Lời mở đầu
1. Đặt vấn đề
Sau một quá trình rèn luyện và học tập là thời gian cho đợt thực tập (1 tháng) của sinh viên khoa Văn hóa Du lịch K7 - trường Đại học Dân lập Đông Đô. Bản thân em cũng như tâm trạng của sinh viên toàn khóa đang đứng trước những thử thách cho thời gian sắp tới là kỳ thi tốt nghiệp kết thúc khóa học 2001-2004.
Bên cạnh ý thức học tập những kiến thức trong trường đại học, và nay kết hợp với thực hành được lượng kiến thức đó vào công việc, vào cuộc sống thực tế thì đây hẳ
60 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng ngành Du lịch Hải Dương - Xu hướng phát triển ngành du lịch đến 2020 (57tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là thời cơ cho những ai thực sự có năng lực, thực sự có khả năng áp dụng kiến thức đã học vào phần nào công việc nơi thực tập như một thành viên chính thức của cơ sở đó.
Chính vì thế trong 1 tháng này không những là tìm hiểu sưu tầm tài liệu để hoàn thành bài báo cáo mà còn mở ra cơ hội cho mỗi chúng ta trên con đường hướng nghiệp sau này.
Thực tập tại địa phương, Sở Thương mại - Du lịch tỉnh Hải Dương - Số 14, phố Bắc Sơn, phường Quang Trung, thành phố Hải Dương, em đã nhận được sự nhiệt tình giúp đỡ của phòng Du lịch. Đây là cơ sở để em hoàn thành báo cáo của mình một cách sớm nhất, song tất sẽ còn nhiều sai sót vì bản thân em cũng còn nhiều hạn chế về kiến thức, phương pháp luận... Em mong nhận được sự bỏ khuyết, được tiếp thu những đóng góp quý báu của thầy cô cùng các bạn. Bộ mặt ngành Du lịch Hải Dương hôm nay đang dần được khởi sắc bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là quá trình quy hoạch du lịch toàn tỉnh.
Để bổ sung phần kiến thức, làm phong phú cho đề tài em đã chọn. Dưới đây xin khái quát nhưng là trọng điểm của đề tài với nội dung: “Hiện trạng ngành Du lịch Hải Dương - xu hướng phát triển ngành du lịch đến 2020”.
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội 57km về phía Đông, có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng và các tuyến quốc lộ 5,18 chạy qua nối với trung tâm kinh tế, chính trị Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh cùng với hệ thống giao thông đường thủy sông Thái Bình, song Kinh Thầy... Do đó Hải Dương có điều kiện thuận lợi giao lưu với các vùng, miền trong nước và quốc tế.
Thiên nhiên ưu đãi và hào phóng dành cho Hải Dương một vùng đát trù phù, cảnh quan đa dạng, có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng như Chí Linh - “vùng đất địa linh nhân kiệt” có quan hệ nhiều đến danh nhân, Côn Sơn - mảnh đất gắn bó với cuộc đời Nguyễn Trãi một danh nhân văn hóa thế giới, người anh hùng dân tộc, Kiếp Bạc mảnh đất đã đi vào lịch sử với chiến công oanh liệt của Trần Hưng Đạo, trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỷ 13... Con người Hải Dương tài hoa, thông minh, hiếu học. Với truyền thống lịch sử lâu đời từ ngành xưa, người dân xử Đông đã tạo dựng và để lại cho thế hệ ngày nay nhiều di sản văn hóa tinh thần mang đậm bản sắc dân tộc như Văn Viếu Mao Điền, Mộ Trạch - làng Tiến Sĩ. Các quân thể di tích với nét kiến trúc tinh xảo, độc đáo, gắn liền với các lễ hôi dân gian truyền thống đã thu hút đông đảo khách thập phương đối với Hải Dương.
Các yếu tố tự nhiên kết hợp với các di tích lịch sử văn hóa của Hải Dương là một tài nguyên vô cùng quý giá. Là điều kiện thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch sinh thái, văn hóa, thể thao, nghỉ dưỡng... Tuy nhiên thực trạng phát triển du lịch tỉnh Hải Dương trong những năm qua vẫn còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của mình. Hoạt động du lịch chủ yếu còn dựa vào cơ sở khai thác các tài nguyên sẵn có, đầu tư cơ sở khai thác các tài nguyên sẵn có, đầu tư cơ sở vật chất còn ở mức khiêm tốn, thiếu đồng bộ nên chưa có sản phẩm du lịch hấp dẫn du khách. Vì vậy việc đầu tư xây dựng và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Hải Dương đến 2020 là hết sức cấp bách và cần thiết.
2. Tên đề tài:
“Tác động của du lịch đến địa phương” cụ thể nội dung: Thực trạng ngành du lịch Hải Dương - xu hướng phát triển du lịch đến 2020.
Phần I
Cơ sở lý luận về du lịch
1. Các định nghĩa về du lịch và chức năng của du lịch
Có nhiều cách hiểu về 2 từ “Du lịch” để từ đó có những khái niệm chung, khuôn mẫu nhất định giúp ta hiểu 1 cách rõ ràng tầm quan trọng của ngành Du lịch đã tác động đến kinh tế - xã hội, địa phương, vùng như thế nào. Trước hết ta phải nắm được các định nghĩa về du lịch rồi từ đó có thể phân tích các lợi ích mà ngành Du lịch mang lại cho nền kinh tế - xã hội.
1.1. Các định nghĩa về Du lịch
- Du lịch là một ngành công nghiệp không khói. Hiện nay trên thế giới có hàng trăm triệu người đi du lịch, và số người đi du lịch có khuynh hướng ngày càng gia tăng. Tuy nhiên du lịch là một ngành tổng hợp của nhiều ngành chuyên biệt.
- Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan giải trí nghỉ dưỡng của nội dung kinh doanh du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế xã hội. Và để phát triển du lịch trong nước và du lịch quốc tế như vậy thì không những đẩy mạnh giao lưu sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và du lịch góp phần ổn định nhà nước trong thời kỳ mở cửa.
- Ngay từ những ngày đầu tiên du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn nhất đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi dưỡng bệnh, các hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước trừ việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm lược, đề mang ý nghĩa du lịch.
* Khái niệm du lịch có thể được xác định như sau: Du lịch là một dạng hoạt động của cư dân trong thời gian rỗi, liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ dưỡng chữa bênh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hóa xã hội kèm theo việc tiêu thụ trong du lịch.
1.2. Chức năng của du lịch
Du lịch có những chức năng nhất định
- Chức năng xã hội: chức năng này thể hiện ở vai trò của nó trong việc giữ gìn phục hồi sức khỏe cho nhân dân. Trong 1 chừng mực nào đó nghỉ dưỡng khi du lịch có thể hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ...
- Chức năng kinh tế: Liên quan mật thiết với các vai trò của con người như lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Hoạt động sản xuất là cơ sở tồn tại của xã hội và nó góp phần vào việc hồi phục sức khỏe cũng như khả năng lao động, mặt khác đảm bảo sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt.
- Chức năng sinh thái: Thể hiện ở việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Môi trường ảnh hưởng tới sức khỏe con người, khách đi du lịch vừa kết hợp tìm hiểu, nghỉ ngơi và có điều kiện tiếp xúc với thiên nhiên. Một mặt đảm bảo tối ưu sự phát triển du lịch, mặt khác phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch.
- Chức năng chính trị: Như một nhân tố củng cố hòa bình, giao lưu quốc tế, đẩy mạnh sự hiểu biết giữa các dân tộc và đi đến tình hữu nghị.
2. Kinh tế du lịch
Hàng năm ngành du lịch đã đem về cho mỗi quốc gia 1 số tiền khổng lồ. Người ta nói chi Chính phủ bỏ ra 1 đồng để đầu tư vào du lịch sẽ thu về một ngàn đồng lợi nhuận, bởi lẽ Du lịch là ngành tổng hợp mang tính chất chính trị, kinh tế văn hóa xã hội. Khi đầu tư vào du lịch là đã mở ra sự phát triển mới, Nhà nước quản lý về Du lịch và chỉ đạo các chiến lược kinh doanh du lịch đi đôi với việc hợp tác về Du lịch. Du lịch là hiện tượng kinh tế xã hội thu hút hàng tỷ người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa phục vụ thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thân của du khách.
Phần II
Đánh giá tài nguyên du lịch và hiện trạng ngành Du lịch tỉnh Hải Dương
I. Đánh giá tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích cách mạng mang giá trị tự nhiên và nhân văn. Là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch thu hút du khách
1. Vị trí địa lý
Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, phía Bắc giáp Bắc Ninh và Bắc Giang, phía Đông giáp Hải Phòng, phía Tây giáp Hưng Yên, Nam giáp Thái Bình. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa: nóng - lạnh rõ ràng (nóng từ tháng 4 đến tháng 10, lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm 230C).
Địa hình Hải Dương tương đối bằng phẳng, giao thông đường bộ, đường sắt, đường sông đều thuận lợi. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5, cách Hải Phòng 45km về phía Đông, cách thủ đô Hà Nội 57km về phía Tây. Phía Bắc của tỉnh có 20km quốc lộ số 18 chạy qua sân bay quốc tế Nội Bài, ra biển qua cảng Cái Lân.
Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía Bắc ra các cảng biển. Hơn nữa, Hải Dương là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, sẽ là thuận lợi cho Hải Dương tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động trên phạm vi toàn vùng Bắc Bộ, đặc biệt là trao đổi hàng hóa với các tỉnh bạn lân cận hoặc xa hơn như các thành phố lớn và xuất khẩu. Đây là 1 lợi thế của vị trí tỉnh Hải Dương, nó không những là lợi thế hiện tại mà còn cả trong tương lai.
