Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO và các giải pháp mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO

Mục lục Trang Lời nói đầu 3 Chương 1 Khái quát về Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO 6 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới 6 Định nghĩa về dịch vụ 6 Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới 7 3. Xu hướng phát triển của thương mại dịch vụ thế giới 17 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) 21 Sự ra đời của GATS 22 Nội dung của GATS 24 Khái niệm về dịch vụ và thương mại dịch vụ trong GATS 26 Phạm vi áp dụng của GATS 29 Các nguyên t

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO và các giải pháp mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ắc cơ bản của GATS 30 Các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại dịch theo quy định của của GATS 34 Chương 2: Thực trạng hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ Việt Nam hiện nay 38 Thực trạng và năng lực canh tranh của một số ngành dịch vụ cụ thể 38 Dịch vụ vận tải 38 Dịch vụ du lịch 49 Dịch vụ ngân hàng 56 Cơ hội và thách thức của các ngành dịch vụ trong quá trình ra nhập WTO 67 Dịch vụ vận tải 67 Dịch vụ du lịch 68 Dịch vụ ngân hàng 69 Chương 3: Các giải pháp mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam trong tiến trình hội nhập GATS 73 Phương hướng phát triển dịch vụ của Việt Nam 73 Phát triển dịch vụ trong chuyển dịch cơ cấu 73 Quan tâm phát triển các dịch vụ trọng yếu của nền kinh tế 74 Đa dạng hoá dịch vụ 75 Gắn phát triển dịch vụ với phát triển sản xuất 76 Những giải pháp phát triển 76 Những giải pháp chung cho toàn ngành dịch vụ 77 Phát triển thương mại dịch vụ bên cạnh đầu tư cho phát triển sản xuất hàng hoá 77 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ 77 Giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá 79 Hoàn thiện hệ thống pháp luật 80 Xây dựng lộ trình cam kết 73 Các giải pháp cụ thể cho một số ngành dịch vụ quan trọng 84 Dịch vụ giao thông vận tải 84 Dịch vụ du lịch 86 Dịch vụ ngân hàng 89 Kết luận 94 Tài liệu tham khảo 96 Lời mở đầu Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, dịch vụ phát triển vô cùng nhanh chóng, từ một ngành phát triển tự phát, chiếm tỉ trọng nhỏ bé trong nền kinh tế, nó đã trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, tự do hoá thương mại dịch vụ là một điều tất yếu. Tuy nhiên để thương mại dịch vụ phát triển có hiệu quả thì cần phải xây dựng cho nó một khuôn khổ hoạt động có tính thống nhất. Để có được một quy tắc đa phương điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ trên toàn thế giới, các nước thành viên WTO đã tiến hành đàm phán thương lượng, và kết quả là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) đã ra đời. Đây là một trong ba nền tảng cơ bản của Tổ chức thương mại Thế giới. Nó tạo ra những quy tắc đầu tiên về tự do hoá thương mại dịch vụ trên phạm vi toàn cầu. Trong xu thế tự do hoá thương mại dịch vụ, các ngành dịch vụ Việt Nam có những bước phát triển rất đáng kể, trở thành ngành chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GDP. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam đã từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, tăng thị phần, cải thiện vị thế của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thì sự phát triển của các ngành dịch vụ Việt Nam còn tỏ ra nhiếu yếu kém như: trang thiết bị nghèo nàn, lạc hậu; chất lượng dịch vụ chưa cao; trình độ đội ngũ nhân viên còn nhiều hạn chế…dẫn đến năng lực cạnh tranh rất thấp. Do vậy trong tiến trình Việt Nam gia nhập WTO, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo khuôn khổ Hiệp định GATS sẽ đặt các ngành dịch vụ của Việt Nam trước những cơ hội và thách thức to lớn. Nếu các ngành dịch vụ của Việt Nam không có những bước chuyển mình kịp thời, không tự hoàn thiện mình cũng như không có những giải pháp phát triển trong tương lai để nắm bắt vận hội mới, vươn lên hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới thì chắc chắn không thể đứng vững được trước sự cạnh tranh khốc liệt của các đối thủ nước ngoài có tiềm lực vốn lớn và công nghệ hiện đại hơn hẳn. Việc nghiên cứu thực trạng và đánh giá cơ hội, thách thức của các ngành dịch vụ Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO và đưa ra những kiến nghị nhằm phát triển các ngành dịch vụ là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em chọn đề tài “Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO và các giải pháp mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO” làm đề tài nghiên cứu cho khoá luận của mình. Mục đích nghiên cứu Đề tài vận dụng những kiến thức lý luận và thực tiễn để xem xét, phân tích thực trạng của các ngành dịch vụ trong thời gian qua, từ đó đề tài đưa ra các đánh giá về cơ hội cũng như thách thức của các ngành dịch vụ trong quá trình hội nhập GATS để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm mở cửa thành công thị trường dịch vụ Việt Nam. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở đưa ra một số nét khái quát về Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ của WTO, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động (từ năm 1995 trở lại đây), cơ hội và thách thức của một số ngành dịch vụ quan trọng của nền kinh tế: dịch vụ vận tải, du lịch, ngân hàng trong quá trình hội nhập WTO và đề ra các biện pháp để mở cửa thị trường các ngành dịch vụ này một cách có hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, điều tra, so sánh, phân tích, tổng hợp những kết quả thống kê kết hợp với quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước để khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu. Bố cục của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được cấu thành từ ba chương: Chương 1: Khái quát về Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO Chương 2: Thực trạng hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ Việt Nam hiện nay Chương 3: Các giải pháp mở cửa thị trường dịch vụ Việt Nam trong tiến trình hội nhập GATS Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Ngoại thương - trường Đại học Ngoại thương, và đặc biệt là cô giáo hướng dẫn Thạc sỹ Bùi Thị Lý đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và có những gợi ý quý báu giúp em hoàn thành tốt đề tài này. Em cũng xin chuyển lời cảm ơn đến bạn bè cùng khoá, Vụ Khoa học - Bộ thương mại đã tận tình giúp đỡ em trong việc sưu tầm tài liệu và đóng góp hữu ích trong quá trình thực hiện đề tài này. Chương 1 Khái quát về hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO I. Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới 1. Định nghĩa về dịch vụ Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật chất cụ thể mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Tổng thu nhập quốc dân của một quốc gia cũng như doanh thu của một doanh nghiệp không thể không tính đến sự đóng góp của lĩnh vực dịch vụ. Vậy dịch vụ là gì? Các Mác cho rằng: dịch vụ là con đẻ của nền sản xuất hàng hoá. Khi mà kinh tế hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt, liên tục để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Như vậy, bằng cách tiếp cận dưới góc độ kinh tế, Các Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ. Từ lý luận của Các Mác đã xuất hiện rất nhiều cách hiểu khác nhau về dịch vụ mà điển hình là hai cách hiểu sau: Cách hiểu thứ nhất Theo nghĩa rộng thì dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ ba. Theo cách hiểu này thì các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp được coi là thuộc ngành dịch vụ. Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là phần mềm của sản phẩm hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau khi bán. Cách hiểu thứ hai Theo nghĩa rộng thì dịch vụ là khái niệm chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của chúng không tồn tại dưới dạng vật chất. Theo nghĩa hẹp thì dịch vụ là một công việc mà hiệu quả của nó là đáp ứng nhu cầu của khách hàng bằng các hoạt động tiếp xúc giữa người cung cấp với khách hàng, và các hoạt động nội bộ của người cung cấp. Như vậy có thể định nghĩa một cách chung nhất là: dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thức vật chất mà việc cung cấp và tiêu thụ không thể tách rời nhau nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. 2. Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế thế giới Càng ngày dịch vụ càng phát triển nhanh chóng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm nhiều hơn bất kỳ lĩnh vực nào khác. Nếu xác định trên cơ sở cán cân thanh toán, thương mại dịch vụ chiếm khoảng 1/5 tổng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của toàn thế giới. Bảng 1 Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ thế giới, 1990-2001 (tỷ USD và %) Giá trị % tăng 2001 1990-00 1999 2000 2001 Hàng hóa 5,984 6,5 4,0 13,0 -4,5 Thương mại dịch vụ 1,458 6,5 3,0 6,0 -0,5 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Cho đến thập kỷ 70, các nhà kinh tế học vẫn cho rằng dịch vụ là tập hợp chủ yếu của những hoạt động “phi thương mại”. Nhận định này được phát triển dựa trên đặc điểm cơ bản của các lĩnh vực dịch vụ là tính chất vô định hình, phi vật chất và sự chi phối chặt chẽ của tính chất đó tới khả năng cung cấp và tiêu dùng dịch vụ. Qúa trình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm dịch vụ diễn ra đồng thời và cần thiết phải gắn liền với một khu vực địa lý nơi mà nhà cung cấp dịch vụ yêu cầu phải có sự hiện diện thực tế. Việc cung cấp dịch vụ có thể coi là bị giới hạn trong điều kiện nhất định vì về cơ bản dịch vụ cần có sự tiếp xúc giữa người tiêu dùng với người cung cấp dịch vụ và việc cung cấp dịch vụ phải được pháp luật tại nơi diễn ra các hoạt động cung cấp dịch vụ cho phép. Điều kiện như vậy chỉ có thể đạt được tối đa khi hoạt động dịch vụ diễn ra trong phạm vi một quốc gia, một vùng lãnh thổ nơi mà những hạn chế và quy định đối với việc cung cấp dịch vụ là tương đối thuần nhất. Do đó tỉ trọng của ngành dịch vụ trong GDP là khá cao nhưng giá trị kim ngạch thương mại dịch vụ lại tương đối nhỏ. Hiện nay trong cơ cấu kinh tế của các nước thì tỷ trọng của nông nghiệp trong GDP ở các nước công nghiệp phát triển giảm mạnh còn khoảng 3% , riêng ở Mỹ còn 2%. Tỷ trọng công nghiệp có tăng chút ít ở các nước đang phát triển còn ở các nước phát triển lại giảm xuống ( Mỹ: 21-23%, EU: 20%). Trong khi đó tỷ trọng ngành dịch vụ tăng mạnh bình quân chiếm 60% GDP. Đóng góp của ngành dịch vụ trong GDP của các nền kinh tế thường dao động từ 40% (ở các nước đang phát triển) đến 80% (ở các nước phát triển), trong đó, Mỹ: 73%, Canađa: 79,7%, Nhật Bản: 56%, Singapore: 60%, Hàn Quốc: 60%. Đối với Liên minh châu Âu EU, một trong những thị trường dịch vụ thông thoáng nhất hiện nay, dịch vụ không những chiếm 2/3 nền kinh tế và việc làm mà còn chiếm 1/4 giá trị xuất khẩu và 1/2 đầu tư trực tiếp nước ngoài của khu vực này sang các nước thứ ba. Hiện Liên minh châu Âu là nhà xuất khẩu và đầu tư lớn nhất thế giới trong lĩnh vực dịch vụ. Các nghiên cứu cũng cho thấy giá trị gia tăng tạo ra trong ngành dịch vụ có thể lên tới 70% tổng giá trị của các sản phẩm công nghệ cao. Ngoài ra, tính trung bình, các nền kinh tế phát triển ngày nay tạo ra được 70% sản lượng cũng như việc làm từ các hoạt động liên quan đến thương mại dịch vụ. Các số liệu thống kê sau sẽ cho thấy rõ hơn mức độ tăng trưởng GDP và thương mại dịch vụ của một số khu vực trên thế giới. Bảng 2 Tăng trưởng GDP và Thương mại dịch vụ Châu