Hiện trạng chất lượng - Quản lý chất lượng mặt hàng gạo & biện pháp nâng cao chất lượng mặt hàng gạo Xuất khẩu

Hiện trạng chất lượng - quản lý chất lượng mặt hàng gạo và một số biện pháp nâng cao chất lượng mặt hàng gạo xuất khẩu . MỤC LỤC Mục lục. 2 Lời nói đầu. 6 Chương I: Tổng quan về chất lượng và quản lý chất lượng. 8 I . Khái niệm. 8 1.1 Chất lượng là gì? 8 1.2 Đặc điểm. 9 1.3 Chất lượng mặt hàng gạo. 10 2. Quản lý chất lượng là gì? 11 2.1 Khái niệm. 11 2.2 Đặc điểm. 11 2.3 Quản lý chất lượng gạo xuất khẩu. 11 a. Khái niệm. 11 b. Hệ thống quản lý chất lượng hiện hành. 12 II. Vai trò

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2364 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng chất lượng - Quản lý chất lượng mặt hàng gạo & biện pháp nâng cao chất lượng mặt hàng gạo Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của chất lượng và quản lý chất lượng trong nền kinh tế thì trường. 12 1 Vai trò của chất lượng trong nền kinh tế thị trường. 12 2 Vai trò của quản lý chất lượng trong nền kinh tế thị trường. 14 III. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng gạo. 14 1. Vùng sản xuất. 16 1.1. ảnh hưởng của điều kiện thổ nhưỡng tới chất lượng gạo. 16 1.2. ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu tới chất lượng gạo. 16 2 .Chất lượng giống lúa. 17 3. Quy trình kỹ thuật, canh tác. 20 3.1. Ảnh hưởng của phân bón tới chất lượng hạt. 20 3.2. Ảnh hưởng của việc tưới nước tới chất lượng hạt. 21 4. Quy trình công nghệ trong khâu thu hoạch, bảo quản và chế biến. 22 4.1. Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu thu hoạch. 22 4.2 Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu sơ chế, chế biến. 23 4.3 Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu bảo quản. 24 Chương II: Hiện trạng về chất lượng & QLCL gạo XK của Việt Nam. 26 I . Vài nét về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam. 26 1. Xuất khẩu gạo một chặng đường vẻ vang. 26 2. Những khó khăn, vướng mắc. 29 II. Hiện trạng chất lượng và quản lý chất lượng gạo của Việt Nam. 32 1 Hiện trạng về chất lượng & quản lý chất lượng gạo xuất khẩu của VN. 32 1.1 Hiện trạng về chất lượng giống. 32 1.2 Hiện trạng về chất lượng gạo xuất khẩu. 35 a. Thu hoạch. 36 b. Làm khô - sấy. 36 c. Xay xát. 37 d. Bảo quản. 39 2. Hiện trạng về quản lý chất lượng . 44 2.1 Hiện trạng về quản lý chất lượng giống. 44 a. Hệ thống quản lý chất lượng giống. 44 b Hệ thống các văn bản quản lý. 46 c. Thanh tra. 47 d. Kiểm định, kiểm nghiệm. 47 e. Chính sách đối với giống. 48 2.2 Hiện trạng về quản lý chất lượng gạo xuất khẩu. 48 a. Hệ thống quản lý chất lượng hiện hành. 48 b. Hệ thống các văn bản pháp quy ban hành đến 30/7/2000 . 49 c. Các tiêu chuẩn về gạo đã được ban hành đến 30/7/2000. 50 d, Thanh tra. 53 e. Kiểm định. 54 f. Các chính sách liên quan đến chất lượng gạo xuát khẩu đã ban hành. 55 3. Những tồn tại. 56 3.1 Giống. 56 3.2 Những tồn tại về chất lượng và quản lý chất lượng gạo xuất khẩu. 57 4. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. 61 4.1 Đối với giống. 61 4.2 Đối với gạo xuất khẩu. 62 Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. 65 I. Mục tiêu chất lượng đối với mặt hàng gạo xuất khẩu. 65 1. Mục tiêu lâu dài đối với mặt hàng gạo xuất khẩu. 65 1.1 Mục tiêu lâu dài về giống. 65 1.2 Mục tiêu lâu dài về CTSTH để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. 66 2. Mục tiêu trước mắt (đến năm 2005) đối với gạo xuất khẩu. 67 2.1 Mục tiêu đến năm2005 về giống. 67 2.2 Mục tiêu đến năm2005 để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu. 67 3. Yêu cầu thị trường. 68 II. Một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo. 69 1. Giải pháp về chính sách. 69 1.1 Xây dựng đề án nâng cao chất lượng gạo trong toàn ngành. 69 1.2 Đề xuất những ĐHKHnâng cao CLTG đến năm 2005 và 2010. 69 1.3 Xây dựng chính sách giống. 70 1.4 Xây dựng chính sách về công tác sau thu hoạch. 70 2. Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ . 71 2.1 áp dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến cho lựa chọn giống. 72 2.2 Sử dụng máy móc, thiét bị hiện đại cho khâu thu hoạch và sơ chế. 73 a. Thu hoạch. 73 b. Sấy. 74 c. Xay xát. 74 2.3 Đưa các công nghệ tiên tiến vào quá trình bảo quản. 75 3 .Giải pháp đầu tư. 76 3.1 Đầu tư nâng cao chất lượng giống lúa. 76 3.2 Đầu tư vào công tác quản lý chất lượng thương phẩm thóc gạo. 77 3.3 Đầu tư vào công tác sau thu hoạch. 77 3.4 Một số biện pháp đầu tư khác. 78 4. Giải pháp về tổ chức quản lý. 78 5. Một số giải pháp khác. 80 5.1 Giải pháp về nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực. 80 5.2 Giải pháp hợp tác quốc tế.. 80 Kết luận. 82 Tài liệu tham khảo 83 LỜI NÓI ĐẦU. Cách đây hơn mười năm, bạn bè quốc tế chỉ biết tới Việt Nam như một đất nước anh hùng không chịu khuất phục trước bất kỳ một kẻ thù xâm lược nào. Nhưng từ khi Việt Nam bắt tay vào công cuộc đổi mới đất nước thì bạn bè khắp năm châu còn biết đến Việt Nam qua những thành tựu xây dựng kinh tế. Họ thán phục Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu với bao vết thương chiến tranh đã vươn lên từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội để rồi đến nay nền kinh tế đã có tích luỹ từ nội bộ, GDP tăng trưởng liên tục bình quân 6-7%/năm. Đóng góp không nhỏ vào thành tựu chung của đất nước phải kể đến mặt trận nông nghiệp. Vốn là một nước nông nghiệp, Việt Nam đã phát huy lợi thế của mình, lấy nông nghiệp làm bàn đạp để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhận thức được trách nhiệm nặng nề của mình, ngành nông nghiệp đã ra sức thi đua và đạt được những thành tựu to lớn. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 4-5%/năm liên tục trong gần mười năm qua.Trong đó lĩnh vực sản xuất lúa gạo là một điển hình tiêu biểu. Cách đây hơn mười năm, Việt Nam luôn phải nhập khẩu ngũ cốc để cho dân ăn chống đói. Nhưng từ năm 1989, Việt Nam đã thoát khỏi nạn đói lương thực và còn xuất khẩu. Vào năm 1989, cả thế giới ngạc nhiên trước một Việt Nam vốn phải nhập khẩu lương thực vào năm1988lại xuất khẩu 1,5 triệu tấn gạo, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ ba thế giới (sau Thái Lan và Mĩ). Đến nay, Việt Nam vẫn duy trì xuất khẩu gạo năm sau cao hơn năm trước và đứng thứ hai thế giới. Tuy đạt được những thành tựu như vậy nhưng gạo của Việt nam có sức cạnh tranh kém so với gạo của Thái Lan, Mĩ. Một trong những nguyên nhân đó là chất lượng gạo của ta thua xa chất lượng gạo của hai nước trên. Đề tài: "Hiện trạng chất lượng - quản lý chất lượng gạo và một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu" xuất phát từ thực tiễn nói trên để luận giải vấn đề, góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu gạo có hiệu quả. Đây là một đề tài rộng và hết sức phức tạp, nó được sự quan tâm của nhiều nhà quản lý chất lượng. Bản thân em còn là một sinh viên nên còn hạn chế về nhiều mặt do vậy bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy, cô góp ý bổ sung để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Sửu đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Sinh viên : Trần Thanh Hà . CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG. I.Khái niệm: 1.Chất lượng là gì? 1.1.Khái niệm: Trước năm 1986 khi mua hay bán một hàng hoá, người ta không quan tâm mấy đến chất lượng hàng hoá đó mà chỉ chú tâm đến việc hàng hoá có thể sử dụng được hay không. Cho dù thế, để sử dụng được thì hàng hoá đó cũng phải đạt được một số tiêu chuẩn nào đó. Như vậy dù ít hay nhiều hàng hoá đó cũng phải có chất lượng. Hiện nay, khi đất nước đã chuyển từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì chất lượng là cái mà người ta nói đến nhiều nhất. Để tồn tại và phát triển, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải tìm mọi cách để nâng cao chất lượng cho hàng hoá của mình. Có như vậy hàng hoá mới có được lợi thế cạnh tranh, mới xâm nhập được vào thị trường. Như vậy chất lượng là cái " thẻ căn cước " của mỗi loại hàng hoá. Vậy chất lượng là gì? Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau người ta đưa ra các khái niệm khác nhau về chất lượng: - Ban đầu người ta cho rằng chất lượng là những đặc tính phù hợp với công dụng của sản phẩm đó. - Khi trình độ sản xuất phát triển hơn chất lượng được hiểu là những đặc tính của sản phẩm thoả mãn những yêu cầu do tiêu chuẩn đề ra. - Chất lượng phải thoả mãn đòi hỏi của người tiêu dùng. - Đến nay người ta thống nhất bởi một định nghĩa tổng quát về chất lượng: "Chất lượng của hàng hoá, dịch vụ là một tập hợp những đặc tính, chỉ tiêu phản ánh giá trị sử dụng của hàng hoá trong điều kiện sản xuất, tiêu dùng nhất định và thoả mãn tối đa yêu cầu của người tiêu dùng." 1.2. Đặc điểm của chất lượng: - Chất lượng là tổng hợp giữa kinh tế và kỹ thuật: Mặt kinh tế biểu hiện về lượng tức là lượng lao động xã hội kết tinh trong hàng hoá đó. Còn mặt kỹ thuật biểu hiện về chất, tức là một sản phẩm muốn đáp ứng được những yêu cầu sử dụng phải có những tính chất về chức năng phù hợp và như vậy phải có giải pháp kỹ thuật phù hợp. - Chất lượng mang tính tương đối: tính tương đối này thể hiện ở mặt thời gian và không gian. + Thời gian: cùng một loại sản phẩm nhưng trong những khoảng thời gian khác nhau thì chất lượng khác nhau. + Không gian: do sự tiến bộ, tốc độ phát triển của từng vùng, từng khu vực mà sản phẩm này ở khu vực này chất lượng cao, sang khu vực khác chất lượng lại kém. - Chất lượng được xác định theo mục đích sử dụng: tức là không có sản phẩm chất lượng cho mọi người. Sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng, được sử dụng vào mục đích với những điều kiện sử dụng xác định. - Chất lượng được đặt ra đối với mỗi trình độ sản xuất phụ thuộc vào khả năng của quan hệ cung cầu. - Chất lượng là cụ thể, không trừu tượng: vì chất lượng được cụ thể hoá bởi các chỉ tiêu, tiêu chuẩn. Mà các chỉ tiêu chất lượng đã được lượng hoá, biểu hiện ra con số. - Chất lượng phải được người tiêu dùng đánh giá. - Chất lượng phải kết hợp cả ba mặt: + Yêu cầu thực sự của người tiêu dùng. + Đặc tính, chức năng sản phẩm phù hợp với các đòi hỏi đó. + Tính kinh tế. 1.3. Chất lượng mặt hàng gạo. Ở nước ta hơn mười năm qua nhờ đổi mới chính sách và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nông nghiệp nước ta có bước phát triển vượt bậc. Nông nghiệp tăng trưởng liên tục 4-5%/năm. Từ một nước nhập khẩu lương thực Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. Chính vì thế, đổi mới đã biến ngành sản xuất nông nghiệp đơn thuần trở thành một ngành sản xuất hàng hoá. Cũng vì lẽ đó mà chất lượng nông sản, đặc biệt là chất lượng gạo là một yêu càu bức xúc, cần được quan tâm. - Về mặt lý thuyết gạo cũng là một loại hàng hoá do đó khái niệm chất lượng gạo cũng phải thoả mãn khái niệm về chất lượng hàng hoá và dịch vụ. Tuy vậy đối với chất lượng mặt hàng gạo thì để đánh giá chất lượng người ta căn cứ vào: + Vệ sinh an toàn. + Độ trắng. + Độ bóng. +Tỷ lệ phần trăm thóc. + Độ ẩm. + Tỷ lệ tấm. Đối với gạo xuất khẩu các chỉ tiêu chất lượng đặt ra nghiêm ngặt. Trong đó yêu cầu độ trắng, độ bóng và tỷ lệ tấm là những yêu cầu không thể thiếu. - Về vấn đề chất lượng gạo đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm đến như: Nhật Bản, Thái Lan, Anh, Pháp, Ấn Độ, Philippin... Đối với một số nước nhập khẩu gạo như Nhật Bản thì ngoài các chỉ tiêu đánh giá chất lượng như đã nêu trên người ta còn quan tâm tới chất lượng dinh dưỡng của gạo mà chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng dinh dưỡng là hàm lượng protein và chất lượng protein có trong gạo. Đây là một trong những chỉ tiêu mà nhà xuất khẩu gạo Việt Nam ít quan tâm nhất. Trong khi đó thị trường thế giới về gạo hạt dài có chất lượng cao chiếm khoảng 1/4 thị trường tiêu thụ lúa gạo trên thế giới. - Như vậy đặc điểm của chất lượng gạo cũng mang đầy đủ các đặc điểm của chất lượng hàng hoá và dịch vụ. Tuy nhiên ngoài những đặc điểm như đã nêu trên chất lượng gạo còn có đặc điểm riêng: Chất lượng phụ thuộc vào đặc điểm thổ nhưỡng và điều kiện khí hậu. Có đặc điểm này là do ngành nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Với cùng một giống lúa nhưng trồng ở các vùng khác nhau sẽ có chất lượng khác nhau (nổi bật là hàm lượng protein trong gạo). Cũng như vậy với cùng một giống lúa, trồng tại cùng một nơi nhưng chịu ảnh hưởng bởi khí hậu khác nhau cho chất lượng khác nhau. 2. Quản lý chất lượng là gì? 2.1 Khái niệm: Quản lý chất lượng là một hoạt động đề ra các nguyên tắc, các biện pháp tác động lên các điều kiện và yếu tố hình thành sản phẩm và dịch vụ nhằm đưa chất lượng của hàng hoá, dịch vụ đặt tới yêu cầu mà người tiêu dùng đặt ra. 2.2 Đặc điểm: Từ định nghĩa nêu trên ta có thể rút ra quản lý chất lượng có hai đặc điểm chủ yếu: - Quản lý chất lượng là việc vạch ra các nguyên tắc, kiểm tra, đánh giá và rút ra kinh nghiệm. - Đó là sự tác động của một hệ thống lên một hiện tượng khác nhằm đạt đến mục đích đã định là chất lượng của hàng hoá, dịch vụ mà người tiêu dùng đặt ra. 2.3. Quản lý chất lượng gạo xuất khẩu: a. Khái niệm: Quản lý chất lượng gạo xuất khẩu là hoạt động đề ra các nguyên tác, biện pháp, chính sách tác động lên các điều kiện và yếu tố sản xuất ra lúa gạo phục vụ cho xuất khẩu nhằm đưa chất lượng gạo xuất khẩu đạt tới yêu cầu mà thị trường nước ngoài đặt ra. b. Hệ thống quản lý chất lượng gạo hiện hành. Đối với các mặt hàng thóc gạo, ngô, lạc, đậu tương hiện chưa được tổ chức quản lý tốt. Việc quản lý chất lượng gạo trong những năm qua là do các cơ quan giám định của Việt Nam thực hiện. Các cơ quan này gồm có: - Vinacontrol: giám định chất lượng khoảng 0,7 triệu tấn gạo xuất khẩu (Số liệu do Vinacontrol cung cấp) - Trung tâm kiểm tra và chứng nhận chất lượng nông sản: FCC. - Trung tâm kiểm tra và chứng nhận chất lượng và tiêu chuẩn hoá thuộc - Viện công nghệ sau thu hoạch. - Ngoài ra còn một số trung tâm khác. II. Vai trò của chất lượng và quản lý chất lượng trong nền kinh tế thị trường: 1- Vai trò của chất lượng trong nền kinh tế thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, không còn có khách hàng nào lại chịu mua những hàng hoá không đảm bảo chất lượng. Các khách hàng ngày nay được coi là các "thượng đế", nên các thượng đế này có yêu cầu và đòi hỏi rất cao đối với mỗi hàng hoá. Đối với các hàng nông sản thì yêu cầu chất lượng lại càng phải cao vì nó liên quan đến vấn đề an toàn và vệ sinh thực phẩm, vấn đề mà được quan tâm rất nhiều trong cuộc sống xã hội hiện đại ngày nay. - Chính vì những lý do đó mà chất lượng của hàng hoá luôn là cái được người ta nhắc đến nhiều nhất. Chất lượng được coi là "chiếc chìa khoá" để mở các cánh cửa thị trường. Vậy chất lượng có ngững vai trò gỉ? - Chất lượng giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá: Ngày nay, người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn hàng hoá có chất lượng cao hơn hàng có giá rẻ. Vì vậy hàng có chất lượng cao sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Trong hoàn cảnh đó, các doanh nghiệp khác muốn thu hút khách hàng thì phải đổi mới công nghệ, kỹ thuật...