Trong quy hoạch phát triển du lịch quốc gia, Hải Dương nằm trong không gian trung tâm du lịch Hà Nội và vùng phụ cận thuộc vùng du lịch Bắc Bộ, với tiềm năng du lịch nổi trội như du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, lễ hội, làng nghề... Mặt khác, Hải Dương gần vị trí trung tâm du lịch biển Hải Phòng, Hạ Long, có hệ thống đường bộ và đường sông thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế nói chung và phát triển du lịch nói riêng.
2. Điều kiện tự nhiên
2.1. Địa hình
Là tỉnh vừa có vùng đồng bằng vừa có đồi núi tạo cho Hải Dương có khả năng phát triển mạnh và đa dạng các sản phẩm nông, lâm nghiệp.
- Vùng đồi núi của tỉnh chiếm khoảng 10% diện tích đất tự nhiên bao gồm 13 xã huyện Chí Linh và 18 xã của huyện Kinh Môn, chủ yếu là đồi, núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và các loại cây công nghiệp.
- Vùng đồng bằng của tỉnh gồm các huyện, xã còn lại, có độ cao trung bình 3 - 4 m, đất đai bằng phẳng, màu mở phù hợp với việc trồng cây lương thực, cây thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày.
Địa hình nghiêng và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Phía Đông của tỉnh có một số vùng trũng, thường bị ảnh hưởng úng ngập vào mùa mưa. Hệ thống sông ngòi của tỉnh khá dày đặc, bao gồm hệ thống sông Thái Bình, sông Luộc và các trục Bắc Hưng Hải, có khả năng bù đắp phù sa cho đồng ruộng, đồng thời cũng là tuyến giao thông thủy, tạo điều kiện tốt cho việc giao lưu hàng hóa nội tỉnh ucngx như với các tỉnh khác trong vùng. Tuy nhiên, sông ngòi có nhiều cũng gây khó khăn trong việc đầu tư đắp đê điều phòng chống lụt bão và ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất.
2.2. Khí hậu, thủy văn
2.2.1. Khí hậu
Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, Hải Dương nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm.
Lượng mưa trung bình năm 1500 - 1700 mm, nhiêt độ trung bình năm là 230C, thuận lợi cho cây trồng sinh trưởng. Lượng mưa phân bố không đều, tập trung vào tháng 7, 8, dễ gây úng lụt, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và dân sinh. Độ ẩm không khí trung bình cao từ 75 - 80%, tháng 7 có độ ẩm cao và tháng 8 có độ ẩm trung bình 80 - 86%.
Hải Dương mang đầy đủ những đặc thù của khí hậu nhiệt đới, gió mùa: nóng, ẩm, mưa nhiều và có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông.
Nhìn chung, khí hậu Hải Dương thuận lợi cho môi trường sống của con người, sự phát triển của hệ sinh thái động, thực vật và thích hợp với các hoạt động du lịch. Đặc biêt điều kiện khí hậu vào mùa đông, rất thuận lợi cho việc phát triển cây rau màu thực phẩm, đặc biệt là khả năng trồng rau xuất khẩu.
2.2.2. Thủy văn
Do đặc điểm của địa hình, các dòng chảy ở các sông lớn như sông Hồng, sông Thái Bình chảy qua Hải Dương đều theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và thuộc phần hạ lưu nên dòng sông thường rộng và không sâu, tốc độ dòng chảy chậm hơn phía thượng lưu. Chế độ nước của hệ thống sông ngòi ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa lũ (tháng 5 - tháng 10), mùa cạn (tháng 11 - tháng 4 năm sau).
2.3. Tài nguyên nước
2.3.1. Nguồn nước mặt
Nguồn nước mặt tại Hải Dương rất phong phú, hệ thống sông ngòi khá dày đặc với các sông lớn là sông Hồng, sông Thái Bình, sông Phả Lại, sông Luộc, sông Đuống, sông Kinh Thầy. Ngoài ra, trên lãnh thổ Hải Dương còn có rất nhiều ao hồ được phân bố rộng khắp địa bàn.
Nước mưa: lượng mưa bình quân hàng năm tới 1500 - 1700 mm nhưng phân bố không đều trong năm. Mùa mưa thường gây úng lụt, mùa kho thường thiếu nước cho cây trồng và sinh hoạt và có ảnh hưởng đến hoạt động du lịch.
2.3.2. Nguồn nước ngầm
Ngoài nguồn nước mặt dồi dào Hải Dương còn có một trữ lượng nước ngầm khá phong phú. Lượng nước ngầm tại các giếng khoan từ 30 - 50 cm3/ngày đêm. Nguồn nước ngầm Hải Dương nằm chủ yếu trong tầng chứa nước lỗ hổng Plutôxen, hàm lượng Cl > 200 mg/l. Tầng khai thác phổ biến ở độ sâu trung bình 40 - 120m, có thể khai thác phục vụ sinh hoạt. Ngoài ra còn phát hiện một số tầng nước ngầm có độ sâu từ 250 - 350 m, nước có chất lượng tốt và trữ lượng lớn có thể khai thác phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho nhân dân.
2.4. Địa chất, thổ nhưỡng, rừng và hệ sinh thái
2.4.1. Địa chất, thổ nhưỡng
Đất ở Hải Dương được chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đất đồng bằng chiếm 89% diện tích tự nhiên, chủ yếu là đất phù sa sông Thái Bình, thuận tiện cho việc sản xuất nhiều loại cây trồng cho năng suất cao. Vùng đất đồi núi chiếm 11% diện tích tự nhiên nằm gọn ở phía Đông Bắc thuộc 2 huyện Chí Linh và Kinh Môn, vùng đất này nhìn chung nghèo chất dinh dưỡng, chủ yếu dành cho phát triển cây lấy gỗ, cây ăn quả như vải thiều, dứa, cây công nghiệp như lạc, chè.
Khoáng sản:
Khoáng sản không nhiều nhưng có một số trữ lượng lớn với giá trị kinh tế cao là nguồn nguyên liệu quý giá để phát triển công nghiệp như đá vôi có trữ lượng khoảng 200 triệu tấn đủ để sản xuất 4 - 5 triệu tấn xi măng / năm, cao lanh 40 vạn tấn, sét chịu lửa khoảng 80 triệu tấn...
2.4.2. Rừng và hệ sinh thái
Hệ sinh thái: Trong nhiều năm do phát triển kinh tế chưa theo quy hoạch thống nhất, việc khai phá đất chặt phá rừng bừa bãi ở thượng nguồn đã có tác động xấu đến điều kiện sinh thái của Hải Dương. Ngoài ra việc sử dụng thuốc trừ sâu, phân hóa học trong quá trình canh tác không hợp lý, đồng thời mức độ phát triển công nghiệp và quá trình đô thị hóa tăng nhanh, chất thải ngày một nhiều ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, môi sinh.
Nhìn chung hệ sinh thái của tỉnh Hải Dương ngày một bị xâm phạm, tính cân bằng đang bị phá vỡ. Vì vậy, vấn đề trước mắt cần giải quýet đó là: phải có chính sách hữu hiệu bảo vệ và chăm sóc diện tích rừng hiện có và nhanh chóng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc còn lại. Thực hiện tốt việc quản lý, bảo vệ môi trường để duy trì và làm giàu nguồn tài nguyên đất.
3. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hải Dương
3.1. Về kinh tế
Trong quá trình cùng cả nước thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh Hải Dương đã đào tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn bộ nền kinh tế cũng như quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ trong tổng sản phẩm xã hội của tỉnh. Năm 2003 đạt mức: nông nghiệp 30,7%; công nghiệp 40,7%; dịch vụ 28,6% (năm 2002 tỷ trọng các ngành tương ứng là 32,3%; 39,2%; 28,5%). Trên thị trường hàng hóa lưu thông ổn định, mặt hàng đa dạng phong phú đặc biệt nhiều mặt hàng tiêu dùng sản xuất trong nước đã chiếm ưu thế trên thị trường, rất được ưa chuộng đối với khách du lịch. Sức mua xã hội được cải thiện, hàng hóa địa phương sản xuất nhất là hàng nông sản thực phẩm được tiêu thụ tốt hơn. Đặc biêt riêng ngành du lịch trong thời kỳ 1998 - 2003 đạt mức tăng trưởng bình quân rất cao (30%) và chiếm tỷ trọng 1,14% GDP của tỉnh Hải Dương năm 2003.
Sản xuất nông nghiệp của tỉnh khá phát triển và toàn diện trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, là tỉnh sản xuất lương thực trọng điểm của vùng đồng bằng Bắc Bộ, sản lượng lương thực bình quân đầu người năm 2002 đạt 499kg tăng 48 kg so với năm 1995.
Đây chính là lợi thế so sánh có tính cạnh tranh trong việc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng lương thực thực phẩm nói chung trong đó có lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch.
Công nghiệp và xây dựng: thời kỳ 1998 - 2002 tuy gặp nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, song vẫn giữ được nhịp tăng trưởng cao, bình quân khoảng 15,02%, trong đó công nghiệp quốc doanh tăng bình quân 12,32% năm, công nghiệp ngoài quốc doanh tăng 18,27%/năm và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng cao đạt 114,52%. Một số ngành công nghiệp tiếp tục được tổ chức sắp xếp lại sản xuất, tạo ra giá trị sản phẩm ngày càng tăng phát huy được lợi thế, tạo điều kiện đầu tư chiều sâu, đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu dùng xã hội cũng như xuất khẩu. Một số ngành công nghiệp có tầm nhìn quan trọng cho phát triển kinh tế tỉnh như ngành công nghiệp chế biến, vật liệu xây dựng và các ngành công nghiệp truyền thống...
