Tài liệu Hiện trạng môi trường làng nghề thêu ren An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường: ... Ebook Hiện trạng môi trường làng nghề thêu ren An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2024 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng môi trường làng nghề thêu ren An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o
TR¦êNG §¹I HäC n«ng nghiÖp hµ néi
&
ph¹m v¨n thµnh
hiÖn tr¹ng m«i trêng lµng nghÒ thªu ren an hßa,
x· thanh hµ, huyÖn thanh liªm, tØnh hµ nam vµ
mét sè gi¶i ph¸p gi¶m thiÓu « nhiÔm m«i trêng
luËn v¨n th¹c sü n«ng nghiÖp
Chuyªn ngµnh: qu¶n lý ®Êt ®ai
M· sè: 60.62.16
Ngêi híng dÉn khoa häc: pgs.ts. ph¹m ngäc thôy
Hµ Néi - 2009
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Phạm Văn Thành
Lời cảm ơn!
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ rất nhiều đơn vị và cá nhân. Tôi xin ghi nhận và bày tỏ lòng biết ơn tới những tập thể, cá nhân đã dành cho tôi sự giúp đỡ quý báu đó.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính trọng sự giúp đỡ nhiệt tình của Thày giáo PGS.TS: Phạm Ngọc Thụy, người đã trực tiếp hướng dẫn đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô trong Khoa Đất và Môi trường, các thầy cô viện Sau đại học.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp của các phòng ban sở TN &MT tỉnh Hà Nam, phòng thống kê huyện Thành Liêm, Phòng Thống kê và UBND xã Thanh Hà đã tạo điều kiện về thời gian và cung cấp số liệu giúp tôi thực hiện đề tài này.
Cám ơn sự cổ vũ, động viên và giúp đỡ của gia đình, các anh, chị đồng nghiệp, bạn bè trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Hà Nam, ngày tháng năm 2009
Tác giả luận văn
Phạm Văn Thành
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
NN&PTNT : Nông nghiệp và phát triển nông thôn
TN&MT : Tài nguyên và môi trường
QT PT TN&MT : Quan trắc phân tích tài nguyên và môi trường
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
BVMT : Bảo vệ môi trường
CNH-HDH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
CHXHCN : Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
NSTP : Nông sản thực phẩm
CN - TTCN : Công nghiệp và Tiểu thủ công nghiệp
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
GTSX : Giá trị sản xuất
HTX : Hợp tác xã
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
SL : Số lượng.
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
KPHĐ : Không phát hiện được
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu 2.1: Phân loại làng nghề Việt Nam theo ngành nghề sản xuất 8
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ các làng nghề có các dịch vụ xã hội trong tổng số các làng nghề được khảo sát 11
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm làng nghề của Việt Nam 12
Biểu đồ 2.4: Dự đoán số lượng làng nghề khu vực đồng bằng sông Hồng đến năm 2015 19
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Trình độ kỹ thuật ở các làng nghề 15
Bảng 2.2: Xu thế phát triển làng nghề đến năm 2015 18
Bảng 4.1: Số liệu quan trắc thời tiết khí hậu năm 2008 38
Bảng 4.2: Tình hình dân số lao động xã Thanh Hà năm 2006-2008 40
Bảng 4.3: Biến động diện tích đất theo mục đích sử dụng năm 2008 so với năm 2007 và năm 2005 41
Bảng 4.4: Các công trình phúc lợi của xã 43
Bảng 4.5 : Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Thanh Hà qua 3 năm 2006-2008 45
Bảng 4.6: Diện tích đất theo mục đích sử dụng năm 2008 47
Bảng 4.7: Doanh thu từ làng nghề An Hoà qua các năm 48
Bảng 4.8: Hệ số phát thải khí đốt than và củi 51
Bảng 4.9: Phát thải ô nhiễm môi trường không khí do hoạt động đốt nhiên liệu trong làng nghề (tháng) 51
Bảng 4.10: Kết quả phân tích nước thải làng An Hoà 53
Bảng 4.11: Lượng phát thải của một số hộ sản xuất 55
Bảng 4.12: Nồng độ bụi và khí độc tại một số điểm trong làng 57
Bảng 4.13: Chất lượng nước mặt tại khu vực thôn An Hoà 59
Bảng 4.14: Kết quả phân tích nước ngầm làng An Hoà 62
Bảng 4.15: Thành phần rác thải tại làng An Hoà 63
Bảng 4.16: Phân tích mẫu đất tại khu vực thôn An Hoà 64
Bảng 4.17: Các loại bệnh thường mắc phải 66
HÌNH MINH HOẠ
Số hình
Tên hình
trang
H1
Thêu ren
80
H2
Sản phẩm thêu
80
H3
Thêu ren cần khéo tay và kiên nhẫn
80
H4
Cẩn thận từng đường thêu
80
H5
Một xưởng thêu ren
81
H6
Công đoạn là ủi sản phẩm
81
H7
Công đoạn hoàn tất sản phẩm
82
H8
Sửa lỗi lần cuối
82
H9
Đóng gói sản phẩm
83
H10
Khu giặt tẩy
83
H11
Nồi nấu thủ công
84
H12
Giếng ô nhiễm nước tại làng nghề
84
H13
Ao nước tù đọng tại làng nghề
85
H14
Bãi rác thải của làng nghề
85
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Những năm vừa qua, ở nhiều vùng nông thôn nước ta các làng nghề đã phát triển khá mạnh và đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương. Song bên cạnh đó, tại đây cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề môi trường bức xúc, đòi hỏi sự quan tâm tháo gỡ kịp thời của các ngành, các cấp, đặc biệt là chính quyền các địa phương nơi có làng nghề.
Việc phát triển làng nghề là một phần quan trọng của công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trong những năm đầu của thế kỷ 21. Phát triển mạnh những ngành nghề, đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm truyền thống có giá trị kinh tế cao, sử dụng được nhiều lao động là lợi thế của làng nghề địa phương. Đời sống nông dân ở nhiều vùng nông thôn trong cả nước đã khấm khá lên do sản xuất nông nghiệp phát triển đồng thời với việc khôi phục và phát triển các làng nghề. Nhiều làng nghề đã nêu được bài học về làm giàu ở nông thôn. Tuy nhiên chính những nơi này đã và đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường, cần phải giải quyết kịp thời.
Hiện nay, việc khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn đang có nhiều thuận lợi, được Nhà nước hộ trợ kinh phí và tìm đầu ra cho sản phẩm. Tuy nhiên, do phát triển tự phát, ồ ạt và thiếu quy hoạch nên đã dẫn tới hậu quả là môi trường ở các làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Tại nhiều làng nghề hiện nay đang bị ô nhiễm cả về: Vật lý, hóa học và sinh học. Hiện trạng về ô nhiễm biểu hiện: Không khí thì bị ô nhiễm về nhiệt, tiếng ồn, hơi độc, bụi khói và không gian sống thì ngày càng bị thu hẹp do đất phải nhường chỗ cho sản xuất công nghiệp và các công trình khác. Đất sản xuất nông nghiệp và nguồn nước sinh hoạt nhiều nơi đang có nguy cơ bị ô nhiễm nặng do phế thải công nghiệp và sinh hoạt. Cây xanh vốn là đặc trưng của nông thôn Việt Nam, nhưng nay đã bị thu hẹp dần nhường chỗ cho các công trình xây dựng.
Ô nhiễm môi trường đã và đang tác động xấu đến sức khoẻ con người, người dân làng nghề đang có nguy cơ mắc bệnh mà do ô nhiễm môi trường gây nên.Ở làng giấy Phong Khê (Bắc Ninh) có 30% dân số bị mắc các bệnh về da liễu, hô hấp và đường ruột. Tại làng nghề Bát Tràng qua khảo sát 223 người dân thì có 76 người mắc bệnh đường hô hấp, 23 người bị lao. Còn tại làng nghề tái chế kim loại tỷ lệ người mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư, dị tật bẩm sinh tương đối cao [15, tr14].
Ô nhiễm môi trường nông thôn nói chung và môi trường các làng nghề nói riêng hiện đang là vấn đề được cả xã hội quan tâm.
Thêu ren là một nghề thủ công truyền thống đang phát triển mạnh ở Thanh Liêm, Hà Nam. Công nghệ nhuộm, tẩy, giặt sợi đã sử dụng nhiều hoá chất gây tác động xấu đến môi trường đất, nước. Để tìm hiểu hiện trạng môi trường của làng nghề thêu ren huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Tôi đã lựa chọn đề tài: "Hiện trạng môi trường làng nghề thêu ren An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam và một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường".
Đề tài thực hiện sẽ cung cấp thông tin cụ thể về hiện trạng môi trường của khu vực làng nghề và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường phục vụ cho sự phát triển làng nghề bền vững.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tình hình ô nhiễm môi trường và đề xuất giải pháp quản lý nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm, khu vực làng nghề An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam.
* Yêu cầu:
- Khảo sát các hoạt động sản xuất của làng nghề phát sinh ô nhiễm môi trường.
- Đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường làng nghề thêu ren An Hoà, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, dựa trên các hoạt động của làng nghề.
- Tìm hiểu ảnh hưởng của hoạt động sản xuất của làng nghề, đến môi trường trong làng nghề và sức khỏe người dân.
- Phân tích, dự báo ô nhiễm môi trường của làng nghề.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế ô nhiễm.