để nâng cao chất lượng cho hàng hoá và sản phẩm của mình. Do vậy năng lực cạnh tranh cũng được nâng cao. - Chất lượng làm cho giảm giá thành và chi phí sản xuất. Nếu hàng hoá không có chất lượng thì quá trình lao động từ ý đồ, thiết kế, nghiên cứu thị trường, mua nguyên vật liệu,... bị lãng phí. Và các chi phí để sản xuất ra sản phẩm này sẽ được tính vào giá thành của sản phẩm có chất lượng tiếp sau, nên giá sẽ tăng lên. Nếu sản phẩm có chất lượng cao, được người tiêu dùng ưa chuộng, chấp nhận thì doanh nghiệp có thể sản xuất hàng loạt. Do vậy, giảm được chi phí sản xuất và do đó hạ được giá thành sản phẩm. Nói cho đến cùng thì chất lượng làm giảm chi phí và giá thành sản phẩm tức là làm tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm. - Chất lượng sẽ tăng cường công ăn việc làm cho người lao động. Chất lượng cao sẽ thu hút được khách hàng, quy mô sản xuất được mở rộng sẽ thu hút được nhiều lao động. Bên cạnh đó, còn có một lực lượng không nhỏ các cán bộ kỹ thuật, kiểm định, giám định làm việc tại các phòng kiểm định chất lượng, trung tâm kiểm định... - Chất lượng hàng hoá sẽ nâng cao uy tín của quốc gia trên thế giới. Đối với hàng nông sản đặc biệt là gạo xuất khẩu thì chất lượng có vai trò cực kỳ quan trọng. + Chất lượng làm tăng khả năng của gạo Việt Nam. + Chất lượng làm giảm chi phí sản xuất, giá của mặt hàng cùng loại nhưng làm tăng giá trị xuất khẩu gạo của Việt Nam. Ví dụ như giá của gạo đồ cao hơn từ 20-50% so với gạo loại 1 khác. + Chất lượng sẽ tạo ra công ăn việc làm cho người nông dân. Do chất lượng cao sẽ đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cần nhiều thóc gạo dự trữ vừa để đảm bảo an toàn lương thực vừa để dự trữ xuất khẩu. Thúc đẩy nông dân sản xuất tăng vụ, giảm thời gian rảnh rỗi nông nhàn đồng thời tăng thu nhập cho nông dân. Bên cạnh đó còn tạo ra một đội ngũ các cán bộ thuỷ lợi, nghiên cứu tạo giống, kiểm định... + Chất lượng gạo tăng sẽ làm tăng uy tín của Việt Nam trên thị trường thế giới. Đặc biệt là khẳng định uy tín của mặt hàng gạo Việt Nam không hề thua kém gạo Thái Lan về chất lượng. 2. Vai trò của quản lý chất lượng trong nền kinh tế thị trường: Qua phần trên chúng ta thấy vai trò cực kỳ quan trọng của chất lượng. Chất lượng là thứ không thể thiếu được của bất kỳ hàng hoá nào. Nó là "chiếc chìa khoá", là "thẻ căn cước" của hàng hoá khi xâm nhập vào thị trường. Do vậy cần phải quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ. - Quản lý chất lượng là hoạt động không thể thiếu được, nó đóng vai trò quyết định trong sự thành công trên thị trường. Chất lượng không tự nhiên có được, cần có sự tác động, sự nỗ lự nghĩa là cần phải quản lý chất lượng. - Ở một doanh nghiệp thì quản lý chất lượng có vai trò là hoạt động quyết định nhằm duy trì và tăng cường chất lượng hàng hoá và dịch vụ. - Quản lý Nhà nước về chất lượng có vai trò bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, góp phần phát triển kinh tế, xã hội. - Quản lý Nhà nước về chất lượng còn thúc đẩy sự tiến bộ quản lý chất lượng cho ngang tầm với trình độ chung của thế giới. Như vậy là quản lý chất lượng có một vai trò cực kỳ to lớn trong việc nâng cao chất lượng của hàng hoá và dịch vụ. Đối với gạo, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong mười năm qua thì vai trò to lớn của quản lý chất lượng càng không thể thiếu được. III. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng gạo: Với ý nghĩa và vai trò to lớn của chất lượng như đã nêu trên, khi nghiên cứu về chất lượng, người ta tập trung vào nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng để từ đó đưa ra các giải pháp cần thiết nâng cao chất lượng của hàng hoá và dịch vụ đó. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng hàng hoá và dịch vụ gồm 5 yếu tố mà người ta gọi là "5M": - Nguyên vật liệu (material): chất lượng nguyên vật liệu, bán thành phẩm tốt thì mới có thể tạo ra hàng hoá có chất lượng tốt. Tuy nhiên để hàng hoá có chất lượng tốt chỉ cần có nguyên vật liệu tốt là chưa đủ vì nó còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác. - Máy móc thiết bị (machine). - Bảo quản (maintain): với điều kiện tự nhiên, khí hậu sẽ ảnh hưởng tới chất lượng hàng hoá, giảm tuổi thọ của máy, hỏng, ôi thiu đối với hàng thực phẩm... Do đó bảo quản sẽ góp phần vào việc duy trì chất lượng của hàng hoá. - Công nghệ (method): gồm hai phần + Phần cứng: kết cấu. + Phần mềm: kỹ năng, phương pháp, kiến thức. Đối với hàng sản xuất hàng loạt, công nghệ, thiết bị là yếu tố quyết định chất lượng. - Con người (man): gồm hai mặt + Chất: trình độ kỹ thuật, văn hoá, tư tưởng, sự lành nghề. + Lượng: công nghệ sử dụng bao nhiêu nhân lực... Ngoài ra chất lượng còn chịu sự chi phối của chính sách Nhà nước. Tuy nhiên "5M" là năm yếu tố cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng hàng hoá. Còn trong sản xuất nông nghiệp, chất lượng phụ thuộc nhiều vào yếu tố, trong đó có: - Vùng sản xuất: tương đương yếu tố môi trường. - Chất lượng giống: tương đương yếu tố nguyên vật liệu. - Quy trình kỹ thuật canh tác. - Quy trình công nghệ trong các khâu thu hoạch, bảo quản và chế biến. 1. Vùng sản xuất: 1.1 ảnh hưởng của điều kiện thổ nhưỡng tới chất lượng gạo: Thổ nhưỡng ở mỗi vùng có đặc điểm khác nhau. Theo nghiên cứu các nhà khoa học đã khẳng định thổ nhưỡng ảnh hưởng tới chất lượng đạm hay hàm lượng protein trong gạo. Do đó ảnh hưởng tới chất lượng gạo. Ở mỗi vùng do có đặc điểm khác nhau về thổ nhưỡng nên chất lượng gạo ở mỗi vùng sẽ khác nhau. Chẳng hạn lúa trồng ở đồng bằng có chất lượng gạo cao hơn lúa trồng ở vùng đồi núi. Sở dĩ như vậy là do vùng đồng bằng đất giàu chất dinh dưỡng hơn so với vùng đồi núi. Ở nước ta, hai vùng trồng lúa chính là đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Tuy cùng là đồng bằng song đồng bằng sông Hồng do được phù sa của sông Hồng thường xuyên bồi đắp nên đất rất màu mỡ, có giá trị dinh dưỡng cao. Nhưng hệ số sử dụng đất ở đồng bằng sông Hồng rất cao do đất chật người đông nên chất lượng đất giảm đi rất nhiều. Còn ở đồng bằng sông Cửu Long tuy độ màu mỡ của đất không nhiều như đồng bằng sông Hồng nhưng đất rộng nên hệ số sử dụng đất không cao như đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, vẫn chưa có số liệu thống kê đầy đủ về sự khác biệt chất lượng gạo của hai vùng do khác nhau về điều kiện thổ nhưỡng. Mặc dù vậy, điều kiện thổ nhưỡng ảnh hưởng tới chất lượng gạo là điều được tất cả các nhà khoa học công nhận. 1.2. ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu đến chất lượng gạo: Khi nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước trong ruộng đến hàm lượng protein trong gạo người ta nhận thấy rằng khi nhiệt độ không khí cao hoặc nhiệt độ nước cao, sau khi lúa trổ bông sẽ làm tăng hàm lượng protein trong gạo. Nhiệt độ nước thấp hoặc thiếu ánh sáng trong thời gian lúa chín có tác dụng làm giảm hàm lượng protein trong gạo. Các chế độ nhiệt độ ánh sáng còn ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ hạt chắc, do đó ảnh hưởng đến năng suất thóc và vì vậy càng có ảnh hưởng đến năng suất protein. Ở nước ta hai vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long có khí hậu hoàn toàn khác nhau. Vùng đồng bằng sông Hồng vào vụ hè thu trời nóng, còn vụ đông xuân, thu đông nhiệt độ xuống thấp ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ sinh trưởng của lúa, và chất lượng gạo. Đối với đồng bằng sông Cửu Long thời tiết nóng ấm quanh năm. Sự khác biệt về khí hậu này đã ảnh hưởng tới chất lượng gạo của hai vùng. Khi nghiên cứu 25 giống lúa ở hai vùng đồng bằng của nước ta vào vụ thu đông thì hàm lượng protein trung bình ở đồng bằng sông Cửu Long là 7,72% và ở đồng bằng sông Hồng là 7,41%. Trong tất cả các trường hợp đều thấy tương quan ngược chiều chặt chẽ giữa hàm lượng protein và trọng lượng 1000 hạt gạo (Theo báo cáo khoa học của tiến sĩ Nguyễn Kim Chi - Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI- 1982). Mặt khác điều kiện thời tiết còn ảnh hưởng tới độ khô của lúa, độ ẩm của thóc gạo. Ở đồng bằng sông Hồng có độ ẩm không khí cao nên độ ẩm của thóc gạo cao hơn độ ẩm của thóc gạo đồng bằng sông Cửu Long khoảng 2,8%. Chính vì vậy các yêu cầu về sấy đối với gạo hai miền là khác nhau. Tuy nhiên, tại đồng bằng sông Cửu Long vào mùa mưa thì độ ẩm của thóc gạo lại cao hơn đồng bằng sông Hồng từ 3 - 4% (Theo nghiên cứu chất lượng lúa gạo ở Việt Nam - Nguyễn Bá Trình - Bộ môn sinh hoá và chất lượng nông sản - Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam - 1984). Nghiên cứu ảnh hưởng của vùng sản xuất đến chất lượng gạo giúp chúng ta có thể đưa ra các biện pháp tối ưu về sấy, bảo quản, chế biến mặt hàng gạo sao cho phù hợp, tạo ra sản phẩm gạo có chất lượng cao phục vụ cho xuất khẩu. 2. Chất lượng giống lúa: Bên cạnh sự tác động của điều kiện thổ nhưỡng, điều kiện thời tiết và khí hậu thì một yếu tố nữa không kém phần quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng gạo mà ta có thể dự đoán trước ngay từ đầu đó là giống lúa. Nếu như giống có chất lượng tốt, có đầy đủ các đắc tính ưu việt của giống có chất lượng cao thì cây lúa sẽ sinh trưởng tốt, hạt chắc, mẩy, tỷ lệ hạt lép thấp, hàm lượng protein trong gạo cao. Và nếu như các khâu sau thu hoạch như xay xát, sấy, bảo quản... được thực hiện tốt thì gạo sẽ có chất lượng cao, đảm bảo khả năng xuất khẩu, không phải bán gạo với giá thấp như hiện nay. Khi nghiên cứu về chất lượng gạo của các loài lúa người ta đã phát hiện ra giống lúa Indica được dùng phổ biến ở Việt Nam có hàm lượng protein trung bình là 12,91%, hàm lượng protein của lúa nếp cao hơn lúa tẻ (Theo tiến sĩ nông nghiệp Taira - Đại học Hokkaido - 1978). Cũng theo Taira những giống lúa ngắn ngày có chất lượng cao hơn giống dài ngày do có hàm lượng protein cao hơn, nấm mốc ít hơn. Khi so sánh 51 giống lúa trồng ở vùng đồng bằng sông Hồng, tiến sĩ Nguyễn Văn Uyển (1987) có nhận xét rằng giống chín sớm nói chung có chất lượng cao hơn các giống lúa chính vụ và muộn, đồng thời nó cũng có hàm lượng protein cao hơn. Các giống lúa vùng đồng bằng có chất lượng cao hơn vùng đồi, lúa nước nghèo protein hơn lúa cạn. Trong cùng một giống lúa, những hạt nhỏ có hàm lượng protein cao hơn hạt lớn. Theo kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI (1980) ngay trong cùng một giống lúa, vị trí tương đối của hạt trên bông khác nhau thì chất lương của hạt cũng khác nhau. Cụ thể là hạt ở phần giữa bông có hàm lượng protein cao hơn cả. Tuy nhiên hiện nay người ta vẫn chưa tổng hợp được các số liệu liên quan đên sự sai khác về chất lượng lúa gạo lấy ở ba vùng khác nhau trên cùng một bông lúa (ngọn bông, giữa bông và cuống bông). Mặt khác bộ môn hoá của viện IRRI cho biết nhiều nhất là 25% những thay đổi về hàm lượng protein là do di truyền. Và các nhà khoa học đều khẳng định rằng yếu tố di truyền chi phối mạnh mẽ chất lượng gạo đặc biệt là hàm lượng protein có trong gạo. Cùng với các giống thuần chủng ban đầu, người ta tác động lên chúng tạo nên các giống mới có năng suất cao hơn giống ban đầu. Chính vì vậy các biện pháp chọn giống cũng ảnh hưởng tới chất lượng gạo. Để tạo ra các giống lúa mới đem lại cho gạo có chất lượng cao người ta đã sử dụng phương pháp lai tạo, gây đột biến trong công tác chọn giống. Chẳng hạn giống lúa ở Pennai được tạo ra bằng phương pháp lai có năng suất cao hơn giống ban đầu là 30%, có hàm lượng protein là 10,1% trong khi hàm lượng protein gốc là 7,3% (Theo báo cáo của IRRI -1989). Hay như việc xử lý đột biến cho giống lúa Taichung 65 và Taichung 1 thu được 4 đột biến có chất lượng tăng lên hai điểm và có hàm lượng protein cao là 9,1%; 10,6%; 10,3%; 11,2%. Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI ngay từ những năm 1966 đã bắt đầu nghiên cứu chọn tạo giống lúa có chất lượng bằng phương pháp lai tạo. Cho đến nay nhờ phương pháp này đã xác định nhiều giống lúa cho năng suất cao và chất lượng hạt tốt như dòng lúa IR480-5-9. Cùng với phương pháp lai tạo thì viện IRRI cũng phát triển chọn giống bằng phương pháp gây đột biến thông qua việc xử lý hoá học như xử lý bằng tia gama lên giống lúa làm thay đổi hàm lượng protein thô, tăng phẩm chất cho giống lúa tạo ra giống có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Như vậy, ta có thể thấy rằng chất lượng giống đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng gạo. Các giống lúa tốt cung cấp gạo có hàm lượng protein cao mà đây là một tiêu chuẩn quan trọng của xuất khẩu gạo (Có thị trường chỉ sử dụng gạo có hàm lượng protein cao như Malaysia). Nhưng để tạo ra các giống lúa có chất lượng cao, có khả năng đảm bảo các thông số kỹ thuật thì ta không thể không nói đến các phương pháp chọn giống. Phương pháp chọn giống ngày càng hiện đại, càng phát triển thì khả năng tạo ra các giống lúa mới có năng suất cao, chất lượng tốt ổn định càng nhiều. Nhận thức được ảnh hưởng của giống và chọn giống đến chất lượng gạo, Viện nghiên cứu lúa IRRI cùng các trung tâm nghiên cứu và lai tạo giống lúa đã kết hợp với các hợp tác xã để đưa ra trồng thử nghiệm các giống lúa mới, tạo nên các ruộng thử nghiệm để có thể kiểm nghiệm và thu được các giống lúa mới phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Việt Nam, của từng vùng. Đây là công tác quan trọng để có thể tạo ra nhiều giống lúa cho gạo có chất lượng cao phục vụ nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam. 3. Quy trình kỹ thuật, canh tác. Khi có giống tốt không phải là gạo đã có được chất lượng tốt bởi chất lượng gạo sẽ thay đổi trong suốt quá trình từ lúc cấy đến lúc gặt. Để giữ chất lượng gạo thóc ổn định thậm chí còn làm tăng các phẩm chất của gạo thì đòi hỏi phải có sự chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật. Vì vậy quy trình kỹ thuật, canh tác cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng gạo. Thông thường khi cung cấp giống cho các hộ nông dân, các cán bộ kỹ thuật phải phổ biến quy trình kỹ thuật cho nông dân để họ có thể chăm sóc một cách tốt nhất cây lúa. Có như vậy gạo sản xuất ra mới có thể có chất lượng cao. Tuy nhiên trong quá trình sản xuất này còn phụ thuộc vào yếu tố thời tiết bởi ngành nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Nhìn chung, thì ảnh hưởng của quy trình kỹ thuật, canh tác đến chất lượng gạo dược thể hiện: 3.1 ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng hạt: Nhân dân ta đã đúc kết kinh nghiệm sản xuất của mình qua câu tục ngữ: "Nhất nước, nhì phân Tam cần, tứ giống." Qua trên ta thấy được vai trò quan trọng của phân bón đến việc sản xuất nông nghiệp đặc biệt là trong trồng lúa. Việc bón phân sẽ bổ sung cho cây lúa chất dinh dưỡng, đạm cần thiết, giúp cây tăng trưởng và phát triển. Ngày nay, các nhà khoa học đã khẳng định rằng phân bón là yếu tố kỹ thuật