Các ngành dịch vụ: trong những năm qua thương mại Hải Dương phát triển mạnh với sự tham gia của nhiều ngành kinh tế, hàng hóa lưu thông thuận tiện, đa dạng phong phú, phục vụ tốt sản xuất và tiêu dùng của dân cư trên địa bàn. Thương nghiệp quốc doanh vẫn giữ được vai trò chủ đạo trong việc kinh doanh các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu, lương thực... năm 2002 giá trị sản xuất các ngành thương mại dịch vụ, du lịch đạt 849,97 tỷ đồng tăng 5,75% so với năm 2001. Thành phố Hải Dương không chỉ là trung tâm kinh tế thương mại của tỉnh mà còn là trung tâm thương mại của vùng đồng bằng Bắc Bộ, với hệ thống cửa hàng, chợ... phát triển đáp ứng với nhu cầu của cư dân trong vùng và du khách. Trong những năm qua riêng về ngành thương mại du lịch đã có những bước chuyển biến đặc biệt về các lĩnh vực xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu đã được thực hiện trong 2003 như sau:
- Thịt lợn sữa cấp đông 2600 tấn đạt kim ngạch 2,910 tr USD, chiếm 4,05% tổng kim ngạch xuất khẩu.
- Rau củ, quả các loại: 11.110 tấn đạt kim ngạch 2,932 tr USD, chiếm 4,08%.
- Bánh kẹo các loại: đạt kim ngạch 6,378 tr USD
- Quần áo 28,086 tr USD chiếm 39,06%
- Giày các loại đạt kim ngạch 23,085 tr USD, chiếm 32,11%.
- Hàng hóa khác 7,498 tr USD chiếm 10,43%.
Qua số liệu trên, hai ngành hàng may mặc và giày dép đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh, đây là một hướng đi đúng nhằm khai thác lợi thế so sánh của địa phương.
Hoạt động tài chính ngân hàng có nhiều chuyển biến, tổng thu ngân sách trên địa bàn hàng năm luôn đạt vượt chỉ tiêu kế hoạch, nguồn vốn cơ bản đáp ứng được yêu cầu sản xuất, đời sống. Hệ thống ngân hàng phát triển đảm bảo nguồn vốn tín dụng cho nhu cầu đầu tư, kinh doanh sản xuất. Nhiều dự án đầu tư trong lĩnh vực hoạt động du lịch đã được thực hiện từ nguồn vốn tín dụng đầu tư.
Về hoạt động du lịch: năm 2003 cùng với cả nước, hoạt động du lịch của tỉnh ta có sự khởi sắc đáng kể. Toàn tỉnh hiện có 40 cơ sở khách sạn, nhà nghỉ, trong đó có 5 khách sạn đạt tiêu chẩun 1 sao; 5 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 soa và hàng chục cơ sở lưu trú khác với tổng số trên 950 phòng nghỉ. Năm 2003 các cơ sở ngành Du lịch đã đón tiếp phục vụ trên 155 ngàn lượt khác, tăng 23,8% trong đó có 39.900 lượt khách quốc tế, tăng 21,2%. Tổng doanh thu đạt trên 167 tỷ đồng, nộp ngân sách trên 5 tỷ đồng. Hệ số khai thác phòng của khách sạn đạt trên 58% cao hơn năm 2002. Đặc biệt dịp cuối năm các doanh nghiệp ngành Du lịch đã phục vụ rất tốt Đại hội thể dục thể thao Đông Nam á, góp phần tích cực vào thành công hcung của Đại hội. Sân golf Ngôi Sao Chí Linh được khánh thành giai đoạn I đưa vào khai thác tạo thêm những sản phẩm du lịch mới cho Hải Dương. Nhiều hoạt động tuyên truyền, quảng bá hoạt động của du lịch được Sở Thương mại Du lịch tiến hành như: phát hành sách, phim về du lịch, tổ chức triển lãm và xây dựng tour du lịch làng nghề, tổ chức gian hàng du lịch Hải Dương tại liên hoan Du lịch Hà Nội... đã góp phần tạo ra hình ảnh mới cho hoạt động du lịch ở tỉnh.
3.2. Về xã hội
Theo địa giới hành chính, tỉnh Hải Dương có 11 huyện, 1 thành phố loại II trực thuộc tỉnh với 238 xã, 11 phường, 14 thị trấn. Dân số toàn tỉnh năm 2002 là 1683.973 người (đứng thứ 7 cả nước) trong đó số dân nông thông 1.450.138 người (chiếm 86,4%), dân thành thị 233.835 người (chiếm 13,6%). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 9,79%. Năm 2002, tổng nguồn lao động của tỉnh có 933.784 người, chiếm 53,44% dân số.
Mật độ dân số trung bình 1.022 người/km2. Dân cư thường tập trung ở đô thị và các xóm thôn dọc theo các trục giao thông đường bộ, đường thủy quan trọng tạo thuận tiện cho việc đầu tư các công trình hạ tầng phúc lợi công cộng như trường học, trạm y tế, lưới điện, nước sinh hoạt... Dân tộc chủ yếu sinh sống ở Hải Dương là dân tộc Kinh theo hai tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Tính cách của người dân Hải Dương là mang đậm nét đặc trung của vùng văn minh lúa nước châu thổ sông Hồng: cần cù, hiền lành, phóng khoáng, cởi mở và giàu lòng mến khách.
Do kinh tế tăng trưởng ổn định nên đời sống dân cư ở cả thành thị và nông thôn đều được cải thiện. Đến năm 2002 tỷ lệ hội đói nghèo chỉ còn 7%, toàn tỉnh đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chỡ. Đến nay, tất cả các xã, các phường trên địa bàn tỉnh đều đã có hệ thống điện, đường, trường, trạm tương đối hoàn chỉnh. Phong trào đền ơn đáp nghĩa phát triển manh, phong trào xây dựng nếp sống văn hóa, làng văn hóa ngày càng mở rộng.
4. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường
4.1. Giao thông
Hải Dương có mạng lưới giao thông được phân bố tương đối hợp lý với đủ 3 loại hình: đường bộ, đường sông và đường sắt thuận lợi cho việc giao lưu trong và ngoài tỉnh.
4.1.1. Đường sắt
Hải Dương có 70km đường sắt đi qua (kể cả 15km đường chuyên dùng cho nhà máy nhiệt điện Phả Lại). Tuyến Hà Nội - Hải Phòng qua tỉnh 44km, tuyến Kép - Bãi Cháy qua tỉnh 10km, tạo điều kiện tốt cho việc lưu chuyển giữa Hải Dương và các tỉnh khác cũng như trao đổi hàng hóa xuất khẩu qua cảng Hải Phòng.
4.1.2. Đường bộ
Trên địa bàn tỉnh có khoảng 649 km đường bộ do trung ương và tỉnh quản lý. Các tuyến quốc lộ 5, 18, 183, 37 đã được xây dựng và nâng cấp hoàn chỉnh, khả năng thông xe tốt, thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa trong, ngoài tỉnh (trừ quốc lộ 39). Toàn tỉnh có 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài 258km, trong đó hầu hết đã được rải nhựa. Đường huyện lộ có 27 tuyến với tổng chiều dài 352km và đã rải nhựa khoảng 75%. Hệ thống đường đến các trung tâm xã cũng như đường nông thôn đã được chú ý đầu tư nâng cấp, tuy vậy so với các tỉnh đồng bằng thì tỷ lệ này chưa cao. Trong tổng số 263 trung tâm phường, xã từ 252 các trung tâm có đường vào, tình trạng đường cấp phối trở lên, còn lại 11 xã vẫn ở tình trạng đường đất.
4.1.3. Đường thủy
Hải Dương có nhiều sông, 10 tuyến sông do trung ương quản lý dài gần 300 km, 6 tuyến sông địa phương quản lý dài gần 140 km. Các hoạt động khai thác trên hệ thống sông chỉ mới hình thành theo phương thức tự nhiên, nhiều bến bãi, tàu thuyền chưa được cải tạo, phương tiện chỉ dẫn chưa được hiện đại hóa và luồng lạch chưa được nạo vét thường xuyên nên hạ chế khả năng lưu thông. Hiện nay mới chỉ đảm bảo cho các phương tiện loại 30 tấn hoạt động. Trên địa phận Hải Dương có 10 bến xếp dỡ hàng hóa dọc theo các sông, trong đó cảng lớn nhất là cảng Cấu Câu có công suất 220 nghìn tấn/năm.
4.2. Hệ thống cấp điện
Hải Dương có điều kiện thuận lợi về nguồn cấp điện hệ thống trạm và trên địa bàn của tỉnh có nguồn cấp điện từ nhà máy Phả Lại với công suất 1000 KW; nguồn điện bổ sung từ lưới điện quốc gia qua đường đây 35KV có đường dài trên 600 km từ tuyến Hà Nội - Hưng Yên - Hải Phòng. Lưới 10 KV tập trung ở các thị trận, lưới 6 KV chủ yếu ở nội thành phố Hải Dương cung cấp cho 3 xí nghiệp lớn là sứ, đá mài, máy bơm. Tình trạng điện lưới 35 KV: tiết diện dây dẫn nhỏ nên không đảm bảo chất lượng vận hành, thường xảy ra sự cố nhất là vào mùa mưa bão.
Hải Dương có 7 trạm 35/10KV với 10 mày, dung lượng 15.400 KVA; 3 trạm 35 / 6 KV với 5 máy, dung lượng 7800 KVA; một trạm nâng thế 6 / 35 KV (3200 + 5600) ở Phả Lại. Tổng dung lượng điện hiện có 248,5 nghìn KVA.