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Làng nghề với phát triển kinh tế xã hội nông thôn
2.1.1.1. Khái niệm và tiêu chí làng nghề
Có nhiều ý kiến đưa ra về khái niệm làng nghề. Theo Trần Minh Yến khái niệm làng nghề bao gồm những nội dung sau.
Làng nghề là một thiết chế kinh tế xã hội ở nông thôn, được cấu thành bởi hai yếu tố ngành và nghề, tồn tại trong một không gian địa lý nhất định, trong đó bao gồm nhiều hộ gia đình sinh sống bằng nghề thủ công là chính, giữa họ có mối liên kết về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Xét về mặt định tính: làng nghề ở nông thôn nước ta được hình thành và phát triển do yêu cầu của phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển và chịu sự chi phối của nông nghiệp và nông thôn. Làng nghề gắn liền với những đặc trưng của nền văn hóa lúa nước và nền kinh tế hiện vật, sản xuất nhỏ tự cấp tự túc.
Xét về mặt định lượng: làng nghề là những làng mà ở đó có số người chuyên làm nghề thủ công và sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập từ nghề đó chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng dân số của làng.
Tiêu chí để xem xét một cách cụ thể đối với một làng nghề điển hình là: số hộ chuyên làm một hoặc nhiều nghề thủ công, phi nông nghiệp chiếm ít nhất 30% tổng số hộ và lao động, ở làng nghề có ít nhất 50% tổng giá trị sản xuất và thu nhập chung của làng, doanh thu hàng năm từ ngành nghề ít nhất 300 triệu đồng (tính theo giá trị năm 2002) [4, tr25].
2.1.1.2. Đặc điểm chung của làng nghề
Ở mỗi làng nghề tuy bao giờ cũng có sự khác nhau về quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, tính chất sản phẩm nhưng đều có chung một số đặc điểm sau:
- Lực lượng lao động trong làng nghề đa số là người dân sống trong làng. Các ngành nghề phi nông nghiệp trong làng sẽ tạo ra sản phẩm giúp cho người dân tăng thu nhập trong lúc nông nhàn.
- Hộ gia đình là đơn vị cơ bản của sản xuất với nguồn nhân lực từ thành viên trong gia đình và cơ sở hạ tầng tự có. Nhờ vào nhân lực gia đình đã tạo cho các hộ gia đình khả năng thu nhập không phân biệt lứa tuổi và giới tính vì nó đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên trong gia đình. Do đó, nó có thể huy động mọi người trong gia đình tham gia tích cực vào việc tăng sản phẩm sản xuất của gia đình.
- Cơ sở sản xuất dịch vụ tại làng xã là nơi có nhiểu hộ gia đình cùng tham gia. Điều này tạo nên tính chất riêng biệt của làng nghề, dẫn đến xu thế độc quyền những nghề nghiệp, sản phẩm.
- Tính chuyên môn hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau trong các làng nghề rất rõ rệt. Một số trường hợp, sự phân chia lao động trong làng nghề phụ thuộc vào từng khâu trong quy trình sản xuất. Nghề càng phức tạp, càng có nhiều công đoạn sản xuất thì tính chuyên môn hóa càng cao. Sự phân chia này không chỉ trong một làng mà còn có thể mở rộng trong nhiều làng.
- Phần lớn kỹ thuật - công nghệ của làng nghề còn lạc hậu, chủ yếu vẫn sử dụng các thiết bị thủ công, bán cơ khí hoặc đã đã được cải tiến một phần, đa số mua lại từ các cơ sở công nghiệp quốc doanh, các thiết bị này đã cũ, không đồng bộ, không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật và điều kiện làm việc cho người lao động. Công nghệ sản xuất đơn giản (đôi khi còn lạc hậu), cần nhiều sức lao động (với kỹ thuật cũ mang lại lợi nhuận thấp so với sức lao động đã bỏ ra).
- Biết tận dụng nguyên vật liệu và nhân lực thông qua kỹ năng lao động và sự khéo léo để tạo thu nhập trong điều kiện thiếu vốn.
2.1.1.3 Phân loại và đặc trưng sản xuất của các làng nghề
Làng nghề với những hoạt động phát triển đã tạo ra những tác động tích cực và tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội và môi trường nông thôn Việt Nam với đặc thù hết sức đa dạng. Cần phải nhìn nhận theo nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau mới có thể hiểu rõ được bản chất cũng như sự vận động của loại hình kinh tế này và các tác động của nó gây ra đối với môi trường. Để giúp cho công tác quản lý hoạt động sản xuất cũng như quản lý, bảo vệ môi trường và làm cơ sở thực tiễn để thấy được bức tranh tổng thể về làng nghề Việt Nam, có thể phân loại làng nghề theo một số dạng sau:
(1). Phân loại theo làng nghề truyền thống và làng nghề mới: dựa trên đặc thù văn hoá, mức độ bảo tồn các làng nghề đặc trưng cho các vùng văn hoá lãnh thổ khác nhau.
(2). Phân loại theo ngành sản xuất, loại hình sản phẩm: nhằm xác định nguồn và khả năng đáp ứng nguyên liệu cho hoạt động sản xuất cũng như phần nào thấy được xu thế và nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của xã hội.
(3). Phân loại theo quy mô sản xuất, theo quy trình công nghệ: nhằm xác định trình độ công nghệ sản xuất và quản lý sản xuất của các làng nghề qua đó có thể xem xét tiềm năng phát triển đổi mới công nghệ sản xuất đáp ứng cho các nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
(4). Phân loại theo nguồn thải và mức độ ô nhiễm: nhằm phục vụ mục tiêu đánh giá đặc thù, quy mô nguồn thải từ hoạt động sản xuất của làng nghề.
(5). Phân loại theo mức độ sử dụng nguyên, nhiên liệu: nhằm xem xét, đánh giá mức độ sử dụng tài nguyên tại các làng nghề, tiến tới có được giải pháp quản lý và kinh tế trong sản xuất nhằm giảm lượng tài nguyên sử dụng cũng như hạn chế tác động đến môi trường.
(6). Phân loại theo thị trường tiêu thụ sản phẩm, tiềm năng tồn tại và phát triển: nhằm xem xét tới các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và quan trọng nhất đối với sự phát triển của làng nghề. Tuỳ thuộc vào các tiêu chí mà ta áp dụng cách phân loại này hay phân loại kia.
Với mục đích nghiên cứu về môi trường làng nghề, cách phân loại theo ngành sản xuất và loại hình sản phẩm là phù hợp hơn cả. Vì thực tế cho thấy nếu đánh giá được ngành sản xuất, quy trình công nghệ sản xuất, quy mô sản xuất thì sẽ đánh giá được tác động của sản xuất ngành nghề đến môi trường.
Làng nghề nước ta phong phú về chủng loại, đa dạng về hình thức đã tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Cách tiếp cận tốt nhất là nhóm các làng nghề lại theo các kiểu sản phẩm và phương thức sản xuất chính. Theo cách tiếp cận này, làng nghề được xem xét đồng thời trên các mặt: quy trình sản xuất, sản phẩm sản xuất và quy mô sản xuất. Phân loại làng nghề theo 6 nhóm: biểu đồ 2.1.
(Nguồn: tổng cục môi trường tổng hợp năm 2008)
BIỂU 2.1: PHÂN LOẠI LÀNG NGHỀ VIỆT NAM THEO NGÀNH NGHỀ SẢN XUẤT
Sự phân chia theo nhóm ngành cho chúng ta thấy:
- Mỗi ngành chính có nhiều ngành nhỏ liên quan phụ thuộc vào nhau tạo thành các nhóm ngành.
- Mỗi nhóm ngành làng nghề trong hoạt động sản xuất, sẽ gây ảnh hưởng khác nhau đến môi trường.
2.1.1.4. Một số làng nghề chính ở Việt Nam
* Làng nghề chế biến lương thực phẩm, đi kèm với chăn nuôi có số lượng làng nghề lớn (chiếm 20% số lượng làng nghề) phân bố đều trên cả nước, phần nhiều sử dụng lao động nông nghiệp, không yêu cầu trình độ cao, hình thức sản xuất thủ công, ít có thay đổi về quy trình sản xuất. Nước ta có nhiều làng nghề thủ công truyền thống như nấu rượu, làm bánh đa nem, đậu phụ ..., với các nguyên liệu chính là gạo, ngô, khoai, sắn, đậu ..., các nghề này thường gắn với hoạt động chăn nuôi ở quy mô gia đình.
* Làng nghề thêu, dệt nhuộm, ươm tơ, thuộc da đã có từ lâu đời, nhiều sản phẩm đã gắn liền với truyền thống lịch sử, văn hoá đậm nét địa phương. Những sản phẩm như lụa, tơ tằm, thổ cẩm, thêu ren, dệt may ..., không chỉ là những sản phẩm hàng hoá có giá trị mà còn là những tác phẩm nghệ thuật được đánh giá cao. Tại các làng nghề nhóm này, lao động nghề thường là lao động chính (chiếm tỷ lệ cao hơn lao động nông nghiệp)
* Làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác đá có từ lâu đời, tập trung ở các vùng có sẵn nguyên liệu xây dựng. Lao động loại làng nghề này chủ yếu là thủ công, quy trình công nghệ thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp. Khi nhu cầu về xây dựng nhà cửa, công trình tăng, hoạt động sản xuất vật liệu xây dựng phát triển mạnh đặc biệt là các vùng núi đá vôi.