quan trọng nhất có ảnh hưởng đến chất lượng gạo mà nhất là hàm lượng protein có trong gạo. Việc bón phân đạm sẽ làm tăng hàm lượng protein và làm thay đổi thành phần axit amin của protein có trong gạo. Vào tháng 1/1980 bộ môn trồng trọt viện IRRI đã khẳng định rằng trong vụ mưa, thời gian bón đạm không ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng gạo. Tuy nhiên bón lúc lúa trổ có chiều hướng làm tăng hàm lượng protein trong gạo. Qua kết quả nghiên cứu thí nghiệm của trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội (1981): bón một lần toàn bộ số đạm hoặc bón rải trong 5 ngày khi lúa trổ bông và đã đi đến nhận xét rằng bón lượng đạm nhiều lần trong 5 ngày đã làm giảm hàm lượng protein trong hạt gần 1%. Như vậy, ta có thể thấy rằng phân bón là rất quan trọng, bón phân là biện pháp chăm sóc cần thiết để nâng cao chất lượng hạt gạo. Song nếu bón không đúng hoặc sai yêu cầu kỹ thuật thì không những làm cho chất lượng không tăng mà còn làm suy giảm chất lượng. Ngược lại, nếu ta bón phân đúng kỹ thuật tức là nên bón vào lúc trổ bông, bón thúc đạm sẽ làm cho chất lượng gạo tăng lên rõ rệt từ 15-30% (Số liệu của Viện IRRI 1980).Việc bón phân không chỉ làm cho chất lượng gạo tăng lên mà còn làm cho năng suất lúa tăng lên đáng kể. Ngày nay, do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì việc bón phân ngoài việc cung cấp các chất dinh dưỡng như đạm, lâ cho cây sinh trưởng và phát triển, chúng ta còn phải bổ sung các nguyên tố vi lượng như mangan, molipden... cho lúa giúp cây có thể chống được một số bệnh thường gặp. 3.2 ảnh hưởng của việc tưới nước đến chất lượng hạt: Cùng với việc bón phân, nước cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng gạo. Nhất là đối với nước ta vốn là nước có truyền thống trồng lúa nước thì việc tưới nước, cung cấp nước cho các ruộng lúa là hoạt động không thể thiếu trong quá trình canh tác cũng như chăm sóc. Nếu như cây lúa được cung cấp đủ nước, cây sẽ sinh trưởng và phát triển tốt, bông trổ sẽ c._.ho nhiều hạt, hạt chắc, mẩy. Mặt khác nước sẽ giúp hoà tan những phân bón ở dạng rắn tạo điều kiện cho cây lúa hấp thụ tốt, dễ dàng hơn các chất hữu cơ. Ngược lại nếu như thiếu nước thì nó tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của cây lúa, bông trổ có ít hạt, nhiều hạt lép. Thêm vào đó cây không hoặc khó hấp thụ được các nguyên tố vi lượng do các chất này thường tồn tạỉ dạng rắn, lại không có nước hoà tan. Các nguyên tố vi lượng này lúa chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng không thể thiếu bởi nó giúp cây sinh trưởng nhanh, khoẻ mạnh và có khả năng kháng một số bệnh thông thường. Ngoài ra, ngững kết quả nghiên cứu của Chavan A.R vào năm 1985 ở Ấn Độ đã cho thấy bón nhiều phân kết hợp với việc tưới nước ngập sẽ làm tăng hàm lượng protein trong gạo từ 13,5% đến 14,5% so với việc không tưới nước. Không chỉ có Chavan A.R khẳng định kết quả này mà những nhà nghiên cứu nông học cũng đã công nhận ảnh hưởng của việc tưoứi nước đến chất lượng hạt gạo. Với một nước trồng lúa nước như ở nước ta, nước không chỉ cần cung cấp cho sự phát triển, nhu cầu hấp thụ nước của lúa mà nước còn là môi trường sống của cây lúa nước. Ở nước ta hiện nay, mặc dù còn quá ít các công trình nghiên về vấn đề này, nhưng Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam đã công bố kết quả nghiên cứu (1989) rằng lúa trồng nước bao giờ cũng có trọng lượng khô của hạt cao hơn trồng cạn. Hơn ai hết chúng ta hiểu rõ ảnh hưởng của việc tưới nước đến chất lượng gạo để có thể đưa ra các biện pháp kịp thời để khắc phục tình trạng thiếu nước vào mùa khô và thoát nước vào mùa mưa tránh tình trạng ngập úng. 4. Quy trình công nghệ trong khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến. Nếu như ba yếu tố trên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hạt gạo như hàm lượng protein có trong gạo, độ chắc, mẩy của hạt, số lượng hạt trên một bông... thì quy trình công nghệ trong khâu thu hoạch, bảo quản và chế biến lại ảnh hưởng đến chất lượng gạo ở một phương diện khác. Đó là việc ảnh hưỏng đến độ trắng của hạt, độ bóng, tỷ lệ hạt gãy, tỷ lệ tấm, độ ẩm... của gạo. Tất cả các chỉ tiêu này được quy định rất rõ trong tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam cũng như quốc tế. Chính vì vậy quy trình công nghệ trong các khâu sau thu hoạch, bảo quản và chế biến có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo, nhất là gạo xuất khẩu. 4.1. Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu thu hoạch: Trong quá trình thu hoạch gặt hái là khâu quan trọng nhất. Từ trước tới nay chúng ta vẫn thường sử dụng lao động thủ công để gặt hái. Trong điều kiện thời tiết bình thường thì gặt hái bằng phương pháp thủ công hầu như không ảnh hưoửng mấy tới chất lượng thóc gạo. Nhưng đối với một nước có khí hậu khắc nghiệt như ở nước ta thì thiên tai thường xuyên xảy ra. Nếu trong quá trình gặt mà lũ lụt hay sương muối diễn ra thì việc gặt bằng lao động thủ công sẽ gây tổn thất không chỉ về số lượng mà còn cả chất lượng. Do đó sử dụng các máy móc hiện đại như máy gặt, mấy đập liên hợp sẽ đẩy nhanh năng suất thu hoạch tránh được những tổn thất đáng tiếc xảy ra. 4.2. Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu sơ chế, chế biến: - Sấy: nếu sử dụng phương pháp sấy truyền thống hoặc công nghệ lạc hậu thì sẽ không đảm bảo độ khô cho thóc gạo. Mặt khác sấy theo phương pháp truyền thống có thể làm lây nhiễm, ám các mùi từ nguyên liệu dùng để sấy. Thêm vào đó việc dùng cách phơi khô thóc gạo trên sân sẽ làm cho thóc gạo lẫn nhiều tạp chất, độ ẩm cao, gặp khi thời tiết xấu như mưa sẽ là điều kiện tốt để các loại nấm và côn trùng đến kí sinh. Việc sử dụng đến các máy sấy, lò sấy tiên tiến để làm khô thóc gạo đã hạn chế được các nhược điểm nói chung và vì vậy đảm bảo được chất lượng của gạo. - Xay xát: các máy xay thủ công, lạc hậu làm cho hạt gạo bị gãy nhiều. Đồng thời các máy này sẽ tạo ra nhiều tấm, trong gạo vẫn còn lẫn thóc, trấu gạo. Sử dụng công nghệ lạc hậu chẳng những làm ảnh hưởng tới chất lượng gạo mà còn làm cho giá gạo cuả Việt Nam thấp hơn các nước khác như Thái Lan. Nếu sử dụng các máy xay xát hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ làm giảm hạt gãy, thóc lẫn trong gạo gần như không có. Các máy xay xát hiện đại còn cho năng suất cao, có thể xay xát một khối lượng lớn để phục vụ cho xuất khẩu. - Đánh bóng: đối với gạo xuất khẩu thì đánh bóng là một yêu cầu không thể thiếu. Trước đây nước ta phần lớn gạo sản xuất ra chỉ qua khâu xay xát rồi đưa vào sử dụng. Từ mười năm trở lại đây đã bắt đầu tiến hành đánh bóng gạo phục vụ chủ yếu nhu cầu xuất khẩu. Các phương pháp đánh bóng thủ công mà chúng ta thường sử dụng làm hạt gạo có độ bóng không cao. Ngược lại sử dụng các dây chuyền đánh bóng hiện đại (như của Thái Lan) làm cho hạt gạo trắng bóng. Trong quá trình đánh bóng người ta có bỏ vào đó một chút lá hương liệu làm cho gạo có mùi thơm hấp dẫn. 4.3. Ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu bảo quản: Bảo quản là khâu rất cần thiết trong việc duy trì chất lượng của gạo. Bảo quản có hai loại: - Bảo quản sau thu hoạch. - Bảo quản sau chế biến. Kỹ thuật, công nghệ bảo quản hiện đại sẽ giúp nhà sản xuất, kinh doanh bảo toàn chất lượng của hàng hoá của mình, ngăn chặn các tác nhân có hại như nấm mốc, sâu bọ, hơi ẩm làm hư hỏng gạo. Nhưng nếu như các phương tiện bảo quản thiếu, lạc hậu thì đây là điều kiện tốt nhất cho các loại sâu bệnh, nấm mốc làm suy giảm chất lượng gạo. Ngoài ra gạo sẽ bị nhiễm ẩm, mất đi độ trắng bóng. Các thành quả để đảm bảo chất lượng và chế biến coi như là vô ích. Do đó bảo quản là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo. Bảo quản không làm tăng chất lượng gạo. Nhưng nếu bảo quản tốt, áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào quá trình bảo quản sẽ duy trì và bảo toàn chất lượng sản phẩm như trước khi đưa vào kho. Còn nếu như bảo quản không tốt, công nghệ, kỹ thuật cũ, lạc hậu... sẽ làm chất lượng giảm sút. Bảo quản là khâu không thể thiếu bởi lúa gạo sản xuất ra không phải lúc nào cũng tiêu thụ hết ngay mà cần phải dự trữ, chờ xuất khẩu... Vì vậy ảnh hưởng của quy trình công nghệ trong khâu bảo quản tới chất lượng gạo ngày một lớn. Biết được điều này để chúng ta có các biện pháp đầu tư thích đáng cho các phương tiện và thiết bị bảo quản. Tóm lại: Qua những gì đã thể hiện ở trên, chúng ta có thể hình dung một cách sơ lược về chất lượng và quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ cũng như hiểu được thế nào là chất lượng gạo và hệ thống quản lý chất lượng nông sản ở Việt Nam. Đồng thời, chúng ta cũng nắm được một cách khái quát các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng gạo. Chất lượng là trên hết. Vì vậy cần có các biện pháp quản lý chất lượng chặt chẽ, tác động tích cực vào các yếu tố ảnh hưởng để nâng cao chất lượng mặt hàng gạo Việt Nam mà cụ thể là chất lượng gạo xuất khẩu. Muốn vậy trước hết chúng ta thử tìm hiểu xem hiện trạng chất lượng và quản lý chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ra sao? CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG GẠO XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM. I. Vài nét về tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam. Từ sau khi thống nhất đất nước năm 1975, đất nước ta đã trải qua thời kỳ khôi phục kinh tế và liền sau đó là chuyển sang thời kỳ đổi mới năm 1986. Sau mười năm tiến hành đổi mới, nền kinh tế nước ta đang dần khởi sắc: Tốc độ tăng trưởng ngày càng cao, lạm phát được kiềm chế, sản xuất phát triển có tích luỹ từ nội bộ và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Công cuộc đổi mới trong nông nghiệp đúng ra là bắt đầu từ năm 1981 và được làm toàn diện từ năm 1986. Kể từ đó đến nay, nền nông nghiệp Việt Nam có bước phát triển nhanh và liên tục với mức tăng trưởng trên 4% một năm. Nông nghiệp trong thời mới không chỉ phục vụ nhu cầu lương thực thực phẩm trong nước mà còn phục vụ xuất khẩu đem lại nguồn ngoại tệ lớn về cho đất nước. Từ năm 1989, nước ta đã thoát ra khỏi nạn đói triền miên về lương thực. Sản lượng lương thực bình quân (tính từ năm 1989 đến nay) là 23.5 triệu tấn/năm, mỗi năm tăng 1 triệu tấn đã đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia trong khi dân số vẫn tiếp tục tăng ở mức cao (gần 1,5 triệu người /năm) và vẫn có thiên tai thường xuyên xảy ra trên diện rộng. Đồng thời mỗi năm còn xuất khẩu 1,5-2 triệu tấn gạo (Số liệu: báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn 1/1999). 1. Xuất khẩu gạo, một chặng đường vẻ vang: Vào năm 1988 nước ta vẫn còn phải nhập khẩu gạo. Nhưng từ dầu thập kỉ 90 Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới. Đến nay, với vị trí xuất khẩu thứ hai thế giới, sau Thái Lan, Việt Nam đang từng bước nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của mình. Bảng 1: Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam từ 1995 đến 1998. Đơn vị: triệu USD. Thời điểm Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 ST TT ST TT ST TT ST TT Tổng giá trị xuất khẩu 5448,9 100% 7255,9 100% 9185 100% 9360,3 100% Giá trị xuất khẩu nông sản 1745,8 32% 2159,6 29,76% 2231,3 24,29% 2274,3 24,3% Gạo 551,544 10% 868,4 11,97% 891,3 9,7% 1000 10,68% Chú thích : (ST: Số tiền ; TT : Tỷ trọng ) (Thời báo kinh tế Việt Nam - Số 99 - 12/12/1998.) Tổng giá trị xuất Số tiền giá trị xuất nông sản Công thức: 1.Tỷ trọng giá trị xuất khẩu nông sản Số tiền xuất khẩu gạo Tổng giá trị xuất khẩu 2. Tỷ trọng gạo xuất khẩu Qua biểu trên ta có thể thấy tỷ trọng của giá trị nông sản xuất khẩu trong tổng giá trị xuất khẩu khá lớn. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên tỷ trọng này ngày càng giảm. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước thì việc tỷ trọng này ngày càng giảm là điều đương nhiên, là quy luật tất yếu trong điều kiện của nước ta. Cũng qua biểu này ta dễ dàng nhận thấy giá trị gạo xuất khẩu chiếm một tỷ trọng tương đối lớn trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Tỷ trọng này lần lượt từ năm 1995 đến năm 1998 là: 10%; 11,97%; 9,7%; 10,68%. Một điều khá rõ là trong khoảng thời gian này tỷ trọng của nông sản xuất khẩu nói chung trong tổng giá trị xuất khẩu giảm từ 32% năm 1995 xuống 29,76% năm 1996 và 24,3% năm 1997, năm 1998 thì cũng trong khoảng thời gian này tỷ trọng của gạo xuất khẩu trong tổng giá trị xuất khẩu vẫn tiếp tục tăng. Riêng năm 1997 tỷ trọng có giảm xuống 9,7%. Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc giảm tỷ trọng vào năm 1997 là do giá gạo trên thị trường thế giới giảm mạnh từ 285USD/tấn vào năm 1996 xuống còn 242USD/tấn. Điều này khiến cho lượng gạo xuất khẩu lớn hơn năm 1996 là 635000 tấn nhưng tỷ trọng giá trị xuất khẩu lại giảm 2,27%. Tuy nhiên tỷ trọng này chỉ giảm không đáng kể (-0,3%) so với năm 1995. Rõ ràng rằng trong mười năm gần đây việc xuất khẩu gạo chiếm một vị trí rất quan trọng trong cán cân xuất khẩu của Việt Nam. Cùng với việc tăng không ngừng về số lượng gạo xuất khẩu và giá trị xuất khẩu cũng không ngừng tăng liên tục qua các năm. Chúng ta cũng có thể thấy điều này qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1: Điều đáng ghi nhận là sự chủ động trong xuất khẩu gạo. Nổi bật là Tổng công ty lương thực miền Nam (Vinafood 2), nơi hàng năm xuất từ 75-80% trong trị giá tổng hạn ngạch của cả nước. Lúa ở tổng công ty được thu mua từ nông dân. Sau đó được xay xát và đánh bóng tại các nhà máy lớn nhỏ với tổng công suất là 920000tấn/năm. Mới đây Vinafood 2 đã xây thêm nhà máy và nâng năng lực sản xuất lên 253000 tấn/ năm. Do chủ động nên Vinafood 2 ít gặp trườnghợp sau khi ký hợp đồng giá thu mua tăng lên. Hiện tại công ty đã thu mua lúa và xay lau được 70% tổng số gạo xuất khẩu. Còn lại 30% thì mua thêm bên ngoài để đáp ứng nhu cầu đột xuất, nhất là khi có các tàu đến lấy thêm gạo. Việc chế biến và chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ngày càng đựoc nâng cao. Các yếu tố kỹ thuật của gạo như độ ẩm, độ đồng đều của hạt, độ bóng... đã được quan tâm chú ý nhiều hơn. Xuất khẩu gạo, một chặng đường đầy gian nan, vất vả nhưng cũng thật đáng tự hào. Chúng ta chủ trương lấy nông nghiệp để tạo thế và lực cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Trong đó ngành sản xuất lương thực mà đặc biệt là ngành sản xuất lúa gạo đã đi đầu. Việc tăng nhanh và đẩy mạnh xuất khẩu gạo với chất lượng ngày một nâng cao sẽ tạo thêm uy tín cuả Việt Nam, tạo thêm tiếng nói cho Việt Nam với bạn bè quốc tế. 2. Những khó khăn, vướng mắc: Cùng với những thành công rực rỡ trên, xuất khẩu gạo của Việt Nam còn gặp phải nhiều chông gai, thách thức. - Trước hết đó là phải làm sao có một cơ chế điều hành xuất khẩu gạo nhịp nhàng, hợp lý. Mà việc điều hành xuất khẩu gạo chủ yếu thông qua khâu đấu thầu hay chia hạn ngạch. Đây là vấn đề gây nhiều tranh luận. Hầu hết các địa phương là vùng lúa xuất khẩu đều cho rằng: Chính phủ nên cấp qua ta theo chỉ tiêu hàng đầu là hàng hoá dư thừa của từng tỉnh, giảm chỉ tiêu xuất khẩu gạo của các đơn vị trung gian ở trung ương. Tuy nhiên một số địa phương khác lại cho rằng nên chia hạn ngạch về thẳng các đầu mối là các doanh nghiệp lớn vì họ đều là những nơi có kinh nghiệm trong xuất khẩu. Chia nhiều đầu mối quá sẽ gây ra cạnh tranh, vì thực chất mấy năm qua khách hàng mua gạo xuất khẩu có hạn. Nếu đông người bán, người mua dễ bắt chẹt, hạ giá. Vấn đề điều hành chung lượng gạo xuất khẩu, cách tốt nhất là giao về bộ thương mại theo từng quý và kiểm soát chặt chẽ để không bị mất cân đối. - Xuất hiện tình trạng mất cân đối: điển hình là năm 1998. Tháng 1 và tháng 2 lượng gạo dao động từ 208038 tấn lên 300882 tấn. Nhưng vào tháng 3, lượng gạo xuất nhích lên 822225 tấn, tháng 4 là 779905 tấn. Tháng 5 đã giảm nhưng cũng xuất tới 370396 tấn. Tháng 6 giảm xuống chỉ còn 122843 tấn. Như vậy chỉ trong 6 tháng đầu năm lượng gạo suất lên tới 2604319 tấn. Điều này khiến cho các nhà quản lý lo lắng về dự trữ an ninh lương thực quốc gia. Biểu đồ 2: ( Thời báo kinh tế Việt nam - Số 97 - 5.12.1998 ) Trong khi xuất khẩu gạo diễn ra ồ ạt thì dân số nước ta lại liên tục tăng, đất đai nông nghiệp luôn bị thu hẹp, thiên tai tàn phá thường xuyên. Trong bối cảnh đó, vấn đề dự trữ quốc gia về thóc gạo để đảm bảo an ninh lương thực sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy để đảm bảo an ninh lương thực, Việt nam cần phải khai thác tốt những tiềm năng của nước nông nghiệp nhiệt đới, đặc biệt là sản xuất lúa gạo. - Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến yếu kém làm cho hiệu quả sản xuất thấp: Mặc dù hàng năm ta xuất khẩu một lượng lớn gạo nhưng giá trị xuất khẩu không cao. Giá gạo của Việt Nam thường thấp hơn của Thái Lan 40-50 USD/ tấn. Không phải là do giảm giá để tăng năng lực cạnh tranh mà do khâu chế biến còn yếu kếm làm cho chất lượng gạo xuất khẩu không cao: gạo bị gãy nhiều, độ bóng của gạo chưa đạt tiêu chuẩn... Về mặt này chúng ta còn thua một khoảng cách lớn với Thái Lan, đối thủ cạnh tranh số một của Việt Nam. Trên đây là một vài khó khăn và thách thức mà Việt Nam đã đang và sẽ phải đối mặt. Việt Nam đang trên đường đua vượt chướng ngại vật. Làm thế nào để vượt qua các rào cản nhanh nhất? Một trong những chìa khoá là nâng cao chất lượng của hàng hoá Việt Nam mà đặc biệt là chất lượng gạo một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Để làm được điều này đòi hỏi sự nỗ lực của các cấp, các ngành. Nhưng để có thể đưa ra các giải pháp, biện pháp góp phần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, trước hết chúng ta thử tìm hiểu xem hiện trạng chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam ra sao? II. Hiện trạng chất lượng và quản lý chất lượng gạo của Việt Nam: Như chúng ta đã biết những năm gần đây, nhờ đổi mới chính sách và áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nên nông nghiệp nước ta có những bước phát triển vượt bậc. Nông nghiệp tăng trưởng liên tục, bình quân 4-5%/ năm. Tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp chiếm khoảng 25-30% GDP, trong đó 52% là lương thực. Tổng kim ngạch xuất khẩu gạo chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 1998 kim ngạch xuất khẩu đạt 1 tỷ USD. Thực hiện phương châm sản xuất gạo hướng ra thị trường, một mặt đã quy hoạch được một số vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu với những giống lúa có chất lượng cao, mặt khác đẩy mạnh công tác bảo quản, sơ chế. Sự kết hợp hài hoà giữa các khâu trước thu hoạch và sau thu hoạch là biện pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng và mở rộng đầu ra cho mặt hàng gạo của Việt Nam. Tuy nhiên, thời gian qua một điều khiến cho các nhà kinh doanh xuất khẩu gạo phải trăn trở là chất lượng gạo không cao khiến giá gạo của Việt Nam luôn bị ép giá gây thiệt hại không nhỏ cho nhà xuất khẩu. Việc hiểu rõ thực trạng chất lượng gạo hiện nay là rất cần thiết để có hướng giải quyết cụ thể, đúng đắn. 1 Hiện trạng về chất lượng. 1.1. Hiện trạng về chất lượng giống: Như ta đã phân tích tại chương I về ảnh hưởng của giống lúa đến chất lượng gạo. Đối với gạo xuất khẩu những yêu cầu về chất lượng rất cao do đó đòi hỏi giống lúa phải có chất lượng cao. Nhân dân ta từ trước tới nay rất coi trọng yếu tố giống. Nông dân coi giống là một trong bốn vật tư quan trọng nhất của sản xuất lúa gạo. Nhận thức được điều này nên hàng năm chúng ta đã đầu tư một lượng lớn tiền và của để tạo ra các giống lúa vừa cho năng suất cao vừa có chất lượng tốt. Đến nay các trung tâm nghiên cứu giống của nước ta đã nhập nội, chọn lọc và được Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn công nhận và đưa vào sản xuất khoảng 100 giống lúa. Những giống lúa mới này đã đựoc gieo trồng trên 80-90% diện tích và góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng sản lượng lương thực hàng năm của cả nước (Theo dự thảo báo cáo: "Khoa học công nghệ phục vụ chương trình xuất khẩu nông sản - 10/1/2000 - Vụ khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn). Có thể nói hiện trạng giống của ta rất phong phú bao gồm rất nhiều loại có nhiều nguồn gốc khác nhau. Trong đó từ năm 1989 trở về trước, chủ yếu là các giống nhập nội. Từ năm 1990 trở lại đây, các giống tự lai tạo, chọn lọc chiếm chủ yếu. Những giống mới được chọn lọc cho các vùng sinh thái khác nhau: vùng thâm canh, vùng khó khăn (như các vùng hạn, úng, chua, phèn, mặn...). Một số giống lúa có chất lượng tốt đạt tiêu chuẩn xuất khẩu như: bao thai lùn, tám thơm ở miền Bắc, nàng thơm; tám hương ở các tỉnh miền Nam. Nhưng những giống lúa này lại cho năng suất không cao. Còn các giống cho năng suất cao, tính chống chịu tốt song chất lượng thì không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Bên cạnh đó, theo Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì hàng năm cả nước sử dụng hết 763000 tấn giống luá. Với một số lượng hạt giống lớn như vậy, nhưng hàng năm lượng giống do trung tâm khảo, kiểm nghiệm giống cây trồng kiểm tra được chỉ chiếm 5%-6% tức là khoảng 40000-50000 tấn. Kết quả kiểm tra được qua các năm như sau: Bảng 2: Tình hình chất lượng giống từ năm 1996 - 6/ 2000. Năm Số mẫu kiểm tra Số mẫu đạt tiêu chuẩn Tỷ lệ đạt tiêu chuẩn (%) 1996 786 656 83,5 1997 1896 1583 83,5 1998 1529 1281 83,8 1999 1427 1298 77 6 tháng 2000 755 515 71,1 (Số liệu: Báo cáo kết quả kiểm nghiệm giống - 12/9/2000 - Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng). Cũng theo trung tâm này thì số lượng các giống được kiểm tra chất lượng như sau: Bảng 3: STT Loại cây trồng Tỷ lệ kiểm tra (%) 1 Lúa lai nhập khẩu >90% 2 Lúa lai sản xuất trong nước 10% 3 Lúa thuần 5% Hiện nay công tác sản xuất giống rất phức tạp. Ở trung ương có hai công ty giống cây trồng trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trong tổng số 61 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có 55 địa phương có công ty giống hoặc trung tâm giống cây trồng. Các đơn vị này có nhiệm vụ xuất, cung ứng giống cây trồng cho sản xuất phục vụ tiêu dùng trong nước và một phần cho xuất khẩu. Nhưng trên thực tế số lượng giống do các đơn vị này cung ứng khoảng 20% tức là 152600 tấn trong tổng số giống cần sử dụng là 763000 tấn (Số liệu: Báo cáo chất lượng giống cây trồng - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn - 6/2000). Như vậy là chưa đảm bảo số lượng giống cho nhu cầu sản xuất. Số còn lại một phần nhập khẩu từ nước