Các trạm nguồn chính của tỉnh gồm: trạm Đồng Niên ((2 x 25 MVA - 110/35/6 KV và nâng lên 105 MVA); trạm Phả Lại ( 2 x 6,3 MVA - 110/6 KV); trạm Hoàng Thạch (2 x 16 MVA + 1 x 20 MVA; 110 / 6 KV); xây mới trạm Chí Linh (25.000 KVA). Mạng lưới đường dây điện đến tất cả các thôn, xóm, xã vùng sâu, vùng xa đều được lắp đặt 100% số xã. Tuy vậy, mạng lưới truyền tải điện năng và các trạm biến áp còn hạn chế, chưa thể đáp ứng đủ cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tương lai. Mạng lưới điện nông thôn còn manh mún, chuyển tải thấp và tổn thất lớn. Đến năm 2000, có 90% số hộ được dùng điện để thắp sáng, trong đó 40% đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Điện thương phẩm cung cấp cho các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và sinh hoạt trong các năm qua không ngừng tăng lên. Phụ tải công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tiêu thụ điện. Tốc độ tăng điện thương phảm thời kỳ 1996 - 2000 khoảng 15 - 16%, trong đó phụ tải công nghiệp tăng 22 – 23% và điện phục vụ chiếu sáng sinh hoạt tăng 15 - 16% bình quân điện năng tiêu thụ 27 kwh/người năm.
4.3. Bưu chính viễn thông
Trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển của ngành Bưu chính viễn thông cả nước. Hải Dương đã lắp đặt nhiều trang thiết bị mới đảm bảo nhu cầu thông tin liên lạc trong tỉnh năm 2003 bình quân 4,5 máy điện thoại / 100 dân so với 0,54 máy / 100 dân năm 1995; 95% hộ dân thành thị và 50% hộ dân nông thôn có máy thu hình.
Như vậy mạng lưới thông tin liên lạc ở Hải Dương đã tỏa rộng tới các thông xóm trong tỉnh tạo thuận lợi cho khách du lịch về nhu cầu thông tin liên lạc. Việc phủ sóng điện thoại di động đến hầu hết các khu vực trong tỉnh góp phần phục vụ khách du lịch tốt hơn, thuận lợi hơn. Ngoài ra các loại hình dịch vụ như: Điện hoa, chuyển tiền nhanh, giải đáp thông tin cho khách, dịch vụ Internet... tạo thuận lợi cho khách du lịch khai thác, sử dụng trong thời gian tham quan, lưu trú trên địa bàn tỉnh.
Nói chung mạng lưới bưu chính viễn thông ở Hải Dương hiện nay có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, đồng thời góp phần tạo ra kết cấu hạ tầng thuận lợi cho phát triển du lịch.
4.4. Cấp nước, thoát nước thải và vệ sinh môi trường
4.4.1. Cấp nước
- Khu vực đô thị: Trước đây nguồn nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt thuộc khu vực thành phố Hải Dương chủ yếu là do nhà máy nước Bình Hàn và Tân Hải cung cấp. Nhưng đến nay đã sử dụng nguồn nước của nhà máy nước Cẩm Thượng (hiện nay đang mở rộng bằng nguồn vốn ODA Nhật Bản với công suất 10 nghìn m3 / ngày). Mức độ cung cấp nước đã được tăng cường ở một số thị trấnh như Ninh Giang, Cẩm Giàng, Kinh Môn, Kim Thành, Gia Lộc. Còn lại các thị trấn, huyện lỵ chưa chó trạm cấp nước tập trung. Hiện nay hầu hết dân cư ở các thị trấn đều đang sử dụng giếng khơi, không đảm bảo vệ sinh làm hạn chế phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến ra quả lương thực. Tỷ lệ dân số ở thành phố, thị trấn được cấp nước máy còn thấp, mới có khoảng 50% và đáp ứng 60 - 80 l / người / ngày.
- Khu vực nông thôn: đến nay tỉnh đã chú ý đầu tư xây dựng được 12 trạm cấp nước nhỏ, đào được trên 227 nghìn giếng khơi và trên 1000 giếng khoan, đảm bảo cấp nươc sạch vệ sinh cho 1, 2 triệu người, đưa tỷ lệ số dân được cấp nước sách và hợp vệ sinh lên 70% vào năm 2000.
4.4.2. Thoát nước thải và vệ sinh môi trường
Vấn đề thoát nước và vệ sinh môi trường đô thị cũng trở nên bức xúc ở hầu hết các đô thị trong tỉnh, chủ yếu là mạng nước chảy chung. ở thành phố Hải Dương hệ thống điều hòa nước kém tác dụng do cốt đáy bị nâng lên. Cống dẫn nước ngầm và một trạm bơm tiêu nước với công suất nhỏ (18.000 m3/h) không đảm bảo. Hiện nay tỉnh có kế hoạch tăng cường công tác thoát nước và vệ sinh môi trường nhất là khu đô thị mới.
Do nhu cầu phát triển kinh tế khai thác nguồn tài nguyên gây ra những biến đổi tác động cả mặt tích cực và tiêu cực. Cũng phải kể đến việc thành lập một số nhà máy công nghiệp, khói bụi thải ra môi trường là nguyên nhân chủ yếu.
Tại các khu vực du lịch trọng điểm và làng nghề môi trường cũng bị tác động lớn nhất là vấn đề chất thải, ý thức bảo vệ môi trường của khách, sản phẩm phụ như rác thải, hóa chất trong các làng nghề... đang là những vấn đề cấp bách cần có biện pháp giải quyết.
5. Tài nguyên du lịch tỉnh Hải Dương
Tài nguyên du lịch Hải Dương khá phong phú và đa dạng có sức th hút lớn đối với khách quốc tế. Trong đó đặc biệt là các tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
5.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Phần lớn đất đai của Hải Dương thuộc đồng bằng Bắc Bộ, ở phía Đông Bắc có hai huyện miền núi, tuy không rộng lớn nhưng có cảnh quan đa dạng. Vùng Chí Linh núi đồi trùng điệp, cao không quá 700m, rừng cây xanh tốt, rất thuận tiện cho việc xây dựng những công trình văn hóa. Vùng Kinh Môn có nhiều núi đá vôi với những hang động kỳ thú, nơi còn di tích của con người từ thời đại đồ đá mới. Cách đây hàng nghìn năm dân tộc ta đã quan tâm đến hai vùng cảnh quan đặc biệt này Côn Sơn, Thanh Mai thế kỷ 14 đã trở thành trung tâm của thiền phái Trúc Lâm, đến thế kỷ 15 được ghi trên bản đồ như một danh lam cổ tích. Động Kình Chủ, động Tâm Long từ thời Trần được tôn tạo thành chùa, đến thế kỷ 17, Kình Chủ trở thành động nổi tiếng của đất nước, nơi để lại bút tích của nhiều danh nhân thời đại.
Hải Dương là tỉnh đồng bằng, địa hình khá bằng phẳng, cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn với những cánh đồng lúa tốt tươi, những dòng sông lớn, môi trường tự nhiên khá trong sạch. Nhiều làng quê trù phú mang đậm nét đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du khảo đồng quê, tham quan nghiên cứu khoa học. Các tài nguyên du lịch tự nhiên thường được gắn liền với các tài nguyên du lịch nhân văn. Sự phân biệt sau đây chỉ là tương đối. Tiêu biểu:
5.1.1. Khu danh thắng Phượng Hoàng - Kỳ Lân
Thuộc xã Văn An, huyện Chí Linh, Phượng Hoàng là khu danh thắng có rừng thông bát ngát, suối trong róc rách, núi đá lô xô, chùa tháp cổ kính. Khu danh thắng có tới 72 ngọn núi ngoạn mục, có mộ và đền thờ Chu Văn An, một người thầy tiêu biểu cho tài cao đức trọng của nền giáo dục Việt Nam: có chùa Huyền Thiên, cung Tử Cục, điện Lưu Quang, am Lệ Kỳ, Giếng soi...
Khu thắng cảnh này rất thích hợp cho du lịch dã ngoại, vãn cảnh, leo núi, thăm di tích lịch sử.
5.1.2. Khu di tích danh thắng Côn Sơn
Thuộc xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, nằm giữa hai dãy núi Phượng Hoàng - Kỳ Lân, cách Hà Nội 70 km.
Nơi đây là tập hợp của nhiều chùa, tháp, rừng thông, khe suối và các di tích gắn liền với cuộc đời nhiều danh nhân trong lịch sử. Ngay từ thời Trần, Côn Sơn là một trong ba trung tâm của thiền phái Trúc Lâm (Côn Sơn - Yên Tử - Quỳnh Lâm). Mảnh đất này đã gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của nhiều danh nhân đất Việt như Trần Nguyên Đán, Huyền Quang. Nơi đây là nơi lưu giữ được những dấu tích._. văn hóa thời Trần và các giai đoạn lịch sử.
- Giếng Ngọc: nằm ở núi Kỳ Lân, bên phải là lối lên bàn cờ Tiên, phía dưới chân Đăng Minh Bảo Tháp. Tương truyền đây là giếng nước do Thiền sư Huyền Quang được thần linh báo mộng ban cho chùa nguồn nước quý. Nước xanh, mát uống vào thấy dễ chịu, từ đó có tên là Giếng Ngọc và nước giếng được các nhà sư dùng là nước cúng tế ở chùa.
- Bàn Cờ Tiên: Từ chùa Côn Sơn lên khoảng 600 bậc đá là lên đến đỉnh núi Con Sơn (cao 200 m). Đỉnh Côn Sơn là một khu đất bằng phẳng, tục gọi là Bàn cờ Tiên có dựng nhà bia theo kiểu Vọng lâu đình, hai tầng cổ các tám mái. Đứng từ đây du khách có thể nhìn bao quát toàn cảnh cả vùng rộng lớn.
- Thạch Bàn: Bên suối Côn Sơn có một phiến đá gọi là Thạch Bàn, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh dừng chân nghỉ khi người đến thăm di tích này. Từ chân núi đi theo lối mòn có kê đá xuống chân núi là 1 tảng đá lớn, mặt phẳng và nhẵn nằm kề ven suối gọi là Thạch Bàn lớn. Tương truyền khi xưa Nguyễn Trãi lấy làm “chiếu thảm’ nghỉ ngơi ngắm cảnh và suy tư việc nước.