Âu, 1990-2001 (% tăng trưởng hàng năm) Tây Âu EU 1990-00 1999 2000 2001 1990-00 1999 2000 2001 GDP 2,1 2,4 3,5 1,3 2,1 2,6 3,4 1,5 Thương mại dịch vụ Xuất khẩu 5 2 2 1 5 4 1 1 Nhập khẩu 5 3 2 1 5 3 2 2 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 3 Tăng trưởng GDP và Thương mại dịch vụ Châu á, 1990-2001 (% tăng trưởng hàng năm) Châu á Nhật 1990-00 1999 2000 2001 1990-00 1999 2000 2001 GDP 3,3 2,8 3,9 0,9 1,4 0,7 2,4 -0,6 Thương mại dịch vụ Xuất khẩu 9 4 12 -1 5 -2 13 -7 Nhập khẩu 7 5 8 -3 3 3 1 -7 Nguồn: International trade statistics 2002 – WTO Bảng 4 Tăng trưởng GDP và Thương mại dịch vụ Bắc Mỹ, 1990-2001 (% tăng trưởng hàng năm) Bắc Mỹ Hoa Kỳ 1990-00 1999 2000 2001 1990-00 1999 2000 2001 GDP 3,2 4,2 3,9 0,4 3,2 4,1 3,8 0,3 Thương mại dịch vụ Xuất khẩu 7 5 9 -3 7 5 9 -3 Nhập khẩu 7 4 14 -6 7 3 16 -7 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Mặc dù đóng góp rất lớn vào GDP nhưng kim ngạch thương mại dịch vụ trong thương mại quốc tế chỉ chiếm có 20%. Tuy nhiên, đó chỉ là con số được xác định trên cán cân thanh toán. Người ta ước tính thương mại dịch vụ dưới hình thức hiện diện thương mại ít nhất cũng phải bằng thương mại qua biên giới, do đó các con số trên cán cân thanh toán chỉ phản ánh được một nửa con số thực tế. Năm 2001 dịch vụ chiếm khoảng 22% tổng xuất khẩu của EU, và 14% của Nhật Bản. Trong đó, EU vẫn là nhà xuất khẩu dịch vụ lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 47 % tổng xuất khẩu dịch vụ toàn cầu (chưa tính xuất khẩu trong nội bộ EU), so với mức 17%. Từ những năm đầu thập kỷ 80 và đặc biệt là những năm cuối thế kỷ này, các ngành dịch vụ đã phát triển vượt bậc khiến nhiều lĩnh vực dịch vụ hoàn toàn có thể được thương mại hoá với hiệu quả cao. Năm 1982 kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ chỉ đạt 400 tỷ USD thì năm 1992 đã đạt tới 924,4 tỷ USD, năm 1997 là 1326,4 tỷ USD, năm 1999 là 1379,4 tỷ USD, năm 2000 là 1465,1 tỷ USD và năm 2001 là 1458,2 tỷ USD. Bảng 5 Xuất khẩu thương mại dịch vụ thế giới theo khu vực, 2001 (tỷ USD và %) Giá trị Thị phần % tăng trưởng 2001 1990 2001 1990-01 1999 2000 2001 Thế giới 1,460 100,0 100,0 6 3 6 0 Bắc Mỹ 299 19,3 20,5 6 5 9 -3 Mỹ 263 17,0 18,1 6 5 9 -3 Mỹ Latinh 58 3,8 4,0 6 1 11 -3 Mexico 13 0,9 0,9 5 1 17 -7 Brazil 9 0,5 0,6 8 -3 29 -1 Tây Âu 679 53,1 46,5 5 2 2 1 EU (15 nước) 612 47,2 41,9 5 4 1 1 Anh 108 6,9 7,4 7 7 3 -6 Pháp 80 8,5 5,5 2 -3 -1 -2 Đức 80 6,6 5,5 4 2 -3 -1 Italia 57 6,2 3,9 1 -13 -3 2 Các nước châu Âu khác 56 2,6 3,8 10 -14 11 11 Châu Phi 31 2,4 2,1 5 10 0 0 Ai-Cập 9 0,6 0,6 6 18 4 -9 Nam Phi 5 0,4 0,3 3 -4 -3 -4 Trung Đông 33 2,0 2,2 7 9 16 -7 Israel 11 0,6 0,8 9 19 32 -21 Châu á 303 16,8 20,8 8 4 12 -1 Nhật 64 5,3 4,4 4 -2 13 -7 Hồng Kông 42 2,3 2,9 8 2 14 2 Trung Quốc 33 0,7 2,3 17 10 15 9 Hàn Quốc 30 1,2 2,0 11 4 15 0 Singapore 26 1,6 1,8 7 25 13 -2 ấn Độ 20 0,6 1,4 14 27 26 15 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Từ những năm đầu thập kỷ 80 và đặc biệt là những năm cuối thế kỷ này, các ngành dịch vụ đã phát triển vượt bậc khiến nhiều lĩnh vực dịch vụ hoàn toàn có thể được thương mại hoá với hiệu quả cao. Năm 1982 kim ngạch xuất nhập khẩu dịch vụ chỉ đạt 400 tỷ USD thì năm 1992 đã đạt tới 924,4 tỷ USD, năm 1997 là 1326,4 tỷ USD, năm 1999 là 1379,4 tỷ USD, năm 2000 là 1465,1 tỷ USD và năm 2001 là 1458,2 tỷ USD. Bảng 6 (a) Xuất – nhập khẩu thương mại dịch vụ thế giới, 1900- 2001 (triệu USD) Thế giới EU Châu á Mỹ Latinh xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu 1991 826.100 845.900 384.100 365.600 144.300 19.000 30.800 37.200 1992 924.400 937.500 431.900 417.600 165.200 215.100 34.600 42.500 1993 942.400 953.300 411.900 396.300 187.400 233.800 36.600 47.900 1994 1.039.400 1.037.900 443.600 428.000 221.200 270.700 41.200 52.000 1995 1.190.600 1.194.400 507.000 494.400 262.100 327.600 44.300 54.300 1996 1.275.900 1.263.400 533.200 514.100 286.300 351.600 46.200 56.200 1997 1.326.400 1.304.700 538.700 516.000 300.200 358.400 49.800 63.800 1998 1.340.900 1.332.300 577.100 565.500 259.700 321.900 53.500 66.600 1999 1.379.400 1.367.200 598.600 584.200 271.200 336.900 54.100 63.700 2000 1.465.100 1.457.000 605.900 595.100 304.200 364.500 59.800 71.100 2001 1.458.200 1.443.600 611.500 604.900 302.600 355.000 58.200 70.900 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 6 (b) Xuất – nhập khẩu thương mại dịch vụ thế giới, 1900- 2001 (triệu USD) Hoa Kỳ Nhật Bản Anh Hồng Kông xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu xuất khẩu nhập khẩu 1991 147.750 99.960 43.465 85.947 53.553 44.938 20.574 12.719 1992 158.850 100.780 47.621 92.323 61.418 50.879 24.290 14.439 1993 166.400 108.300 51.611 95.488 59.827 49.457 27.690 15.594 1994 181.960 119.600 56.776 105.449 67.547 56.522 31.142 18.642 1995 198.610 129.310 63.966 121.548 76.536 62.262 34.338 20.796 1996 217.210 137.670 66.382 128.674 85.507 68.398 38.295 22.101 1997 233.430 152.300 68.136 122.079 95.857 74.157 38.514 23.284 1998 238.029 167.920 61.795 110.705 105.360 83.760 35.673 26.053 1999 249.970 173.570 60.313 114.173 112.220 90.954 36.564 24.869 2000 272.110 201.060 68.303 115.686 115.030 95.860 41.548 25.564 2001 263.380 187.700 63.670 107.027 108.366 91.567 42.426 25.079 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Một số nhà phân tích tin rằng dịch vụ sẽ chiếm khoảng 50% thương mại thế giới vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng thương mại hàng năm của các ngành dịch vụ đã đạt mức 9%/năm kể từ khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng kim ngạch hàng hoá (3- 4%/ năm). Ngành dịch vụ có được sự phát triển như trên là do : Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật những năm vừa qua trong các lĩnh vực tin học và viễn thông đang dần dần làm thay đổi nhận thức của con người về khả năng và tính hiện thực trong thương mại của nhiều ngành dịch vụ. Điển hình nhất là các dịch vụ: viễn thông, tài chính, nghe nhìn, tư vấn, thiết kế… Nhiều ngành dịch vụ đã trở thành một cấu thành của hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng của nền kinh tế và đang đóng góp không nhỏ tới đầu vào của tất cả các ngành kinh tế trên thế giới không chỉ với các nước phát triển mà cả những nước đang phát triển. Bảng 7 Thị phần của các nước đang phát triển trong thương mại dịch vụ thế giới, 1900- 2001 (%) Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Các lĩnh vực dịch vụ có tầm quan trọng đáng kể đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tỉ trọng của các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi trong thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng tăng lên. Các ngành dịch vụ ngày càng tăng về tỷ suất lợi nhuận so với các ngành sản xuất khác. Đầu tư trực tiếp đối với các ngành dịch vụ luôn chiếm đến 3/5 giá trị đầu tư trực tiếp, tập trung vào các ngành như du lịch, viễn thông, tài chính, giải trí… ngoài ra các ngành dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất hàng hoá đã có sự phát triển mạnh mẽ và tách dần khỏi chức năng hỗ trợ để trở thành độc lập hơn. Các ngành dịch vụ sản xuất được hiểu là các ngành dịch vụ trung gian giữa các yếu tố cơ sở hạ tầng và người sản xuất, nhằm hỗ trợ người sản xuất sử dụng một cách hiệu quả nhất nguồn đầu vào là các cơ sở hạ tầng. Các dịch vụ sản xuất được cung cấp trong nhiều công đoạn của sản xuất gồm nghiên cứu khả thi, nghiên cứu thị trường, thiết kế sản xuất; các dịch vụ trong giai đoạn sản xuất gồm kiểm tra chất lượng, thuê mua tài chính, kế toán, quản lý nhân sự; các dịch vụ sau sản xuất gồm tiếp thị quảng cáo, phân phối bán hàng… Tại các nước phát triển dịch vụ sản xuất chiếm ít nhất là 50% tổng sản lượng dịch vụ tương đương với mức giá trị gấp hơn 2 lần so với sản lượng của ngành sản xuất. Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại thế giới, năm 1998 tổng mức FDI là 700 tỷ USD, đến 1999 con số này tới 1100 tỷ USD, năm 2000 đạt con số kỷ lục là 1500 tỷ USD, tuy nhiên mức FDI năm 2001 giảm mạnh chỉ còn khoảng 750 tỷ USD . Gần 60% tổng lưu chuyển FDI ngày nay là đầu tư vào các hoạt động thương mại dịch vụ. Trong trường hợp của EU, từ năm 1996 đến năm 2001, tỷ lệ giữa sản xuất và dịch vụ trong đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của EU biến động rất mạnh. Khu vực dịch vụ thường chiếm phần lớn hơn trong tổng FDI của EU. Năm 1992 FDI trong sản xuất và dịch vụ tương đối cân bằng (42% so với 43%) nhưng cho đến năm 2001 khoảng cách đó ngày càng tăng lên với dịch vụ chiếm tới 69% trong khi đó đầu tư vào sản xuất giảm xuống còn 22%. Bảng 8 FDI vào một số khu vực trên thế giới, 1993- 2001 (triệu USD) Nguồn: Thống kê FDI 2001 - UNCTAD Do mức tăng trưởng về đầu tư trực tiếp tăng lên, các ngành dịch vụ đã thu hút được một lực lượng lao động khổng lồ. Tại các nước phát triển, tỷ lệ lao động liên quan đến các ngành cung cấp dịch vụ chiếm khoảng 80%. Ví dụ như ở Mỹ, năm 1940 số lao động trong ngành dịch vụ là 19,4 triệu người, năm 1983 đã lên tới 66,3 triệu người, năm 1995 là 80 triệu người và đến năm 2001 thì có 93,9 triệu người tức 86% lao động xã hội làm việc ở lĩnh vực trên. Theo báo cáo của Bộ lao động Mỹ thì 87% cơ hội việc làm là ở ngành dịch vụ. Còn ở EU thì 59% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ thương mại (không kể các ngành dịch vụ công cộng) và khu vực này chiếm tới 64% GDP, đồng thời việc làm trong lĩnh vực dịch vụ nhiều gấp 2 lần việc làm trong ngành sản xuất. Mặt khác, phần lớn các ngành dịch vụ được coi là ngành “công nghiệp không khói” bởi chúng có tính hiệu quả của một ngành công nghiệp và tính chất không tạo ra các vấn đề về môi trường. Các ngành dịch vụ cho phép phát huy tối đa các công nghệ hiện đại ngày nay (viễn thông và tin học) và tiềm năng tri thức của một quốc gia. Các nghiên cứu cho thấy giá trị gia tăng tạo ra trong ngành dịch vụ có thể lên tới 70% tổng giá trị các sản phẩm công nghệ cao. 3. Xu hướng phát triển của thương mại dịch vụ thế giới Trong vòng hơn hai thập kỷ gần đây nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn phát triển hậu công nghiệp, lấy dịch vụ và các ngành có hàm lượng tri thức cao làm động lực phát triển. Sự phát triển của ngành dịch vụ kéo theo sự gia tăng không ngừng về quy mô và tốc độ của thương mại dịch vụ. Hiện nay thương mại dịch vụ của thế giới có những xu hướng phát triển chủ yếu sau: Thứ nhất, thương mại dịch vụ sẽ tiếp tục phát triển và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong thương mại quốc tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá sự phát triển của thương mại thế giới thời gian qua, các chuyên gia kinh tế thế giới đã nhận định trong những năm đầu thế kỷ 21, do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức và hướng “mềm hoá” cơ cấu kinh tế, nhất là ở các nước phát triển, thương mại dịch vụ quốc tế sẽ có bước phát triển mạnh mẽ. Theo dự báo kim ngạch thương mại dịch vụ quốc tế sẽ đạt trên 3000 tỷ năm 2010 và năm 2020 sẽ tăng gấp đôi so với năm 2010. Như vậy quy mô trao đổi buôn bán dịch vụ quốc tế vào năm 2020 dự báo sẽ lớn gấp 5 lần so với hiện nay. Đồng thời tốc độ gia tăng bình quân hàng năm của thương mại dịch vụ sẽ vẫn tiếp tục cao hơn tốc độ gia tăng bình quân hàng năm của thương mại hàng hoá vào đầu thế kỷ này. Thứ hai, cơ cấu thương mại dịch vụ sẽ có sự thay đổi theo hướng tăng tỷ trọng buôn bán những dịch vụ sử dụng nhiều tri thức và giảm tỷ trọng kim ngạch buôn bán dịch vụ sử dụng nhiều lao động giản đơn. Trong thế kỷ 21, dịch vụ thông tin, mà chủ yếu là dịch vụ viễn thông, dịch vụ tin học sẽ có kim ngạch buôn bán lớn nhất, vượt qua các dịch vụ truyền thống như dịch vụ vận tải, du lịch… và sẽ trở thành những dịch vụ năng động nhất, với quy mô trao đổi buôn bán và kim ngạch lớn nhất. Theo dự báo giá trị trao đổi buôn bán quốc tế các dịch vụ thông tin sẽ chiếm khoảng 35% tổng giá trị thương mại dịch vụ năm 2010 (năm 2000 doanh thu của dịch vụ du lịch quốc tế là lớn nhất- đạt 476 tỷ USD chiếm hơn 30% tổng kim ngạch thương mai dịch vụ quốc tế). Thứ ba, tự do hoá sẽ là xu thế chủ yếu trong sự phát triển của thương mại dịch vụ trong tương lai, thông qua việc ký kết hàng loạt các hiệp định tự do hoá thương mại khu vực, đặc biệt là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO. Nội dung chủ yếu của quá trình này là xoá bỏ những hạn chế về mở cửa thị trường dịch vụ và đối xử bình đẳng giữa dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ trong nước với dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Thứ tư, xu thế hội tụ cũng sẽ là xu thế phát triển của dịch vụ trong tương lai. Đó là sự hội tụ giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hóa, trong tính tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Đường gianh giới giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hoá ngày càng mờ nhạt. Điều này có nghĩa là việc trao đổi, buôn bán hàng hoá vật chất sẽ kèm theo việc trao đổi, buôn bán hàng hoá dịch vụ và thương mại hàng hoá sẽ luôn phải có thương mại dịch vụ đi kèm mới có thể phát triển được. Ngược lại, nhờ được sử dụng như là một yếu tố của quá trình sản xuất vật chất, dịch vụ cũng mới có nhiều cơ hội được trao đổi rộng rãi cùng với các sản phẩm hàng hoá, do vậy cũng ngày càng phát triển. Bảng 9 Xuất khẩu dịch vụ vận tải - du lịch và thị phần trong tổng thương mại dịch vụ thế giới – 1995-2001 (tỷ USD và %) Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 10 Dịch vụ vận tải của một số nước, 2001 (tỷ USD và %) Giá trị Thị phần trên thị trường vận tải thế giới % tăng trưởng 2001 1990 2001 1990-01 1999 2000 2001 Xuất khẩu Mỹ 46,10 16,7 13,5 2 2 9 -10 Nhật 24,00 7,9 7,0 3 8 12 -6 Đức 20,00 6,6 5,9 3 -2 -1 0 Pháp 18,10 7,3 5,3 1 -4 -1 -7 Hàn Quốc 13,50 1,4 4,0 14 12 19 -1 Nhập khẩu Mỹ 61,70 13,6 15,4 5 10 18 -6 Nhật 32,40 10,2 8,1 2 8 15 -8 Đức 24,50 6,6 6,1 3 -1 2 -3 Pháp 17,40 6,7 4,3 0 -4 2 -11 Hàn Quốc 10,70 1,5 2,7 9 11 9 -1 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 11 Dịch vụ du lịch của một số nước, 2001 (tỷ USD và %) Giá trị Thị phần trên thị trường du lịch thế giới % tăng trưởng 2001 1990 2001 1990-01 1999 2000 2001 Xuất khẩu Mỹ 88,70 19,0 19,1 5 5 9 -9 Đức 17,30 5,4 3,7 2 2 -4 -2 Trung Quốc 17,80 0,7 3,8 24 12 15 10 Italia 25,80 6,2 5,6 4 -5 -3 -6 Hồng Kông 10,30 2,0 2,2 6 2 14 2 Nhập khẩu Mỹ 61,60 14,7 14,5 4 4 10 -8 Đức 46,10 13,1 10,8 3 2 -6 -2 Trung Quốc 13,90 0,2 3,3 36 18 21 6 Italia 14,20 4,0 3,3 3 -4 -7 -9 Hồng Kông 13,70 1,8 3,2 10 -5 3 -2 Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 12 Xuất khẩu các ngành dịch vụ khác (ngoài Vận tải và Du Lịch) và thị phần trong tổng Thương mại dịch vụ thế giới – 1995-2001 (tỷ USD và %) Nguồn: International trade statistics 2002 - WTO Bảng 13 Thị phần một số ngành dịch vụ thế giới, 2001 (%) Nguồn: International trade statistics 2002 – WTO II Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (The General Agreement on Trade in Services – GATS) Cho đến năm 1994, chưa có một hiệp định đa phương nào điều chỉnh thương mại dịch vụ. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kiến thức về thương mại dịch vụ. Các nhà kinh tế thường nhìn ngành dịch vụ như một ngành không mang tính thương mại hoặc tồi tệ hơn họ còn coi dịch vụ là những hoạt động kinh doanh phi sản xuất và do vậy không đáng phải tập trung xây dựng chính sách. Các nghiên cứu chuyên sâu chỉ tập trung vào những hình thức việc làm trong dịch vụ hoặc nghiên cứu dịch vụ như ngành hỗ trợ sản xuất mà không tính đến sự đóng góp trực tiếp của ngành công nghiệp dịch vụ đối với sản xuất trong nước và thu nhạp ngoại tệ. Kế hoạch phát triển xuất khẩu của chính phủ trước đây đều nhằm vào các hàng hóa chiến lược và do vậy các cơ quan chính phủ thường không quen với các hoạt động của các nhà xuất khẩu dịch vụ. Các cơ quan thống kê quốc gia không thu thập được các số liệu thống kê thương mại một cách chi tiết nên hầu như không có các dữ liệu chính xác và hoàn chỉnh về dịch vụ. Trong thực tế, dịch vụ (đặc biệt là dịch vụ vận tải, du lịch và tài chính quốc tế) đã đóng góp một vai trò quan trọng trong môi trường thương mại một thời gian dài. Nhưng các nhà hoạch định chính sách, hoặc cho rằng dòng thương mại quá nhỏ bé cho nên không quan trọng, hoặc cho rằng việc tập trung vào tự do hoá thương mại hàng hoá sẽ tự động tự động mở rộng thương mại dịch vụ. Khi không có các hiệp định thương mại điều, các doanh nghiệp dịch vụ buộc phải mở rộng kinh doanh trên phạm vi quốc tế bằng cách ứng phó với những môi trường định chế phân biệt đối xử và không lượng trước được. Bắt đầu từ cuối những năm 1970, các tập đoàn khu vực tư nhân ở Anh và Mỹ (Liên minh các công nghiệp dịch vụ) đã bắt đầu vận động chính phủ của họ nhằm tạo ra một sân chơi ở mức cao hơn trong việc tiếp cận thị trường nước ngoài. Và cuối cùng các giao dịch dịch vụ quốc tế đã được đưa vào vòng đàm phán Uruguay. 1. Sự ra đời của GATS: Vòng đàm phán Uruguay là vòng đàm phán thương mại mang tính lịch sử, nó không chỉ đề cập tới tự do hoá hơn nữa về thương mại hàng hoá mà còn đề cập tới việc thiết lập khuôn khổ cho tự do hoá về thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu tư và sở hữu trí tuệ. Khi vòng đàm phán được khởi sự tại Punta del Este (Uruguay) vào 9-1986, các cuộc thảo luận đều cho rằng kết quả của vòng đàm phán phải là sự mở rộng của khuôn khổ Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Khi vòng đàm phán kết thúc vào tháng 4-1994 tại Marrakesh (Ma rốc), Tổ chức Thương mại Thế giới mới ra đời với việc sửa đổi hiệp định GATT (về thương mại hàng hoá) và bổ sung hai hiệp định mới: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Thành công của 50 năm đàm phán thương mại hàng hoá trong khuôn khổ GATT đã đưa ra một minh chứng đầy sức thuyết phục đối với các chính phủ. Việc liên tục giảm thuế quan đã thúc đẩy thương mại hàng hoá thế giới tăng mạnh, cao hơn cả mức tăng của thu nhập thế giới. Thuế quan trung bình trên phạm vi toàn thế giới đã giảm từ mức 35% sau chiến tranh thế giới lần thứ hai xuống còn 4% ngày nay và mức tăng trưởng bình quân của thương mại đã vượt mức tăng trưởng kinh tế thế giới là hơn 2%/ năm. Thêm vào đó, sự phát triển của các luật lệ thương mại quốc tế trong GATT đã tăng thêm khả năng dự báo chế độ thương mại hàng hoá thế giới. Chính vì những thành công của GATT đối với thương mại hàng hoá mà chính phủ các nước nhận thấy cần thiết phải có một quy chế mang tính toàn cầu để điều chỉnh thương mại dịch vụ. Tuy nhiên thoả thuận để bắt đầu các cuộc đàm phán về thương mại dịch vụ đã gặp phải những trở ngại. Đầu tiên phải kể đến là việc định nghĩa về “thương mại dịch vụ”. Xem xét trường hợp của dịch vụ du lịch, trong đó một khách hàng đi du lịch tới một nước cung cấp dịch vụ, thì ngay lập tức nó đã gặp phải những hạn chế trong định nghĩa về thương mại qua biên giới truyền thống của GATT. Thêm vào đó, thương mại dịch vụ._. từ trước cho tới khi Hiệp định GATS ra đời, đã bị xem nhẹ và bị coi là phụ thuộc vào sản xuất và thương mại hàng hoá. Nhiều dịch vụ được điều tiết rất chặt chẽ để bảo vệ cả người tiêu dùng lẫn nền kinh tế trong nước, và một số ngành dịch vụ lại thuộc độc quyền nhà nước như dịch vụ vận tải, viễn thông, bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm và tái bảo hiểm, y tế và giáo dục. Do vậy một số nước coi việc đề cập tới các quy định quốc gia về hạn chế thương mại và tiến hành các cuộc đàm phán quốc tế là đe dọa đến chủ quyền quốc gia. Mặc dù vậy, vào giữa những năm 1980, rất nhiều nước phải đối mặt với những lo ngại về suy thoái toàn cầu, lạm phát kéo dài và nạn thất nghiệp gia tăng. Các nước ngày càng phải lưu ý hơn đến tầm quan trọng của thương mại dịch vụ quốc tế, vì đến thời điểm này những tiến bộ vượt bậc trong công nghệ đặc biệt là công nghệ thông tin đã thúc đẩy khả năng thương mại hoá các hoạt động dịch vụ. Các nước đi đến kết luận, việc xoá bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ quốc tế và tạo cho các nhà xuất khẩu dịch vụ khả năng dự doán được tình hình thương mại, đầu tư quốc tế sẽ tạo ra những động lực xuất khẩu dịch vụ, đồng thời sẽ hỗ trợ cho sự phát triển mà không gây ra lạm phát trong nước và giải quyết vấn đề điều chỉnh cơ cấu kinh tế để bước vào kỷ nguyên của xã hội thông tin và chuyển sang nền kinh tế có yếu tố trí tuệ ngày càng cao. Mục tiêu lúc này rõ ràng là cần thiết phải có một thoả thuận riêng biệt về thương mại dịch vụ chứ không nên đưa ra những sửa đổi bổ sung đơn giản trong Hiệp định GATT. Hiệp định đó cần phải đề cập tới tất cả các biện pháp ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ. Chính vì thế khi khởi xướng vòng đàm phán Uruguay năm 1986, các nước đã nhất trí đưa thương mại dịch vụ vào đàm phán với tư cách một bộ phận trong cam kết trọn gói và tin rằng điều đó sẽ cải thiện toàn bộ hệ thống thương mại thế giới. Với những ý tưởng và quan niệm như vậy, các cuộc đàm phán tại vòng Uruguay trở nên tham vọng và phức tạp. Trên thực tiễn, năm 1986 các Bộ trưởng đã đồng ý thảo luận một loạt các vấn đề có tác động đến thương mại thế giới. Vòng đàm phán này đã đặt ra mục tiêu giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan đối với hàng hoá, mở rộng các quy tắc đa phương trong lĩnh vực nông nghiệp, cũng như trong dệt may. Vòng đàm phán này cũng đề ra mục tiêu xây dựng một chế độ thương mại tự do hơn cho thương mại dịch vụ thông qua việc hình thành một khuôn khổ các nguyên tắc và quy định thương mại. Việc đưa thương mại dịch vụ vào phạm vi đàm phán đã khắc phục được một khiếm khuyết nghiêm trọng của các quy tắc thương mại đa biên. Kết quả của những nỗ lực đó là việc ra đời của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) Tóm lại, GATS ra đời đã đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển thương mại quốc tế. Nó đã xây dựng nên những quy tắc đầu tiên về tự do thương mại dịch vụ trên phạm vi toàn cầu. 2. Nội dung của Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) GATS là hiệp định đầu tiên mang tính đa biên điều chỉnh thương mại dịch vụ. Hiệp định này bao gồm 29 điều khoản chủ yếu, đồng thời có các phụ lục đi kèm tạo thành một bộ phận không thể tách rời và Hiệp định được chia thành 3 phần chính như sau: Phần I: là một phần hiệp định khung về các nguyên tắc và nghĩa vụ chung bao gồm các điều khoản sau: - Điều 1: Phạm vi và định nghĩa - Điều 2: Đối xử tối huệ quốc - Điều 3: Sự minh bạch - Điều 3b: Sự tiết lộ các thông tin bí mật - Điều 4: Sự gia nhập ngày càng tăng của các nước đang phát triển - Điều 5: Liên kết kinh tế - Điều 5b: Các hiệp định về liên kết thị trường lao động - Điều 6: Quy định trong nước - Điều 7: Sự thừa nhận bằng cấp - Điều 8: Độc quyền và các nhà cung cấp dịch vụ độc quyền - Điều 9: Thông lệ kinh doanh - Điều 10: Các biện pháp tự vệ khẩn cấp - Điều 11: Các khoản thanh toán và chuyển tiền - Điều 12: Các hạn chế nhằm bảo hộ cán cân thanh toán - Điều 13: Mua sắm của chính phủ - Điều 14: Các loại trừ chung - Điều 15: Trợ cấp Phần II: là các cam kết cụ thể bao gồm các điều khoản sau - Điều 16: Tiếp cận thị trường - Điều 17: Đối xử quốc gia - Điều 18: Các cam kết bổ sung - Điều 19: Đàm phán các cam kết cụ thể - Điều 20: Lịch trình thực hiện các cam kết cụ thể - Điều 21: Sửa đổi lịch trình - Điều 22: Tham vấn - Điều23: Giải quyết tranh chấp và thi hành - Điều 24: Hội đồng thương mại dịch vụ - Điều 25: Hợp tác kỹ thuật - Điều 26: Quan hệ với các tổ chức quốc tế khác - Điều 27: Từ chối các lợi ích - Điều 28: Các định nghĩa Phần III: là các phụ lục về một số loại hình dịch vụ bao gồm các phụ lục thuộc điều 29 như sau: - Phụ lục về các miễn trừ đối với điều 2 - Phụ lục về sự di chuyển của các tự nhiên nhân cung cấp dịch vụ theo hiệp định - Phụ lục về dịch vụ vận tải hàng không - Phụ lục về dịch vụ tài chính - Phụ lục thứ hai về dịch vụ tài chính - Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ vận tải biển - Phụ lục về dịch vụ viễn thông - Phụ lục về các đàm phán về dịch vụ viễn thông cơ bản GATS là một thoả thuận liên chính phủ “thành lập nên một khuôn khổ đa phương các nguyên tắc và quy định về thương mại dịch vụ với mục tiêu mở rộng thương mại theo các điều kiện minh bạch hoá và tự do hoá hơn nữa”. Các nước thành viên thông qua đàm phán để đưa ra các cam kết của mình trên cơ sở điều chỉnh luật lệ và các quy định của quốc gia. Việc điều chỉnh luật lệ sẽ được tiến hành từng bước, tiến tới xoá bỏ hoàn toàn mọi hạn chế đối với dịch vụ nhập khẩu cũng như nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài khi tiến hành cung cấp dịch vụ theo những phương thức khác nhau. Hiệp định GATS được WTO quản lý cùng với các hiệp định khác của vòng đàm phán Uruguay. Cơ quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của Hiệp định GATS là Hội đồng thương mại dịch vụ. Theo điều 24 của Hiệp định GATS, Hội đồng này có quyền hạn rất lớn: có thể tiến hành bất cứ hoạt động nào phục vụ cho việc thực thi hiệp định và các mục tiêu xa hơn. Hội đồng có thể thành lập các cơ quan trực thuộc trong trường hợp cần thiết và những cơ quan này cũng có quyền thiết lập những quy định về thủ tục làm việc riêng sau khi được sự phê chuẩn của Hội đồng. 3. Khái niệm về dịch vụ và thương mại dịch vụ trong GATS 3.1. Dịch vụ 3.1.1 Khái niệm về dịch vụ Trong điều 1 của GATS (Phạm vi và định nghĩa), khái niệm dịch vụ bao gồm bất kỳ loại hình dịch vụ nào có mục đích thương mại, ngoại trừ những loại hình dịch vụ được cung cấp theo chức năng của các cơ quan chính phủ. Một dịch vụ được cung cấp theo chức năng của các cơ quan chính phủ là loại hình dịch vụ không dựa trên cơ sở thương mại hoặc không có sự cạnh tranh với một hay nhiều nhà cung cấp dịch vụ khác. Dịch vụ ở đây chính là lợi ích mà khách hàng nhận được phù hợp với quy cách và giá cả do bên mua và bên bán thoả thuận. 3.1.2 Các ngành dịch vụ trong GATS GATS liệt kê các loại hình dịch vụ đã được “thương mại hoá” chủ yếu là để từng bước tiến dần tới tự do hoá toàn diện. GATS bao gồm tất cả các ngành dịch vụ được trao đổi nhằm mục đích thương mại. GATS bao gồm các ngành dịch vụ được cung cấp hay không cung cấp trên cơ sở thương mại, có sự hiện diện hay không có sự hiện diện cạnh tranh trong nước. Danh mục dịch vụ do GATS điều chỉnh rất rộng, bao gồm 11 ngành lớn và 155 tiểu ngành: Dịch vụ kinh doanh bao gồm các dịch vụ nghề nghiệp như dịch vụ pháp lý, dịch vụ kiểm toán, thiết kế; các dịch vụ nghiên cứu và triển khai; dịch vụ máy tính; dịch vụ liên quan đến bất động sản và các dịch vụ kinh doanh khác. Dịch vụ thông tin liên lạc bao gồm: bưu điện, chuyển phát nhanh, viễn thông, nghe nhìn… Dịch vụ xây dựng và thi công bao gồm: xây dựng nhà cửa, xây dựng công chính, lắp đặt máy móc, hoàn thiện công trình… Dịch vụ phân phối bao gồm: đại lý hoa hồng, đại lý độc quyền, bán buôn, bán lẻ… Dịch vụ đào tạo bao gồm: tiểu học, trung học, đại học, cao học, chuyên sâu Dịch vụ môi trường bao gồm: thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh… Dịch vụ tài chính bao gồm: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán… Dịch vụ liên quan đến sức khoẻ bao gồm: chữa bệnh, bệnh viện… Dịch vụ du lịch và lữ hành bao gồm: khách sạn và nhà hàng, đại lý và điều hành du lịch, hướng dẫn viên du lịch… Dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao bao gồm: giải trí (nhà hát, rạp chiếu phim, xiếc), thư viện, bảo tàng, thể thao… Dịch vụ vận tải bao gồm: vận tải đường biển, vận tải thuỷ nội địa, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải ô tô, vận tải đường ống, vận tải vũ trụ, các dịch vụ phụ trợ liên quan Các dịch vụ khác 3.2. Thương mại dịch vụ Thương mại hàng hoá là thương mại các sản phẩm hữu hình, còn thương mại dịch vụ về cơ bản là thương mại các sản phẩm vô hình. Nếu như thương mại hàng hoá là việc trao đổi những cái cụ thể và nhìn thấy được, thì thương mại dịch vụ về cơ bản là trao đổi những “sản phẩm” không thể nhìn thấy, cầm nắm hay tích trữ được. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại dịch vụ đều có thể trao đổi hay mua bán đặc biệt là trong trao đổi quốc tế, ví dụ như các dịch vụ công cộng, dịch vụ thuộc chức năng quản lý của nhà nước… Xu hướng thương mại hoá dịch vụ là một trong những vấn đề đặc biệt quan tâm của WTO. Trong điều 1 của Hiệp định GATS, thương mại dịch vụ được định nghĩa như là việc cung cấp một dịch vụ: Từ lãnh thổ của một nước thành viên sang lãnh thổ của một nước thành viên khác (cung cấp qua biên giới) Trong lãnh thổ một nước thành viên cho người tiêu dùng dịch vụ của một nước thành viên khác (tiêu dùng ở nước ngoài) Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua hiện diện thương mại trong lãnh thổ của một nước thành viên khác (hiện diện thương mại) Bởi một người cung cấp dịch vụ của một nước thành viên thông qua sự hiện diện của thể nhân của một nước thành viên trong lãnh thổ của bất cứ thành viên nào khác (hiện diện của thể nhân) Như vậy, GATS đã phân loại thương mại dịch vụ thông qua bốn phương thức cung cấp. Phương thức 1- cung cấp qua biên giới (Cross border) Dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một nước thành viên này vào lãnh thổ của một nước thành viên khác. Dịch vụ di chuyển qua biên giới độc lập với nhà cung cấp và người tiêu dùng, có nghĩa là khi giao dịch diễn ra từ lãnh thổ một nước thành viên sang lãnh thổ một nước thành viên khác, chỉ có bản thân dịch vụ di chuyển qua biên giới mà không có sự di chuyển của con người ví dụ như dịch vụ tư vấn qua fax, email, điện thoại, chữa bệnh từ xa… Nhà cung cấp không thiết lập bất cứ một hiện diện nào trên lãnh thổ nước thành viên. Phương thức 2 - tiêu dùng ở nước ngoài (Comsumption abroad) Phương thức này đề cập đến những dịch vụ được cung cấp trong lãnh thổ của một nước thành viên cho công dân của bất kỳ nước thành viên nào khác. Nói cách khác, dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ mà người tiêu dùng đó cư trú thường xuyên. Ví dụ như dịch vụ khách sạn, nhà hàng cho người nước ngoài, dịch vụ đào tạo cho sinh viên nước ngoài… Việc di chuyển tài sản của người tiêu dùng cũng thuộc phương thức này (ví dụ gửi một con tàu hoặc các thiết bị khác ra nước ngoài để sửa chữa). Phương thức 3 - hiện diện thương mại (Commercial presence) Người cung cấp dịch vụ di chuyển qua biên giới để thành lập hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài như công ty con, văn phòng đại diện, chi nhánh… nhằm tiến hành cung cấp dịch vụ thông qua các hiện diện này. Phương thức 4 - hiện diện của thể nhân (Presence of natural persons) Dịch vụ được cung cấp qua sự hiện diện của các tự nhiên nhân của một nước thành viên ở một nước thành viên khác. Phương thức này chỉ áp dụng cho các nhà cung cấp dịch vụ độc lập (tư vấn gia, nhân viên y tế…) hoặc những người làm công của họ khi họ cư trú tạm thời tại một nước thành viên. Đơn giản hơn ta có thể hiểu là dịch vụ được cung cấp bởi cá nhân của một nước thành viên tại lãnh thổ của bất cứ một nước thành viên nào khác. 4. Phạm vi áp dụng của GATS Các quy tắc của GATS được áp dụng cho tất cả các loại hình dịch vụ ở cả hiện tại và tương lai. Tuy nhiên mức độ mở cửa thị trường của từng nước không được quy định một cách tự động mà được xác định thông qua đàm phán. Một số điều khoản của GATS như nghĩa vụ MFN và minh bạch hoá được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ, nhưng các điều khoản liên quan tới tiếp cận thị trường và đãi ngộ quốc gia cho tới nay chỉ được áp dụng trong những lĩnh vực cụ thể mà các nước có đưa ra cam kết. Mức độ cam kết của các nước thành viên khác nhau rất xa và chưa có thành viên nào đưa ra cam kết trong tất cả các lĩnh vực dịch vụ. Quy tắc của GATS cũng được áp dụng đối với mọi biện pháp của các nước thành viên có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ. “Biện pháp” ở đây được hiểu rất rộng, đó là bao gồm “bất kỳ biện pháp nào của một nước thành viên, cho dù dưới hình thức một luật lệ, một quy định, một quy tắc, thủ tục, quyết định, hoạt động quản lý hành chính hay bất kỳ một hình thức nào khác ”. Các biện pháp có thể “do Chính phủ, các cơ quan trung ương, vùng hay địa phương áp dụng” hoặc “do các cơ quan phi chính phủ áp dụng khi thực hiện các quyền hạn mà các cơ quan chính phủ, trung ương, vùng hay địa phương giao cho”. Mặc dù phạm vi của GATS rất rộng, đề cập đến tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, song một số vấn đề quan trọng có ảnh hưởng lớn đến các nhà cung cấp dịch vụ vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của GATS như: Các quy định về nhập cảnh Các dịch vụ được cung cấp theo thẩm quyền của các cơ quan chính phủ Các chính sách tài chính và các biện pháp thuế Quản lý tỷ giá ngoại hối Các vấn đề về tư nhân hoá 5. Các nguyên tắc cơ bản của GATS GATS tuân thủ các nguyên tắc của thương mại truyền thống trong lĩnh vực hàng hoá để điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ. Mục tiêu của các nguyên tắc này là nhằm đảm bảo sự đối sử công bằng thuận lợi cho mọi nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Cụ thể là: 5.1. Minh bạch hoá chính sách Đây là nguyên tắc và nghĩa vụ vô điều kiện của GATS đối với các nước thành viên. Nó cũng là nguyên tắc cốt yếu để tiến tới tự do hoá đa phương. Nguyên tắc này giúp các thành viên và các doanh nghiệp xác định được những hạn chế và bảo hộ từ đó đề ra các chính sách, chiến lược phù hợp. Các nghĩa vụ cơ bản của nguyên tắc này là việc xuất bản và thông báo nhanh chóng các thay đổi pháp luật, duy trì các điểm hỏi đáp và tiến hành rà soát pháp lý một cách công bằng. “Tất cả các biện pháp được áp dụng một cách rộng rãi có liên quan hay ảnh hưởng đến việc thực hiện GATS” phải được công bố nhanh chóng và “chậm nhất là vào thời điểm các biện pháp này có hiệu lực”. Kể cả ở những lĩnh vực của một chính phủ thuộc “các Hiệp định quốc tế có liên quan hay có tác động đến thương mại dịch vụ ” thì chính phủ đó vẫn phải có nghĩa vụ thông báo. Việc công bố các quy định này có thể diễn ra ở bất kỳ địa điểm nào, bằng bất cứ biện pháp nào, và được áp dụng cho cả những biện pháp do chính quyền địa phương hay cấp vùng đưa ra. Ngoài nghĩa vụ công bố tất cả các biện pháp liên quan, các thành viên còn có nghĩa vụ thông báo nhanh chóng, ít nhất là mỗi năm một lần cho Hội đồng thương mại dịch vụ về việc ban hành mới hay thay đổi các luật lệ, quy định hay hướng dẫn hành chính trong các ngành và các tiểu ngành đã có cam kết cụ thể. Khi đưa ra các quyết định hành chính có tác động đến thương mại dịch vụ, các chính phủ cũng phải đưa ra các công cụ mang tính khách quan (trọng tài, toà án) để giám sát các quyết định đó Các chính phủ cam kết thành lập nhiều đầu mối giải đáp thông tin để trả lời ngay lập tức các thông tin chi tiết liên quan đến