* Làng nghề tái chế phế liệu chủ yếu mới hình thành, nên số lượng ít nhưng lại được phát triển nhanh về loại hình tái chế (chất thải kim loại, giấy nhựa, vải đã qua sử dụng). Ngoài ra, các làng nghề cơ khí, chế tạo và đúc kim loại phế liệu sắt vụn, cũng là loại hình làng nghề.
* Làng nghề thủ công mỹ nghệ: bao gồm các làng nghề gốm, sành sứ, thuỷ tinh mỹ nghệ, chạm khắc đá, chạm mạ vàng bạc, sản xuất mây tre đan, đồ gỗ mỹ nghệ, sơn mài, làm nón, dệt chiếu, thêu ren. Đây là nhóm làng nghề chiếm tỷ lệ lớn về số lượng (khoảng 40% tổng số làng nghề) có truyền thống lâu đời, sản phẩm có giá trị cao, đậm nét văn hoá dân tộc, có tính địa phương cao. Quy trình sản xuất của các làng nghề này gần như không thay đổi, lao động thủ công nhưng đòi hỏi tay nghề cao, đòi hỏi chuyên môn hoá và có tính chuẩn trong sáng tạo.
* Các nhóm ngành khác: bao gồm các làng nghề chế tạo công cụ thô sơ như cầy bừa, quốc xẻng, liềm hái, đóng thuyền, làm quạt giấy, đan vó đan lưới, làm lưỡi câu ..., những làng nghề nhóm này có từ lâu đời, sản phẩm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của địa phương. Lao động chủ yếu thủ công, thu hút nhiều lao động, sản phẩm ít có cải tiến thay đổi.
2.1.1.5. Vai trò của làng nghề trong sự phát triển kinh tế - xã hội
(1). Chủ trương phát triển làng nghề
Thời gian qua, xác định vai trò quan trọng của làng nghề, ngành nghề nông thôn, Đảng và Nhà nước đã tập trung chỉ đạo và ban hành nhiều chính sách như Nghị định số 66/2006/NĐ-CP ngày 07/07/2006 của Chính phủ về chính sách phát triển ngành nghề nông thôn, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, giải quyết việc làm tại chỗ, nâng cao chất lượng cuộc sống thu nhập của người dân, tăng cường hoạt động xuất khẩu.
Nghị định số 73/1995/NĐ-CP ngày 01/11/1995, Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện chức năng quản lý Nhà nước lĩnh vực ngành nghề nông thôn (Nghị quyết số 01/2008/NĐ-CP ngày 03/01/2008 quy định chức năng của bộ NN &PTNT). Trên cơ sở đó, Bộ NN &PTNT đã xây dựng, ban hành nhiều chính sách mà cụ thể là Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 hướng dẫn thực hiện một số nội dung của nghị định 66/2006/NĐ-CP, Chỉ thị số 28/2007/CT-BNN ngày 18/04/2007 về việc đẩy mạnh thực hiện quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn và phòng chống ô nhiễm môi trường làng nghề cũng như đã có nhiều văn bản chỉ đạo nhằm thúc đảy phát triển làng nghề.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn 2006 - 2015 của bộ NN &PTNT là thực hiện chương trình “mỗi làng một nghề”, với mục tiêu khôi phục và phát triển làng nghề nông thôn để tạo việc làm, tạo thu nhập từ phi nông nghiệp với các hoạt động như: hỗ trợ phát triển làng nghề nông thôn, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân, HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ, đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp đa dạng, đào tạo nghề và hỗ trợ chuyển lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp, xây dựng cơ chế quản lý chất thải làng nghề
(2). Làng nghề với sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn
Điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ phát triển các làng nghề. Khả năng tiếp cận thông tin, điện, nước sạch, giao thông và các yếu tố khác về cơ sở vật chất là rất cần thiết cho sự phát triển của các làng nghề. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt sẽ góp phần mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nước ta thông qua việc phát triển các ngành nghề tại các làng nghề. Ngược lại, sự phát triển kinh tế của các làng nghề cũng góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn, cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật tại đây. (Biểu đồ 2.2)
(Nguồn: Bộ kế h daoạch và đầu tư, 2007)
BIỂU ĐỒ 2.2: TỶ LỆ CÁC LÀNG NGHỀ CÓ CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI TRONG TỔNG SỐ CÁC LÀNG NGHỀ ĐƯỢC KHẢO SÁT
Hạ tầng cơ sở ở những nơi tập trung nhiều làng nghề như khu vực đồng bằng sông HồngH, Bắc trung bộ và Đông Nam Bộ nhìn chung phát triển khá tốt do các làng nghề phần lớn được hình thành, phát triển ở những nơi tiếp cận thuận lợi mạng lưới đường quốc lộ, tỉnh lộ, cùng sự hỗ trợ của các chính sách từ chính quyền tỉnh, thành phố nhằm thúc đẩy mạnh mẽ phát triển làng nghề. Khu vực miền núi, cũng có một số làng nghề phát triển, tuy nhiên điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật vẫn không được chú trọng đầu tư do phần lớn làng nghề ở đây không nhằm mục tiêu phục vụ thị trường mà chủ yếu sản phẩm chỉ phục vụ đời sống nhân dân khu vực lân cận.
(3). Làng nghề và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
Tại các làng nghề, đại bộ phận dân cư làm nghề thủ công nhưng vẫn tham gia sản xuất nông nghiệp ở một mức độ nhất định. Tại nhiều làng nghề, trong cơ cấu kinh tế địa phương, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đạt 60 - 80% và ngành nông nghiệp chỉ đạt 20 - 40%. Trong những năm gần đây, số hộ và cơ sở ngành nghề ở nông thôn đang ngày một tăng lên với tốc độ bình quân từ 8,8 - 9,8%/năm, kim ngạch xuất khẩu từ các sản phẩm làng nghề không ngừng gia tăng (biểu đồ 2.3). Chính vì vậy, có thể thấy, làng nghề đóng vai trò rất quan trọng, trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động trong lúc nông nhàn, góp phần tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động ở khu vực nông thôn. Bên cạnh việc tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động ở khu vực nông thôn còn tạo thêm việc làm cho lao động phụ như người già, trẻ em, người khuyết tật ... .
Đơn vị tính: triệu USD
(Nguồn: Bộ NN &PTNT - 2008)
BIỂU ĐỒ 2.3: KIM NGẠCH XUẤT KHẨU TỪ CÁC SẢN PHẨM LÀNG NGHỀ CỦA VIỆT NAM
Mức thu nhập của người lao động ngành nghề cao gấp 3 đến 4 lần so với thu nhập của người lao động thuần nông. Điều này cũng khiến số hộ gia đình chuyển từ sản xuất thuần nông sang sản xuất thủ công nghiệp và chuyên làm nghề ngày càng tăng nhanh. Báo cáo “Nghiên cứu về quy hoạch phát triển ngành nghề thủ công theo hướng công nghiệp hoá nông thôn của nước CHXHCN Việt Nam” do bộ NN &PTNT thực hiện năm 2004 đã chỉ ra rằng, tỷ lệ hộ nghèo trung bình trong số hộ sản xuất thủ công nghiệp là 3,7% thấp hơn nhiều mức trung bình cả nước là 10,4%.
(4). Làng nghề truyền thống và hoạt động phát triển du lịch
Lợi ích của việc phát triển làng nghề không chỉ là ở kinh tế, giải quyết việc làm cho lao động địa phương mà còn góp phần bảo tồn được giá trị văn hoá lâu dài. Điểm chung của làng nghề là thường nằm trên trục giao thông đường bộ hay đường sông. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng các điểm hoặc tuyến du lịch lữ hành. Ngoài những lợi thế như cảnh quan thiên nhiên, vị trí địa lý, nét văn hoá đặc sắc, các làng nghề còn có sức hút đặc biệt bởi mỗi làng lại gắn với một vùng văn hoá hay một hệ thống di tích lịch sử. Bên cạnh đó, khách tham quan còn được tận mắt theo dõi quá trình sản xuất ra các sản phẩm thậm chí là tham gia thực hành vào một khâu sản xuất nào đó, chính điều này tạo nên sức hấp dẫn của du lịch làng nghề.
Nhận thức được tiềm năng phát triển du lịch tại làng nghề sẽ góp phần gia tăng tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp hoặc dịch vụ ở địa phương, đồng thời tăng thêm cơ hội cho các cơ sở sản xuất thông qua các hoạt động giới thiệu và bán sản phẩm truyền thống, nâng cao đời sống của người dân thông qua các dịch vụ phụ trợ ..., điển hình như các tỉnh Hà Tây (trước đây), Hoà Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng ..., đã và đang phát triển mạnh mẽ loại hình du lịch làng nghề. đây là điểm đến của nhiều tuyến du lịch lữ hành của khách tham quan trong nước đồng thời thu hút nhiều khách du lịch
2.1.1.6. Những tác động tiêu cực đến môi trường của làng nghề
Bên cạnh mặt tích cực, sự phát triển hoạt động sản xuất tại làng nghề đã phát sinh một số tác động tiêu cực đến môi trường. Những tác động xấu đến môi trường nhiều năm qua đã làm cho chất lượng môi trường nhiều làng nghề ngày càng suy giảm, ảnh hưởng không chỉ tới sự phát triển bền vững ở làng nghề, mà còn ảnh hưởng đến cả tính bền vững của nhiều ngành kinh tế khác.
