quy trình cấp phép và sau cấp phép nếu các nhà đầu tư có đề nghị. 2.2.1.3. Ban quản lý khu chế xuất, khu công nghiệp Cơ cấu tổ chức của Ban quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp được quy định trong Nghị định 36/CP. Do chức năng chính của Ban quản lý khu chế xuất & khu công nghiệp là điều hành và phát triển hoạt động của khu chế xuất và khu công nghiệp nên hoạt động của hầu hết các phòng ban đều có liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó phòng Quản lý Đầu tư chịu trách nhiệm thu hút đầu tư và cấp giấy phép đầu tư, phòng Quản lý doanh nghiệp thì đảm nhận các hoạt động sau cấp phép, các phòng ban khác tiến hành cấp giấy phép xuất nhập khẩu và giấy phép hoạt động. Một số Ban quan lý khu chế xuất & khu công nghiệp có văn phòng cung ứng dịch vụ tổng hợp. Khi có đề nghị từ phía nhà đầu tư, các văn phòng này sẽ phối hợp với các phòng ban và các cơ quan chức năng khác bên ngoài khu chế xuất & khu công nghiệp. Vai trò xúc tiến đầu tư của Ban quản lý khu chế xuất & khu công nghiệp không được đề cập đến trong các văn bản pháp quy mà tuỳ thuộc vào thẩm quyền của Ban quản lý do UBND tỉnh quy định. 2.2.2. Các hoạt động xúc tiến đầu tư hiện nay tại Việt Nam ở thời điểm hiện tại, Việt Nam chưa có được một chiến lược xúc tién đầu tư đồng bộ ở tầm quốc gia. Sự thiếu hụt này đã góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xúc tiến đầu tư ở các vùng và các địa phương. Không có cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương nào nhận được sự hỗ trợ của chính phủ trong việc thực hiện chiến lược. Mặc dù mỗi tỉnh, mỗi địa phương đều dựa vào chiến lược xúc tiến riêng của mình nhưng đa số các Sở Kế hoạch & Đầu tư, các Ban quản lý khu chế xuất & khu công nghiệp đều chưa có một khái niệm rõ ràng về xúc tiến đầu tư. Bên cạnh đó còn xuất hiện các vấn đề trục trặc trong việc phối hợp hoạt động giữa cơ quan trung ương và địa phương.[17] So với cá tỉnh Miền Bắc thì khu vực phía Nam tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến công tác xúc tiến đầu tư, tích cực và sáng tạo hơn trong việc đề ra các chiến lược và chương trình xúc tiến. Do đó các tỉnh như Bình Dương, Đồng Nai đã trở thành các địa điểm hấp dẫn đối với cả đầu tư nội địa và đầu tư nước ngoài. 2.2.2.1. Tạo dựng hình ảnh Việt Nam chưa gây dựng được một hình ảnh ấn tượng trên thị trường quốc tế. Theo ý kiến của một Giám đốc người nước ngoài của một khu công nghiệp hoạt động tương đối thành công thì Việt Nam gặp trục trặc ở khâu quan hệ với công chúng.[17] ở các nước Phương Tây, cái tên Việt Nam vẫn gợi nhiều liên tưởng đến chiến tranh và thông điệp Việt Nam là một đất nước hoà bình đang trên con đường phát triển vẫn chưa trở nên quen thuộc và nhiều nơi trên thế giới các nhà đầu tư tiềm năng Châu Âu và Châu Mỹ đặc biệt còn một nhận thức mới về Việt Nam. Mặc dù ngành Du lịch đã tương đối thành công trong việc truyền tải thông điệp này đến với thế giới thì giới đầu tư dường như vẫn chưa tiếp nhận được nó. Trong cuộc điều tra chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 45% các nhà đầu tư được hỏi ý kiến trong cuộc điều tra này có được hiểu biết ở mức tương đối về Việt Nam còn 20% thì hiểu biết rất ít.[17] Mặc dầu vậy, ở thời điểm hiện tại, Việt Nam vẫn chưa có được một chiến lược đủ mạnh mẽ để tạo dựng được một hình ảnh ấn tượng trước giới đầu tư quốc tế. Tuy vậy từ sau sự kiện khủng bố nước Mỹ xảy ra vào tháng 11/2001, giới đầu tư đã bắt đầu quan tâm đến Việt Nam và coi đây là một trong những điểm đầu tư an toàn với ưu điểm là sự ổn định về chính trị và tốc độ tăng trưởng nhanh. Đây là thời điểm thuận lợi để chúng ta tích cực xúc tiến các hoạt động tạo dựng hình ảnh 2.2.2.2. Tập trung vận động các nhà đầu tư tiềm năng Cho tới nay, các biện pháp phổ biến được sử dụng để hướng tới các nhà đầu tư tiềm năng là: phát hành sách quảng cáo, các trang web điện tử và tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu ở nước ngoài. Sách quảng cáo: Hầu hết mọi tổ chức xúc tiến đầu tư đều phát hành các quyển sách quảng cáo trong đó giới thiệu rõ ràng về mục đích phát hành và đưa ra một sự mô tả ngắn gọn về các cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Các thông tin được cung cấp ở đây chủ yếu liên quan đến luật đầu tư và danh sách các dự án ưu tiên. Tỷ lệ các loại tài liệu phát hành được tổng hợp trong bảng dưới đây: Bảng 2- Tỷ lệ các loại tài liệu được phát hành cho mục đích vận động các nhà đầu tư tiềm năng: Loại thông tin Tỷ lệ (%) Hướng dẫn đầu tư 35 Giới thiệu chung 19 Giới thiệu Luật đầu tư nước ngoài 43 Danh sách các khu chế xuất và khu công nghiệp 20 Danh sách các dự án ưu tiên 26 Danh sách các đối tác đầu tư tiềm năng 6 Các loại tài liệu khác 5 Nguồn: Điều tra về chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 6/2003 Các loại sách quảng cáo trên đây đã góp phần đưa đến cho các nhà đầu tư tiềm năng một hình ảnh rõ ràng hơn về đất nước Việt Nam cũng như cơ hội đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên không phải không có những tồn tại trong việc phát hành sách quảng cáo. Vấn đề lớn nhất ở đây là chất lượng