thương mại dịch vụ mà các nước thành viên khác yêu cầu trong vòng 2 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực. Ngoài ra chính phủ các nước phát triển phải thành lập các diễn đàn tương trợ để cung cấp thông tin đặc biệt cho các nhà cung cấp dịch vụ của các nước đang phát triển. Nguyên tắc minh bạch hoá không yêu cầu một nước thành viên phải cung cấp các thông tin bí mật, làm cản trở công tác thi hành pháp luật, trái với lợi ích công cộng. 5.2 Không phân biệt đối xử Không phân biệt đối xử được thể hiện ở hai nguyên tắc dưới đây: Đối xử tối huệ quốc (MFN) Một nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế, vốn là nền tảng của GATT là nguyên tắc MFN. Nguyên tắc này yêu cầu một nước thành viên phải dành cho tất cả các nước thành viên WTO còn lại sự đối xử ưu đãi nhất đã dành cho bất cứ nước thành viên WTO nào là đối tác thương mại của mình ngay lập tức và vô điều kiện. Sự phân biệt đối xử với các nước thứ ba bị cấm hoàn toàn. Hơn 40 năm qua nguyên tắc này đã tạo nền tảng cho tự do hoá thương mại hàng hoá trên khắp thế giới với một tốc độ không thể ngờ được. GATS cũng chứa đựng nguyên tắc này: “Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi hiệp định này, mỗi nước thành viên sẽ phải dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ nước thành viên nào sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp dịch vụ tương tự của một nước thành viên bất kỳ một cách ngay lập tức và vô điều kiện” (điều 2). Nghĩa vụ này được áp dụng đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ, ở tất cả các ngành, cho dù đã có cam kết cụ thể hay chưa. Tuy vậy, khi áp dụng quy chế tối huệ quốc trong GATS các thành viên có thể được hưởng một số ngoại lệ với điều kiện các ngoại lệ đó phải do các thành viên đưa ra và đáp ứng được các điều kiện của Phụ lục về các trường hợp ngoại lệ của điều 2. Các trường hợp ngoại lệ này sẽ được Hội đồng thương mại dịch vụ xem xét lại sau 5 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực. Nói chung, các ngoại lệ này không được kéo dài quá 10 năm kể từ ngày GATS có hiệu lực (không quá 2004) và phụ thuộc vào các vòng dàm phán về tự do hoá thương mại dịch vụ sau này. Ngoài các ngoại lệ được một nước thành viên đưa vào danh sách miễn trừ, nếu thành viên này đã tham gia vào một hiệp định thương mại dịch vụ khu vực thì được tạm thời chưa phải thực hiện nguyên tắc MFN với điều kiện hiệp định đó phải bao trùm những lĩnh vực quan trọng, xoá bỏ những biện pháp phân biệt đối xử đối với người cung cấp dịch vụ của các nước khác tham gia vào hiệp định và cấm áp dụng những biện pháp phân biệt đối xử mới. Nguyên tắc MFN nhằm mục tiêu đạt được mức độ tự do hoá dịch vụ cao như đối với thương mại hàng hoá, thông qua việc áp dụng nguyên tắc này đối với càng nhiều nước càng tốt và trên tất cả các ngành dịch vụ. Các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi thương mại không phải dựa trên các đánh giá hẹp theo từng ngành mà dựa trên cơ sở lợi ích thương mại tổng thể trên các ngành và cho tất cả các nước. Do vậy nguyên tắc MFN là một công cụ hữu hiệu trong thúc đẩy tự do hoá thương mại. Đối xử quốc gia (NT): Trong phạm vi một thị trường, đãi ngộ quốc gia trong GATS chủ yếu hàm chứa ý nghĩa không phân biệt đối xử giữa người nước ngoài với người trong nước. So với nghĩa vụ này trong thương mại hàng hoá theo GATT, hình thức đãi ngộ quốc gia của GATS còn sâu rộng hơn vì nó bao trùm cả vấn đề người cung cấp dịch vụ, tuy rằng nó chỉ có hiệu lực đối với những lĩnh vực mà một nước thành viên cam kết thực hiện chứ không có giá trị hiệu lực đối với những lĩnh vực mà nước đó chưa cam kết. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia chỉ ra rằng: “mỗi nước thành viên sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất kỳ một nước thành viên nào khác sự đối xử trong tất cả các biện pháp có ảnh hưởng đến việc cung cấp dịch vụ không kém ưu đãi hơn mức dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước mình” (điều 17). Có ba mức xem xét, kiểm tra để đảm bảo không có sự phân biệt đối xử. Đó là: Thứ nhất, các bên thừa nhận rằng không thể dành cho người nước ngoài sự đối xử giống hệt như mức dành cho công dân nước đó, nhưng điều này phải là thông lệ. Thứ hai, sự đối xử giống về mặt hình thức hay sự đối xử khác biệt về mặt hình thức “đều được chấp nhận với điều kiện là không tạo ra sự đối xử kém thuận lợi hơn”. Thứ ba, sự đối xử sẽ bị coi là kém ưu đãi hơn nếu nó làm thay đổi các điều kiện cạnh tranh theo hướng có lợi cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước thành viên đó so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của bất cứ thành viên nào khác. Đãi ngộ quốc gia trong dịch vụ có vai trò quan trọng hơn so với trong hàng hoá, vì trọng tâm của đãi ngộ quốc gia đối với hàng hoá trong GATT là giảm thuế, cấm hạn chế số lượng nhập khẩu và bất kỳ loại thuế hay sự phân biệt đối xử nào khác sau khi đã nộp thuế hải quan. Thương mại hàng hoá có xu hướng bị hạn chế tại biên giới, trong khi đó, dịch vụ lại phụ thuộc nhiều vào các quy định trong nước có tác động tới việc cung cấp dịch vụ tại thị trường nội địa. 5.3. Thương mại dịch vụ ngày càng tự do, cởi mở hơn Mục đích của GATS là làm cho thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng tự do, thông thoáng, gạt bỏ các rào cản thương mại thông qua các vòng đàm phán thương mại dịch vụ đa biên. 5.4. Thương mại dịch vụ có thể dự đoán được Hệ thống thương mại đa biên là một nỗ lực của các chính phủ nhằm tạo nên một môi ttrường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán được. Khi các nước đồng ý mở cửa thị trường dịch vụ, các nước phải ràng buộc lẫn nhau bằng các cam kết. Một nước chỉ có thể thay đổi các ràng buộc khi đã đàm phán với các nước khác. Các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại dịch vụ theo các quy định của GATS Các cam kết cụ thể về tự do hoá thương mại dịch vụ của các nước thành viên theo quy định của GATS bao gồm các cam kết sau: 6.1. Cam kết về mở cửa thị trường: Điều 16 của GATS về tiếp cận thị trường quy định: “ đối với việc tiếp cận thị trường thông qua các phương thức cung cấp quy định trong điều 1, mỗi thành viên sẽ dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của bất cứ một nước thành viên nào khác sự đối xử không kém ưu đãi hơn mức đã quy định trong các điều khoản, các điều kiện và các hạn chế đã nhất trí và ghi rõ trong danh mục cam kết của mình”. Quy định này ngăn chặn những trở ngại đối với việc tiếp cận thị trường và đảm bảo rằng những điều kiện giống nhau được áp dụng cho tất cả các dịch vụ và nhà cung cấp. Nguyên tắc này cho phép các công ty nước ngoài cung cấp các dịch vụ qua biên giới lãnh thổ của một nước khác mà không cần lập cơ sở ở nước đó, họ cũng có thể lập hiện diện thương mại và gửi các cán bộ chủ chốt đến các cơ sở tại nước ngoài của mình, và cũng có thể cung cấp dịch vụ ở nước mình cho những khách hàng không phải là công dân nước mình mà đến từ các nước khác. Yêu cầu về việc mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ (không duy trì bất kỳ một biện pháp nào hạn chế việc cung cấp dịch vụ theo 4 phương thức cung cấp dịch vụ của GATS) không phải là bắt buộc đối với các nước thành viên. Việc tiếp cận thị trường theo một cách thức nào đó sẽ tuỳ thuộc vào các cam kết cụ thể của từng quốc gia trong danh mục cam kết của nước đó. Trong trường hợp này, một nước thành viên có quyền đặt ra một số hạn chế về tiếp cận thị trường. Đó là các hạn chế về: Số lượng người cung cấp dịch vụ Tổng giá trị của giao dịch dịch vụ hay tài sản Tổng số các hoạt động dịch vụ Tổng sản lượng dịch vụ đầu ra - Số người có thể được tuyển dụng trong một số lĩnh vực dịch vụ cụ thể Phần trăm góp vốn của nước ngoài Loại hình doanh nghiệp Một cam kết về tiếp cận thị trường của một nước thành viên đang có hiệu lực sẽ là một cam kết cố định và nước này không có quyền thay đổi các luật lệ của mình vì có thể dẫn đến hậu quả là việc tiếp cận trở nên khó khăn hơn hoặc không thể thực hiện được. Do sự phức tạp về những quy định, chính sách thương mại của các nước thành viên, nên GATS hướng tới mục tiêu là giảm dần các hạn chế đối với thương mại dịch vụ căn cứ vào khả năng thực tế của nước thành viên. 6.2. Cam kết về đối xử quốc gia Đây là cam kết của các thành viên về việc áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ được quy định trong điều 17 của GATS. Các thành viên phải đưa ra danh mục các lĩnh vực dịch vụ có thể áp dụng nguyên tắc đối xử quốc gia cùng với những điều kiện hay hạn chế nếu có. Nguyên tắc đối xử quốc gia chỉ áp dụng cho những lĩnh vực dịch vụ có trong danh mục cam kết của các thành viên. Cụ thể các nước thành viên có thể liệt kê các giới hạn hoặc những trường hợp cụ thể chưa thể thực hiện nguyên tắc đối xử quốc gia theo từng phương thức cung cấp dịch vụ. 6.3. Các cam kết bổ sung Điều 18 của GATS có quy định về các cam kết bổ sung. Đây là những cam kết về những biện pháp có ảnh hưởng dến thương mại dịch vụ không nằm trong phạm vi hai hình thức cam kết nêu trên. Ví dụ các nước thành viên có thể đàm phán các cam kết về năng lực chuyên môn, tiêu chuẩn hoặc những vấn đề liên quan đến thủ tục cấp giấy phép chứ không phải là những giới hạn. Các cam kết của các nước thành viên trong danh mục các cam kết thường bao gồm hai phần: các cam kết nền chung (horizontal committments) và các cam kết cụ thể (Specific committments). Các cam kết nền chung áp dụng cho tất cả các lĩnh vực dịch vụ đưa ra và tập trung vào các vấn đề như: chính sách, luật lệ về thuế quan, sự di chuyển của thể nhân… Các cam kết cụ thể áp dụng cho các khu vực dịch vụ cụ thể trong đó liệt kê các khu vực dịch vụ cụ thể và hạn chế có thể có. Trong những cam kết này của các nước thành viên thường có mục: “các điều kiện và hạn chế về tiếp cận thị trường ”. Nếu mục này được ghi: “none” nghĩa là cam kết đầy đủ (không áp dụng bất kỳ một biện pháp nào để giới hạn việc thâm nhập thị trường); “unbound except for the following” có nghĩa là cam kết có giới hạn, có điều kiện; “unbound” có nghĩa là chưa đưa ra một cam kết nào trong khu vực dịch vụ cụ thể đó. Tóm lại, Hiệp định chung về thương mại dịch vụ GATS là một trong ba nền tảng cơ bản của Tổ chức Thương mại Thế giới. Sự ra đời của nó là một yêu cầu tất yếu và khách quan trong điều kiện vai trò của dịch vụ và thương mại dịch vụ quốc tế ngày càng trở nên to lớn trong nền kinh tế thế giới. Nó là hiệp định đa phương đầu tiên có hiệu lực pháp lý để điều chỉnh lĩnh vực thương mại và đầu tư dịch vụ. GATS đã tạo ra một khuôn khổ các quy tắc rõ ràng dễ dự đoán để tiến hành hoạt động thương mại dịch vụ và khởi xướng tiến trình tự do hoá. Mục tiêu của GATS là chấm dứt tình trạng can thiệp bằng các luật lệ một cách tuỳ tiện và đảm bảo luật pháp có tính dự báo nhằm phát triển thương mại và đầu tư, vì các thành viên của GATS đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của mình thông qua một cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu lực cao trong khuôn khổ WTO. Một khi thành viên đã đưa ra cam kết đối với một ngành dịch vụ cụ thể thì thành viên đó không thể rút lại cam kết này nếu không có sự bù đắp cho các nước thành viên khác. GATS hãy còn là một hiệp định mới mẻ. Mặc dù tồn tại chưa lâu nhưng GATS đã chứng tỏ là một công cụ hữu hiệu để đạt mục tiêu thúc đẩy thương mại phát triển. Tuy nhiên các nước đều hy vọng rằng GATS sẽ tiếp tục cải thiện mức độ mở cửa thị trường dịch vụ, vì vẫn còn nhiều lĩnh vực chưa nằm trong phạm vi điều chỉnh của GATS và còn tồn tại nhiều hàng rào