* Một số tồn tại của làng nghề ở Việt Nam:
Làng nghề Việt Nam trong quá trình phát triển, đến nay đã bộc lộ một số tồn tại sau:
- Quy mô sản xuất của làng nghề nhỏ, phần lớn quy mô hộ gia đình (chiếm 72% tổng số cơ sở sản xuất) [15, Tr11].
Quy mô sản xuất tại nhiều làng nghề là quy mô nhỏ, khó phát triển vì mặt bằng sản xuất trật hẹp xen kẽ với khu vực sinh hoạt. Sản xuất càng phát triển thì nguy cơ lấn chiếm khu vực sinh hoạt, phát thải ô nhiễm tới khu dân cư càng lớn, dẫn đến chất lượng môi trường càng xấu đi.
- Nếp sống tiểu nông của người chủ sản xuất nhỏ xuất thân từ nông dân đã ảnh hưởng mạnh tới sản xuất làng nghề, làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường.
Người sản xuất không nhận thức được tác hại lâu dài của ô nhiễm, chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt, các cơ sở sản xuất tại làng nghề thường lựa chọn quy trình sản xuất thô sơ tận dụng nhiều sức lao động trình độ thấp. Hơn thế nhằm hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh, nhiều cơ sở sản xuất còn sử dụng các nhiên liệu rẻ tiền, hóa chất độc hại (kể cả đã cấm sử dụng) không đầu tư phương tiện, dụng cụ bảo hộ lao động không đảm bảo điều kiện lao động nên đã làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường. Ví dụ như các làng nghề chế biến nông sản thực phẩm, là nguồn chất thải rắn tạo bụi. ở làng nghề bún Phú Đô mỗi năm sử dụng 5.250 tấn than, làng nghề Dương Liễu là 34.000 tấn. Như vậy theo ước tính của viện KHCN &MT cứ một tấn than cháy tạo ra 0, 2 tấn xỉ than thì chỉ riêng làng nghề bún Phú Đô đã thải ra 7.850 tấn xỉ than/năm.
- Quan hệ sản xuất mang đặc thù của quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xã. Nhiều làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, sử dụng lao động có tính gia đình, sản xuất theo kiểu "bí truyền", giữ bí mật cho dòng họ, tuân theo "hương ước" không cải tiến áp dụng những khoa học kỹ thuật, nên đã cản trở việc áp dụng giải pháp khoa học kỹ thuật mới, không khuyến khích sáng kiến mang hiệu quả BVMT của người lao động.
- Công nghệ sản xuất và thiết bị phần lớn ở trình độ lạc hậu chắp vá, kiến thức tay nghề không toàn diện dẫn tới quá trình sản xuất tiêu tốn nhiều nhiên, nguyên liệu làm tăng phát thải nhiều chất ô nhiễm môi trường nước, đất, khí ảnh hưởng tới gia thành sản phẩm và chất lượng môi trường. Kỹ thuật lao động sản xuất ở các làng nghề chủ yếu là thủ công, bán cơ khí, chưa có làng nghề nào áp dụng tự động hóa được thể hiện qua bảng 2.1:
BẢNG 2.1: TRÌNH ĐỘ KỸ THUẬT Ở CÁC LÀNG NGHỀ
Đơn vị tính: %
Trình độ kỹ thuật
Chế biến nông, lâm, thủy sản
Thủ công mỹ nghệ và vật liệu xây dựng
Các ngành dịch vụ
Các ngành khác
Thủ công, bán cơ khí
61,51
70,69
43,90
59,44
Cơ khí
38,49
29,31
56,10
40,56
Tự động hóa
0
0
0
0
(Nguồn: báo cáo môi trường quốc gia năm 2008)
- Vốn đầu tư của các cơ sở sản xuất tại các làng nghề quá thấp, khó có điều kiện phát triển hoặc đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường.
Sản xuất mang tính tự phát, không có kế hoạch lâu dài, nên khó huy động tài chính và vốn đầu tư lớn từ các nguồn khác (quỹ tín dụng, ngân hàng). Do đó, khó chủ động trong đổi mới kỹ thuật và công nghệ, lại càng không thể đầu tư cho xử lý môi trường.
- Trình độ người lao động, chủ yếu là lao động thủ công, đang học nghề, văn hóa thấp, nên hạn chế nhận thức đối với công tác BVMT.
Theo điều tra của bộ NN &PTNT thì chất lượng lao động và trình độ chuyên môn kỹ thuật ở các làng nghề nhìn chung còn thấp chủ yếu là lao động phổ thông, số lao động chỉ tốt nghiệp cấp I, II chiếm trên 60%. Mặt khác đa số người lao động xuất thân từ nông dân nên chưa có ý thức về môi trường lao động, chỉ cần việc làm có thu nhập cao hơn thu nhập từ nông nghiệp hoặc bổ sung thu nhập trong lúc nông nhàn, nên ngại học hỏi, không quan tâm tới BVMT... .
- Nhiều làng nghề chưa quan tâm tới xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho BVMT.
Cạnh tranh trong 1 số loại hình sản xuất đã thúc đẩy một số làng nghề đầu tư đổi mới công nghệ, kỹ thuật sản xuất. Tuy nhiên đây không phải là đầu tư cho kỹ thuật bảo vệ môi trường. Vì vậy hầu hết các cơ sở sản xuất trong làng nghề đều không có các hệ thống xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường.
Hầu hết các làng nghề không có đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thu gom và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường, như không có hệ thống thu gom và xử lý nước thải, không có bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh, không chú ý đầu tư phương tiện thu gom quản lý chất thải nguy hại. Đây là một thách thức lớn vì để khắc phục điều này đòi hỏi nhiều kinh phí và thời gian.
2.1.1.7. Xu thế phát triển làng nghề đến năm 2015
Các yếu tố chính tác động đến sự phát triển của làng nghề bao gồm các yếu tố chủ quan như nội lực sản xuất và các yếu tố khách quan như chính sách của Nhà nước, vấn đề thị trường ... .
Các yếu tố chính sách tác động đến sự phát triển của làng nghề:
Có 5 yếu tố chính làm cho làng nghề có thể được hình thành, phát triển hoặc bị mai một:
(1). Nội lực sản xuất, trong đó đóng vai trò quan trọng là: người đúng đầu cơ sở sản xuất, cơ sở vật chất và mặt bằng, công nghệ sản xuất, nguyên nhiên liệu, bản sắc văn hóa, vốn và năng lực kinh doanh của một cơ sở sản xuất trong làng nghề.
(2). Chính sách Nhà nước, bao gồm các thể chế và chính sách của các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương, như tổ chức hiệp hội, chính sách thuế, hỗ trợ vốn, hậu thuẫn của các cơ quan quản lý địa phương.
(3). Tác động của thị trường và vấn đề hội nhập quốc tế.
(4). Yếu tố xã hội như tạo công ăn việc làm, đa dạng hóa loại hình kinh tế, bảo tồn giá trị văn hóa.
(5). Yếu tố môi trường như tác hại của ô nhiễm tới sức khỏe cộng đồng, cảnh quan gây tổn thất kinh tế, xã hội.
Các yếu tố này được lượng hóa bằng đánh giá của các chuyên gia trong nhiều lĩnh vực, sẽ cho biết xu thế phát triển của các loại hình làng nghề. Vì quá nhiều nhân tố khó có thể lường trước được nên kết quả dự đoán sẽ chỉ là xu thế trong một tương lai gần với một giả thiết nhất định.
BẢNG 2.2: XU THẾ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ ĐẾN NĂM 2015
Vùng kinh tế
Dệt nhuộm, ươm tơ thuộc da
Chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi, giết mổ
Tái chế phế liệu
Thủ công mỹ nghệ
Sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác đá
Đồng bằng sông Hồng
2
1
2
2
-1
Đông bắc
1
1
0
1
0
Tây Bắc
1
1
0
1
0
Bắc Trung Bộ
1
2
1
2
1
Nam Trung Bộ
2
2
1
2
1
Tây Nguyên
1
0
0
2
1
Đông nam Bộ
1
1
1
2
-1
Đông bằng sông Cửu Long
1
1
1
2
-1
Ghi chú: -1: suy thoái; 0: duy trì, không phát triển; 1: phát triển vừa; 2: phát triển mạnh
(Nguồn: báo cáo môi trường quốc gia 2008)
Kết quả phân tích xu thế phát triển làng nghề được trình bày trong bảng 2.2, có thể nhận thấy rằng số lượng các làng nghề ở các vùng nói chung có xu hướng tăng lên, trừ ngành vật liệu xây dựng có xu thế giảm một chút do bị cạnh tranh nhiều với sản phẩm sản xuất công nghiệp. Số lượng làng nghề các khu vực đồng bằng sông Hồng, Trung Bộ và Nam Bộ có xu hướng tăng nhiều hơn so với các khu vực Đông Bắc và Tây._. Bắc
Khu vực đông bằng sông Hồng có số lượng làng nghề lớn nhất (khoảng gần 60% tổng số làng cả nước) và vẫn tiếp tục tăng trưởng nên khu vực này sẽ được coi là đại diện cho xu thế môi trường làng nghề trong các dự báo tiếp theo và tải lượng và mức độ ô nhiễm môi trường.
BIỂU ĐỒ 2.4: DỰ ĐOÁN SỐ LƯỢNG LÀNG NGHỀ KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐẾN NĂM 2015
(Nguồn: báo cáo môi trường quốc gia 2008)
Biểu đồ 2.4 là kết quả dự đoán số lượng làng nghề khu vực đông bằng sông Hồng đến năm 2015. Có thể nhận thấy xu hướng phát triển của các làng nghề thay đổi ít về số lượng. Một số làng nghề mới có thể phát triển do trở thành "vệ tinh" sản xuất, gia công hoặc phục vụ cho các khu công nghiệp quanh vùng. Tuy nhiên, khi đó có thể có sự thay đổi về chất lượng (công nghệ, kỹ thuật, quy mô, cơ sở hạ tầng cho BVMT) làm cho môi trường làng nghề ít bị ô nhiễm hơn và sự phát triển bền vững hơn. Duy trì và mở rộng các làng nghề truyền thống vừa làm đa dạng thị trường cung cấp hàng hoá thủ công vừa góp phần giữ gìn và phát triển những nét đặc sắc của nền văn hoá Việt Nam.
Các vấn đề về hiện trạng ô nhiễm và xu hướng trong tương lai, tác động của ô nhiễm môi trường, thực trạng và những tồn tại trong quản lý môi trường làng nghề, các giải pháp tổng hợp nhằm cải thiện môi trường làng nghề sẽ được phân tích và làm rõ hơn trong những phần tiếp theo của báo cáo.
2.1.2. Những vấn đề về ô nhiễm môi trường làng nghề
2.1.2.1. Tổng quan ô nhiễm môi trường làng nghề
Các chất thải phát sinh tại nhiều làng nghề đã và đang gây ô nhiễm môi trường và làm suy thoái môi trường nghiêm trọngC, tác động trực tiếp tới sức khoẻ người dân và ngày càng trở thành vấn đề bức xúc. Ô nhiễm môi trường làng nghề có một số đặc điểm sau:
* Ở nhiễm môi trường tại làng nghề là dạng ô nhiễm phân tán trong phạm vi một khu vực (thôn, làng, xã). Do quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, đan xen với khu sinh hoạt nên đây là loại hình ô nhiễm khó quy hoạch và kiểm soát.
* Ở nhiễm môi trường tại làng nghề mang đậm nét đặc thù của hoạt động sản xuất theo ngành nghề và loại hình sản phẩm, và tác động trực tiếp tới môi trường nước, đất và không khí trong khu vực.
* Ở nhiễm môi trường tại các làng nghề thường khá cao tại các khu vực sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người lao động.
Chất lượng môi trường tại hầu hết khu vực sản xuất trong các làng nghề đều không đạt tiêu chuẩn. Các nguy cơ mà người lao động tiếp xúc khá cao: 95% người lao động có nguy cơ tiếp xúc với bụi, 85,9% tiếp xúc với nhiệt, 59,6% tiếp xúc với hoá chất (đề tài KC 08.09 (2005)).
Kết quả khảo sát 52 làng nghề điển hình trong cả nước của đề tài KC 08.09 (2005) cho thấy số liệu trên, 46% làng nghề có môi trường bị ô nhiễm nặng (đối với không khí hoặc nước hoặc đất hoặc cả 3 dạng), 27% ô nhiễm vừa và 27% ô nhiễm nhẹ. Các kết quả quan trắc trong thời gian gần đây cho thấy mức độ ô nhiễm của các làng nghề không giảm mà còn có xu thế tăng nhanh.
2.1.2.2 Hiện trạng phát thải ô nhiễm môi trường ở các làng nghề
Theo kết quả nghiên cứu của đề tài KC 08.09 (2005) khoa công nghệ và môi trường trường đại học Bách Khoa Hà Nội, tình hình ô nhiễm tại các làng nghề diễn ra khá nghiêm trọng, các chỉ tiêu phân tích nước thải như COD, BOD, SS ..., hàm lượng các chất khí thải CO2, SO2, bụi, tiếng ồn đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Tuy nhiên mức độ ô nhiễm các môi trường nước, không khí, đất do sản xuất ngành nghề gây ra là không giống nhau giữa các phân ngành. Mức độ ô nhiễm diễn ra phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất, tính chất sản phẩm và thành phần chất thải, thải ra môi trường. Do đó, để tìm hiểu về tình hình ô nhiễm môi trường ở các làng nghề, trước tiên ta phải biết về tải lượng và thành phần chất thải của mỗi ngành sản xuất. Kết quả tính toán tải lượng các chất ô nhiễm do hoạt động sản xuất làng nghề.
Ô nhiễm môi trường có những ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống con người và thực tế ô nhiễm môi trường luôn phát triển cùng chiều với các hoạt động sản xuất.
Ở các làng nghề do quá trình hình thành và phát triển mang tính tự phát, thiết bị đơn giản thủ công, công nghệ lạc hậu, hiệu quả sử dụng nguyên nhiên liệu thấp, mặt bằng sản xuất hạn chế, việc đầu tư cho xây dựng các hệ thống sử lý nước, khí thải hầu như không được quan tâm. ý thức bảo vệ môi trường sinh thái và bảo vệ sức khỏe cho chính gia đình của người lao động còn rất hạn chế. Do đó vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề nước ta trở nên bức xúc nhất hiện nay.
Tìm hiểu vấn đề ô nhiễm môi trường do sản xuất làng nghề một cách đầy đủ hơn cả là tìm hiểu theo các nhóm nghề. Theo cách này hiện trạng ô nhiễm ở các làng nghề được xét theo các nhóm sau:
- Hiện trạng phát thải ô nhiễm môi trường làng nghề chế biến NSTP
Ngành chế biến nông sản là ngành có nhu cầu nước rất lớn và thải ra một lượng nước không nhỏ giàu chất hữu cơ gây ô nhiễm môi trường. Tùy theo quy trình chế biến, nước thải chế biến nông sản thực phẩm có BOD5 lên tới 2500 - 5000mg/l, COD 13300 - 20000mg/l (nước tách bột đen trong sản xuất tinh bột sắn). Nước thải cống chung của các làng nghề này đều vượt quy chuẩn cho phép từ 5 - 32 lần.
Chất thải trong nghề chế biến lương thực thực phẩm rất đa dạng. Nhìn chung chất thải trong nghề chế biến lương thực thực phẩm là những chất hữu cơ dễ bị phân hủy. Trong khu vực các làng nghề này thường có thêm ngành nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi thuỷ sản để tận thu các nguồn nguyên liệu còn thừa ra. Chất thải của ngành nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm chất thải chủ yếu là chất hữu cơ, định mức chất thải rắn đối với gia súc, gia cầm (lợn thải ra 1,5 kg/con/ngày, gà, vịt, ngan thải ra 0,1 kg/con/ngày, trâu, bò thải ra 3 kg /con/ngày). Chất thải ngành chăn nuôi là những chất hữu cơ dễ bị phân hủy, gây ô nhiễm môi trường, tạo mùi khó chịu, nếu không được xử lý tốt sẽ gây ô nhiễm cả 3 môi trường: đất, nước và không khí.
Nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí đặc trưng nhất của các làng nghề chế biến NSTP là mùi hôi do sự phân hủy yếm khí các chất hữu cơ dạng rắn và chất hữu cơ tồn đọng trong nước thải sinh ra. Các khí ô nhiễm gồm H2S, CH4, NH3 đặc biệt là làng nghề sản xuất nước mắm do phơi cá ngoài trời nên mùi hôi tanh bốc lên rất khó chịu làm giảm chất lượng môi trường không khí và ảnh hưởng đến sức khỏe người dân làng nghề, giảm hiệu suất lao động. Mặt khác tại các làng nghề chế biến NSTP sử dụng than và củi làm chất đốt đã thải vào không khí bụi và các chất khí CO2, SO2, NO, NO2 tuy nhiên do được phát tán nên các chỉ tiêu về bụi và các chất khí này trong khu vực sản xuất đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép.
Hiện trạng môi trường đất và chất thải rắn tại các làng nghề chế biến nông sản có sự khác nhau giữa các làng nghề. Làng nghề chế biến tinh bột sắn, dong thải ra lượng chất thải rắn như vỏ, sơ. Hiện nay bã thải sắn được tận dụng làm thức ăn cho cá và chăn nuôi. Bã dong chứa hàm lượng sơ cao, một phần được đem phơi khô làm nhiên liệu, phần lớn được đổ xuống cống rãnh gây tắc nghẽn, khi bị phân hủy gây mùi xú uế. Nguồn thải này góp phần chính làm ô nhiễm môi trường đất và trực tiếp gây ô nhiễm môi trường không khí cũng như ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt, nước ngầm ở làng nghề.
Các làng nghề nấu rượu, làm tương, đậu phụ và nước mắm có nguồn chất thải rắn chủ yếu là bỗng rượu, bã đậu, bã cá là những thức ăn giàu dinh dưỡng cho gia súc, gia cầm. Vì vậy, tại các làng này thường phát triển chăn nuôi để tận dụng nguồn bã thải đó và chất thải chăn nuôi cũng góp phần làm tăng mức độ ô nhiễm làng nghề. Còn tại các làng nghề sản xuất bún, bánh lượng chất thải rắn không đáng kể, chủ yếu chỉ có xỉ than.