5.1.3. Khu vực núi An Phụ (Kinh Môn)
Một dãy núi nổi lên như một chóp nón khổng lồ, mờ ảo, vài công trình kiến trúc giữa vùng đồng bằng phía Bắc Hải Dương. Núi có nhiều những rừng cây thiên nhiên. Đỉnh núi cao 246m. Từ đỉnh núi ta có thể nhìn thấy một cách bao quát về đồng bằng của Hải Dương, nhìn thấy sông Kinh Thầy uống khúc, khu vực núi đá vôi Kinh Môn nên thơ. Trên đỉnh núi là đền thờ An SInh Vương Trần Liễu tục gọi là Đền Cao, còn văn bia của An phụ Sơn Từ, với hai giếng nước mang đầy cổ tích... Mới đây Bộ Văn hóa đã cho xây dựng một tượng đài Trần Hưng Đạo hoành tráng, những tấm phù điều nung bằng gốm, bậc lên bằng đá... Việc điểm xuyết của con người đã khiến cho việc núi An Phụ có một sức hấp dẫn đối với du khách.
5.1.4. Khu hang động Kính Chủ và vùng núi đá vôi Dương Nham
Nằm về phía Bắc của đỉnh Yên Phụ, nằm trong dãy Dương Nham như một hòn non bộ khổng lồ giữa mênh mông lúa của thung lũng Kinh Môn. Phía Bắc Dương Nham dòng sông lượn sát chân núi, sơn thủy hữu tình, phía Tây Nam Dương Nham là làng quê cổ Kính Chủ - quê hương của những người thợ đá xứ Đông. Sườn phía Nam Dương Nham có một động lớn gọi là động Kính Chủ (hay động Dương Nham) đã được xếp vào hàng Nham Thiên. Khu núi đá vôi Dương Nham là Động kính chủ còn gắn liền với các trang lịch sử hào hùng chống quân Nguyên, vùng núi đá vôi Dương Nham còn gắn liền với lịch sử hình thành người Việt cổ - cảnh đẹp tại khu vực này rất hấp dẫn với du khách.
5.1.5. Khu Lục Đầu Giang - Tam phủ Nguyệt Bàn
Đâ là khu vực sông trải dài sát với hệ thống di tích của Kinh Bắc (đã được giới thiệu khá nhiều trong bài thờ “Bên kia sông Đuống”). Trên khúc sông này có khu vực bãi bồi gắn liền với các truyền thuyết đánh quân Nguyên, nơi có hội nghị Bình Than...
5.1.6. Khu miệt vườn vải thiều Thanh Hà
Đây là một miệt vườn nổi tiếng với cây vải tổ. Giống vải ở đây ngon và rất có giá trị với khách du lịch. Sản phẩm từ vải cũng được chế biến một cách sinh động (rượu vải, vải khô...). Vùng vải thiều này hiện thời được trải rất rộng bám quanh dòng sông Hương (Thanh Hà) khá thi vị.
5.1.7. Khu Ngũ Nhạc Linh Từ - (Lê Lợi Chí Linh)
Khu vực đền Ngũ Nhạc là nơi thờ Sơn Thần theo tín ngưỡng người Việt cổ. Trước đây đã từng có năm miếu nhỏ trên 5 đỉnh quả núi được tôn tạo từ thời Nguyễn. Công trình mang tính cổ xưa.
5.1.8. Khu rừng Thanh Mai (bến Thắm)
Một vùng rừng Thanh Mai gắn liền với những đền chùa một trong những quê hương của Trúc Lâm Tam Tử.
5.1.9. Làng Cò (Chi Lăng) Thanh Miện
Thuộc xã Chi Lăng, huyện Thanh Miện. Gọi là Làng Cò vì làng có một đảo nhỏ nằm giữa hồ vực rộng mênh mông với hàng vạn con cò về đây trú ngụ, xây tổ. Trên đảo có tới 9 loài cò: cò trắng; cò lửa; cò bộ; cò ruồi; cò đen; cò hương; cò nghênh; cò ngang; cò diệc. Ngoài ra trên đó còn có tới ba bốn ngàn con Vạc và các loại chim quý hiếm như Bồ Nông, Mòng Két, Le le... cùng trú ngụ nơi đây. Đến nơi đây vào lúc hoàng hôn hay sớm mai là lúc giao ca thú vị giữa cò và vạc trong cuộc sống mưu sinh hàng ngày.
5.1.10. Thiên nhiên của nền văn hóa lúa nước
Dường như mật độ các dòng sông, đình, đền, chùa bố cục dày đặc trên toàn tỉnh. Những đình, đền chùa này đều gắn liền với cây đa, bến nước hoặc những bến sông luôn tạo nên những cảnh đẹp dễ gây ấn tượng đối với du khách. Phải chăng trong mỗi người dân Việt Nam hình ảnh về cây đa, bến nước, sân đình... đã gần như trở thành một biểu tượng của văn hóa Việt.
5.1.11. Mỏ nước khoáng ở Thạch Khôi
Đây là mỏ nước nóng đã từng là nguồn để tạo nên nước khoáng. Nhiệt độ nóng và đã sử dụng chữa bệnh. Cần có nghiên cứu sâu hơn về khu vực này để khai thác vì mỏ nước khoáng này rất gần thành phố Hải Dương.
5.2. Tài nguyên du lịch nhân văn: bao gồm văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể
5.2.1. Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể
a. Các di tích lịch sử văn hóa, cách mạng:
Qua nghiên cứu cho thấy các di tích lịch sử văn hóa, lễ hội truyền thống, văn hóa dân gian chính là động lực, thế mạnh của Hải Dương để phát triển du lịch. Vùng đất này đã để lại rất nhiều những dấu tích lịch sử, văn hóa, từ thời dựng nước đến lịch sử cận hiện đại hết sức sống động.
Hải Dương là một vùng đất sớm phát triển và giàu truyền thống lịch sử, văn hóa. Trên địa bàn tỉnh có 1098 di tích lịch sử văn hóa được kiểm kê đăng ký bảo vệ với 127 di tích được xếp hạng quốc gia. Các di tích này được trải rộng trên toàn tỉnh. Nhiều di tích có giá trị và đưa vào khai thác phục vụ du lịch tiêu biểu như; quần thể di tích văn hóa Trần Hưng đạo và di tích Kiếp Bạc, khu di tích thắng cảnh Côn Sơn. Các di tích lịch sử văn hóa và danh thắng tiêu biểu tại Hải Dương có những nét kiến trúc độc đáo, có sự giao thoa của các kiến trúc cổ và hiện đại, kiến trúc phương Đông và phương Tây. Đặc biệt tại Hải Dương các di tích văn hóa lịch sử đều gắn liền với các lễ hội.
Hải Dương là vùng đất trù phú, cảnh quan đa dạng, nơi có nhiều di tích lịch sử, văn hóa và danh thắng. Mặc dầu Hải Dương hiện nay so với thừa tuyên Hải Dương thời Lê Sơ hay tỉnh Hải Dương khi mới thành lập, năm Minh Mệnh 12 (1831) diện tích chỉ còn 1.661 km2 bằng 50% diện tích cũ với 11/18 huyện ban đầu, đồng thời bị hai cuộc chiến tranh gần đây tàn phá nặng nề cùng với những biến động của thiên nhiên xã hội, số diện tích hiện còn cũng không nhỏ so với tổng số di tích của quốc gia đã được đăng ký trong đó có những di tích được xếp hạng vào hàng đặc biêt quan trọng. Hiện nay Hải Dương có 1098 di tích được kiểm kê đăng ký, bảo vệ theo quy định của pháp lệnh, 127 di tích và cụm di tích được xếp hạng quốc gia, bằng 4% số di tích được xếp hạng của cả nước. Trong số những di tích đã được xếp hạng có 47 đình; 28 chùa; 19 đền; 4 miếu, nghè; 1 nhà thờ; 1 cầu đá; 4 di tích về lịch sử cách mạng, 5 danh thắng, 4 lăng mộ, 1 văn miếu; trong đó có 2 di tích xếp vào hàng đặc biệt quan trọng là Côn Sơn - Kiếp Bạc.
Cụ thể là;
- Huyện Chí Linh : 8 di tích được xếp hạng quốc gia
- Huyện Nam Sách : 9 di tích
- Huyện Thanh Hà : 9 di tích
- Huyện Kinh Môn : 11 di tích
- Huyện Kinh Thành : 3 di tích
- Huyện Than Miện : 7 di tích
- Thành phố Hải Dương : 6 di tích
- Huyện Gia Lộc : 14 di tích
- Huyện Tứ Kỳ : 4 di tích
- Huyện Ninh Giang : 5 di tích
- Huyện Bình Giang : 9 di tích
- Huyện Cẩm Giàng : 11 di tích
b. Các làng nghề
Hải Dương là vùng đất hình thành và phát triển lâu đời, ngày nay nhiều làng nghề truyền thống nổi tiếng vẫn còn tồn tại và phát triển như: sản xuất giầy, trạm khắc kim hoàn, trạm khắc gỗ, chế biến lương thực, thực phẩm (làm bánh kẹo) hàng thêu ren và tơ tằm.
* Làng nghề chạm khắc gỗ, đồ kim hoàn là nghề mang tính truyền thống gia truyền, tập trung ở một số làng như Đồng Giao, thợ kim hoàn với những mặt hàng gia công nổi tiếng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm phát triển kinh tế nông thôn.
* Làng nghề bánh đậu xanh (Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang). Làng nghề có truyền thống lâu đời, sản phẩm đã nổi tiếng không chỉ trong nước mà ra thế giới. Với quy mô sản xuất được mở rộng và thu hút đông đảo lao động trong vùng.