thương mại gây cản trở rất lớn do các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ phải đưa ra các cam kết mở cửa thị trường cho tất cả các ngành dịch vụ hay cam kết ràng buộc đối với tất cả các biện pháp ảnh hưởng đến cung cấp dịch vụ. Chương2 Thực trạng hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ Việt Nam hiện nay Thực trạng và năng lực cạnh tranh của một số ngành dịch vụ 1. Dịch vụ vận tải 1.1. Vai trò và thực trạng của dịch vụ vận tải Ngày 28 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Nghị định 41 thành lập Bộ Giao thông công chính của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính thức đánh dấu sự hình thành và phát triển của ngành dịch vụ giao thông vận tải tại Việt Nam. Từ những ngày đầu mới được thành lập, với những cơ sở vật chất còn khiêm tốn lại bị tàn phá qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, nhưng được sự quan tâm đầu tư đúng mức của Đảng, Chính phủ và nhờ sự hỗ trợ giúp đỡ của bạn bè quốc tế, ngành giao thông vận tải đã từng bước trưởng thành và phát triển, đến nay đã có đầy đủ các phương thức vận tải và các ngành phụ trợ, đặt dưới sự quản lý của các cơ quan trực thuộc Bộ giao thông vận tải. Với chức năng đảm bảo giao thông vận tải thông suốt nhằm phục vụ việc vận chuyển hàng hóa và hành khách thuận tiện và an toàn, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, Nhà nước đã dành ưu tiên rất lớn cho việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở giao thông vận tải. Việc đầu tư này không có tác động trực tiếp đến việc phát triển các mạng lưới dịch vụ giao thông vận tải nhưng tạo điều kiện thông thoáng cho các loại dịch vụ GTVT hoạt động. Do đó có thể nói đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng GTVT là hình thức đầu tư gián tiếp cho dịch vụ GTVT. Đến nay, nước ta đã có một mạng lưới giao thông phân bố tương đối hợp lý với đầy đủ các phương thức vận tải đường sắt, đường sông, đường bộ, hàng không, đường ống; bao gồm hơn 210.000 km đường bộ, 2600 km đường sắt, 8036 km đường sông, hơn 80 cảng biển lớn nhỏ với trên 22 km cầu bến. Về đóng góp của ngành trong nền kinh tế, từ năm 1995 đến năm 2001 doanh thu tăng 46,2%/năm. Đóng góp cho Ngân sách Nhà nước năm sau cao hơn năm trước. Năm 1995 đóng góp cho ngân sách là 419 tỷ đồng, năm 1996 là 612 tỷ đồng, năm 1997 là 677 tỷ đồng, năm 1998 là 771 tỷ đồng, năm 1999 là 971 tỷ, năm 2000 là 1049 tỷ đồng, và năm 2001 là 1130 tỷ đồng. Bình quân trong 5 năm từ 1996 đến 2001 đóng góp cho ngân sách tăng 45%/năm. Về việc tạo công ăn việc làm của ngành, để đảm bảo một khối lượng rất lớn các công việc trong toàn ngành GTVT, có lúc số lượng cán bộ công nhân viên lên tới 35 vạn người (năm 1995). Cho đến nay, sau nhiều lần tinh giản, biên chế lực lượng lao động nêu trên vẫn ở mức trên dưới 20 vạn người. Tuy nhiên, việc đánh giá mức độ tạo công ăn việc làm không thể chỉ giới hạn trong số lượng người trực tiếp tham gia vào các hoạt động GTVT mà còn phải kể đến số lượng người tham gia vào các dịch vụ phụ trợ nằm ngoài khu vực GTVT như những người tham gia vào các lĩnh vực buôn bán xăng dầu, phụ tùng thay thế phục vụ cho các phương tiện vận tải cơ giới hoặc các mạng lưới dịch vụ ăn uống phục vụ hành khách và lái xe trên các tuyến vận tải hàng hóa và hành khách đường dài v.v... Do vậy phải có một phương án đánh giá riêng mới có thể thống kê một cách tương đối chính xác mức độ tạo công ăn việc làm của ngành giao thông vận tải. Vận tải biển Trước hết, về lực lượng tầu thuyền của thì theo đánh giá của giới chuyên môn tình t._.ờng Việt Nam. Hệ thống pháp luật và môi trường pháp lý về kinh tế- thương mại trong nước còn chưa hoàn chỉnh, chưa hệ thống, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, còn nhiều hạn chế trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay. Nhiều chính sách cơ bản chưa được thể chế hoá trong luật hoặc chưa được cụ thể hoá trong các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành. Đồng thời, những biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại được thừa nhận chung thì chưa có hoặc có quy định nhưng rất sơ sài (ví dụ như Đãi ngộ tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia, tiếp cận thị trường ở cả 4 phương thức), trong khi đó, những biện pháp không phù hợp, trái nguyên tắc thì lại đang được áp dụng. Một điểm yếu nữa là tình trạng “thừa mà thiếu” trong hệ thống pháp luật kinh tế- thương mại của Việt Nam hiện nay. Trong những năm qua, để khắc phục tình trạng thiếu văn bản pháp luật điều chỉnh đời sống kinh tế- xã hội đất nước nói chung và các ngành dịch vụ nói riêng, cơ quan lập pháp Việt Nam đã tích cực ban hành, bổ sung nhiều bộ luật, luật và pháp lệnh quan trọng. Trong tình hình đó, cơ quan hành pháp cũng có nhiều cố gắng ban hành các văn bản pháp quy, một mặt hướng dẫn thi hành các văn bản luật, mặt khác góp phần bổ sung và chi tiết hoá các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, tính khả rhi của những quy định trong các văn bản luật được ban hành nhiều khi chưa cao, thậm chí còn không thực hiện được bởi chúng chưa hợp lý và thiếu tính thực tiễn. Thực tế còn có những điểm không đồng bộ so với nội dung của văn bản gốc khi các văn bản hướng dẫn thực hiện được soạn thảo. Thêm vào đó, số lượng và tần số ban hành, bổ sung, sửa đổi nhiều đến chóng mặt, làm văn bản mang tính đối phó tình huống không mang tính ổn định. Ngoài ra, chênh lệch thời gian từ lúc ra quyết định điều chỉnh hệ thống chính sách pháp luật tới khi thực thi, hay ban hành văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật,… cũng là những thiếu sót làm cản trở không nhỏ tới tiến trình tự do hoá thương mại ở Việt Nam. Từ những bất cập trong hệ thống pháp luật đã nêu ở trên, ta thấy Việt Nam trong quá trình đàm phán gia nhập WTO phải xây dựng, bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi các văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp với yêu cầu của WTO, với luật chơi chung của thế giới, đồng thời vẫn đảm bảo được tính định hướng phát triển và lợi ích của đất nước cũng như hỗ trợ đắc lực cho các ngành kinh tế trong nước. Hệ thống chính sách, pháp luật cần được hoàn thiện theo hướng phát huy tối đa nội lực và tiềm năng của đất nước, của tất cả các thành phần kinh tế; tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tích tụ, liên doanh liên kết trong sản xuất kinh doanh; thu hút đầu tư nước ngoài; khuyến khích môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế; đi đôi với việc nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. 1.5. Xây dựng lộ trình cam kết Trước hết chúng ta cần nghiên cứu các quan điểm của Đảng về xây dựng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế: Một là, các cấp độ ưu tiên chính sách: điều chỉnh cơ cấu kinh tế là cả một quá trình khó khăn và đòi hỏi nỗ lực đồng bộ của Chính phủ, các ngành, các cấp, của cả các doanh nghiệp, vì vậy cần khẩn trương triển khai ngay và đưa vào nội dung chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, kế hoạch trung và dài hạn. việc xây dựng lộ trình cam kết quốc tế cũng phải dựa trên cơ sở xác định rõ những lĩnh vực cần được ưu tiên xử lý ở những cấp độ khác nhau. Do đó, hội nhập kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nên được tiến hành theo chương trình kế hoạch với những bước đi vững chắc, nhưng không chậm trễ, không để dồn gánh nặng này đến sát thời gian cam kết. Hai là, cơ sở hoạch định chính sách là khuyến khích các nhân tố tích cực: để thích ứng và hội nhập có hiệu quả, Việt Nam cần khuyến khích sự phát triển của các nhân tố tích cực trong nền kinh tế và bắt buộc các nhân tố lạc hậu phải chủ động điều chỉnh. Đồng thời, phải tính toán để thực hiện chính sách bảo hộ một cách hợp lý, không tạo ra đột biến về mức bảo hộ “bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn”, trong khi đó cũng phải đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trên cơ sở phân tích rõ lợi thế so sánh của ta để xác định và xây dựng những ngành có tính đột phá mũi nhọn, có khả năng cạnh tranh cao đủ sức đương đầu với đối thủ nước ngoài khi điều kiện bảo hộ không còn nữa. Ba là, lộ trình cần có mục tiêu dài hạn kết hợp với tính đo được, kiểm tra được và có tác dụng khuyến khích: sự điều chỉnh đó cần thể hiện bằng một lộ trình chiến lược kết hợp với các mục tiêu dài hạn và lộ trình ngắn rõ ràng để tạo ra mốc đến, thước đo để khuyến khích mọi nỗ lực trong giai đoạn thích hợp. Lộ trình đó cần sớm được công bố cho mọi đối tác liên quan. Bốn là, kết hợp thực tiễn phát triển với khả năng đàm phán: lộ trình đó cần mang tính tích cực và khẩn trương trên một nền tảng rõ ràng để có sức thuyết phục trong đàm phán, ngăn chặn mọi khả năng diễn biến bất lợi của các yếu tố bên ngoài, cho phép khai thác ngoại lực để bổ sung cho sự phát huy nội lực ngay trong quá trình đàm phán gia nhập, chứ không chờ đến khi gia nhập. Căn cứ vào những quan điểm trên cùng với thực trạng nền kinh tế và yêu cầu của hội nhập, Việt Nam cần sớm xây dựng lộ trình cam kết để hội nhập GATS theo hướng chủ động, chấp nhận đương đầu với thách thức, tận dụng cơ hội để vươn lên rút ngắn khoảng cách về trình độ giữa nền kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và thế giới theo chủ trương “chống tụt hậu” của Đảng, phá bỏ quan niệm “càng kéo dài thời gian bảo hộ càng tốt” để sớm phổ biến quán triệt tới từng doanh nghiệp, từng địa phương giúp họ có định hướng cụ thể, xây dựng chương trình hành động cụ thể trong tiến trình hội nhập sắp tới. Chiến lược hội nhập này phải mang tính toàn diện, tổng thể, chi tiết hoá ở từng cấp, ngành. Cần cụ thể hoá các yêu cầu của GATS để xây dựng cơ sở cho phương án đàm phán, từ đó định ra các nguyên tắc ứng xử phù hợp trong từng lĩnh vực dịch vụ, đồng thời xác định rõ lộ trình, thời gian biểu, cam kết thực hiện những nghĩa vụ của GATS ở những mức độ có thể chấp nhận được. Cơ chế của GATS cho phép các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam sự linh động trong khi đưa ra cm kết và được quyền bảo lưu các chính sách, biện pháp nhất định nhằm theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế của mình. Do đó, về nguyên tắc, Việt Nam có thể sử dụng một giai đoạn chuyển đổi nào đó hoặc bảo lưu một số biện pháp không phù hợp với quy định của GATS/WTO. Nhưng trong bất cứ khả năng nào đi nữa thì về mặt kỹ thuật, Việt Nam phải sẵn sàng đưa ra luận cứ cần thiết để thoả mãn yêu cầu của các nước thành viên để có được giai đoạn chuyển đổi đó. Tóm lại: + Việc cam kết theo lộ trình cần được dựa tên cơ sở ban hành quy định và thủ tục cấp phép chặt chẽ + Tập trung xây dựng lộ trình đối với những lĩnh vực có xu hướng tự do hoá cao và trung bình + Nghiên cứu khả năng đưa ra cam kết thêm cho những lĩnh vực dịch vụ không quan trọng tạo cân đối chung cho đàm phán + Lộ trình được xây dựng trên cơ sở có sự phát huy hiệu quả tối đa tiềm năng phát triển của các ngành dịch vụ. Tránh tình trạng bảo hộ lan tràn dẫn đến tình trạng hoạt động kém hiệu quả của các ngành dịch vụ và nền kinh tế Các giải pháp cụ thể cho một số ngành dịch vụ quan trọng Nhận thức về vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế, xu hướng phát triển của thương mại dịch vụ và những thách thức, cơ hội của Việt nam trong quá trình gia nhập WTO là cơ sở quan trọng để chúng ta đưa ra những chính sách và kiến nghị cụ thể trong chính sách hội nhập. 2.1. Dịch vụ giao thông vận tải Giao thông vận tải là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng, do vậy cần đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế xã hội phục vụ kịp thời cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước, cho tiến trình hội nhập với khu vực và quốc tế. Với quan điểm phát triển giao thông vận tải như vậy, chúng ta cần phải thực hiện những biện pháp cụ thể sau: Đề nghị Nhà nước có chính sách và biện pháp thiết thực để quản lý và bảo vệ thị trường vận tải như một số nước trong khu vực đã làm trong giai đoạn hiện nay chẳng hạn phải giữ độc quyền kinh doanh các lĩnh vực vận tải nội địa và các dịch vụ đại lý tàu biển đến năm 2010. Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, hiện đại hoá các trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ vận tải và các dịch vụ phụ trợ của nó. Tuy nhiên, hạn chế cho phép nước ngoài đầu tư vào cảng biển, vì đây là một trong những lợi thế của quốc gia. Cần có quy định ưu đãi trong việc vay vốn để đầu tư phát triển đội tàu biển, nhanh chóng đầu tư đổi mới đội tàu quốc gia để trong một thời gian ngắn có đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, trang thiết bị hiện đại đủ sức cạnh tranh với các đội tàu quốc tế, hội nhập với thị trường quốc tế và khu vực. Tổ chức tốt vận tải quá cảnh và liên vận quốc tế trên các tuyến đường sắt xuyên á, đường bộ xuyên á, các đường hàng lang Đông Tây, các tuyến đường sông, đường biển, hàng không nối liền với các nước trong khu vực và thế giới Có chính sách hỗ trợ để các ngành dịch vụ GTVT tăng cường năng lực, hiện đại hóa công nghệ thực hiện các dịch vụ, nâng cấp hệ thống thông tin quản lý điều hành và tăng cường đào tạo và sử dụng cán bộ có năng lực, chiếm lĩnh thị trường nội địa trước khi mở cửa thị trường này cho các doanh nghiệp nước ngoài. Tăng cường sự liên kết giữa các phương thức vận tải, đặc biệt là phát triển vận tải đa phương thức quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, vận tải đa phương thức (VTĐPT) là một đòi hỏi cấp thiết đối với nước ta, một nước có lợi thế về vận tải nhất là vận tải biển. Phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội liên quan đến vận tải như Hiệp hội chủ tàu Việt Nam, Hiệp hội giao vận và kho vận Việt Nam, Hiệp hội cảng biển Việt Nam… để nâng cao khả năng cạnh tranh của Việt Nam trên thị trường thế giới Hoàn thiện hơn nữa những hoạt động quản lý của Nhà nước về vận tải quốc tế theo hướng hội nhập quốc tế, hiện đại hoá các hoạt động quản lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính Về mặt luật pháp: xây dựng hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, rõ ràng minh bạch và nhất quán. Hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng phù hợp dần với thông lệ quốc tế. 2.2. Dịch vụ du lịch Trên cơ sở phân tích tiềm năng, điều kiện phát triển du lịch nước ta cũng như xu hướng phát triển của du lịch thế giới và khu vực, Đảng ta đã chỉ rõ định hướng phát triển ngành du lịch: “tập trung phát triển du lịch văn hoá, lịch sử, cảnh quan môi trường, tạo sức hấp dẫn đặc thù, giữ gìn và phát huy bản sác văn hoá dân tộc. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm du lịch, thu hút nhiều khách quốc tế, đáp ứng nhu cầu tham quan du lịch ngày càng tăng, tạo công ăn việc làm cho xã hội, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước”. Phương hướng phát triển ngành du lịch Việt Nam trên đây đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh “phát triển nhanh du lịch, đưa du lich trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng nước ta trở thành một trung tâm thương mại du lịch có tầm cỡ trong khu vực”. Trên phương hướng như vậy, chỉ tiêu đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam trong thời gian tới rất lớn: năm 2005 đón 3,5- 4 triệu lượt khách quốc tế, 15-16 triệu lượt khách nội địa, doanh thu đạt 2 tỷ USD; năm 2010, đón 6-7 triệu lượt khách quốc tế, 25 triệu lượt khách nội địa, doanh thu đạt 4-5 tỷ USD. Để đạt được những chỉ tiêu trên và hội nhập thành công, thì ngành du lịch Việt Nam cần phải: Tăng cường thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cấp, cải tạo, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tôn tạo các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử văn hoá Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam ra nước ngoài. Dự thảo “Chương trình quốc gia về du lịch” đã nêu rõ “toàn ngành cần tập trung nghiên cứu, hoạch định chiến lược, kế hoach phát triển ngắn hạn, trung hạn, dài hạn về công tác marketing, xúc tiến du lịch Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, coi đó là chương trình hành động ưu tiên nhất của ngành trong thời gian tới”. Như vậy công tác marketing, xúc tiến du lịch Việt Nam là rất quan trọng. Để có thể xúc tiến được du lịch Việt Nam, chung ta có thể thực hiện các biện pháp: tham gia các hội chợ du lịch quốc tế, liên hoan chuyên đề, sản xuất các bộ phim, chương trình về du lịch Việt Nam; đặt các văn phòng đại diện, chi nhánh ở những nước là đầu mối giao lưu quốc tế, phối hợp chặt chẽ với các hãng hàng không, các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài… Mở rộng quan hệ hợp tác đa phương, đẩy mạnh quan hệ hợp tác du lịch với Trung Quốc và các nước ASEAN, khôi phục quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với Liên bang Nga, các nước SNG, các nước Châu á- Thái Bình Dương, phát triển quan hệ với Pháp, Mỹ… Mở rộng quan hệ hợp tác du lịch với Tổ chức du lịch Thế giới, tích cực tham gia chương trình hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mê Kông, mở rộng hợp tác du lịch ba nước Việt Nam- Lào- Thái Lan. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế để có thể tranh thủ vốn công nghệ, nguồn khách, và giúp ta có thể thâm nhập vào những thị trường mới đồng thời tạo thêm cơ hội, năng lực giữ vững thị trường truyền thống. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách phát triển du lịch như tiếp tục tháo gỡ một số khâu về thủ tục xuất nhập cảnh. Các nước có ngành du lịch phát triển đều coi giải quyết thủ tục cho khách là khâu quan trọng, ở nước ta việc giải quyết vấn đề trên đã có nhiều tiến bộ cơ bản ví dụ như cấp Visa tại cửa khẩu (áp dụng thí điểm tại sân bay Nội Bài và Tân Sơn Nhất) và giảm lệ phí Visa cho khách du lịch tầu biển. Tuy nhiên thủ tục xuất nhập cảnh vẫn còn nhiều tồn tại cần được tháo gỡ như: + Các ngành liên quan tới khâu làm Visa cho khách du lịch chỉ nên thu lệ phí theo quy định của Chính phủ, giảm và bỏ phụ thu (hiện nay các doanh nghiệp lữ hành thu phụ thu quá cao), nên cấp nhanh giảm phiền hà cho khách, nghiên cứu ứng dụng cơ chế miến Visa cho khách du lịch là công dân các nước ASEAN + Cho phép khách nhập, xuất cảnh qua bất cứ cửa khẩu quốc tế nào của Việt Nam. Đây là vấn đề khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đòi hỏi rất nhiều, mà thông lệ quốc tế về du lịch cũng quy định như vậy. Nếu vấn đề này được thực hiện thì sẽ tạo ra rất nhiều thuận lợi cho du khách quốc tế Phối hợp chặt chẽ với nhiều ngành khác như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, ngân hàng, công an… Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Vì vậy để phát triển du lịch thì ngoài sự vươn lên của bản thân ngành du lịch cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành du lịch với các Bộ, Ngành chức năng và địa phương để giải quyết có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho phát triển du lịch. Hiện đại hoá hệ thống khách sạn. Kinh doanh khách sạn giữ một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của du lịch Việt Nam. Kết quả tăng trưởng của du lịch Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của các khách sạn. Kinh doanh khách sạn đã đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội- chính trị, an ninh- an toàn, đóng góp vào ngân sách Nhà nước, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Để nâng cao chất lượng và từng bước hiện đại hoá hệ thống khách sạn, góp phần tích cực cho phát triển du lịch thì cần phải: khuyến khích các khách sạn đầu tư nâng cấp, áp dụng công nghệ phục vụ hiện đại; mở rộng và nâng cao chất lượng các dịch vụ nhằm thu hút, kéo dài thời gian lưu trú của du khách; tăng cường tuyên truyền, quảng cáo về ngành du lịch và chất lượng của hệ thống khách sạn Việt Nam cho du khách trên các phương tiện thông tin đại chúng; xây dựng hiệp hội khách sạn… Phát triển, nâng cấp các khu, các điểm du lịch: cải thiện cơ sở vật chất tại các điểm du lịch, đầu tư xây dựng một số khu du lịch tổng hợp và cải thiện môi trường tại các điểm du lịch. Cụ thể là tiến hành thống kê, phân tích đánh giá các điểm du lịch hiện đang khai thác; lựa chọn khai thác, tu bổ các khu du lịch ở các địa phương; quy hoạch và xây dựng một số khu du lịch có tầm cỡ quốc gia tại Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, TpHCM. Phát triển nguồn nhân lực đạt được những tiêu chuẩn của quốc gia và quốc tế. Cần có một chương trình đào tạo toàn diện với những kế hoạch cụ thể về đào tạo mới và đào tạo bổ túc, nâng cao kiến thức và trình độ nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên trong ngành. Ngoài ra còn phải nâng cao hiểu biết về du lịch, về cách ứng xử đối với khách du lịch cho nhân dân trong cả nước đặc biệt là ở các trung tâm du lịch lớn như Hà Nội, Tp HCM. Tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của thế hệ tương lai. Để phát triển bền vững thì phải khai thác sử dụng tài nguyên một cách hợp lý, hạn chế việc sử dụng quá mức và giảm thiểu chất thải, khai thác gắn liền bảo tồn, phù hợp với quy hoạch tổng thể. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế thì cần phải đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá ra nước ngoài, mở các văn phòng đại diện ở các thị trường trọng điểm, tham gia các hội chợ du lịch quốc tế do Tổng cục du lịch tổ chức, nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, xây dựng các tour, tuyến điểm. Ví dụ có thể xây dựng các tuyến du lịch chuyên đề như: tuyến du lịch chuyên đề biển Việt Nam; tuyến du lịch sinh thái, vườn quốc gia; tuyến du lịch chuyên đề các dân tộc Việt Nam; tuyến du lịch chuyên đề hang động… 2.3. Dịch vụ ngân hàng Hệ thống ngân hàng là một bộ phận quan trọng của hệ thống tài chính quốc gia, đóng vai trò “bà đỡ” cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá, vai trò của ngành ngân hàng lại càng trở nên quan trọng. Việc chấn chỉnh và củng cố hệ thống ngân hàng là một việc hết sức cần thiết. Để chủ động hội nhập ngành ngân hàng cần thực hiện một số biện pháp sau: 2.3.1 Biện pháp chung cho toàn hệ thống ngân hàng: Xây dựng một hệ thống ngân hàng có khả năng huy động tốt hơn các các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; Tách bạch hoạt động kinh doanh ngân hàng theo nguyên tắc thị trường và hoạt động tín dụng ưu đãi theo chính sách của Nhà nước; Tạo ra các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) hoặc các tập đoàn tài chính có qui mô lớn, hoạt động đa năng, hiện đại, an toàn, có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao; Nâng cao toàn diện năng lực quản lý và năng lực giám sát hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực khu vực và quốc tế; Cơ cấu lại các NHTMQD phải đảm bảo không gây trở ngại cho hoạt động tiền tệ - tín dụng - thanh toán đối với nền kinh tế; phải gắn với việc sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp quốc doanh; Tăng cường khả năng hội nhập của các NHTMQD vào thị trường tài chính quốc tế; Có bước đi thích hợp và đề án cụ thể đối với việc cơ cấu lại từng NHTMQD. 