- Hiện trạng phát thải ô nhiễm môi trường các làng nghề sản xuất vật liệu xây dựng.
Các làng sản xuất vật liệu xây dựng ở nước ta hiện nay, công nghệ sản xuất còn thô sơ, tỷ lệ cơ khí hoá thấp, lao động giản đơn là chủ yếu, sản xuất vật liệu tiêu thụ một lượng rất lớn nhiên liệu là than và củi.
Ở các làng này mức độ ô nhiễm không khí là nghiêm trọng nhất. Bụi phát sinh từ quá trình khai thác, gia công nguyên liệu, vận chuyển vào lò, ra lò và bốc dỡ sản phẩm là rất lớn. Khói độc và sức nóng toả ra từ các lò nung, tiếng ồn do hoạt động giao thông làm cho môi trường không khí bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ người dân, cây cối và hoa màu.
Trong quá trình khai thác nguyên liệu cho sản xuất gạch ngói thiếu quy hoạch đã gây huỷ hoại thảm thực vật, tạo ra các vùng trũng ảnh hưởng lớn tới quá trình tưới tiêu và làm giảm diện tích canh tác.
- Làng nghề tái chế phế thải
Làng nghề tái chế phế thải gồm: tái chế giấy, tái chế kim loại, tái chế nhựa ..., là một ngành mới được hình thành tuy nhiên trong những năm qua đã phát triển khá nhanh.
ở các làng này ô nhiễm môi trường nước diễn ra khá nghiêm trọng do đặc điểm sử dụng nhiều nước. Trong quá trình rửa sạch chất thải, nước thải mang theo khá nhiều các tạp chất làm ô nhiễm môi trường. Một kết quả nghiên cứu tại làng nghề Dương Lỗ (Bắc Ninh) nước có hàm lượng COD là 630 - 1260 mg/l vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 2 - 12 lần, ngoài ra hàm lượng Phenol rất cao (0.2 mg/l) vượt tiêu chuẩn cho phép 10 lần. ở làng nghề tái chế kim loại nước thải của quá trình tẩy rửa và mạ kim loại chứa hoá chất axit, xút, các kim loại như: Cr2+, Pb2+..., gây ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước. Một kết quả nghiên cứu năm 2002 tại làng nghề Phước Kiều - Quảng Nam, hàm lượng Pb2 + là 0.6 mg /l vượt quá tiêu chuẩn cho phép 6 lần.
Ngoài ra ở những làng này phải thường xuyên chịu nhiệt độ cao, tiếng ồn lớn, bụi và khí độc nhiều.
- Làng nghề dệt nhuộm
Trong cơ cấu làng nghề dệt nhuộm nói chung, nghề nhuộm chiếm một vị trí quan trọng. Hoạt động của các làng nhuộm không chỉ tạo ra những giá trị về mặt kinh tế xã hội, mà còn tạo ra những giá trị văn hóa tinh thần sâu sắc.
Cũng như các làng chế biến nông sản thực phẩm, vấn đề ô nhiễm môi trường nước là vấn đề lớn nhất đối với các làng nghề dệt nhuộm. Đây là ngành sử dụng nhiều nước, nhiều hoá chất, thuốc nhuộm. Thông thường khoảng 30% thuốc nhuộm và 85 - 90% hoá chất còn lại, sau quy trình công nghệ nhuộm được thải vào trong nước, vì vậy nước thải có pH, COD, TS, BOD, độ màu rất cao.
Làng nghề thêu ren: phát thải ra trong hoạt động tẩy trắng các sản phẩm, nước thải có chứa các hoá chất tẩy, các chất hữu cơ, các xơ sợi.
Theo đánh giá của sở công nghệ và môi trường Hà Nam năm 2008. Để tẩy trắng sản phẩm, lượng hoá chất dùng để sản xuất cho 100m vải cần khoảng 0,25 kg Javen, 0,2 kg silicat, 0,2 kg H2O2. Phẩm màu công nghiệp dùng để nhuộm hấp xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, người dân làm nghề không nắm được thành phần, độc tính của thuốc nhuộm. Nguồn thải làng nghề dệt nhuộm, ngoài nước thải có thành phần thông thường như: các chất hữu cơ, NH3, NO2-, PO3-, còn có một lượng lớn các hoá chất là thành phần thuốc nhuộm (trong đó có một số hợp chất rất độc với con người và môi trường sinh thái như các hợp chất diazô), các chất màu làm cho nước nhiễm màu. Thông thường lượng thuốc nhuộm đi cùng nước thải chiếm tới 25%. Ô nhiễm môi trường không khí, bụi do sử dụng than và các loại khí sinh ra khi phân huỷ chất thải.
Tại làng nghề dệt nhuộm các chỉ tiêu phân tích nước thải như COD,BOD, SS đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép từ 1- 4 lần. Độ ồn do các thiết bị dệt gây ra từ 75 - 90 dB cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
Làng nghề ươm tơ: sản xuất 1kg kén tơ cần sử dụng 1,5 kg than, 0, 08 kg củi, 01 tạ kén sử dụng 1m3 nước, chất thải phát sinh từ sản xuất tơ tằm, nước thải có chứa các chất hữu cơ, nitơ, tơ sợi vì thế nước thải dễ phân huỷ và gây mùi khó chịu tại khu vực làng nghề này. Ô nhiễm không khí từ các lò hơi, các lò than sinh ra bụi và các khí độc.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ
Các làng nghề này hiện tượng ô nhiễm môi trường nước diễn ra ít nghiêm trọng như các làng nghề chế biến NSTP và các làng nghề tái chế. Tuy nhiên, sản xuất tại các làng nghề này lại thường xuyên gây ra bụi và tiếng ồn lớn, hoặc gây ra khí độc khi tẩm sấy các đồ mây, tre đan.
Làng nghề sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu: thường tạo ra các chất thải rắn (xỉ than, gạch vỡ, gạch phồng, đất đá thải do khai thác khoáng sản ...) và chất thải khí (bụi, SO2, CO, NOx ...). Theo phương pháp đánh giá thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thì lượng bụi phát sinh trong quá trình khai thác, chế biến và vận chuyển đá vôi như sau: khoan nổ mìn 0, 4kg bụi/tấn, bốc xếp, vận chuyển: 0,17 kg/tấn, nghiền sàng 0,3kg/tấn.
Đánh giá:
Trong các thành phần gây ô nhiễm môi trường thì các hoạt động trong làng nghề cũng là một thành phần gây ô nhiễm môi trường đáng kể.
2.1.2.3 Tác động của sản xuất nghề tới sức khỏe cộng đồng
Chất thải trong hoạt động sản xuất của các làng nghề ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sức khỏe của người sản xuất và của cộng đồng nói chung. Số liệu thống kê của phòng y tế các huyện và trạm y tế xã về tình hình sức khỏe của nhân dân làng nghề cho thấy ở từng làng nghề khác nhau thì các bệnh nghề nghiệp có khác nhau: ở làng nghề cơ khí, đúc, sản xuất nguyên vật liệu do sử dụng lượng than lớn để phục vụ sản xuất nên tỷ lệ mắc các bệnh về phổi, phế quản cao. Làng nghề tẩy nhuộm vải sợi, tẩy mạ kim loại sử dụng nhiều hóa chất độc hại, kim loại nặng thì tỷ lệ người bị bệnh ung thư cao, tuổi thọ giảm. Làng nghề gây ô nhiễm nguồn nước như chế biến lương thực, mây tre đan, chế biến gỗ thì tỷ lệ người mắc bệnh thần kinh, bệnh não, tuổi thọ giảm. Chẳng hạn như làng nghề tái chế chì thuộc xã Chỉ O - huyện Mỹ Văn - tỉnh Hưng Yên thì tỷ lệ các bệnh như đau mắt hột, các bệnh về đường hô hấp, hiện tượng phát triển trí tuệ không bình thường ở trẻ em của xã cao hơn các xã khác trong vùng do nguồn nước bị ô nhiễm chì. Làng thuộc da xã Liễu Xá (tỉnh Hưng Yên), do ô nhiễm nguồn nước với các dư lượng như Cr, phèn, thuốc thực vật, vôi nên các bệnh liên quan thể hiện rất rõ ràng và phổ biến như bệnh về phổi não, máu, da, những bệnh về hô hấp, mắt. Số người mắc các bệnh hô hấp rất cao trong các làng nghề sản xuất mây tre đan, dược liệu (như làng nghề Yên Nhân - huyện Ý Yên - tỉnh Nam Định). Hay ở làng nghề gốm Bát Tràng, ô nhiễm môi trường không khí đã ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe người dân. Qua điều tra sức khỏe 223 người dân Bát Tràng thì có 76 người bị bệnh về hô hấp và 23 người bị bệnh lao (VNN 6/6/1996). Trong năm 1995 có 23 người làng này chết về bệnh ung thư. Cư dân làng gốm này chiếm 70% số bệnh nhân bị bệnh ung thư ở các viện ở Hà Nội năm 1996 (VNN 3/6/97). Các làng nghề gây tiếng ồn ở xen kẽ trong nơi ở của dân cư gây tiếng ồn, ảnh hưởng trực tiếp tới không chỉ sức khỏe của người trực tiếp sản xuất mà cả với cộng đồng dân cư xung quanh. Người tiếp xúc nhiều với tiếng ồn lớn bị căng thẳng thần kinh, đau đầu mất ngủ, giảm tuổi thọ.