* Làng nghề đóng giầy da (Hải Dương)
Nghề đóng giầy ở Hải Dương có tín nhiệm cao, các nghệ nhân làng nghề Hoàng Diệu có mặt hầu khắp mọi nơi trên cả nước. Hải Dương nghề đóng giầy da đang trên đà mở rộng phát triển nhờ có một số điều kiện thuận lợi như nhu cầu tiêu dùng cao, yêu cầu vốn đầu tư không nhiều, người lao động khéo tay...
* Làng nghề làm vàng bạc ở Châu Khê (Bình Giang)
ở Châu Khê có nghề làm vàng bạc lâu đời. Những thợ làm vàng bạc ở đây thường phục vụ trên một địa bàn rộng đặc biệt với kinh đô Thăng Long xưa.
* Làng nghề làm thợ mộc (cúc Bồ Ninh Giang)
Thợ mộc ở Cúc Bồ vốn nổi tiếng trong tỉnh và trong cả đồng bằng Bắc Bộ. Những người thợ ở đây khi chuyển đến những vùng khác cũng tạo dựng lên được những làng mộc mới. Các đình chùa nổi tiếng ở Hải Dương hầu như đều có bàn tay thợ mộc của làng nghề này.
* Nghề làm gốm
Nghề làm gốm đã được phát triển rộng rãi ở Hải Dương từ rất lâu đời, nổi tiếng là gốm Chu Đậu (Nam Sách) và gốm Cậy (Bình Giang). Do địa hình sông nước trên thềm đất sét nên đã từ lâu người Hải Dương khá quen thuộc với nghề làm gốm. Nước men của gốm Chu Đậu có một đặc thù khá riêng biêt và khá nổi tiếng nhất là đối với những người sành chơi của Hà Nội ngày xưa.
* Nghề thêu ren (Tứ Kỳ)
Người Hải Dương vốn có truyền thống khéo tay: đan lát, thêu thùa. Nghề thêu ren ở Xuân Nèo từng đã làm nên những sản phẩm của các mặt hàng thêu ren xuất khẩu của nước ta.
* Nghề chạm khắc đá ở Kình Chủ (Kinh Môn)
Việc phát triển làng nghề và nghề đã tạo ra hình thái mới trong việc sắp xếp lao động, và giữ gìn phát triển được nghề truyền thống ngay trên quê hương, vừa tạo việc làm có hiệu quả kinh tế cao, thu nhập ổn định hơn nghề trồng lúa chẳng những thế những làng nghề truyền thống trên còn là tiềm năng du lịch to lớn của Hải Dương, là đối tượng độc đáo có sức thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế. Vì vậy đầu tư cần phải theo kế hoạch để duy trì các làng nghề, biến chúng thành điểm tham quan hấp dẫn. Mặt khác, cần nghiên cứu để tạo ra các sản phẩm lưu niệm mang tính đặc thù của Hải Dương để phục vụ du khách.
5.2.2. Tài nguyên văn hóa phi vật thể
Tài nguyên văn hóa phi vật thể thực chất là sống ký sinh trên các tài nguyên văn hóa vật thể. Các trò chơi, lễ hội thường được diễn ra trên các trung tâm văn hóa của từng thời kỳ mà còn ở giai đoạn cổ xưa chính là các đình, đài, đền, miếu.
a. Các lễ hội tiêu biểu tại Hải Dương
Lễ hội sinh hoạt văn hóa dân gian cũng là một loại tài nguyên nhân văn, có sức hấp dẫn và khả năng thu hút khách du lịch cao, ở mức độ nào đó du khách có thể thấy được, hiểu được phong tục tập quán của nhân dân địa phương. Lễ hội là một hình thức văn hóa đặc sắc phản ánh đời sống của mỗi dân tộc gắn với các di tích lịch sử, thường là 1 phần trong các chương trình thu hút, quảng bá của khu du lịch.
Không thể tách rời nội dung lễ hội ra khỏi các di tích, cũng như không thể tách rời nội dung lễ hội truyền thống ra khỏi các chương trình du lịch. Vì vậy cần khai thác di tích lịch sử với lễ hội truyền thống như một loại hình du lịch văn hóa chuyên đề gắn với các tour du lịch.
* Lễ hội Côn Sơn (Chí Linh)
Chùa Côn Sơn ở huyện Chí Linh, thờ Huyền Quang (Lý Đạo Tái) một trong ba vị sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm và Nguyễn Trãi - nhà thơ lớn của Việt Nam thế kỷ 15, nhà quân sự, nhà chính trị thiên tài của nghĩa quân Lam Sơn, hội xuân từ 16 - 32 tháng giêng âm lịch nhằm tưởng nhớ vị tổ thứ 13 của phái Trúc Lâm Hội thu từ 15 - 20 tháng 8 âm lịch tưởng niệm Nguyễn Trãi khách thập phương đến với lễ hội tưởng niệm và vãn cảnh danh thắng.
* Hội đền Kiếp Bạc (Hưng Đạo - Chí Linh).
Là Trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng rất hưng thịnh trước đây. Lễ hội đền Kiếp Bạc diễn ra hàng năm từ 18 - 20 tháng 8 âm lịch tại đền Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh. Đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, vị tướng kiệt suất đời Trần, tài đức song toàn. Lễ hội gồm có lễ rước, diễn thủy binh trên sông Lục Đâu. Khách về dự hội rất đông vừa để vãn cảnh, vừa để tham dự ngày giỗ của tướng quân Trần Hưng Đạo.
* Hội đền Quan Lớn Tuần Tranh (Đồng Tâm - Ninh Giang)
Theo truyền thuyến đền thờ thần Sông Nước để thuyền bè đi ngang qua được bình an, lễ hội hàng năm được mở vào ngày 25 tháng 2 âm lịch gần bến đò Tranh, Ninh Giang, Hải Dương để cúng thần sông, cầu bình an. Ngoài nghi thức lễ bái, hội có lên đồng, hầu bóng, hát chầu văn.
* Hội đền Yết Kiêu (Yết Kiêu - Gia Lộc)
Còn gọi là Đền Quát. Đền Yết Kiêu ở làng Hạ Bì, Hải Dương thờ Yết Kiêu là tướng tài của Trần Hưng Đạo. Hạ Bì là quê hương ông, lễ hội hàng năm được mở vào ngày 15 tháng giêng âm lịch để ghi nhớ công lao của ông trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Sau phần nghi lễ, phần hội có đánh cờ, bơi, đánh đáo đĩa. Hội có bơi chải, bơi triềng đình làng.
* Lễ hội Đền Cao (An Lạc - Chí Linh)
Lễ hội Đền Cao mở 3 ngày từ 22 - 24 tháng giêng âm lịch hàng năm. Ngày rước thánh là ngày 22, tất cả kiệu rước, nghi trang, cờ quạt tán lọng đều được sắm sửa ở đền Cả, đến ngày 23 sẽ rước về Đền Cao và làm lễ dâng hương. Sáng 23, lễ hội bắt đầu bằng đám rước kiệu. Đi trớc là đội cồng và kỳ lân tiếp sau đó có 6 kiệu. Kiệu thứ nhất rước bài vị sắc phong của năm anh em họ Vương. Kiệu thứ hai rước ông anh cả là Vương Đức Minh. Kiệu thứ ba rước ông Vương Đức Xuân, kiệu thứ tư rước ông Vương Đức Hồng và thứ năm là rước bà Vương Thị Đào và Vương Thị Liễu. Ngoài ra còn có kiệu rước Thành hoàng làng. Đoàn rước xuất phát từ đền Cả qua đền Bến Cả, đền Bến Tràng rồi dừng lại ở Đền Cao. Sau đó là lúc mọi người trẩy hội và thắp hương. Ngày cuối cùng của lễ hội, bốn kiệu rước được đưa về Đền Cả. Cảnh diễn ra náo nức.
* Lễ hội đền An Phụ (Kinh Môn)
Cũng gọi là lễ hội Đền Cao (trên núi An Phụ cũng có chùa Tường Vân cổ kính tục gọi là Chùa Cao) được tổ chức vào ngày 1/4 âm lịch, kỷ niệm ngày mất của An Sinh Vương Trần Liễu. Việc chảy hội thành tập quán của nhân dân nhiều thế kỷ.
b. Các trò chơi
Từ xa xưa người dân Hải Dương đã tạo nên nhiều trò chơi riêng thường diễn ra như các hội thi. Nổi tiếng như sau:ư
- Lễ hội Kiếp Bạc có trò chơi thủy chiến.
- Lễ hội Côn Sơn hát quan họ, đu tiên, lập đàn Mông Sơn.
- Lễ hội Đền Sượt (TP Hải Dương) có tục nấu rượu Hoàng Tửu, đánh bệt. Rượu Hoàng Tửu là loại rượu rất độc đáo.
- Lễ hội Đình Vạn Niên (Thị trấn Nam Sách) có trò xông hệ.
- Lễ hội chùa Hương (Thanh Hà) có thi mâm ngũ quả.
- Lễ hội đền Quát có thi bơi chải.
- Lễ hội chùa Bạch Hào (Thanh Xá - Nam Sách) có thi nấu cơm.
- Lễ hội đền Bia (Văn Thai - Cẩm Văn - Cẩm Giàng) có thi bốc thuốc
- Lễ hội Đền Cuối (Gia Lộc) thi bày cỗ.
