MỞ ĐẦU
Hiện nay, nhân loại đang phải đối mặt với 4 vấn đề lớn: Bảo vệ hoà bình, bùng nổ dân số, ô nhiễm môi trường và nghèo đói. Trong đó, vấn đề ô nhiễm môi trường là vấn đề cấp bách được cả thế giới quan tâm. Các nhà khoa học cho biết trong vòng 100 năm trở lại đây, Trái Đất đã nóng lên khoảng 0,5oC và có xu hướng tăng lên từ 1,5 đến 4,5oC so với hiện nay. Đó là dự đoán của hơn 1500 nhà khoa học có uy tín trên thế giới do Liên Hợp Quốc mời cộng tác. Trái Đất nóng lên sẽ mang lại những tác độn
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2138 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng ngập mặn Phù Long - Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g bất lợi: Mực nước biển dâng do băng tan, thời tiết bị đảo lộn, thiên tai ngày càng tăng, tần số bão ngày càng lớn. Một số khu vực bị ngập lụt thường xuyên, một số khu vực lại bị hạn hán, quá trình sa mạc hoá ngày càng lan rộng. Việt Nam tuy chưa phải là nước công nghiệp, nhưng xu thế đóng góp khí nhà kính gần đây có xu hướng tăng lên. Đó chính là hệ quả của phát triển kinh tế, tăng nhanh dân số, khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên rừng và đất rừng. Do vậy một trong những biện pháp hữu hiệu làm giảm thiểu khí nhà kính, điều hoà khí hậu cho Trái Đất là trồng và bảo vệ rừng. Việt Nam có 3260 km bờ biển do vậy việc trồng rừng ven biển có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
1. Lý do chọn đề tài
Hệ sinh thái rừng ngập mặn có vai trò to lớn đối với môi trường và cuộc sống cộng đồng. Đây là hệ sinh thái có năng suất sinh học cao, vừa đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, vừa phòng chống thiên tai cho cộng đồng ven biển và đặc biệt có giá trị làm sạch môi trường, cân bằng sinh thái., tuy nhiên, do dân số tăng nhanh, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ trong thời kỳ mở cửa cùng với việc quản lý lỏng lẻo hoặc chưa quan tâm bảo vệ đúng mức của một số địa phương nên hệ sinh thái rừng ngập mặn đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Trong đó nhiều vùng rừng ngập mặn của Hải Phòng cũng không ngoại lệ. Thành phố vốn có trên 4000 ha rừng ngập mặn, là “lá chắn” ngăn chặn có hiệu quả bão và triều cường, góp phần bảo vệ vững chắc cho hơn 125 km đê thuộc 22 xã ven biển (trong đó rừng ngập mặn tự nhiên có hơn 400ha). Tuy nhiên sự tàn phá diễn ra nhiều năm đã khiến cho rừng ngập mặn của Hải phòng mất gần 1500 ha so với trước. Nguyên nhân chính là để phát triển nuôi trồng thủy sản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, người dân ở nhiều vùng ven biển đã chặt phá rừng lấy diện tích nuôi tôm, cá. Việc làm này đã khiến cho cuộc sống của người dân gặp nhiều thay đổi. Vì vậy cần phải có nhiều công trình nghiên cứu về rừng ngập mặn, để từ đó làm rõ các giá trị của rừng, góp phần vào việc quản lý rừng được tốt hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Lượng giá giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp của rừng.
- Đề xuất giải pháp sử dụng, bảo tồn và phát triển bền vững rừng ngập mặn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, rừng ngập mặn Phù Long là một hệ sinh thái nằm trong huyện Cát Hải thuộc thành phố Hải Phòng. Đây là khu rừng đã mang lại rất nhiều nguồn lợi cho người dân địa phương song do khai thác không hợp lý nên dẫn đến diện tích và chất lượng rừng đang ngày một suy giảm. Vì vậy chuyên đề sẽ tính toán cụ thể các giá trị của rừng và từ đó nêu ra cách phát triển rừng theo hướng bền vững.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp giá thị trường
- Phương pháp chi phí thay thế
5. Kết cấu chuyên đề
Chuyên đề sẽ gồm có 4 chương. Cụ thể:
- Chương I. Giá trị kinh tế và đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn
- Chương II. Hiện trạng khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng ngập mặn Phù Long
- Chương III. Lượng giá giá trị kinh tế rừng ngập mặn Phù Long
- Chương IV. Kiến nghị và đề xuất
Lượng giá kinh tế hệ sinh thái là một lĩnh vực không đơn giản. Nó đòi hỏi người thực hiện phải có kiến thức của cả hai lĩnh vực: kinh tế học và sinh học. Vì vậy để hoàn thành được chuyên đề này, tôi đã phải cần đến sự giúp đỡ của rất nhiều người. Tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn: TS. Lê Thu Hoa, TS. Trần Đình Lân và các cán bộ nghiên cứu khoa học của Viện Tài nguyên và Môi trường Biển - Hải Phòng, những người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin cam đoan tất cả những nội dung trong chuyên đề là do tôi thực hiện, không sao chép của bất kỳ luận văn hay chuyên đê khác.