2.2. Ô nhiễm làng nghề và xử lý ô nhiễm ở một số nước trên thế giới
2.2.1. Trung Quốc
Trung Quốc là nước có nhiều nghề truyền thống phát triển. Từ xa xưa nó đã thực sự nổi tiếng với các sản phẩm của nghề dệt, gốm, giấy, nghề đúc kim loại, trải qua những biến đổi trong các thời kỳ lịch sử nhiều nghề thủ công truyền thống vẫn tồn tại và phát triển. Những năm đầu thế kỷ XX lực lượng lao động thủ công làm việc trong các làng nghề là trên 10 triệu lao động với hình thức sản xuất kinh doanh hộ gia đình.
Đến năm 1978 cả nước có 1, 5 triệu doanh nghiệp và trên 16 triệu lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp và thủ công nghiệp. Công nghiệp nông thôn chiếm 30% giá trị sản xuất của các công xã nhưng hiệu quả kinh tế xã hội lại thấp. Thời kỳ Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách, mở cửa, các nghề thủ công truyền thống và làng nghề được quan tâm, phát triển trong các xí nghiệp Hương Trấn. Các xí nghiệp Hương Trấn đã phát triển các ngành: chế biến nông sản, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, giao thông vận tải và dịch vụ thương nghiệp.
Xí nghiệp Hương Trấn là hình thức mới của công nghiệp hoá nông thôn mang màu sắc Trung Quốc nó chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Từ khi thực hiện cải cách đến nay hợp tác xã Hương Trấn phát triển đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế Trung Quốc.
Với chính sách “li điền bất li hương”, “nhập xưởng bất nhập thành’’, đã có hơn 100 triệu lao động nông nghiệp chuyển sang công nghiệp, thủ công nghiệp và các dịch vụ làm việc tại các xưởng sản xuất ngay địa phương. Các xí nghiệp Hương Trấn phát triển mạnh mẽ và linh hoạt đã khẳng định thế mạnh của mình trong việc tạo công ăn việc làm, thu hút nhiều lao động, đặc biệt là lao động nhàn rỗi ở nông thôn, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội nông thôn.
Trong giai đoạn 1980 - 1990 ở các làng nghề tồn tại kỹ thuật thủ công, quy mô nhỏ và phân tán, năng suất chất lượng kém, nguyên liệu, chất đốt cung cấp không đủ. Hầu như hàng năm đều xảy ra tình trạng tranh giành mua nguyên vật liệu, lại thêm hệ thống thông tin rất hạn chế nên sản xuất sản phẩm ra hầu hết không đáp ứng được nhu cầu thị trường về chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ Trung Quốc đã đề ra chương trình “Đốm Lửa” nhằm chuyển giao công nghệ và khoa học cho những vùng nông thôn. Liên kết giữa các nhà khoa học, nhà sản xuất và phân phối lưu thông hàng hoá.
Phát triển bền vững về môi trường luôn được đề cập và coi đó là một nhiệm vụ thường xuyên phải thực hiện. Đối với các xí nghiệp Hương Trấn khi mới thành lập đều phải có những cam kết không được làm ảnh hưởng đến môi trường. Điều này được quy định rất rõ ràng trong luật xí nghiệp Hương Trấn.
Như vậy việc quy hoạch tập trung các làng nghề đã giúp cho làng nghề Trung Quốc phát triển, bền vững cả về kinh tế - xã hội - môi trường. Việc quy hoạch tập trung và thực hiện các quy định môi trường nghiêm ngặt là cơ sở để phát triển bền vững làng nghề. Đây chính là kinh nghiệm mà làng nghề nước ta cần phải nghiên cứu áp dụng.
2.2.2. Hàn Quốc
Sau chiến tranh Mỹ - Triều (1953), Chính phủ Hàn Quốc đã chú trọng đến công nghiệp hoá nông thôn, trong đó có các làng nghề thủ công và làng nghề truyền thống. Đây là một chiến lược quan trọng để phát triển nông thôn. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiểu thủ công nghiệp phục vụ du lịch và xuất khẩu, chế biến lương thực, thực phẩm theo công nghệ cổ truyền được sản xuất tập trung.
Chương trình phát triển làng nghề ngoài nông nghiệp ở nông thôn tạo việc làm cho nông dân bắt đầu từ năm 1967. Chương trình này tập trung vào các nghề sử dụng lao động thủ công, công nghệ đơn giản và nguồn nguyên liệu sẵn có tại điạ phương, sản xuất với quy mô nhỏ, khoảng 10 hộ gia đình liên kết với nhau thành tổ hợp, được ngân hàng cung cấp vốn tín dụng với lãi suất thấp để mua nguyên liệu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngành nghề phát triển đã thu hút được nhiều lao động hoạt động theo hình thức sản xuất tại gia đình là chính.
Để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, Hàn Quốc đã coi việc xây dựng cơ sở hạ tầng là bước khởi đầu. Tiếp đó là nâng cao thu nhập nông thôn nhằm tích luỹ khả năng tài chính cho việc quản lý môi trường. Quản lý môi trường được thực hiện thông qua việc tập trung sản xuất và tập trung xử lý chất thải, ngay tại cụm làng nghề (10 hộ).
Qua kinh nghiệm của các nước cho thấy để đảm bảo cho làng nghề phát triển bền vững thì vấn đề đảm bảo môi trường phải luôn được tiến hành song song với quá trình sản xuất. Từ thực tế ta thấy làng nghề nước ta hiện nay đang gặp phải những vấn đề của làng nghề của các nước như Trung Quốc, Hàn Quốc của 15 năm về trước. Vậy nên những kinh nghiệm này là rất hữu ích cho chúng ta tham khảo vận dụng.
2.3. Ô NHIỄM LÀNG NGHỀ VÀ KINH NGHIỆM XỬ LÝ Ô NHIỄM Ở VIỆT NAM
2.3.1. Ô nhiễm làng nghề ở Việt Nam
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở nước ta hiện nay vẫn đang là vấn đề nổi cộm. Trong những năm qua do sự phát triển mang tính tự phát lại thiếu quy hoạch, không có các giải pháp kỹ thuật về môi trường nên tình trạng ô nhiễm môi trường ở các làng nghề rất phổ biến.
Về mặt quản lý, Nhà nước đã ban hành các văn bản để bảo vệ môi trường như:
- Luật bảo vệ môi trường được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27/12/1993 và chủ tịch nước ký sắc lệnh ban hành ngày 10/01/1994.
- Nghị định 175 - CP ngày 18/10/1994 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở quan trọng để tiến hành công tác điều tra, khảo sát môi trường nông thôn, thể hiện qua các điều 4, 5 của nghị định.
- Nghị định 26/CP ngày 26/04/1996 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
- Chỉ thị 36/CT-TW ngày 25/06/1998 của Ban chấp hành trung ương Đảng về việc tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Quyết định 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 của thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn gắn với việc bảo vệ môi trường như:
Nhà nước có quy hoạch và định hướng phát triển các cơ sở ngành nghề nông thôn đảm phát triển bền vững, giữ gìn tốt vệ sinh môi trường nông thôn.
Nhà nước có chính sách khuyến khích việc tiêu thụ và sử dụng các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu tự nhiên trong nước nhằm hạn chế một phần tác hại đến môi trường của các sản phẩm chất thải hoá chất nhựa công nghiệp ... .
UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm quy hoạch chi tiết phát triển làng nghề chỉ đạo huyện xây dựng các cụm tiểu thủ công nghiệp quy mô nhỏ để tạo mặt bằng cho các cơ sở ngành nghề nông thôn phát triển đảm bảo vệ sinh môi trường.
- Chỉ thị số 200-TTg ngày 29/04/1994 của thủ tướng Chính phủ về đảm bảo nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
- Quyết định 237/1998/QĐ-TTg ngày 03/12/1998 của thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch vệ sinh môi trường nông thôn và Chiến lược Quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn đến 2020 của Bộ xây dựng và Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đã được thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quyết định số 104/2000/QĐ-TTg ngày 25/08/2000.
Các văn bản trên là cơ sở bảo vệ môi trường, phát triển bền vững làng nghề.
2.3.2. Một số kinh nghiệm xử lý ô nhiễm làng nghề ở Việt Nam
Ô nhiễm môi trường làng nghề ở Việt Nam hiện nay là một trong những vấn đề cần quan tâm, tuy các làng nghề quy mô nhỏ nhưng số lượng làng nghề lại nhiều. Nên tác động của làng nghề đến môi trường là vô cùng lớn.
Ở Việt Nam, nước ta đã đưa ra nhiều phương pháp chính sách để giảm thiểu ô nhiễm môi trường như:
2.3.2.1. Sản xuất sạch
- Sản xuất sạch hơn đối với một quá trình sản xuất bao gồm việc sử dụng hiệu quả nguyên liệu và năng lượng, không sử dụng các nguyên liệu độc hại trong quy trình sản xuất, giảm lượng cũng như tính độc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải.