2.3.2 Tăng cường vai trò của Ngân hàng Nhà nước: Về mô hình tổ chức: Cải tiến mô hình tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Trung ương và các chi nhánh, gắn liền với hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để Ngân hàng Nhà nước thực hiện hiệu quả vai trò của ngân hàng trung ương trong quản lý kinh tế vĩ mô và giám sát, đảm bảo sự hoạt động an toàn của hệ thống các TCTD; Về điều hành các công cụ chính sách tiền tệ: áp dụng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ, hạn chế và tiến tới xoá bỏ các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp; xây dựng cơ chế quản lý ngoại tệ theo hướng tự do hoá có quản lý; cải tiến hệ thống kế toán, kiểm toán theo các chuẩn mực quốc tế; xây dựng hệ thống quản lý rủi ro dựa trên một hệ thống thông tin hiện đại. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng; Về cơ chế chính sách: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản quy chế để thực hiện tốt Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD. 2.3.3 Đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh: Cơ cấu lại tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh: + Lành mạnh hoá tài chính của các NHTMQD trên cơ sở cơ cấu lại nợ, làm sạch bảng cân đối tài sản và áp dụng các biện pháp ngăn ngừa phát sinh nợ xấu mới; + Thành lập Ban chỉ đạo cơ cấu lại tài chính NHTMQD của Chính phủ, thành lập các công ty quản lý nợ và tài sản tồn đọng tại các NHTM với cơ chế và nguồn vốn xử lý nợ tồn đọng rõ ràng nhằm giúp các NHTMQD giải quyết kịp thời các khoản nợ tồn đọng, tránh tác động xấu đến tình hình tài chính của các ngân hàng; + Tăng vốn tự có của các NHTMQD bằng các nguồn từ ngân sách, tái cấp vốn, tái đầu tư, bán cổ phần và khuyến khích các NHTMQD tích cực thu hồi các khoản nợ đã khoanh. Sắp xếp cơ cấu lại bộ máy tổ chức và nâng cao năng lực điều hành quản trị ngân hàngân hàng đa năng, thay thế cho việc quản lý theo chức năng và nghiệp vụ hiện nay. Đồng thời, mô hình tổ chức này sẽ khắc phục cơ bản những hạn chế hiện nay của NHTMQD: kiểm soát được rủi ro, nâng cao năng lực kiểm soát, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực ứng dụng công nghệ mới ngang tầm khu vực và quốc tế; + Xây dựng bộ máy thật tinh giản, gọn nhẹ, hiệu quả, giải quyết lao động dư thừa, lao động không đáp ứng được nhu cầu. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng tối đa nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đẩy mạnh ứng dụng theo xu hướng thực tiễn và chủ động hội nhập công nghệ hiện đại; tập trung giải quyết dứt điểm mạng truyền thông hệ thống, các chương trình ứng dụng song song với đổi mới trang thiết bị để nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nâng cao năng lực thu thập và xử lý thông tin phục vụ cho thẩm định, đánh giá khả năng vay trả, an toàn tín dụng. Tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá tất cả các nghiệp vụ ngân hàng đạt tiêu chuẩn quốc tế đảm bảo khả năng hội nhập, tạo điều kiện để các ngân hàng Việt nam tham gia vào thị trường tài chính khu vực và thế giới. Giữ vững các sản phẩm truyền thống và cố gắng tạo ra các sản phẩm mới phục vụ mọi khách hàng trong và ngoài nước. Duy trì các khách hàng truyền thống nhất là các Tổng công ty lớn, chủ động lựa chọn khách hàng tốt, các dự án tốt để đầu tư. Tích cực nghiên cứu xác định những lĩnh vực trọng điểm để tiếp tục mở rộng khách hàng, nâng cao thị phần. Thường xuyên quan tâm tới việc cắt giảm mọi chi phí, tiết kiệm trong toàn ngành ngân hàng để đưa kinh doanh đạt hiệu quả cao. Mỗi ngân hàng cố gắng nâng cao tích luỹ để có nguồn vốn bù đắp rủi ro kinh doanh một cách kịp thời. Đặc biệt coi trọng công tác bồi dưỡng đào tạo đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn vững vàng, nhạy cảm với các diễn biến của thị trường. Việc rèn luyện bồi dưỡng một mặt phải tăng cường học tập thấm nhuần đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, mặt khác thông qua hoạt động thực tiễn kinh doanh, cọ sát với thị trường trong và ngoài nước để nâng cao trình độ nghiệp vụ đảm bảo cho hội nhập thành công. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ kiểm tra, kiểm toán cao, có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu của một hệ thống ngân hàng hiện đại để nâng cao uy tín của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên toàn thế giới. Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, củng cố và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng đại lý truyền thống có tín nhiệm, thiết lập và đa dạng hoá các mối quan hệ song phương, đa phương với các ngân hàng, các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế. 2.3.4 Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần Lành mạnh hoá tài chính của các NHTM cổ phần trên cơ sở cơ cấu lại nợ, tiến hành các biện pháp giám sát đặc biệt đối với ngân hàng có tình trạng nợ xấu nghiêm trọng. Yêu cầu tăng vốn điều lệ đối với các NHTM cổ phần trên cơ sở cơ cấu lại sở hữu nhằm tăng qui mô hoạt động và chất lượng tín dụng của các ngân hàng này; Đặt ra yêu cầu tái cơ cấu tổ chức và các chuẩn mực quản lý đối với các NHTM cổ phần đặc biệt là các bộ phận quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ- tài sản có, giám sát và kiểm toán nội bộ; Tiến hành giải thể hoặc sáp nhập các ngân hàng yếu kém, mất khả năng thanh toán, chất lượng tín dụng thấp, khả năng sinh lời thấp và trình độ quản lý không đảm bảo yêu cầu an toàn và phát triển; Tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM cổ phần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đào tạo nâng cao trình độ quản lý, tham gia có hiệu quả vào thị trường tiền tệ thứ cấp, nghiệp vụ tái cấp vốn và hệ thống thanh toán của Ngân hàng Nhà nước; Sức mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước phải được củng cố và tăng cường đảm bảo khả năng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và quốc tế. Đặc biệt, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh phải giữ một thị phần quan trọng và quyết định để đảm bảo vai trò chủ đạo. Việc mở cửa và nới lỏng các ràng buộc tài chính đối với các TCTD nước ngoài sẽ được bắt đầu từ lĩnh vực mà hệ thống ngân hàng trong nước có khả năng cạnh tranh cao rồi từng bước mở rộng sang các lĩnh vực khác dựa trên sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng trong nước và cam kết mở cửa trước những lĩnh vực mà ta khuyến khích các ngân hàng nước ngoài tham gia. Kết luận Dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nó không chỉ có những đóng góp to lớn về mặt kinh tế mà còn góp phần tích cực trong việc cải thiện các điều kiện xã hội như giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập. Trong xu hướng toàn cầu hoá, thương mại dịch vụ cũng phát triển không ngừng. Xu thế tự do hoá thương mại dịch vụ trở thành tất yếu. Việc đóng cửa thị trường trở nên lỗi thời. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Tuy nhiên trong quá trình hội nhập, các ngành dịch vụ rất non trẻ của Việt Nam còn nhiều bất cập như: năng lực tài chính thấp, quy mô vốn nhỏ bé; cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu, không đồng bộ; thiếu đội ngũ cán bộ nhân viên có trình độ cao… Thêm vào đó, hệ thống văn bản pháp quy điều chỉnh các ngành dịch vụ còn chồng chéo, thiếu minh bạch. Mặt khác, các ngành dịch vụ đa phần là những ngành trọng yếu liên quan mật thiết tới an ninh quốc phòng nên quan điểm về mở cửa còn hết sức dè dặt. Trên cơ sở đó, nhằm khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong các ngành dịch vụ để hội nhập thành công, đề tài đã đưa ra các giải pháp chung cho toàn ngành dịch vụ như: phát triển thương mại dịch vụ bên cạnh đầu tư cho phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành dịch vụ, giải quyết tốt mối quan hệ giữa bảo hộ và tự do hoá, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng lộ trình cam kết. Ngoài những biện pháp chung đó, đề tài còn đưa ra những kiến nghị cụ thể về hệ thống pháp lý, đầu tư, công tác đào tạo cán bộ… cho một số ngành dịch vụ quan trọng với mong muốn các ngành dịch vụ của Việt Nam có thể đứng vững khi Việt Nam dỡ bỏ các “lá chắn bảo hộ” để mở cửa thị trường. Hy vọng rằng đề tài sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc giúp các nhà quản lý và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Việt Nam có được cái nhìn tổng quan về Hiệp định chung về thương mại dịch vụ và các thuận lợi, khó khăn khi hội nhập, từ đó có thể xây dựng, hoạch định những chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn để có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện chúng ta từng bước hội nhập vào Tổ chức thương mại Thế giới (WTO). liệu tham khảo Trang web chính thức của tổ chức Thương mại Thế Giới WTO: trang chuyên đề về GATS: International trade statistics 2002, World Trade Organizations 2002 Manual on Statistics of International Trade in Services, United Nations 2002 GATS 2000- Mở cửa thị trường dịch vụ, NXB Chính trị quốc gia năm 2000 Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hóa, Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2002 Tổ chức thương mại thế giới, Báo cáo hàng năm của Geneva. Xu hướng phát triển của thế giới đầu thế kỷ XXI, Bộ Ngoại Giao 2001 Dịch vụ và quản lý nhà nước về dịch vụ, NXB Chính trị quốc gia năm 2000 Nghiên cứu chuyên đề về dịch vụ- Bộ thương mại Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN. Bài học kinh nghiêm cho Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia năm 2000 Chính sách tài chính của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế, NXB Khoa học và kỹ thuật, năm 2000 Xây dựng và giao thông vận tải- Bộ giao thông vận tải International economics and international economic policies, UNIDO-UNND, năm 2000 Văn kiện Đại hội Đảng lần VI, VII, VIII, IX, NXB Chính trị quốc gia Bộ luật hàng hải (1990), NXB chính trị quốc gia Luật hàng không dân dụng (1992), NXB Chính trị quốc gia Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và các sửa đổi bổ sung năm 2000 Pháp lệnh du lịch Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia năm 1998 Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia năm 1998 Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 của Chính phủ về tổ chức hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam Thông tư số 8/2000/TT-NHNN ngày 4/7/2000 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định và các văn bản pháp lý liên quan khác Quyết định số 2788 QĐ/PC ngày 17/5/1995 của Bộ Giao thông vận tải về việc tàu biển nước ngoài vận chuyển hàng hoá, hành khách và hành lý giữa các cảng biển Việt Nam Quyết định số 2054 QĐ/PC ngày 6/8/1996 của Bộ Giao thông vận tải quy định thủ tục mở tuyến vận chuyển hàng hoá và hành khách của tàu biển nước ngoài theo hình thức khai thác định tuyến tại các cảng biển Việt Nam Quyết định 2188 QĐ/VT ngày 23/10/1992 của Bộ Giao thông vận tải ban hành quy chế quản lý đại lý tàu biển và môi giới hàng hải Quyết định số 1991 QĐ/VT ngày 28/9/1992 của Bộ Giao thông vận tải ban hành quy chế quản lý kinh doanh dịch vụ vận tải Nghị định số 20/CP của Chính phủ ngày 27/12/1997 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch Công văn số 972/TCDL của Tổng cục du lịch về liên doanh lữ hành quốc tế Quy chế quản lý lữ hành của Tổng cục du lịch ngày 29/04/1995 Một số bài báo và các kết quả nghiên cứu trong tạp chi Ngân hàng, tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, tạp chí Ngoại thương, tạp chí Du lịch Việt Nam, tạp chí Giao thông vận tải, tạp chí Hàng hải Việt Nam, tạp chí Kinh tế Châu á- Thái bình dương Niêm giám thống kê các năm 2000, 2001 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33286.doc
Tài liệu liên quan