CHƯƠNG I:
GIÁ TRỊ KINH TẾ VÀ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ KINH TẾ
CỦA RỪNG NGẬP MẶN
1.1. Rừng ngập mặn
Theo tiêu chí của Tổ chức Nông Nghiệp và Lương thực của Liên hợp quốc (FAO,1998) thì một quần hợp thực vật được gọi là rừng khi có tối thiểu 10% cây cối che phủ không phải là cây trồng nông nghiệp, đảm bảo cho sự tồn tại của các loài động, thực vật và duy trì điều kiện đất đai phù hợp. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định và phân chia các loại rừng còn tùy thuộc vào các điều chí kích cỡ cây, tầng tán, các yếu tố địa lý sinh vật…
Như vậy, rừng ngập mặn được hình thành bởi các cây ngập mặn nếu diện tích che phủ đạt trên 10%. Loại rừng này bao gồm các loài cây ngập mặn chính thống (true mangrove species), đó là những loài cây chỉ có ở rừng ngập mặn và các loài cây gia nhập rừng ngập mặn (associate mangrove species), những loài cây có thể gặp ở cả trong rừng ngập mặn và những vùng khác nữa (Phan Nguyên Hồng, 1991).
Chúng ta cũng cần phân biệt rừng ngập mặn và hệ sinh thái rừng ngập mặn. Hệ sinh thái rừng ngập mặn bao gồm tất cả các thành phần hữu sinh (cây ngập mặn, nấm, tảo, vi sinh vật trên cây, dưới nước, trong đất rừng ngập mặn và kể cả trong không khí) và các thành phần vô sinh (không khí,đất và nước). Hai thành phần này luôn tác động qua lại, quy định lẫn nhau, vận động trong không gian và thời gian (N.H. Tri, Phan Nguyen Hong, Neil Adger, Mick Kelly, 2002). Trong đó:
+ Thành phần vô sinh trong hệ sinh thái rừng ngập mặn ngoài ánh sáng mặt trời còn bao gồm không khí mang đặc trưng của khí hậu vùng ven biển, đất phù sa, bãi bồi ngập theo nước triều lên xuống trong ngày (nhật triều hoặc bán nhật triều), nước mặn từ biển vào, nước ngọt từ trong sông ra và nước lợ (hòa lẫn giữa nước ngọt và nước mặn). Các yếu tố về độ mặn, pH và các thành phần lý hóa của nước luôn thay đổi theo không gian và thời gian.
+ Thành phần hữu sinh trong hệ sinh thái rừng ngập mặn là các sinh vật biển, sinh vật nội địa và sinh vật đặc trưng trong vùng rừng ngập mặn, đặc biệt là các sinh vật di cư (chim di cư, rùa biển, bò biển…). Ngoài ra còn có các vi sinh vật, nấm, phù du thực vật…
Hệ sinh thái rừng ngập mặn được đánh giá là một trong các hệ sinh thái có năng suất sinh học cao nhất trong các hệ sinh thái. Các lá cây ngập mặn rụng xuống chiếm 50% - 70% năng suất sơ cấp ròng. Đây là nguồn chất hữu cơ phân hủy và hòa tan trong chuỗi, lưới thức ăn và xuất khẩu theo dòng nước tạo nguồn dinh dưỡng cho các loài động vật, thủy, hải sản của cả một vùng ven biển rộng lớn. Hệ thống rễ cây ngập mặn có khả năng lọc và hấp thụ một số chất ô nhiễm độc hại trong đất và nước. Bùn trầm tích rừng ngập mặn là nơi tích tụ các chất hữu cơ phân hủy tạo điều kiện cho các loài vi sinh vật hoạt động với năng suất 0,2 – 10g C/m3/ngày. Rừng ngập mặn là nơi che chở nuôi dưỡng con non các loài thủy, hải sản, là vườn ươm cho sự sống của biển.
1.2. Khái niệm “Tổng giá trị kinh tế” (TEV)
Trong kinh tế thị trường, có rất nhiều loại hàng hoá được trao đổi buôn bán trên thị trường. Chúng có một mức giá nhất định và việc xác định giá trị của chúng là đơn giản. Tuy nhiên khi xem xét hàng hoá công cộng (những hàng hoá không xác định được giá trên thị trường và thuộc sở hữu chung) thì việc xác định giá trị của chúng dưới dạng tiền tệ sẽ gặp nhiều khó khăn. Một trong số đó phải kể đến hàng hoá môi trường. Đây là một dạng hàng hoá mà người ta mới đưa vào nghiên cứu trong kinh tế học môi trường. Và để xem xét được giá trị của loại hàng hoá này một cách đầy đủ thì chúng ta phải nhìn nhận trên góc độ tổng giá trị kinh tế (TEV).