Trong các lễ hội, nổi tiếng nhất là lễ hội Kiếp Bạc và lễ hội Côn Sơn, hai lễ hội này hoàn toàn có thể tổ chức thành những sản phẩm du lịch độc đáo của tỉnh vì chiến thắng chống quân Nguyên thắng lợi là mang tầm quốc tế. Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
c. ẩm thực
Hải Dương nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, lại có những loại cây đặc sản như vải thiều, có vùng sông nước rộng lớn... bởi vậy ẩm thực của Hải Dương cũng có những nét độc đáo riêng biệt, nổi tiếng là:
- Rượu nếp cái hoa vàng Kinh Môn, rượu Phú Lộc
- Vải thiều Thanh Hà
- Dưa hấu Gia Lộc
- Bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn TP Hải Dương
- Bánh gia Ninh Giang
- Giò chả Gia Lộc
- Mắm rươi, chả rươi Kinh Môn, Kim Thành
- Mắm cáy Thanh Hà
- Bánh đa Kẻ Sặt
d. Văn nghệ dân gian
Nền văn hóa của đồng bằng sông Hồng đã có tác động lớn đến văn nghệ dân gian của Hải Dương. Các loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc còn được lưu giữ trong nhân dân Hải Dương là hát chèo, hát tuồng ở Bạch Lỗi, hát đối ở Gia Xuyên, Gia Lộc, hát trống quân ở Tào Khê - Bình Giang, xiếc ở Thanh Miện, Ninh Giang, múa rối ở Thanh Hào (Thanh Hà), Lê Lợi (Gia Lộc)...
e. Truyền thống lao động
Nằm trong khu vực châu thổ sông Hồng, Hải Dương có nhiều thuận lợi trong phát triển sản xuất nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp như gạo tám thơm, nếp quyt... với truyền thống canh tác lâu đời đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp lúa nước mang lại giá trị văn hóa truyền thống của làng quê nông thôn Việt Nam.
Trong một vùng trên cơ sở một nền văn hóa lúa nước, nhân dân Hải Dương có một truyền thống lao động về canh tác lúa nước rất có kết quả. Cánh đồng Hải Dương luôn luôn đóng góp vào vựa lúa chung của miền Bắc và cả nước trong mọi thời kỳ. Theo xu hướng của các cuộc cách mạng kỹ thuật mới ở Hải Dương cũng đã cập nhật được các kỹ thuật lao động mới để làm cho việc sản xuất nông nghiệp ở Hải Dương phát triển.
Những năm đổi mới, mô hình sản xuất nông nghiệp mới cũng được áp dụng một cách mạnh mẽ trên toàn bộ tỉnh. Sự áp dụng này không được máy móc mà nó phù hợp với điều kiện từng vùng trong tỉnh.
Hiện nay việc hình thành những trang trại cũng được phát triển rộng rãi nâng cao mức sống người dân. Nền nông nghiệp cũng sản sinh ra những nền công cụ sản xuất, phương tiện đi lại mang đặc thù từng vùng trong tỉnh. Sự thay thế các quá trình sản xuất tiến bộ áp dụng vào nông nghiệp đã mang lại thành công.
f. Các nghi lễ, rước, cưới hỏi, khao vong gắn liền với trang phục.
Đối với những người Hải Dương các tục lệ cưới hỏi, khao vong dường như đã được định hình. Nhưng với tình hình mới các lễ rước nhất là trong các hội dường như đang được khôi phục dần. Tuy nhiên cũng có một bước nâng cao để các lễ rước này vừa mang tính dân tộc lại vừa mang tính hiện đại, đây cũng là dịp trình diễn những trang phục dân gian truyền thống.
Đối với những người có công với đất nước ở từng vùng vẫn có những nghi lễ riêng phổ biến là những nghi lễ tôn vin những người có công trong cuộc kháng hciến chống quân Nguyên. Đến nay sau kháng chiến chống Pháp và Mỹ, Hải Dương lại có những truyền thống tôn vinh liệt sỹ của những thời kỳ mới.
g. Truyền thống hiếu học và đỗ đạt
Người Hải Dương rất tự hào về truyền thống hiếu học, chăm chỉ, thoát khỏi sự nghèo đói bằng con đường học hành. Truyền thống này đã có từ xưa và được ghi nhận bằng rất nhiều di tích như di tích về Chu Văn An, về Đinh Văn Tả, đền thờ Mạc Đĩnh Chi tạo nên bề dày về truyền thống học hành. Có làng như làng Mộ Trạch người ta thường gọi là làng Tiến Sỹ. Có những người thầy thuốc đã đưa sự học hành vào với cuộc sống thực tế một cách nhuần nhuyễn như Tuệ Tĩnh. Trong thời đại hiện nay số lượng những người có học vị cao, có đóng góp với xã hội nói chung thời nào cũng có.
Ghi nhận những thành công này hiện thời còn Văn Miếu Mao Điền đang được tôn tạo, nâng cấp là điểm du lịch rất đáng chú ý.
h. Các công trình văn hóa khác
Bên cạnh tôn giáo đa số người theo là Đạo phật thì Đạo Gia tô cũng ghi dấu ấn trong một số công trình kiến trúc mang tính dương đại nổi tiếng có nhà thờ Kẻ Sặt, nhà thờ họ Đại Bái, Sứ Đông Khê.
Trong thời kỳ xây dựng mới những công trình mang tính chất thiết chế văn hóa mới ghi dấu ấn của một giai đoạn lịch sử phải kể đến những công trình bảo tàng tỉnh Hải Dương, nhà thi đấu thể dục thể thao tỉnh.
5.3. Nguồn nhân lực du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật
Hải Dương có nguyền lực dồi dào. Hiện nay số người lao động trong ngành du lịch là 1300 người trong đó đại học và trên đại học là 145 người, cao đẳng và trung cấp là 600 người, lao động khác là 555 người. Chất lượng lao động trong du lịch còn nhiều hạn chế về thực chất. Tuy nhiên, cùng với truyền thống thông minh hiếu học người Hải Dương đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế trong đó có du lịch khi có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực.
Nói về cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch đầu tư và đổi mới thay thế từng bước đổi mới, cụ thể như:
- Hiện nay vùng Chí Linh đã có sân golf 9 lỗ, hồ, công viên Bạch Đằng thành phố Hải Dương đã được hình thành. Đây là những cơ sở tạo tiền đề cốt yếu cho các khu vui chơi giải trí.
- Trên toàn tỉnh có 950 phòng nghỉ, 77 khách sạn, số phòng đạt tiêu chuẩn cao cấp chưa có, đạt trung bình chiếm 60%. Chủ yếu tập trung ở Sao Đỏ và ở thành phố Hải Dương.
- Đã có 180 xe vận chuyển hành khách du lịch
II. Thực trạng ngành du lịch tỉnh Hải Dương
Trong những năm qua thực hiện đổi mới đường lối, Đảng và Nhà nước đã xác định phát triển du lịch là một trong những chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế. Nhiều mặt hoạt động văn hóa xã hội được quan tâm đáp ứng, đặc biêt là các nhu cầu của cuộc sống. Quan điểm hướng về cội nguồn, tìm lại những nét đẹp văn hóa giàu bản sắc dân tộc đang dần được khơi dậy, các di tích lịch sử, danh thắng, phong tục lễ hội truyền thống được phục hồi. Cùng với xu hướng phát triển du lịch chung của cả nước du lịch Hải Dương đã có những bước phát triển đáng kể thể hiện qua các chỉ tiêu cơ bản về khách du lịch, danh thu du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch, nguồn nhân lực du lịch.
1. Khách du lịch
Khách du lịch là cơ sở cho sự phát triển ngành du lịch. Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường, nhất là trong những năm gần đây nhờ những thành tựu trong công cuộc đổi mới, nền kinh tế có những bước phát triển khá nhanh, nhiều hoạt động văn hóa được quan tâm đáp ứng nhu cầu mọi mặt trong cuộc sống. Quan điểm hướng về cội nguồn, tìm lại những nét đẹp văn hóa giàu bản sắc dân tộc đang dần được khôi phục. Các di tích lịch sử danh thắng, phong tục lễ hội được phục hồi, làng nghề truyền thống đó là cơ sở để phát triển du lịch.
Hàng năm Hải Dương đón một lượng khách tương đối lớn, mà chủ yếu là khách tham quan, khách đi lễ hội, khách đi nghiên cứu các di tích lịch sử văn hóa đình, đền, chùa... khách đến Hải Dương tập trung đông nhất vẫn là vào mùa lễ hội (lễ hội Côn Sơn, hội đền Kiếp Bạc).
Qua nghiên cứu có thể thấy tuy số khách du lịch đến Hải Dương đông nhưng số khách đi du lịch thuần túy, lưu trú qua đêm ở Hải Dương theo thống kê còn thấp. Theo báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh du lịch đến năm 2003 của Sở Thương mại - Du lịch Hải Downg tổng số khách đến đạt khoảng 152.000 lượt người tăng 109.600 lượt người so với năm 1997 nhưng chủ yếu là khách trong nước.
1.1. Khách du lịch quốc tế
Hải Dương là tỉnh có không nhiều các điểm du lịch nổi tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, vì vậy lượng khách du lịch quốc tế hàng năm đến Hải Dương không nhiều, năm 1997 Hải Dương đón 7.500 lượt khách du lịch quốc tế, chiếm khoảng 17,7% tổng số lượt khách đến tỉnh; năm 2003 số lượt khách đến Hải Dương tăng lên là 29.700 lượt, chiếm khoảng 19,5% tổng lượt khách đến tỉnh và tăng hơn so với năm 1997 là 22.200 lượt người. Đối tượng khách chủ yếu là:
+ Khách khảo sát, thực hiện một số dự án đầu tư tại Hải Dương (thăm dò, khảo sát, đầu tư công nghiệp...).
+ Khách của các tổ chức phi chính phủ làm từ thiện (hội chữ thập đỏ, chương trình môi trường, nước sạch Phần Lan...).
+ Nguồn khách là người Hải Dương sinh sống nước ngoài về thăm thân.