sách được tốt và thông tin không được cập nhật. Bên cạnh đó việc phân phối sách cũng chưa được tiến hành một cách kịp thời khi các nhà đầu tư có nhu cầu. Hàng năm, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Sở Kế hoạch và Đầu tư đều phát hành danh sách các dự án ưu tiên cần huy động vốn FDI. Tuy nhiên các nhà đầu tư nước ngoài cũng chưa tỏ ra hưởng ứng tích cực do đó kết qủa huy động chưa cao. Nguyên nhân có thể là các vấn đề sau: Trước hết bản danh sách chưa cung cấp những thông tin hấp dẫn các nhà đầu tư như các thông tin về lợi nhuận thu được, tình trạng của hạ tầng cơ sở, giá cả đầu tư, nguồn nhân công và chi phí nhân công, khả năng tiếp cận thị trường,... Mặc dù những chính sách ưu đãi và tài chính cũng được ghi rõ trong các danh sách này, mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư lại là vấn đề họ sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận khi đầu tư vào các dự án này. Ngược lại, một số thông tin được cung cấp trong bản danh sách lại khiến các nhà đầu tư cảm thấy bị hạn chế sự linh hoạt khi đưa ra các quyết định đầu tư. Quy định về hình thức đầu tư và quy mô dự án trong bản danh sách của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Sở Kế hoạch và Đầu tư là một trong các thông tin kiểu này. Bản danh sách của Hà Nội thậm chí còn chứa đựng các con số ước tính vốn pháp định và vốn vay, phần vốn góp của bên Việt Nam, thời gian của dự án và tỷ lệ xuất khẩu,... Đây hầu hết là các vấn đề rất nhạy cảm cần nhiều sự tính toán và cân nhắc. Dù đó chỉ là các thông tin để tham khảo nhưng nó cũng phần nào khiến các nhà đầu tư cảm thấy bị hạn chế. Một vài nhà đầu tư còn cho rằng các bản danh sách này được đề ra trên cơ sở mối quan tâm của chính phủ chứ không phải của các nhà đầu tư và họ nghi ngờ về khả năng sinh lợi của dự án.[17] Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì việc công bố danh sách dự án ưu tiên chưa phải là một phương thức xúc tiến đầu tư FDI tốt bởi nó khiến các nhà đầu tư có cảm giác như họ đang hoạt động trong một nền kinh tế "Kế hoạch". Bởi vậy, thay vì đưa ra danh sách các dự án, Trung Quốc ngờ đây chỉ nêu tên các vùng miền kêu gọi đầu tư FDI.[18] Các trang web điện tử: Rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư đã hoặc đang dự định lập trang web điện tử cho mục tiêu vận động đầu tư. Đây là một công cụ hữu hiệu bởi thông tin không những được truyền tải nhanh, không bị giới hạn bởi vị trí địa lý như các công cụ khác mà còn mang tính chất hai chiều. Thông tin phản hồi kịp thời từ phía các nhà đầu tư là cơ sở để các cơ quan xúc tiến điều chỉnh chất lượng hoạt động của mình cho phù hợp. Nội dung các thông tin cung cấp trên trang web thường bao gồm các thông tin về: Chức năng hoạt động của cơ quan xúc tiến Các bài miêu tả chi tiết về hình ảnh đất nước và tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay Danh sách các dự án đã đầu tư và các dự án đang kêu gọi đầu tư Luật đầu tư, tình hình ngân hàng và Tài chính, xuất nhập khẩu, hải quan, khu chế xuất, khu công nghiệp... Địa chỉ các khách sạn, ngân hàng, các tổ chức tư vấn, các hãng hàng không ... Bên cạnh đó các trang web cũng thường có các đường kết nối trực tuyến phục vụ cho việc đăng ký cấp phép hay đăng ký sử dụng các dịch vụ đầu tư qua mạng. Tuy nhiên, chất lượng các trang web này chưa cao, thông tin còn nghèo nàn và thiết kế chưa chuyên nghiệp. Thêm vào đó, các trang web này không được cập nhật thường xuyên, thiếu các cơ sở dữ liệu đầy đủ nên chưa phục vụ thiết thực cho nhu cầu tìm hiểu các cơ hội đầu tư. Trang web của Trung tâm xúc tiến Thương mại Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh được coi là tương đối có chất lượng về mặt thiết kế cũng như tính cập nhập của thông tin so với trang web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hay Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hồ Chí Minh. Bảng dưới đây thống kê ý kiến đánh giá của các nhà đầu tư về một số trang web của các cơ quan xúc tiến đầu tư trong khu vực: Bảng 3- Đánh giá chất lượng các trang Web của các Uỷ ban xúc tiến đầu tư trong khu vực Nội dung đánh giá Thái Lan (BOI) Malaixia (MiDA) Philippin (BOI) Trung Quốc (FDI) Việt Nam (MPI) Việt Nam (ITPC) Chất lượng thiết kế A A A B C A Dữ liệu cơ sở vè kinh tế vĩ mô A A A A C B Cách thức hoạt động kinh doanh A B B B D B Các thông tin pháp luật A A B A B A Giá cả đầu tư A A A B D B Cơ sở dữ liệu các dự án A B B Kết nối với các dịch vụ A A A A B A Kết nối với chính phủ A A A A B A Hoạt động đầu tư vào các lĩnh vực A A B B D C Email A A A A A A Điều tra phả._.nh điểm mạnh cũng như điểm yếu của mình - có nghĩa là cần xác định khả năng và những lợi thế thu hút của Việt Nam. Dựa trên những phân tích về những lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư tại Việt Nam, Việt Nam đang có rất nhiều lợi thế như: Môi trường kinh tế - chính trị ổn định. Vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam á với tiềm năng trở thành một thị trường chính của khu vực. Lực lượng nhân công trẻ, đông đảo và chi phí thấp. Kết quả phân tích ngành nghề đã cho thấy chính phủ trước