Vậy tổng giá trị kinh tế (TEV): là tổng giá trị quy thành tiền của các giá trị hợp phần của hệ sinh thái, được tính toán theo sơ đồ sau:
TEV
UV
NUV
DUV
IDUV
OV
QOV
BV
EXV
Trong đó: UV: Giá trị sử dụng
NUV: Giá trị phi sử dụng
DUV: Giá trị sử dụng trực tiếp
IDUV: Giá trị sử dụng gián tiếp
OV: Giá trị lựa chọn
EXV: Giá trị tồn tại
BV: Giá trị tuỳ thuộc
QOV: Giá trị lựa chọn 1 phần
- Giá trị sử dụng (UV): được hiểu là những giá trị được con người sử dụng vào mục đích của mình và vì lợi ích của con người. Trong đó có thể được sử dụng dưới hai hình thức:
+ Giá trị sử dụng trực tiếp (DUV): Đây là những giá trị mà trong thực tế nó liên quan đến số lượng đầu ra của sản phẩm hàng hoá môi trường mà con người có thể xác lập được chúng trên thị trường thông qua giá cả. Thông thường giá được xác lập là giá thực. Nghĩa là nếu xác định được khối lượng hàng hoá theo giá thị trường rồi trừ đi những khoản chi phí thì chúng ta sẽ xác lập được giá trị của nó theo giá trị thực.
à Mô hình hoá: f(DUV) = f(P,Q,C)
Với: P là giá cả hàng hoá
Q là sản lượng hàng hoá
C là các khoản chi phí để có được lượng hàng hoá
+ Giá trị sử dụng gián tiếp (IDUV): Đây là những giá trị có liên quan đến chức năng của môi trường trong việc hậu thuẫn cho hoạt động kinh tế, hoạt động sống của con người. Nó giúp con người phòng tránh được những thảm hoạ của thiên nhiên (lũ lụt, sóng thần, biến đổi khí hậu…)
+ Giá trị lựa chọn (OV): Là những giá trị phụ thuộc vào tính chất môi trường hoặc đặc thù của hệ sinh thái mà người làm đánh giá cần phải xem xét, nghiên cứu. Nó bao gồm những lợi ích từ các nguồn tài nguyên và nó thể hiện sự khác biệt giữa các nguồn tài nguyên đó.
- Giá trị phi sử dụng (NUV): Là những giá trị thường nằm trong tiềm thức của người đánh giá về nó nhưng lại không có chỗ đứng trên thị trường (không có giá thị trường). Đây chính là vấn đề phức tạp nhất trong kinh tế học môi trường mà người ta cho rằng cần phải có những cách đánh giá tích cực để phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Hiện nay các nhà kinh tế học môi trường đã đưa ra quan điểm cho rằng có ba giá trị cơ bản thuộc nhóm này. Đó là: Giá trị tồn tại (EXV), giá trị tuỳ thuộc (BV), giá trị lựa chọn một phần (QOV).
+ Giá trị tồn tại (EXV): Đây là giá trị nằm trong bản thân của sự vật mà con người cho rằng nó không thể mất đi. Nó phải được duy trì vì ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội của nó.
+ Giá trị tuỳ thuộc (BV): Đây là giá trị phụ thuộc vào khả năng đáp ứng dịch vụ sinh thái hoặc dịch vụ môi trường và nằm trong tầm nhận thức của con người về vấn đề đó.
Ví dụ khi đánh giá hệ thống cây xanh trên đường phố. Có nhiều quan điểm nhìn nhận đối với cây cổ thụ.
Thứ nhất: Đối với các nhà sản xuất đồ gỗ thì họ sẽ đánh giá là số cây đó cho bao nhiêu sản lượng gỗ.
Thứ hai: Đối với các nhà sinh thái thì họ sẽ cho đây là loài cây quý hiếm, cần được bảo vệ hoặc sử dụng một cách hợp lý.
Thứ ba: Đối với các nhà đô thị thì cho đó là cảnh quan.
Thứ tư: Đối với các nhà lịch sử thì các cây này sẽ phản ánh một mốc lịch sử nào đó.
+ Giá trị lựa chọn một phần (QOV): Đây thực chất là giá trị tồn tại nhưng ranh giới không rõ ràng do đó thường khiến con người khó đưa ra quyết định.
Thông qua ba giá trị vừa nêu thuộc nhóm giá trị phi sử dụng cho phép chúng ta khẳng định một điều: Trong thực tế những giá trị phi sử dụng của hàng hoá chất lượng môi trường luôn tồn tại nhưng vấn đề nhận dạng, đánh giá, quy đổi chúng ra giá trị tiền tệ là thách thức lớn nhất đối với các nhà kinh tế học môi trường. Do đó lựa chọn được phương pháp để đánh giá những giá trị này là không hề đơn giản.
1.3.Giá trị kinh tế của hệ sinh thái rừng ngập mặn
Giá trị hệ sinh thái nói chung và giá trị hệ sinh thái rừng ngập mặn nói riêng thể hiện sự đồng tiến hoá giữa kinh tế và sự hiểu biết về môi trường tự nhiên của con người. Lĩnh vực này ngày càng được quan tâm nghiên cứu do tác động nhiều mặt của các quá trình phát triển kinh tế lên hệ thống tự nhiên. Sự hiểu biết đó sẽ mang lại kiến thức về cấu trúc tự nhiên, sinh học và xã hội cũng như mối liên hệ về mặt chức năng giữa kinh tế và các hệ sinh thái. Làm rõ giá trị hệ sinh thái mà cụ thể là hệ sinh thái rừng ngập mặn chính là góp phần tìm ra những giải pháp kinh tế thích hợp để bảo tồn các hệ sinh thái tự nhiên này.