Nói chung nguồn khách quốc tế tới Hải Dương từ năm 1997 - 2003 còn ít chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng khác du lịch tới Hải Dương. Nguyên nhân chủ yếu à do sản phẩm du lịch của Hải Dương chưa hấp dẫn khách quốc tế, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn thiếu, yếu, ngày lưu trú của khách du lịch cũng thấp, trung bình 1,6 ngày, vị trí địa lý gần kề Hà Nội cũng là nguyên nhân khiến cho khách du lịch có thừoi gian lưu trú ngắn vì khách chỉ thường ghé qua Hải Dương rồi về Hà Nội nghỉ.
1.2. Khách du lịch nội địa
Số lượng khách du lịch nội địa đến Hải Dương đã tăng lên:
Năm 1997 : 34.900 lượt người
Năm 2003 : 122.300 lượt người
Khách du lịch đến Hải Downg chủ yếu bằng đường bộ từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên, Bắc Ninh... qua đường 5, theo đường 18 tới.
Khách du lịch nội địa đến Hải Dương hàng năm tập trung chủ yếu vào mùa lễ hội, vào các tháng giêng, hai và tháng tám. Thành phần, đối tượng khách nội địa chủ yếu là khách đi dự các lễ hội, thăm các di tích lịch sử văn hóa, thăm thân, du lịch sinh thái cảnh quan, đi với mục đích công tác, học sinh, sinh viên dã ngoại... Chính vì mục đích như trên dẫn đến số ngày lưu trú của khách thấp, trung bình 1,3 ngày. Nguyên nhân khác khiến cho ngày lưu trú thấp là do du lịch của tỉnh chưa được đầu tư tương xứng, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, cơ sở lưu trú thiếu tiện nghi, chưa có nhiều cơ sở vui chơi giải trí.
Bảng thể hiện số ngày khách lưu trú tại Hải Dương
Năm
Ngày khách quốc tế
Ngày khách nội địa
1997
1,9
1,3
1998
2
1,5
1999
2,4
1,4
2000
1,8
1,5
2001
1,5
1,8
2002
1,7
1,6
2003
Nguồn: Sở Thương Mại - Du lịch Hải Dương
Một dạng đối tượng khách du lịch không thể không nói đến là khách du lịch dừng chân và tham quan đi, về trong ngày. Không có số liệu thống kê cụ thể nhưng với vị trí nằm giữa tam giác tăng trưởng kinh tế động lực phía Bắc là Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, với khoảng cách phù hợp cho các điểm dừng chân thì rõ ràng lượng khách này tương đối lớn và đóng góp không nhỏ cho thu nhập du lịch của tỉnh.
2. Thu nhập du lịch
Theo thống kê của Sở Thương mại - Du lịch Hải Dương giai đoạn 1997 đến năm 2003 thu nhập du lịch của tỉnh đều đạt năm sau cao hơn năm trước và ở mức tăng trưởng cao (trung bình 29%/năm). Năm 1997 thu nhập du lịch của ngành mới chỉ đạt 36,007 tỷ đồng, năm 1998 tăng 57,982 tỷ đồng, năm 2000 đạt 100 tỷ đồng, năm 2001 đạt 120 tỷ đồng và năm 2003 đã lên đến 167 tỷ đồng.
Trong thu nhập du lịch thì nguồn thu từ khách nội địa là chủ yếu, do khách du lịch nội địa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng khách du lịch tỉnh.
Thu nhập của du lịch Hải Dương như vậy là tương đối khiêm tốn so với các tỉnh bạn và so với tiềm năng du lịch của tỉnh. Nguyên nhân do lượng khách ít, thời gian lưu trú không dài, điều kiện vật chất, vui chơi giải trí còn thấp, bên cạnh đó hoạt động kinh doanh còn bị ảnh hưởng nhiều của tính thời vụ du lịch. Việc tổ chức quản lý du lịch gặp nhiều khó khă, thu nhập du lịch của tỉnh mới chỉ tính được phần thu của các doanh nghiệp nhà nước và các đơn vị có đăng ký kinh doanh, trong khi còn nhiều cơ sở kinh doanhđu lịch dưới nhiều hình thức mà không đăng ký, khai báo thu nhập và làm nghĩa vụ cho ngân sách nhà nước.
Việc chuyển dịch cơ cấu chi tiêu của khách cho hợp lý là một yếu tố quan trọng trong kinh doanh du lịch. Trong những năm tới cần thu hút và tạo đk cho khách chi tiêu nhiều hơn vào việc mua sám hàng lưu niệm (thế mạnh của Hải Dương) vào vận chuyển du lịch và sử dụng các dịch vụ bổ sung khác. Muốn như vậy cần đầu tư các cơ sở sản xuất và bán hàng lưu niệm, các cơ sở vui chơi giải trí và các dịch vụ khác phong phú với chất lượng cao để đáp ứng một cách tốt nhất mọi nhu cầu của khác và lưu giữ khách dài ngày hơn.
3. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
Cơ sở vật chất kỹ thuật là một trong những yếu tố quan trọng trong kinh doanh du lịch và được quan tâm hàng đầu vì khả năng sinh lợi lớn với thời gian quay vòng vốn ngắn. Cơ sở vật chất kỹ thuật bao gồm hệ thống các cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thể thao, phương tiện vận chuyển và các cơ sở dịch vụ khác.
- Cơ sở lưu trú: Từ năm 1997 cho đến nay số lượng cơ sở không tăng nhiều (77 năm 2003 so với 74 năm 1997) nhưng chất lượng thì được cải thiện rõ rệt, các cơ sở lưu trú được đầu tư nâng cấp, tăng lên nhiều.
Bảng thể hiện số liệu về cơ sở lưu trú theo hình thức sở hữu tỉnh Hải Dương năm 2003
Hình thức sở hữu
Số cơ sở lưu trú
Số phòng
Số giường
- Nhà nước
6
102
204
Tư nhân
71
848
1.369
Tổng số
77
950
1.600
Nguồn: Sở Thương mại - Du lịch Hải Dương
Những năm gần đây, tốc độ xây dựng nhà nghỉ, phòng trọ tư nhân tăng khá nhanh nhưng việc xây dựng ồ ạt các nhà nghỉ tư nhân, nhà trọ này lại thiếu quy hoạch không cân đối cung cầu dẫn đến công suất sử dụng phòng thấp.
- Phương tiện vận chuyển: cho đến năm 1977 toàn tỉnh có 87 xe/1319 ghế vận chuển khách du lịch, đến năm 2003 số lượng xe vận chuyển đã tăng lên 180. Nhưng cả số lượng và chất lượng đều chưa đáp ứng đủ, đội ngũ lái xe còn hạn chế về nghiệp vụ du lịch và ngoại ngữ, do đó trong điều kiện hiện tại phải đồng bộ nâng cao cải thiện.
- Các tiện nghi vui chơi giải trí: Nhìn chung chưa phát triển mặc dù tỉnh có tiềm năng nổi trội trong trung tâm du lịch Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và phụ cận, song chưa khai thác được lợi thế về thị trường khách này. Hiện nay Hải Dương có 1 sân golf, về phục vụ khách sạn mới chỉ dừng lại ở một số tiện nghi như phòng massage, phòng karaoke, sân tennis chủ yếu phục vụ khách nội địa. Các tiện nghi khác như bể bơi, câu lạc bộ ban đêm và các hoạt động tiêu khiển khác cho du lích hầu như chưa phát triển.
4. Lao động trong du lịch
Theo số liệu của Sở thương mại - Du lịch tỉnh Hải Dương, nguồn lao động trực tiếp của ngành Du lịch năm 2003 có khoảng 1.300 người chiếm một số lượng rất nhỏ trong ngành dịch vụ thương mại. Nguồn nhân lực nhỏ như vậy nên chưa đáp ứng được cho yêu cầu hiện tại và tỷ lệ lao động chưa hợp lý giữa cán bộ quản lý du lịch và nhân viên phục vụ du lịch có tay nghề cao. Vì vậy vấn đề tuyển dụng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngoại ngữ cho nguồn nhân lực.
5. Hiện trạng đầu tư vào du lịch
Đầu tư là đòn bẩy thúc đẩy các ngành kinh tế trong đó có du lịch phát triển. Trong những năm qua đầu tư du lịch Hải Dương còn nhỏ bé mà trên thực tế đầu tư du lịch cho Hải Dương lại rất lớn.
Đối với du lịch Hải Dương thì có một phần nội dung khá quan trọng, đấy là việc tôn tạo các di tích văn hóa. ủy ban nhân dân đã có chỉ đạo tích cực để ngành văn hóa tỉnh tạo dựng những khung cảnh đổi khác trong một số điểm du lịch nổi tiếng là đền thời Nguyễn Trãi (Côn Sơn - Chí Linh), chùa Giám, đình, đền...
ở Hải Dương các công trình vui chơi giải trí cũng được xây dựng đáng kể: vườn hoa Bạch Đằng (TP Hải Dương), khu thành phố mới, quốc lộ 5, 18... cả những dự án nâng cấp các cơ sở lưu trú, phương tiện vận chuyển du lịch đều được bổ sung ngân quỹ. Cụ thể năm 1998 - 2002 tổng số vốn đầu tư đạt 244 tỷ đồng cho các khu di tích, khu vui chơi, các khách sạn, nhà nghỉ hạ tầng du lịch, vận chuyển khách.
6. Công tác marketing xúc tiến du lịch
Trong thời gian qua các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương ở Hải Dương cũng đã chú trọng và có nhiều nỗ lực trong công tác Marketing và quảng bá du lịch của tỉnh như tổ chức các đợt hội thảo, làm việc với các bộ, ngành trung ương, các tỉnh bạn, c doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nhằm tuyên truyền các chính sách của tỉnh, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh. Ngành du lịch tuyên truyền những tiềm năng thế mạnh, cơ chế chính sách đầu tư của tỉn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1401.doc