tiên cần tập trung vào những ngành có các tiêu chuẩn cụ thể đang được cả Chính phủ và các nhà đầu tư đều đánh giá cao như: Ngành dầu mỏ và khí đốt. Công nghiệp điện tử. Công nghiệp hoá chất. Công nghiệp sợi. Giầy dép. Các sản phẩm bằng da. Những ngành sau đây được chính phủ đánh giá cao nhưng theo ý kiến các nhà đầu tư thì chỉ ở mức trung bình. Cũng có thể tập trung vào các ngành này, tuỳ theo mục tiêu và nguồn lực của các cơ quan xúc tiến đầu tư. Đó là: Công nghiệp máy móc Công nghệ thông tin Công nghiệp chế biến các sản phẩm từ cá Công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp Công nghiệp dệt Xây dựng hạ tầng cơ sở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cũng cần phải chú ý rằng chất lượng xúc tiến đầu tư không phải là sự phân tích tĩnh và cố định. Nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế từng khu vực, từng quốc gia và từng địa phương luôn có sự thay đổi. Cần quan tâm tới những yếu tố này để tìm ra những nhà đầu tư tiềm năng. Trong bối cảnh của cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút FDI, cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia, các văn phòng đại diện cũng như các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương càng phải chú trọng xác định không chỉ các ngành mà cả những hoạt động, những khu vực kinh tế mới... để có thể nâng lợi thế của khu vực lên mức tối đa. Một quốc gia hay một khu vực chỉ có được những lợi thế cạnh tranh từ những lĩnh vực hay sản phẩm tự nhiên của mình. Việc xác định những sản phẩm và lĩnh vực đó để tập trung vào là rất cần thiết đối với từng địa phương. Khi đã xác định được các ngành mũi nhọn thì một điều quan trọng nữa là phải xác định những phân đoạn thị trường có tiềm năng đầu tư. Cách phân đoạn thị trường của marketing cũng có thể được áp dụng tại đây. Đó là phân đoạn theo kinh tế, địa lý, nhân khẩu học và tâm lý học. Đối với đầu tư nước ngoài thì, địa lý và kinh tế là hai yếu tố cần quan tâm nhất. Chẳng hạn, khi phân đoạn thị trường theo khu vực địa lý thì các cơ quan xúc tiến đầu tư tại Việt Nam cần tập trung vào những nước sau: Ngành Nước đầu tư - Sợi và dệt - Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông, Singapore - Da, giày dép - Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore - Điện tử - Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc - Dỗu mỏ & khí đốt - Mỹ, EU, Malaysia, Nga - Chế biến thực phẩm - Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU - Công nghệ thông tin - Mỹ, Nhật (phần cứng), EU, Singapore - Hoá chất - Mỹ, EU, Nhật, Hàn Quốc - Máy móc - Nhật Bản, Hàn Quốc - Xây dựng hạ tầng cơ sở cho khu chế xuất và khu công nghiệp - Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Hàn Quốc Các chiến lược trọng điểm tập trung vào các ngành mũi nhọn cũng cần được xem xét về mặt cơ cấu cũng như các kỹ thuật sản xuất và dựa vào những phân tích đó để phát triển những chính sách, chiến lược marketing cho từng ngành cụ thể: Ngành Tận dụng vốn Tận dụng sức lao động Nguồn tài nguyên Nền tảng công nghệ Nền tảng xuất khẩu - Sợi x x - Dệt x x - Da/giày dép x x - Điện tử* x x - Dầu mỏ, khí đốt x x x - Công nghệ thông tin: x + Phần cứng x + Phần mềm x - Hoá chất x - Máy móc** x x x - Xây dựng hạ tầng cơ sở cho khu chế xuất và khu công nghiệp x - Chế biến thực phẩm x x X * Việc phát triển ngành này tuỳ thuộc từng giai đoạn sản phẩm, từng phương thức sản xuất. Người ta hy vọng ngành này sẽ có ít những công nhân phải làm việc 3 ca hơn. ** Ngành này bao gồm nhiều sản phẩm khác nhau mà tính chất của mỗi sản phẩm cũng rất đa dạng. Tuy nhiên, mọi chiến lược xúc tiến đối với một ngành hoặc một vùng cụ thể sẽ không có tác dụng hoặc không khả thi mà Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia chưa được thành lập và một chiến lược phát triển chung cho cả nền kinh tế chưa được sự phê duyệt của các cấp có thẩm quyền. Chiến lược xúc tiến đầu tư cần linh hoạt và việc xây dựng chiến lược này phải là một trong những vấn đề ưu tiên hàng đầu của Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư có liên quan. 3.2.5. Cải thiện môi trường đầu tư Có thể nói rằng việc xúc tiến đầu tư là việc “bán cơ hội đầu tư” cho các nhà đầu tư tiềm năng. Một chương trình marketing sẽ có thể không thành công như mong muốn nếu có “sản phẩm tồi”. Tạo ra một môi trường đầu tư tốt là tạo ra một sản phẩm tốt. Hiện nay, mặc dù có những tài liệu đáng kể nhưng môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn chưa thể cạnh tranh được với các nước như Trung Quốc hay các nước trong ASEAN 5. Các nhà đầu tư vẫn còn lo ngại về tốc độ cải tổ nền kinh tế và rất nhiều người trong số họ đã rất thất vọng khi đầu tư vào Việt Nam. Nếu Việt Nam muốn thu hút được nguồn FDI thì nhất thiết phải tiến hành cải thiện môi trường đầu tư của mình. Đã có rất nhiều báo cáo và nghiên cứu về vấn đề này và cũng đã có nhiều đề xuất được đưa ra nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Trong ngắn hạn, mục tiêu chính của VNIPA là phải lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư thông qua các biện pháp như: Tránh đưa ra những chính