Khi xem xét về các giá trị của rừng ngập mặn ta có:
- Giá trị sử dụng trực tiếp (DUV)
+ Giá trị về lâm sản (gỗ, củi…), lâm sản ngoài gỗ (mật ong, đánh bắt thuỷ sản, thuốc chữa bệnh…). Thảm thực vật của rừng ngập mặn rất đa dạng về thành phần loài. Trong đó phần lớn là bần chua, trang, đước…là các loài cây gỗ có giá trị kinh tế cao. Một số cây có giá trị làm thuốc chữa bệnh. Một số cho hoa để loài ong lấy mật (sú, vẹt…)
+ Cung cấp dịch vụ giải trí, du lịch: Hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp rất nhiều dịch vụ du lịch tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, mức sống và thói quen của người dân. Các dịch vụ này bao gồm đi câu cá, quan sát chim di cư, chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên…Một số nơi như Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh đã kết hợp giữa du lịch sinh thái với tham quan các di tích lịch sử chiến khu rừng Sát, tham quan vườn chim, dơi…mang lại hiệu quả cao cả về giáo dục tuyên truyền, phát triển kinh tế, xã hội.
Ví dụ: Theo ghi nhận của Lê Đình Thuỷ trong đề tài “Tài nguyên chim ở Vườn quốc gia Xuân Thuỷ” thì trong khu rừng ngập mặn này cấu trúc thành phần loài của hệ chim ở đây mang tính đa dạng sinh học cao: có 136 loài chiếm 16,4% tổng số loài chim Việt Nam (828 loài); 31 họ chiếm 38,27% tổng số chim Việt Nam (81 họ) và 14 bộ chiếm 73,68% tổng số bộ chim Việt Nam (19 bộ). Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần Giờ với hệ chim có khoảng 130 loài thuộc 47 họ, 17 bộ. Trong đó có 51 loài chim nước và 79 loài không phải chim nước sống trong nhiều sinh cảnh khác nhau (Lê Đức Tuấn, 1999).
Ngoài ra một số khu rừng ngập mặn còn tồn tại rất nhiều loài động vật quý hiếm trong sách đỏ như: Tắc kè (gekko gekko), kỳ đà nước (varanus salvator), trăn đất (python molurus), trăn gấm (python reticulatus), rắn cạp nong (bungarus fasciatus), rắn hổ mang (naja naja)…
Qua đó hàng năm những khu vực này đã thu hút được đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước, tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Những giá trị sử dụng trực tiếp trên hàng năm đã giúp người dân sống ở nơi có rừng có được nguồn thu nhập đáng kể, cải thiện cuộc sống của họ.
- Giá trị sử dụng gián tiếp (IDUV)
+ Hạn chế xói lở bờ biển và sông, nước dâng, ngăn cản bão sóng biển để bảo vệ hoạt động sản xuất và đời sống của con người phía trong khu rừng ngập mặn.
Cụ thể ta có thể thấy được tác dụng của rừng ngập mặn đối với thiên tai ở một số nước. Trong những năm gần đây, sự biến đổi khí hậu do các hoạt động phá rừng, gây ô nhiễm của con người kết hợp với những biến đổi của vỏ trái đất đã gây ra những thảm hoạ khủng khiếp như bão tố, lũ lụt, núi lở và gần đây nhất là động đất và sóng thần. Nhiều thông tin, tư liệu cho thấy động đất và sóng thần khó tránh khỏi, tuy nhiên rừng ngập mặn còn nguyên vẹn có thể làm giảm nhẹ hoặc tiêu tan các đợt sóng cao 15m do sóng thần gây ra. Một nghiên cứu của Nhật Bản về tác động giảm thiên tai cho thấy một rừng ngập mặn rậm rạp có chiều rộng 100m có thể làm giảm 50% chiều cao của sóng triều và giảm 90% năng lượng của sóng .
Tháng 10 năm 1999, một trận bão lớn đổ bộ vào bang Orissa (Ân Độ) đã giết chết 10000 người và phá huỷ 3 triệu ngôi nhà nhưng tại đảo Nasi thuộc huyện Kendrapasa, nhờ có “đội quân cây ngập mặn” bảo vệ nên sức mạnh của bão bị tiêu tan và không có thiệt hại. Trong đợt động đất và sóng thần ngày 26/12/2004 tại đảo Pulau Sempelu của Indonesia nằm gần tâm ngoài của trận động đất, có dân số 60000 người thì chỉ có khoảng 100 dân làng bị chết. Những người dân trên đảo đã học được kinh nghiệm từ một trận động đất lớn xảy ra 2 năm trước đó, cho phép họ biết được những dấu hiệu về thảm hoạ sắp đến và chạy trốn lên vùng đất cao; mặt khác những vùng rừng ngập mặn rộng lớn ở đây đã làm giảm nhẹ thảm hoạ.