- Ngoài ra ta còn cần làm thay đổi thái độ ứng xử tới môi trường, ý thức trách nhiệm của người lao động cũng như người quản lý trong việc hoàn thiện công nghệ và sản phẩm sao cho quá trình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
2.3.2.2. Giải pháp công nghệ xử lý chất thải
- Đối với môi trường không khí: hiện nay do quy mô làng nghề còn chưa lớn nên vấn đề ô nhiễm môi trường không khí tại các làng nghề chưa đến mức nguy hiểm, ô nhiễm không khí hiện nay chỉ ở mức cục bộ, trừ một số làng nghề sản xuất có lượng khí thải lớn như làng nghề sản xuất gạch thủ công thì cần có các hệ thống sử lý ô nhiễm môi trường không khí như tỉnh Hà Nam đã xử lý khí thải bằng nước vôi trong. Các làng nghề ở địa phương khác do trang bị xử lý đòi hỏi chi phí đầu tư trang thiết bị rất cao nên đã bị bỏ qua, né tránh.
- Môi trường nước: đây là môi trường bị ô nhiễm lớn nhất của các làng nghề, vì vậy kinh nghiệm hiện nay của Việt Nam như đối với làng nghề dệt nhuộm, sản xuất theo quy mô gia đình, vừa theo cơ chế HTX tập trung, vì vậy cần phải tiến hành xử lý sơ bộ nước thải tại từng cơ sở sản xuất trước khi thải chung vào mương thải của làng nghề đưa đến nơi sử lý sau cùng.
- Chất thải rắn: chất thải rắn của các làng nghề hiện nay đối với Việt Nam chưa có biện pháp hữu hiệu để xử lý. Đối với một số loại chất thải rắn có thể tái chế thì thu gom và tái chế, còn lại vẫn sử dụng các phương pháp xử lý đơn giản như thu gom để chôn lấp tập trung.
PHẦN III: ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 ĐẶC THÙ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vị trí địa lý
Xã Thanh Hà là một xã đồng bằng thuộc châu thổ sông Hồng nằm ở vị trí trung tâm huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, là địa bàn giáp ranh của 5 xã và 1 thành phố.
- Phía Đông giáp xã Liêm Tiết và xã Liêm Cần
- Phía Nam giáp xã Thanh Phong và xã Thanh Lưu
- Phía Tây giáp xã Thanh Tuyền
- Phía Bắc giáp thành phố Phủ Lý
Làng An Hoà thuộc xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam có vị trí địa lý khá thuận lợi trong việc lưu thông hàng hoá: nằm gần trung tâm huyện Thanh Liêm, có đường Quốc lộ 1A và đường liên huyện chạy dọc theo chiều dài xã, cách đường Quốc lộ 21A và thị xã Phủ Lý 5 km về phía Nam (trung tâm tỉnh Hà Nam) ..., Vì vậy rất có lợi thế để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là để tiêu thụ hàng hóa tiểu thủ công nghiệp.
3.1.2. Đặc thù tự nhiên - xã hội
Làng nghề thêu ren An Hoà là một trong 2 làng nghề được công nhận làng nghề thêu ren truyền thống với hơn 1.500 lao động lành nghề chiếm 91% tổng số lao động trong làng, ngoài ra còn tạo ra được hơn 2.000 việc làm cho các lao động lúc nông nhàn. Với lực lượng lao động dồi dào như vậy là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của làng nghề ở hiện tại cũng như trong tương lai.
3.1.3. Đặc thù kinh tế
Thôn An Hoà là trung tâm phát triển kinh tế của xã Thanh Hà, thu nhập bình quân cao nhất xã: 660.000 đồng /người /tháng. Thôn có đầu mối giao thông thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là tiêu thụ hàng hoá tiểu thủ công nghiệp.
Tốc độ phát triển bình quân của ngành thương mại dịch vụ của xã trong những năm gần đây đạt bình quân 12,5%. Lao động ngành này có thu nhập bình quân cao so với lao động của các ngành khác.
3.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.2.1. Thu thập số liệu
Số liệu về tình hình phát triển làng nghề và tình trạng ô nhiễm môi trường đã được thu thập từ các nghiên cứu liên quan, như báo cáo của phòng tài nguyên và môi trường huyện Thanh Liêm, báo cáo hiện trạng môi trường làng nghề trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
Số liệu về xã hội như: tổng dân số, số hộ, tổng số lao động tham gia làng nghề, tổng sản phẩm, tổng giá trị, lượng rác thải được thu thập từ ban thống kê xã Thanh Hà.
Ngoài ra các tài liệu, số liệu còn được thu thập tại các phòng ban của xã, huyện và tỉnh có liên quan như: Sở TN &MT Hà Nam, Sở NN &PTNT Hà Nam, Cục thống kê tỉnh Hà Nam, phòng thống kê huyện Thanh Liêm ... .
3.2.2 Phương pháp phân tích số liệu
3.2.2.1 Phương pháp tổng hợp số liệu.
Số liệu có được được xử lý bằng chương trình phần mềm excel.
3.2.2.2 Phương pháp điều tra, phỏng vấn
- Xây dựng phiếu điều tra
- Điều tra hiện trạng, phỏng vấn các hộ, người lao động.
3.2.2.3 Phương pháp phân tích so sánh
- Kết quả điều tra, phân tích: so sánh với các quy chuẩn về môi trường.
- Dựa trên so sánh với quy chuẩn môi trường để đánh giá hiện trạng môi trường.
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA LÀNG NGHỀ
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Điều kiện khí hậu
Khí hậu xã Thanh Hà nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên có đầy đủ các đặc trưng của khí hậu vùng đồng bằng sông Hồng, đó là nhiệt đới gió mùa ẩm, có mùa đông lạnh.
Mùa đông lạnh bắt đầu từ tháng 11 năm trước kết thúc vào tháng 4 năm sau, thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh, khô hanh. Hướng gió thịnh hành là gió Đông Bắc và gió Đông Nam.
Mùa hè bắt đầu từ tháng 5 kết thúc vào tháng 10, số giờ nắng trong năm khoảng 1300 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình năm 240C, nhiệt độ cao nhất lên đến 39,80C. Chế độ mưa ở Hà Nam thay đổi nhiều trong năm, mưa tập trung vào mùa hè (mùa mưa) bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 10, tổng lượng mưa trung bình trong năm là 1582mm. Độ ẩm trung bình năm khoảng 82,42%.
Đặc điểm khí hậu thời tiết được tổng hợp tại bảng 4.1.
.
Bảng 4.1: Số liệu quan trắc thời tiết khí hậu năm 2008
Tháng
Nhiệt độ TB (0C)
Số giờ nắng (h)
Lượng mưa (mm)
ẩm
(%)
Tốc độ gió
(m/s)
1
16,5
62,9
1,6
72
1,9
2
21,3
46,2
59,6
87
1,7
3
20,9
9,3
47,9
92
2
4
22,8
82,6
51,7
85
1,7
5
26,4
145,9
329,5
83
1,6
6
29,8
232,2
53
80
1,5
7
29,9
233,9
269,3
80
1,9
8
28,5
126,2
228,9
86
1,2
9
26,6
125,5
231,8
85
1,7
10
24,5
88,8
285,4
83
1,8
11
20,7
114,6
11,6
73
2,1
12
20,1
31,7
11,8
83
1,6
TB năm
24,0
108,3
131,8
82,4
1,7
NguồnN: trung Tâm dự báo khí tượng thuỷ văn tỉnh Hà Nam 2008
4.1.1.2. Địa hình thổ nhưỡng
Xã thanh Hà có địa hình bằng phẳng, thành phần đất chủ yếu là đất phù sa, thành phần cơ giới nhẹ, đất tơi xốp. Nhìn chung đất đai của xã thuộc loại có độ phì nhiêu cao. thích hợp cho trồng rau màu, cây ăn quả, có điều kiện phát triển trang trại. Vùng đồng thích hợp cho cấy lúa và có thể phát triển một số cây ăn quả như: cam canh, nhãn, vải ... .
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Đặc điểm dân số và lao động
Dân số - lao động của xã qua các năm 2006 - 2008 được thể hiện qua bảng 4.2. Nguồn lao động của xã tương đối dồi dào và chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, hiện nay toàn xã có 3039 hộ, với 13007 nhân khẩu, số hộ nông nghiệp là: 937 hộ (chiếm 30,83%), lao động nông nghiệp 2973 lao động (chiếm 24,84%). Hộ phi nông nghiệp là 2102 hộ (chiếm 69,17 %), trong đó hộ ngành nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) là 1488 hộ (chiếm 70,79% số hộ phi nông nghiệp). Số lao động tham gia vào các hoạt động ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu lao động và có xu hướng tăng lên về tỷ trọng. Lao động CN - TTCN luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng cơ cấu lao động chiếm gần một nửa số lao động qua các năm, năm 2006 là 4585 lao động chiếm 71,81% lao động, và số lượng lao động này liên tục tăng lên với tốc độ bình quân khoảng gần 700 lao động trên năm. Lao động làm dịch vụ chỉ tăng lên từ 2004, tuy nhiên lực lượng lao động này chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong số lao động phi nông nghiệp (khoảng 2,88% năm).
Số lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, năm 2006 là 3814 lao động nhưng đến 2008 chỉ còn 2973 lao động giảm 841 lao động. Điều này cho thấy số lao động làm nông nghiệp đã chuyển dần sang các lĩnh vực khác, chủ yếu là TTCN. Tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp ngày càn._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CHQL09049.doc