sách và định chế một cách bất ngờ. Tăng cường cải tổ cơ cấu quản lý. Giảm bớt chi phí kinh doanh bằng cách cắt bỏ hệ thống hai giá và các chi phí không chính thức. Phát triển chiến lược phát triển chung cho từng khu vực. Tăng cường xây dựng hình ảnh của mình. Trong trung hạn (3 – 5 năm) Việt Nam cần có mặt trong nhóm 25 nước thu hút đầu tư nhất của FDI Confidence Index. Để làm được điều này Việt Nam cần phải: Xây dựng nội dung luật đầu tư cơ bản chứ không chỉ là các chính sách FDI. Xây dựng kế hoạch cụ thể nhằm thực thi các chính sách. Xoá bỏ hoàn toàn sự phân biệt giữa khu vực Nhà nước và tư nhân. Nâng cao chất lượng hạ tầng cơ sở phần cứng và phần mềm như hệ thống giao thông, ngân hàng và tài chính, giáo dục và đào tạo. Tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân. Giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia. 3.2.6. Cải thiện kỹ thuật xúc tiến đầu tư. Có rất nhiều kỹ thuật xúc tiến đầu tư khác nhau nhưng có thẻ phân làm 3 dạng chính: Kỹ thuật tạo dựng hình ảnh - đây là những kỹ thuật nhằm xây dựng hình ảnh và thay đổi những ấn tượng đầu tư vào một quốc gia. Kỹ thuật vận động các nhà đầu tư tiềm năng - Đây là những kỹ thuật tập trung xúc tiến đầu tư trực tiếp. Dịch vụ đầu tư - Đây là những kỹ thuật nhằm nâng cấp dịch vụ dành cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm năng. Cơ quan xúc tiến đầu tư nhìn chung sẽ đảm nhiệm cả 3 hoạt động này. Tuy nhiên, xác định khâu nào cần ưu tiên hơn cả trong quá trình xúc tiến lại phụ thuộc vào từng quốc gia, các yêu cầu đầu tư, nguồn lực, chính sách và thể chế của quốc gia đó cũng như các điều kiện thị trường trong nước và quốc tế. Mức độ ưu tiên đó cũng thay đổi theo thời gian và tuỳ vào giai đoạn phát triển của quốc gia đó. 3.2.6.1. Chiến lược và kỹ thuật tạo dựng hình ảnh. Trong bất cứ môi trường thay đổi nào cũng luôn có một khoảng cách giữa nhận thức và thực tiễn. Điều này hoàn toàn đúng đối với những nền kinh tế đang thực hiện những cải cách như Việt Nam. Việt Nam đang ở trong giai đoạn xây dựng nền kinh tế với tốc độ rất cao nhưng những nhà đầu tư lại có thể chưa biết tới những thay đổi đó. Theo những điều tra cho thấy thì do thông tin không đến được hoặc khó đến với các nhà đầu tư nên họ chưa nhận thức được sự thay đổi nhanh chóng đó của nền kinh tế Việt Nam. Làm cho các nhà đầu tư nhận ra những đầu tư và môi trường đầu tư là một trong những công đoạn của quá trình xúc tiến. Thêm vào đó nhận thức của các nhà đầu tư tiềm năng về một Việt Nam đang phát triển manh mẽ còn rất thấp. Một số nhà đầu tư vẫn còn coi Việt Nam như một đất nước chiến tranh. Đặc biệt là các nhà đầu tư Hoa Kỳ và Tây Âu. Một chiến dịch tạo dựng hình ảnh cũng sẽ rất cần thiết để gạt bỏ những ấn tượng tiêu cực về quốc gia đồng thời khiến cho không chỉ những nhà đầu tư mà tất cả mọi người đều nhận thấy Việt Nam đang mở cửa và đang trên đà hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Chiến dịch tạo dựng hình ảnh nhằm vào hai mục tiêu chính: Nâng cao nhận thức về Việt Nam. Thay đổi quan điểm của các nhà đầu tư về Việt Nam. Sau đây là một số phương pháp Marketing hiệu quả thường được áp dụng trong các chiến lược tạo dựng hình ảnh: Xây dựng một khẩu hiệu tập trung làm thông điệp gửi đến các nhà đầu tư. Để tránh lẫn lộn và đạt hiệu quả cao thì việc xây dựng một khẩu hiệu xúc tiến chung cho Việt Nam là hết sức cần thiết. Việc này phải do cơ quan xúc tiến đầu tư quỗc gia tiến hành với sự cộng tác của các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương ngay cả khi họ muốn gửi những thông điệp thu hút riêng tới các nhà đầu tư. Khẩu hiệu chung này sẽ được sử dụng nhằm nâng cao hình ảnh của quốc gia trong giới đầu tư nói chung và cả trong những khu vực trọng điểm nói riêng. Các khẩu hiệu phải đảm bảo các yêu cầu sau: Phản ánh những gì các nhà đầu tư đang tìm kiếm. Nhu cầu của các nhà đầu tư nói chung thường nhằm nâng cao hiệu suất và lợi nhuận. Khẩu hiệu cần thể hiện cho các nhà đầu tư thấy Việt Nam sẽ giúp họ thoả mãn được những nhu cầu ấy bằng cách nào. Chẳng hạn có thể nhấn mạnh vào nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ với chi phí nhân công rất thấp tại Việt Nam. Phản ánh những lợi thế riêng của Việt Nam. Để nhấn mạnh hình ảnh Việt Nam trong mắt người nước ngoài, cách thức này cần phải khẳng định những thế mạnh của quốc gia như vị trí chiến lược tại Đông Dương và Đông Nam á, quyết tâm mạnh mẽ của Chính phủ và nhân dân trong công cuộc phát triển nền kinh tế. Chính xác và chân thực. Việc quảng cáo không đúng sự thật sẽ gây một ấn tượng tiêu cực và làm phát sinh thêm những khó khăn khác. Nhất quán - Khẩu hiệu cần phải được truyền bá rông rãi và được thể hiện qua thống nhất trong các hoạt động xúc tiến đầu tư. Các hoạt động Marketing của Chính phủ và địa phương phải có sự phù hợp ăn khớp với nhau để tránh sự hiều nhầm từ phía các nhà đầu tư. Một số ví dụ về khẩu hiệu Marketing có thể là: Vị trí chiến lược ( Đông Dương và Đông Nam á). * ổn định nhất. * Tiến bộ nhất. * Cửa ngõ của khu vực. Một xã hội định hướng giáo dục. Chính phủ và nhân dân ủng hộ mạnh mẽ cải cách kinh