Khi sóng thần bất ngờ tấn công vào bang Tamil Nadu, ở các khu vực Pichavaram và Muthupet có rừng ngập mặn rậm rạp rất ít người bị thương vong và tài sản cũng ít bị thiệt hại so với vùng không còn rừng ngập mặn. Sân chim Point Calimere ở đây cũng thoát khỏi sự tàn phá nặng nề và các động vật hoang dã ở đây đã an toàn nhờ có rừng ngập mặn bao bọc.
Thành phố Andhra Pradesh, nằm dọc theo bờ biển phía đông Ân Độ, các rừng ngập mặn cũng đã bảo vệ an toàn cho ngư dân khi sóng thần tấn công.
Chính những vành đai rừng ngập mặn đã làm giảm nhẹ thiên tai và bảo vệ hàng ngàn nhân mạng. Tổ chức Những người bạn của Trái Đất (Friends of the Earth) cho rằng bảo vệ những vùng đệm tự nhiên như vậy là cách giải quyết duy nhất để bảo vệ dân cư vùng ven biển chống lại sóng triều và các đe doạ khác trong tương lai. Những báo cáo sơ bộ từ các đoàn khảo sát của IUCN (2005) tại những vùng bị tác động của sóng thần vừa qua cho thấy những vùng ven biển có rừng ngập mặn, có các vành đai cây phòng hộ (phi lao) và các thảm thực vật trồng khác (dừa, cọ) thì thiệt hại về người và tài sản ít hơn rất nhiều so với những nơi mà các hệ sinh thái ven biển bị suy thoái, hoặc chuyển đổi đất sang mục đích sử dụng khác như nuôi tôm, khu du lịch.
Theo nhà môi trường học Suzana Mohkeri (2005), ở miền Nam bang Kedak (Malaysia) bị sóng thần tàn phá, các cộng đồng sống phía sau những khu vực rừng ngập mặn ở Matang được bảo vệ nguyên vẹn, hoàn toàn không bị ảnh hưởng trong lúc những vùng gần đó bị thiệt hại nặng nề. Rừng ngập mặn còn bảo vệ các vỉa san hô ở ngoài khơi. Hệ thống rễ chằng chịt của chúng đã giữ bùn và các chất thải rắn khác từ nội địa đổ ra biển.
Ngày 11/2/2005, các cơ quan bảo vệ môi trường quốc tế đã kêu gọi chính phủ những nước bị sóng thần cấp nhiều hơn nữa nguồn kinh phí và nhân lực để bảo vệ rừng ngập mặn. Họ nói rừng ngập mặn là vành đai xanh bảo vệ hàng ngàn nhân mạng và các cộng đồng ven biển khỏi các con sóng khổng lồ.
Sau trận động đất và sóng thần cuối năm 2004, đã có nhiều hội nghị quốc tế đánh giá thiệt hại do sóng thần gây ra, tác dụng của các hệ sinh thái rừng ngập mặn trong việc giảm nhẹ thiên tai.
Ở Việt Nam, từ đầu thế kỷ trước, nhân dân ở các vùng ven biển phía Bắc đã biết trồng trọt một số loài cây ngập mặn như trang (Kandelia obovata) và bần chua (Sonneratia caseolaris) để bảo vệ đê biển và vùng cửa sông. Mặc dù thời kỳ đó đê chưa được bê tông hoá và xây kè đá như bây giờ nhưng nhiều đê không bị vỡ khi có bão vừa (cấp 6-8). Đó là nhờ các vành đai rộng rừng ngập mặn chắn sóng, thảm cỏ và dây leo dày đặc trên mái đê bảo vệ cho đê không bị xói lở.
Một số địa phương thực hiện nghiêm túc chương trình trồng rừng 327 của chính phủ và các NGOs thì đê điều, đồng ruộng được bảo vệ tốt. Năm 2000. cơn bão số 4 (Wukong) với sức gió cấp 10 đổ bộ vào huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, nhờ các rải rừng ngập mặn trồng ở 9 xã vùng nước lợ nên hệ thống đê sông Nghèn không bị hư hỏng. Nhân dân thị xã Hà Tĩnh có nhận xét: Nếu không được Quĩ Cứu trợ Nhi đồng Anh (SCF-UK) giúp đỡ trồng rừng ngập mặn thì đê Đồng Môn đã bị vỡ và thị xã Hà Tĩnh đã bị ngập sâu, thiệt hại do cơn bão này sẽ khôn lường.
Tháng 7 năm 1996, khi cơn bão số 2 (Frankie) với sức gió 103 – 117 km/giờ đổ bộ vào huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình nhờ các dải rừng ngập mặn rộng nên đê biển, bờ nhiều đầm không bị hỏng, trong lúc huyện Tiền Hải do phá phần lớn rừng ngập mặn nên hầu hết các bờ đầm đều bị xói lở hoặc bị vỡ. Năm 2005, vùng ven biển huyện Thái Thuỵ – Thái Bình tuy không nằm trong tâm bão số 7 (Damrey) nhưng sóng cao ở sông Trà Lý đã làm sạt lở hơn 650m đê nơi không có rừng ngập mặn ở thôn Tân Bồi , xã Thái Đô trong lúc phần lớn tuyến đê có rừng ngập mặn ở xã này không bị sạt lở vì thảm cây dày đặc.
+ Tăng lượng bồi tụ trầm tích: Các hệ thống cây và rễ cây chằng chịt của rừng ngập mặn góp phần làm giảm lưu lượng nước, dòng chảy tạo điều kiện cho trầm tích lắng đọng trong các vùng cửa sông ven biển.
Vùng hạ lưu ven biển, cửa sông lớn như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, phù sa thường ngưng đọng ở trên lòng sông và ngoài cửa sông tạo nên những hòn đảo nổi. Trong điều kiện thuận lợi thì chỉ sau một thời gian, các loài cây ngập mặn tiên phong sẽ đến cư trú tạo môi trường cho nhiều loài cây đến sau và đất bồi được nâng lên như Cồn Ngạn, Cồn Lu ở Nam Định, Cồn Trong và Cồn Ngoài ở Tây Nam mũi Cà Mau.
Theo kết quả khảo sát của Phân viện Điều tra qui hoạch rừng Nam Bộ (2006) cho thấy diện tích đất bồi ven biển đồng bằng sông Cửu Long khá lớn. Nhiều nơi có rừng ngập mặn phòng hộ thì tốc độ bồi lắng nhanh hơn. Điển hình là việc hình thành 2 hòn đảo nhỏ ở cửa sông Ông Trang. Đảo Cồn Trong hình thành năm 1960, có diện tích là 122 ha. Ban đầu chỉ có mắm trắng, là cây tiên phong đến định cư, tạo môi trường thuận lợi cho các loài khác phát tán vào trong đảo. Theo kết quả điều tra của Trung tâm nghiên cứu rừng ngập mặn Minh Hải đã có 22 loài cây ngập mặn sinh sống, động vật đáy cũng phong phú. Đảo Cồn Ngoài hình thành muộn hơn, khoảng những năm 1980, có diện tích là 149ha. Đến nay thảm thực vật ngoài 2 loài tiên phong là mắm trắng và bần trắng đã phủ kín đảo còn có một số loài như đước, vẹt tách.
Trong những năm qua, rừng ngập mặn đã hạn chế xâm nhập mặn của nước biển. Quá trình xâm nhập mặn diễn ra chậm và phạm vi hẹp vì khi triều cao, nước đã lan toả vào trong những khu rừng ngập mặn rộng lớn; hệ thống rễ dày đặc cùng với thân cây đã làm giảm tốc độ dòng triều, tán cây hạn chế tốc độ gió.
+ Cung cấp thức ăn, nơi sinh đẻ, nuôi dưỡng con non và là vườn ươm cho các loài thuỷ sản ven biển, nơi ở cho các loài chim di cư: Có thể nói, hệ sinh thái rừng ngập mặn cung cấp cả thức ăn và nơi ở, nơi che chở và nuôi dưỡng cho các loài sinh vật trong vòng đời của chúng. Chẳng hạn như một số loài tôm sú, tôm he, cua bùn, rùa biển…vào vùng rừng ngập mặn đẻ trứng, con non của chúng bơi dần ra biển đến giai đoạn thành thục, sinh sản chúng lại quay về rừng ngập mặn. Một số loài chim di cư như cò mỏ thìa vào giai đoạn từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau di cư từ phương Bắc đến vùng rừng ngập năm của sông Hồng kiếm ăn rồi lại bay xuống phía Nam.
+ Hấp thụ CO2 và cung cấp khí O2, điều hoà khí hậu: Cũng giống như các loài thực vật khác trên trái đất, các cây ngập mặn trong môi trường nước hấp thụ CO2 và thải O2 qua quá trình quang hợp. Chẳng hạn, rừng ngập mặn Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh được xem như lá phổi xanh của thành phố, góp phần cân bằng một lượng lớn CO2 do các hoạt động của thành phố thải ra rừ ô tô, xe máy, khu công nghiệp, dân cư…Việc hưởng thụ “dịch vụ” không khí mát mẻ, trong lành sau những giờ làm việc căng thẳng sẽ góp phần tăng năng suất lao động và sức khoẻ của người dân thành phố.
+ Chức năng lọc nước và hấp thụ các chất độc hại, ô nhiễm vùng cửa sông ven biển: Hầu hết các cây ngập mặn đều hấp thu các chất khoáng từ đất và nước thông qua các cơ chế trao đổi chất tích cực và thụ động. Ba cơ chế đặc biệt của cây ngập mặn là: cơ chế cản muối đi vào cơ thể, cơ chế thải muối thừa qua các tuyến tiết muối ở lá và cơ chế tích luỹ muối trong các lá già khi rụng cũng là thải đi lượng muối thừa. Các chất độc hại và ô nhiễm (kim loại nặng, thuốc trừ sâu, chất độc…) từ các khu công nghiệp, đô thị thải vào sông suối, hoà tan trong nước hoặc lắng xuống đáy trong thành phần các hạt phù sa, trầm tích được nước sông mang ra các vùng cửa sông ven biển. Cây ngập mặn hấp thu các sản phẩm này vào trong cơ thể tạo ra các hợp chất ít độc hại hơn đối với con người. Các vùng cửa sông ở Ấn Độ, Mỹ, Ôxtraylia đã trồng rất nhiều cây ngập mặn vùng cửa sông ô nhiễm để tận dụng chức năng này. Tuy nhiên cần thấy rằng, không phải tất cả các chất độc hại đều được phân hủy mà một phần chúng vẫn tồn lưu trong cơ thể thực vật rồi đi vào chuỗi lưới thức ăn của hệ sinh thái.