tế. Lực lượng lao động trẻ có trình độ trên 40 triệu người. Môi trường hoà bình và an toàn. Cam kết thay đổi. Sử dụng hiệu quả các công cụ tạo dựng hình ảnh : * Sách giới thiệu: Mặc dù hiện nay đã có một số công cụ hiện đại khác như CD-ROM, Internet nhưng một tập sách giới thiệu mỏng về những hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia có thể cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin về tính chuyên nghiệp cũng như các dịch vụ có thể cung cấp. Ngược lại một bản giới thiệu nghèo nàn có thể đưa ra những thông tin không chính xác hoặc những tiêu chí yếu kém về dịch vụ đầu tư. Để có được hiệu quả cao nên thuê những công ty chuyên nghiệp để tư vấn và thiết kế bản giới thiệu này. * Tờ rơi: Chứa đựng một đến hai trang thông tin về địa điểm ( nước hoặc tỉnh thành) gửi tới các nhà đầu tư tiềm năng. Những thông tin bao gồm: Chính sách kinh tế và ngành nghề. Các lĩnh vực và ngành nghề chính. Vốn FDI và hàng FDI hàng năm. Tình hình thương mại bao gồm cả xuất nhập khẩu. Thông tin về môi trường đầu tư như GDP, tốc độ tăng GDP, tỷ giá hối đoái, … được đánh giá qua các tổ chức như Moody, Standard & Poor … Luật lao động bao gồm cả chi phí nhân công chính sách và tiền lương, tổ chức thương mại… Trình độ dân trí. Thủ tục hải quan. Thuế. Hạ tầng cơ sở. Các quy định cũng như dịch vụ của cơ quan xúc tiến đầu tư. Các tờ rơi này có thể được in ấn ngay tại cơ sở nên chi phí tương đối thấp. * Bản tin thường kỳ: Nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin về sự phát triển của khu vực và cũng góp phần quảng cáo cho hoạt động của cơ quan xúc tiến đầu tư. Để đạt được hiệu quả cao, những bản tin này nên có một chủ đề trọng tâm hoặc một vài điểm nhấn mạnh khác nhau chẳng hạn như về ngành may mặc, ngành dệt may về AFFA. Bản tin không chỉ là công cụ để tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Các nhà đầu tư thường xuyên phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin tại Việt Nam. Chính vì vậy, các cơ quan xúc tiến đầu tư cần đưa ra những tập sách giới thiệu, tơ rơi, bản tin thương xuyên để xây dựng hình ảnh và quảng cáo chất lượng dịch vụ của mình. * Website: Internet là một trong những công cụ xúc tiến hiệu quả nhất với chi phí thấp nhất vì vậy cần ưu tiên cho việc thiết kế và duy trì một Webiste của cơ quan xúc tiến đầu tư với chất lượng cao. Trang Web hiện nay của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng như trang Web của hầu hết các cơ quan xúc tiến tỉnh khác đều bị đánh giá là còn rất nghèo nàn. Website của Trung tâm Xúc tiến Thương mại Đầu tư TP HCM được coi là tốt hơn cả, tuy nhiên vẫn cần phải được nâng cấp. Việc nâng cấp trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ( hay Uỷ ban xúc tiến đầu tư quốc gia sau này) cần được coi như là nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu . Các cơ quan xúc tiến đầu tư khác cũng cần thiết cải thiện Website của mình. Những việc cần làm để có thể trong Website có hiệu quả. Đưa ra thiết kế hấp dẫn hơn: Một Website hấp dẫn có thể thu hút nhiều người truy nhập hơn. Vì vậy, nó có thể góp phần xây dựng hình ảnh của cơ quan xúc tiến đầu tư. Nâng cao chất lượng thông tin: Một trang Website tốt có thể khuyến khích người xem truy nhập nhiêu lần hơn. Những nhà đầu tư tiềm năng có những nhu cầu cơ bản về thông tin khi muốn đầu tư vào bất cứ quốc gia nào. Những thông tin phải chính xác và luôn cập nhật tạo điều kiện cho người truy nhập hiểu rõ những lợi thế của quốc gia hay địa phương đó. Duy trì Website: Đây là khâu yếu nhất của tất cả các Website tại Việt Nam. Chính vì thế cần có một đội ngũ chuyên nghiệp duy trì và phát triển Website với các công việc như: + Trả lời những yêu cầu, đề nghị, phàn nàn qua thư điện tử. Thời hạn trả lời tối đa là trong vòng 48 giờ đồng hồ chẳng hạn. + Duy trì hoạt động của Website. Điều tra cho thấy các Website Việt Nam còn có những thông tin rất cũ và lạc hậu. + Đảm bảo Website hoạt động bình thường – các nhà đầu tư sẽ cảm thấy rất thất vọng nếu Website không thể truy nhập. + Cung cấp các phương tiện để các nhà đầu tư có thể đề nghị hoặc phản hồi nhằm nâng cấp Website. Website này cũng cần: Cung cấp thông tin bằng các ngôn ngữ khác ngoài tiếng Anh, chẳng hạn tiếng Nhật. Kết nối được tới các Website khác của Việt Nam. Kết nối được tới các Website khác có thông tin về Việt Nam. Kết nối được tới các Website của mạng xúc tiến đầu tư. Các Website có thể được sử dụng như một công cụ nhằm đưa thông tin vào mạng để giảm thiểu các chi phí xuất bản liên quan vì cùng một lúc có thể cung cấp thông tin cho tất cả các nhà đầu tư. Website cũng có thể dùng để thu thập thông tin về các nhà đầu tư liên quan. * Chiến dịch quảng cáo và quan hệ công chúng. Quảng cáo trên các phương tiện truyền thông nước ngoài ( báo chí hay truyền hình) là một công cụ rất có hiệu quả nhằm nâng cao hình ảnh của khu vực, đặc biệt là đối với những giới đầu tư vốn không có được ấn tượng tốt đối với một số địa điểm đầu tư trên thị trường thế giới như Việt Nam. Tuy nhiên chi phí cho quảng cáo rất cao, có thể chiếm một phần không nhỏ trong ngân sách của cơ quan xúc tiến đầu tư. Chẳng hạn, để quảng cáo trên trang màu của một tờ tạp chí của Mỹ có thể tiêu tốn tới 80.000 USD. Trong nhiều trường hợp khi các nhà đầu tư tiềm năng có những nhận thức sai lầm về địa điểm đầu tư thì việc cơ quan xúc tiến đầu tư sử dụng các phương tiện truyền thông là vô cùng quan trọng. Đặc biệt khi đó lại là những ấn tượng đó mang tính hết sức tiêu cực. Cơ quan xúc tiến cần thông qua các phương tiện truyền thông để thay đổi những suy nghĩ sai lầm đó và nhờ một tờ báo trong một truyền hình có uy tín còn có tác dụng hơn rất nhiều những bài quảng cáo đắt đỏ khác. Trong số những quốc gia có khả năng thu hút mạnh mẽ vốn FDI thì Thái Lan và Trung Quốc là hai quốc gia khai thác rất tốt quan hệ công chúng. Các cơ quan xúc tiến đầu tư ở những quốc gia này có quan hệ mật thiết với những tờ báo có uy tín. Sau nhiều lần các phóng viên tới thăm, thảo luận và đánh giá, chính phủ các nước này đã cải thiện được rất nhiều môi trường đầu tư của họ. Mặc dù những cuộc họp báo đó nhiều lúc cũng chỉ mang tính chất tư nhân, không chính thức nhưng đã có được bài báo cáo rất tốt và tích cực sau những lần gặp gỡ này. * Tổ chức những hội nghị, hội thảo về đầu tư cả ở trong và ngoài nước Những hội nghị , hội thảo về đầu tư cũng là những công cụ xúc tiến hết sức hiệu quả. Việc này có thể góp phần xây dựng hình ảnh và giúp tìm kiếm những nhà đầu tư tiềm năng. Để có được hiệu quả cao thì những buổi hội thảo này cần được chuẩn bị kỹ càng và có sự tập trung tốt nhất. Một buổi hội thảo tổ chức yếu kém có thể đem lại những ấn tượng xấu cho các nhà đầu tư tiềm năng. Việt Nam cũng đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo quốc tế về đầu tư tuy nhiên do tổ chức yếu kém và chất lượng không cao nên không thể đạt được những kết quả như mong muốn. Vậy để có được một cuộc hội thảo thành công thì cần phải có những điều kiện sau: Trình độ tổ chức chuyên nghiệp của cơ quan xúc tiến hoặc các nhà tư vấn chuyên nghiệp. Tài liệu và thuyết minh có chất lượng cao. Lựa chọn được người thuyết minh phù hợp – có khả năng Marketing và kỹ năng thuyết trình tốt. Đảm bảo tất cả các bài thuyết trình phải thống nhất với mục tiêu và chủ chương của hội nghị. Có sụ tham gia của những nhà đầu tư tiềm năng. Đảm bảo có được quan hệ cộng đồng tốt cả trước và sau một hội thảo. Cần mời thêm những đại diện của các phương tiện truyền thông trong nước và quốc tế tới dự. Tiếp tục cuộc hội thảo bằng những bản câu hỏi điều tra về chất lượng hội thảo và những lợi ích tương lai mà hội thảo có thể đem lại. Theo như phỏng vấn thì hầu hết các cuộc hội thảo được tổ chức tại Việt Nam đều không đạt được kết quả như mong muốn bởi trình độ quản lý kém và chất lượng thuyết trình không cao (cả của người nói và tài liệu thuyết trình ) Các nhà đầu tư tiềm năng luôn quan tâm tới kinh nghiệm của các nhà đầu tư đi trước vì vậy mời những nhà đầu tư thành công trước đó đến thuyết trình tại hội thảo là việc hết sức cần thiết. Một số các cơ quan xúc tiến đầu tư ở Bình Dương, Đông Nai, Vĩnh Phúc đã thực hiện phương pháp này hết sức thành công. 3.2.6.2. Chiến lược và kỹ thuật vận động những nhà đầu tư tiềm năng. Mục tiêu của việc này là nhằm đưa những cơ hội đầu tư tới cho những nhà đầu tư tiềm năng. Đây là khâu tiếp theo sau khâu tạo dựng hình ảnh của quy trình xúc tiến đầu tư. Để đạt được mục tiêu này, điều cần thiết là cả cơ quan xúc tiến đầu tư quỗc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đều phải cùng tập trung vào những hoạt động này. Xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư. Để có thể giới thiệu một cách có hiệu quả Việt Nam cùng những khu vực của Việt Nam tới những công ty cụ thể, cần phải có một cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư tiềm năng. Cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia ( và các văn phòng đại diện ) cần có một bộ phận xây dựng cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương sẽ là người cung cấp thông tin. Thông tin này sau đó sẽ được sử dụng thống nhất ở tất cả các cơ quan xúc tiến đầu tư. Các thông tin này có thể giúp cho việc duy trì liên lạc với các nhà đầu tư. Các dữ liệu này phải được thường xuyên cập nhật và bổ sung và cần có sự phản hồi từ phía các nhà đầu tư. Tập trung vận động các công ty. Dữ liệu về các nhà đầu tư có thể cung cấp cho cơ quan xúc tiến (ở một mức độ nào đó ) danh sách các công ty có tiềm năng lớn hoặc những công ty cụ thể có thể được lựa chọn để tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư. Có thể liên hệ với các nhà đầu tư tiềm năng bằng nhiều phương tiện: Gửi thư trực tiếp. Thư điện tử. Gọi điện. Intenet. Các hoạt động xúc tiến. Thuyết trình. Dùng thư thường phổ biến hơn việc sử dụng điện thoại tuy nhiên gọi điện thoại đôi khi cũng rất có lợi. Chất lượng của thư từ cũng rất quan trọng khi muốn thúc giục nhà đầu tư. Sau khi gửi thư, cơ quan xúc tiến đầu tư liên quan cần bám sát những công ty có tiềm năng, cung cấp cho họ những thông tin cần thiết và trả lời tất cả những thắc mắc của họ trong quá trình tiếp cận. Thực hiện chiến lược xúc tiến đầu tư Đối với các công ty xuyên