- Giá trị lựa chọn (OV)
+ Giá trị nguồn gen quý: Những thông tin di truyền nằm trong tổ hợp gen các loài cây ngập mặn có những giá trị đặc biệt. Đó là các tổ hợp gen đã được chọn lọc trong quá trình thích nghi và đấu tranh sinh tồn hàng triệu năm. Qua nhiều thế hệ chúng mới có được các cơ chế tiết muối và thải muối thừa qua tuyến tiết muối trên lá của cây mắm, cơ chế tích luỹ muối trong lá già để sau này rụng xuống ở cây bần, cây giá và cơ chế cản muối ở cây đước, vẹt…Những cơ chế này đã giúp cho các loài cây ngập mặn sinh trưởng và phát triển rất tốt trong nước biển mặn mà không một cây trồng nào trong nông nghiệp có thể sống được.
Rừng ngập mặn còn có những loài cây quí hiếm như cây cóc hồng, còn rất ít cá thể thuộc danh mục các loài quí hiếm trong sách đỏ của nước ta. Cò mỏ thìa và các loài chim di cư ở vùng rừng ngập mặn cửa sông Hồng lại có giá trị toàn cầu bởi vì nó là tài sản đa quốc gia. Đặc biệt, các chủng vi sinh vật rừng ngập mặn còn mang những thông tin di truyền tồn tại cho đến ngày nay qua đấu tranh sinh tồn hàng triệu năm. Đó là những nguồn gen quí cho việc cải thiện các giống vật nuôi và cây trồng, thuốc chữa bệnh trong tương lai. Việc bảo tồn các loài quí hiếm chính là bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì chức năng các hệ sinh thái với sự ổn định và sức bền trong không gian, thời gian.
Ví dụ: Khi xem xét một khu rừng ngập mặn, ngoài những giá trị sử dụng trực tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp mà chúng ta đã có thì trong hệ thống sinh thái này còn có một loài cho giá trị cây thuốc dựa vào Tanin hay chất tiết ra của nó. Đó chính là giá trị lựa chọn riêng của hệ sinh thái mang lại mà ở hệ sinh thái khác không có.
Ngoài ra rừng ngập mặn còn nhiều giá trị lựa chọn khác.
- Giá trị tồn tại (EXV)
+ Cung cấp phương tiện và thông tin cho nghiên cứu, giáo dục, đào tạo, là nguồn cảm hứng cho thơ ca hội hoạ, giá trị nhân văn, nhân bản, bản sắc văn hoá, tôn giáo và tín ngưỡng: Một số đặc điểm sinh lý, sinh thái đặc biệt của cây ngập mặn như tuyến tiết muối ở cây mắm, rễ thở của cây bần, rễ đầu gối của cây vẹt…đã cuốn hút rất nhiều các công trình nghiên cứu, các bài giảng sinh động cho sinh viên và học sinh.
1.4. Đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn
1.4.1.Khái niệm đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn
Đánh giá giá trị kinh tế của rừng ngập mặn là một công việc sử dụng các phương pháp kinh tế để tính toán các giá trị rừng ngập mặn một cách cụ thể, từ đó đưa ra cách sử dụng và phát triển bền vững.
1.4.2. Các phương pháp đánh giá chung
Trên cơ sở tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn, chúng ta sẽ có được các phương pháp đánh giá cụ thể ứng với từng giá trị đó. Cụ thể có thể dựa trên quan điểm kinh tế và mô hình để chia các phương pháp đó thành 2 nhóm sau
1.4.2.1. Phương pháp đánh giá không sử dụng đường cầu
Đây là phương pháp dựa trên cơ sở các cách tiếp cận không đòi hỏi phải sử dụng hàm cầu. Nghĩa là việc xác định tổng lợi ích không cần phải xem xét miền giới hạn cho bởi hàm cầu. Về cơ bản có các phương pháp sau:
+ Phương pháp liều lượng đáp ứng
+ Phương pháp chi phí cơ hội
Phương pháp liều lượng đáp ứng
- Khái niệm: Đây là phương pháp dựa trên cơ sở phản ứng của con người và sinh vật trước tác động của các nhân tố môi trường.
Ví dụ: nồng độ ô nhiễm trong nước, trong không khí, trong đất…
- Nội dung tiến hành
Phương pháp này được tiến hành dựa trên cơ sở mức độ gia tăng của các chất gây ô nhiễm tác động tới chất lượng môi trường
+ Bước 1: Xác định lượng ô nhiễm thải ra môi trường theo 1 tần suất nhất định.