quốc gia quy mô lớn. Liên lạc với cá nhân các nhà đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xúc tiến đầu tư nhưng do các nguồn lực có hạn nên chỉ có thể tiến hành với một số công ty được lựa chọn như các INC Đối với các INC thì việc các quan chức cấp cao của chính phủ như Thủ tướng, Bộ trưởng, Đại sứ … cũng tham gia vận động có thể giúp cải thiện mối quan hệ với họ và góp phần rất lớn trong quá trình cải thiện hình ảnh quốc gia trong mắt các nhà đầu tư tiềm năng khi họ muốn thăm dò thị trường đầu tư. Đối với các công ty quy mô vừa và nhỏ. Tiến hành giới thiệu trực tiếp tới các công ty vừa và nhỏ có lẽ không phải là phương pháp khả thi về mặt chi phí. Việc sử dụng các biện pháp Maketing gián tiếp sẽ thích hợp hơn cả về chi phí và nguồn lực. Có thể sử dụng Intenet để thực hiện Maketing tới các công ty này. Ngoài ra có thể tổ chức các buổi hội thảo về đầu tư có sự tham dự của họ. Đây cũng là phương pháp rất tốt để quảng bá hình ảnh của quốc gia hay của địa phương. Sử dụng các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Do mối quan hệ với các cá nhân có tầm quan trọng rất trong chiến lược xúc tiến đầu tư, rất nhiều cơ quan xúc tiến đầu tư của các quốc gia đã thành lập cơ quan đại diện ở nước ngoài tại những thị trường trọng điểm như Mỹ, Nhật và Châu Âu. Các văn phòng đại diện tại nước ngoài có chức năng đáp ứng một cách có hiệu quả nhu cầu của các nhà đầu tư tiềm năng và chứng tỏ rằng cơ quan xúc tiến đầu tư sẵn sàng tiếp cận thị trường. Tuy vậy việc duy trì hoạt động của văn phòng đại diện tại nước ngoài lại tiêu tốn một khoản chi phí tương đối lớn và hiệu quả của nó lại phụ thuộc vào khả năng của các nhân viên đại diện địa phương. Nếu các nhân viên đại diện không được đào tạo tốt hoặc thiếu kih nghiệm thì đôi khi cách này lại mang lại hiệu quả ngược lại và điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quá trình xúc tiến đâu tư của mỗi quốc gia. 3.2.6.3. Nâng cấp các dịch vụ đầu tư Đa số các nhà đầu tư đều khẳng định rằng thỏa mãn yêu cầu của các nhà đầu tư chính là phương thức Marketting hữu hiệu nhất. Dịch vụ đầu tư bắt đầu từ thời điểm nhà đầu tư tiềm năng tới thăm địa điểm xúc tiến đầu tư và tiếp tục trong suốt thời gian thực hiện dự án. Dịch vụ đầu tư không dừng lại ở thởi điểm dự án được cấp phép. Dịch vụ trước cấp phép Các dịch vụ trước cấp phép chủ yếu liên quan tới việc tổ chức các cuộc viếng thăm tới các địa điểm đầu tư, cung cấp các thông tin cần thiết để lựa chọn địa điểm và giúp đỡ các nhà đầu tư chuẩn bị thủ tục đăng ký đầu tư. ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng rất quan trọng nên việc các nhà đầu tư có trở lại lần thứ 2 hay không phụ thuộc rất nhiều vào cuộc viếng thăm lần đầu. Để tổ chức một cuộc tham quan thành công, cần phải lưu ý những điểm sau: Cần cử một nhân viên của dự án trực tiếp hướng dân và đáp ứng những yêu cầu của nhà đầu tư tiềm năng.. Giúp đỡ bên đầu tư các công việc hậu cần như đi lại, đặt khách sạn. Lập sẵn một chương trình viếng thăm sao cho mọi thắc mắc quan tân của nhà đầu tư về địa điểm này đều được giải đáp qua chuyến đi Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp mặt một số đối tác hiện đang hoạt động thành công hoặc những người có thể đưa ra những bình luận tích cực về địa điểm đầu tư này. Sắp xếp cho nhà đầu tư gặp gỡ các cán bộ cấp cao đang làm viẹc tại đây. Điều này sẽ khiến họ cảm thấy mình quan trọng và được chào đón. Cung cấp càng nhiều dữ liệu và thông tin càng tốt vì nhà đầu tư có thể đang cùng một lúc đang quan tâm đến nhiều địa điểm để lựa chọn. Tại mỗi địa điểm họ sẽ cố gắng thu thập mọi thông tin và dữ liệu có thể để tiến hành tính toán và cân nhắc. Khối lượng và chất lượng thông tin cung cấp có thể tạo nên sự khác biệt. Để thực hiện tốt công việc trên đây, đôi khi cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan xúc tiến đầu tư quốc gia và các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương. Việc đào tạo và nâng cao các kỹ năng Marketing là rất quan trọng để có thể trang bị cho các cán bộ dự án đầy đủ kỹ năng cần thiết cho việc tổ chức một chương trình thành công. Dịch vụ cấp phép Đây là lĩnh vực mà các cơ quan xúc tiến đầu tư địa phương đảm nhận là tốt nhất. Các văn phòng cung cấp dịch vụ tổng hợp đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ cấp phát giấy phép. Đối với những dự án lớn và phức tạp, có liên quan đến nhiều cơ quan chức năng khác, quy trình có thể phức tạp hơn. Tuy nhiên, đây chủ yếu vẫn là vấn để phối hợp hoạt động cần ứng dụng các công cụ thông tin nhanh như Internet và Intranet. Dịch vụ sau cấp phép Đây là khâu quan trọng nhất của dịch vụ đầu tư, tuy nhiên lại ít được các cơ quan xúc tiến đầu tư quan tâm đến nhất. Dịch vụ sau cấp phép rất đa dạng về loại hình, song có thể được phân chia thành 2 nhóm chính Giúp đỡ nhà đầu tư giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện dự án. Cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng. Theo ý kiến của các nhà đầu tư và dựa trên thực tiễn hoạt động xúc tiến đầu tư, các phương thức sau được coi là cần thiết cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ sau cấp phép: Thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại với các nhà đầu tư để kịp thời tháo gỡ các khó khăn của họ. Đây cũng là cơ hội để Chính quyền TW và địa phương công bố rộng rãi chiến lược đầu tư của mình. Các cơ quan xúc tiến đầu tư nên đóng vai trò là người phát ngôn cho các nhà đầu tư cả trong và ngoài nước để phản ánh những khó khăn của họ lên Chính phủ. Muốn thực hiện được chức năng này, các cơ quan xúc tiến cần tích cực tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề trở ngại của các nhà đầu tư và đề xuất cách giải quyết lên Chính phủ. Thành lập một trung tâm thông tin để giúp đỡ các nhà đầu tư giải quyết các khó khăn trong việc thu thập những thông tin chính xác về luật pháp, các dự án được cấp phép, tình hình xuất nhập khẩu, lạm phát, GDP… Về lâu dài các trung tâm này có thể phát triển các dự án nghiên cứu và điều tra. * * * Mặc dù hiện nay đã có nhiều cải thiện đáng kể song chất lượng các dịch vụ vẫn là vấn đề cần phải quan tâm nâng cấp nhiều hơn nữa, đặc biệt là các dịch vụ sau cấp phép phục vụ quá trình triển khai và thực hiện dự án. Các đề xuất trên đây đều xuất phát từ những tồn tại trong thực trạng xúc tiến đầu tư tại Việt Nam, các yêu cầu khách quan của hoạt động xúc tiến đầu tư trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế và trên cơ sở câc đinh hướng, quan điểm chung của Nhà nước nhằm cải thiện, nâng cấp hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư trong tương lai. Kết luận Sự cần thiết của nguồn vốn FDI và vai trò quan trọng của các doanh nghiệp FDI với tư cách là thành phần kinh thế tư bản nhà nước đã được khằng định trong cácnghị quyết của Đảng. Thực tiễn 15 năm qua đã chỉ rõ việc thu hút và sử dụng vốn FDI là chủ trương đúng đắn, cần thiết, phù hợp với xu thế của thời đại và thực tiễn của nước ta nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, thị trường quốc tế, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. ` Thực hiện chủ chương này, các có quan phụ trách công tác xúc tiến đầu tư Trung ương và địa phương bao gồm Bộ Kế hoạc và Đầu tư, Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh và thành phố, Ban quản lý các khu chế xuất, khu công nghiệp, đã không ngừng nỗ lực tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư, cải thiện các công cụ xúc tiến đầu tư, đề xuất những cải cách chính sách đẩu tư, hướng tới xây dựng một chiến lược xúc tiến đầu tư tầm cỡ quốc gia. Những nỗ lực này đã góp phần không nhỏ vào những thành tựu thu hút nguồn vốn FDI vào trong nước. Tuy nhiên, do những yếu tố khách quan và chủ quan, hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư còn bị hạn chế trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng vùng lãnh thổ. Vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay là phải tích cực hơn nữa trong việc cải thiện và nâng cao hiệu quả của các hoạt động xúc tiến đầu tư, vươn lên trong cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia, thu hút và khai thác mạnh mẽ hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế - xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Tài liệu hướng dẫn về cán cân thanh toán (Balance of payment - IMF) - Tái bản lần 4 2. Các chuẩn mực của OECD về đầu tư trực tiếp nước ngoài (OECD Benchmark on foreign direct investment) - OECD. 3. Lộ trình cắt giảm thuế quan khi Việt Nam gia nhập AFTA_Nguyễn Văn Dũng, NXB TP HCM. 4. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và những tác động tới nền kinh tế Việt Nam_ TS.Nguyễn Mạnh Cường, NXB Đồng Nai. 5. Việt Nam đàm phán gia nhập WTO_Cơ hội và thách thức_Báo Diễn đàn và doanh nghiệp số 31, tháng 8/2003. 6. Điều tra về các TNCs của UNCTAD 7. Thăm dò về đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign dỉect investment Survey), MIGA, 2000. 8. Những xu thế trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản 2000 (The trends in Japanese FDI, 2000)_Koichi Kosumi 9. Chỉ số đầu tư_Tổng hợp chính sách kinh doanh toàn cầu 9/2002 (FDI Confidence Index_Global Business policy Council, 9/2002). 10. Báo cáo Đầu tư thế giới (World Investment Report, 2002), UNCTAD 11. Báo cáo tổng kết tình hình 10 năm hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1986-1996 và giải pháp cho giai đoạn 1996-2000-Bộ Kế hoạch và Đầu tư 12. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 năm 1996-2000 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 13. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2001 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 14. Báo cáo tình hình hoạt động Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 15 Nghị quyết 75/1995/ND -CP ngày 01/05/1995 16 Thông tư liên bộ 01/BKH-TTCP/TTLB ngày 02/01/1996 17 Điều tra về chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 6/2003 18 Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Trung Quốc - thực trạng, kinh nghiệm và bài học - He Manquing và Zhang Changchun 19 Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Vũ Chí Lộc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV531.doc
Tài liệu liên quan