+ Bước 2: ứng với mỗi lượng ô nhiễm trên 1 đơn vị thời gian thì mức độ đáp ứng của môi trường như thế nào.
+ Bước 3: Đánh giá giá trị tiền tệ của thiệt hại.
+ Bước 4: Tính toán kết quả thiệt hại trong mối quan hệ: f(thiệt hại) = f(q,t,p…)
- Ưu điểm
+ Dễ được xã hội thừa nhận từ những người hoạch định chính sách và người dân bình thường.
+ Trong nhiều trường hợp khi xác lập chúng ta có thể dùng giá thị trường để dự đoán. Khi đó mức độ tin cậy sẽ cao và dễ được thừa nhận.
+ Việc tính toán xây dựng mô hình và những người thực hiện sẽ không có gì khó khăn.
- Hạn chế
+ Khi sử dụng phương pháp này phải có phương tiện kỹ thuật để đo lường xem mức độ ô nhiễm thải ra ở nồng độ nào, mức độ thải ra là bao nhiêu…
+ Những người thực hiện phương pháp này đòi hỏi kiến thức tương đối toàn diện: không chỉ am hiểu về khoa học môi trường mà còn am hiểu về kỹ thuật, quy định, tiêu chuẩn, luật pháp…
+ Trong nhiều trường hợp, để xác lập mức thiệt hại do nồng độ ô nhiễm gây ra theo giá thị trường là không dễ dàng mà thậm chí không có giá thị trường. Vì vậy độ tin cậy của kết quả đưa ra có thể khó có tính thuyết phục. Ngoài ra hàng hoá công cộng cũng tác động đến kết quả tính toán khi sử dụng phương pháp này.
Phương pháp chi phí cơ hội
- Khái niệm: Chi phí cơ hội là chi phí người ta chấp nhận để bỏ tiền ra nhằm đạt được 1 mục đích nào đó. Dạng chi phí này rất phù hợp trong bối cảnh kinh tế thị trường khi chúng ta đứng trước 1 sự lựa chọn có nhiều lợi ích hoặc dịch vụ mà chúng ta bỏ tiền ra để cuối cùng chấp nhận 1 phương án nào đó. Số tiền bỏ ra đó chính là chi phí cơ hội.
- Nội dung tiến hành
+ Bước 1: Xác lập vị trí địa lý, khu vực cần đánh giá.
+ Bước 2: Liệt kê nguồn tài nguyên thiên nhiên có trong khu vực đó.
+ Bước 3: Tính toán các chi phí bỏ ra để thực hiện dịch vụ trong hoạt động kinh tế có được nguồn lực trên. Từ đó xác lập được tổng giá trị môi trường.
Thậm chí trong các chi phí tính toán được, chúng ta còn xác lập ưu tiên các chi phí liệt kê, nguồn lực nào là quan trọng nhất, nguồn lực nào kém phát triển nhất.
- Ưu điểm
+ Cách tính này dựa trên chi phí thực để tính toán, đối tượng xác định cụ thể. Vì vậy người thực hiện dễ xây dựng kế hoạch để tiến hành điều tra, thu thập, xử lý.
+ Kỹ thuật không phức tạp, chủ yếu dựa trên số liệu thống kê đã có.
+ Độ tin cậy cao vì tiền bỏ ra là chính xác, thực tế.
- Hạn chế
+ Phương pháp tiếp cận dựa trên chi phí đã thực hiện vì vậy việc tính toán liên quan đến thiệt hại hoặc lợi ích do môi trường mang lại là không thực hiện được.
+ Trong quá trình thực hiện gặp một số khó khăn trong điều tra, nắm bắt số liệu không chính xác do các doanh nghiệp cung cấp không đúng.
1.4.2.2. Phương pháp đánh giá có sử dụng đường cầu
Đây là phương pháp dựa trên cơ sở những nghiên cứu và nền tảng của kinh tế học vận dụng vào đánh giá giá trị của hàng hoá môi trường trong việc xây dựng mô hình của hàm cầu. Mô hình này là cơ sở để chúng ta tính toán lợi ích và giá trị phúc lợi của tiêu dùng. Do đó các phương pháp trong nhóm này phải xây dựng cho được hàm cầu hay hàm lợi ích. Nghĩa là người ta phải xây dựng cho được giá trị lợi ích của môi trường mang lại. Đó là cơ sở xem xét, đánh giá, hoạch định chính sách về mặt kinh tế như thế nào là phù hợp với giá trị của chất lượng môi trường.
Cụ thể trong nhóm này có các phương pháp sau:
Phương pháp chi phí du lịch
- Khái niệm: Đây là phương pháp người ta dựa trên cơ sở thực tiễn là những nơi, địa điểm có chất lượng môi trường tốt, thường là những nơi thu hút được nhiều khách du lịch. Vì vậy thông qua lượng khách du lịch này để xem xét, đánh giá, nghiên cứu trong mối quan hệ giữa chi phí cho 1 chuyến đi với số lần t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33023.doc