ngoài, một phần do các công ty nước ngoài đóng tại Việt Nam sản xuất, phần còn lại do dân tự sản xuất. Đối với giống được sản xuất tại các công ty thuộc quản lý Nhà nước, các công ty nước ngoài, và số giống nhập khẩu việc kiểm tra chất lượng được thực hiện đầy đủ tuy chất lượng còn nhiều vấn đề. Nhưng đối với lượng giống do nông dân tự sản xuất thì không thể kiểm soát được. Một số địa phương chưa có công ty hoặc trung tâm giống cây trồng là: Quảng Trị, Đà Nẵng, Bình Định, Phú Yên, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. Do những khó khăn trên nên trong thời gian qua trên sản xuất đã xảy ra một số hiện tượng giống không đảm bảo chất lượng gây thiệt hại cho sản xuất như Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Ngãi... Chính những điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến gạo Việt Nam có chất lượng không cao, không thể thoả mãn một cách tối đa yêu cầu của người tiêu dùng trong nước chứ chưa nói đến những yêu cầu khắt khe của thi trường nước nhập khẩu. 1.2 Hiện trạng về gạo xuất khẩu của Việt Nam: Từ năm 1988 trở về trước nước ta luôn trong tình trạng đói lương thực nên phải thường xuyên nhập khẩu gạo. Gạo được bán cho người dân có chất lượng cực kỳ thấp: gạo mốc, sâu mọt nhiều, gạo đen, nhiều tạp chất... Từ năm1989 chúng ta không những sản xuất đủ lương thực tiêu dùng trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Chất lượng gạo vì thế được cải thiện rất nhiều; người dân không phải ăn gạo mốc, gạo hẩm... Đặc biệt là gạo xuất khẩu đã được đầu tư khá lớn để nâng cao chất lượng tăng khả năng cạnh tranh. Những dây chuyền xay xát, những máy sấy công suất lớn, những phương tiện bảo quản hiện đại ... lần lượt được đưa vào sử dụng. Chính những đầu tư và nỗ lực này đã tạo nên những thành công vang dội cho xuất khẩu gạo, đóng góp không nhỏ vào cán cân xuất khẩu của Việt Nam. Tuy vậy chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không cao nếu như không muốn nói là thấp, nhất là khi so sánh với gạo Thái Lan. Gạo Việt Nam có độ trắng không đồng đều, lẫn thóc, nhiều tạp chất, đặc biệt là lúa hè thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng, hạt vàng, tỷ lệ tấm cao, mẫu mã bao bì đóng gói không đẹp. Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5644: 1992) tạp chất gồm: tạp chất hữu cơ, và tạp chất vô cơ. Tạp chất hữu cơ như vỏ cám, trấu, sâu, mọt... Tạp chất vô cơ như sạn. ở Việt Nam gạo lẫn 5% tạp chất có thể xuất khẩu được. Còn theo tiêu chuẩn Thái Lan gạo lẫn từ 5% tạp chất trở lên không thể xuất khẩu được. Qua đây ta có thể thấy chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam so với Thái Lan rõ ràng là kém hơn. Ta biết rằng chất lượng gạo phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố giống, kỹ thuật canh tác, công nghệ chế biến và bảo quản sau thu hoạch. Công tác giống đã được đề cập tại phần hiện trạng chất lượng giống. Trong phạm vi phần này chỉ đề cập đến khâu thu hoạch, công nghệ xay xát, làm khô và bảo quản gạo xuất khẩu - khâu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuối cùng. a. Thu hoạch. Ở Việt Nam những tổn thất trong khâu thu hoạch là rất lớn. Nguyên nhân chủ yếu là việc thu hoạch phần lớn được tiến hành theo phương pháp thủ công. Một diện tích lúa nhỏ tại đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch bằng máy gặt rải hàng. Nhưng máy này chỉ hoạt động trong vụ đông xuân tức là vào mùa khô. Việc áp dụng phương pháp thủ công khiến tỷ lệ lúa gạo tổn thất trong khâu thu hoạch ngày càng tăng. Theo kết quả điều tra của Viện công nghệ sau thu hoạch và tổng cục thống kê năm 1995 mức tổn thâts này là 1,3-1,7%. Đến nay tỷ lệ tổn thất đã lên tới 2%. Như vậy tỷ lệ tổn thất là quá lớn cần phải có giải pháp để chấm dứt tình trạng này. b. Làm khô - sấy: - Việc làm khô gạo của Việt Nam chủ yếu là phơi nắng. Do rất bị động trong phơi nên hầu hết nông sản chưa được làm khô tới độ an toàn cho bảo quản, nhất là vụ mưa như vụ hè thu ở đồng bằng sông Cửu Long. Do thiếu sân phơi, nên các vụ lúa thu hoạch vào mùa mưa không có điều kiện phơi tốt nên thóc trước khi đưa vào kho bảo quản có độ ẩm khá lớn 15-16% (Báo cáo của vụ khoa học công nghệ và chất lượng sản phẩm - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn 1/1999). Trong khi đó theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5646: 1992): "gạo thóc đưa vào bảo quản phải đạt tiêu chuẩn độ ẩm không lớn hơn 14%. Nếu độ ẩm vượt quá 14% phải xếp riêng để bảo quản tạm thời chờ xử lý hoặc tiêu thụ ngay" (tiêu chuẩn Thái Lan: độ ẩm không quá 12%). Ngoài ra còn lẫn rất nhiều tạp chất , côn trùng lưu tồn trong các dụng cụ kho tàng nên thời gian bảo quản thóc chỉ từ 3-6 tháng và tỷ lệ tổn thất cao. - Gần đây, một số địa phương, chủ yếu ở đồng bàng sông Cửu Long dùng máy sấy để làm khô lúa gạo như tại Đồng Tháp sử dụng máy Pháp, Cần Thơ, Sóc Trăng là máy Đức, Italia, thành phố Hồ Chí Minh có máy Mỹ, Minh Hải và Vĩnh Long sử dụng máy Nhật. Nhiều máy sấy sản xuất tại Việt Nam như các máy do Đại học Nông Nghiệp I Hà Nội, Đại học Cần Thơ, Đại học Nông Lâm Thủ Đức, Viện cơ diện Nông lâm sản và viện công nghệ sau thu hoạch... sản xuất và được áp dụng có hiệu quả vào sản xuất. Nhiều viện nghiên cứu, trường đại học, công ty kinh doanh và một số cơ sở cơ khí tư nhân đã thiết kế, chế tạo hàng chục thiết bị sấy khác nhau. Các máy sấy được trình diễn và cải tiến nhiều lần, đến nay nhiều loại máy sấy với công suất từ vài trăm kg/mẻ đến 40 tấn/mẻ, sử dụng nhiều loại nhiên liệu khác nhau như than, trấu, mùn cưa, dầu, khí đốt... đã bước đầu được áp dụng và đáp ứng nhu cầu sấy lúa gạo của nông dân. Các máy sấy nội địa tuy có ưu điểm là giá thành rẻ hơn máy nhập ngoại nhưng một nhược điểm là làm cho gạo bị nhiễm những mùi lạ như mùi khói than... Mà như vậy thì gạo khó có thể xuất khẩu hoặc là xuất khẩu với giá thấp. c. Xay xát: Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5645 - 1992) người ta xác định mức xát bằng cách xác định số hạt xát dối có trong mẫu gạo rồi đem so sánh với số liệu trên bảng 4 hoặc bảng 5: Bảng 4: Xác định mức xát bằng phương pháp trọng tài. Mức xát % số hạt gạo xát dối không lớn hơn Rất kỹ Kỹ Bình thường 0 15 30 Cách xác định phần trăm số hạt xát dối: Cân hai mẫu gạo mỗi mẫu 50g. Lấy mỗi mẫu 100 hạt gạo nguyên vẹn cho vào hộp petri đường kính 90mm. Đổ 15ml xanh metylen vào cho gạo ngập kín. Để ngâm trong 2 phút rồi gạn bỏ dung dịch xanh metylen thừa, sau đó cho 15ml Hcl, lắc nhẹ 3-4 lần, gạn bỏ dung dịch thừa. Rửa tiếp hai lần bằng dung dịch Hcl và hai lần tiếp theo băng nước cất, sau đó ngâm 5 phút trong 20ml nước, gạn bỏ nước ngâm. Phần mặt hạt gạo còn cám sẽ có màu xanh đậm, phần nội nhũ có màu xanh sáng. Chọn và đếm những hạt có màu xanh đậm đủ tiêu chuẩn là hạt gạo xát dối có trong mẫu phân tích. Lấy trung bình cộng số hạt gạo xát dối trong hai mẫu phân tích song song. Kết quả đó là phần trăm số hạt gạo xát dối có trong hai mẫu cần phân tích. Bảng 5: Xác định mức xát dối bằng phương pháp trực tiếp Mức xát % số hạt gạo xát dối không lớn hơn Rất kỹ Kỹ Bình thường 5 35 50 Phương pháp này cũng chuẩn bị hai mẫu như trên. Cho mẫu vào khay nhựa màu đen rồi quan sát bằng mắt thường hoặc qua kính phóng đại có thể nhận biết được và nhặt ra những hạt xát dối. Lấy trung bình cộng số hạt gạo xát dối của hai mẫu phân tích. Kết quả là phần trăm số hạt gạo xát dối có trong hai mẫu gạo. Ở Việt Nam gạo có đủ tiêu chuẩn xuất khẩu là gạo có mức xát không lớn hơn 15% theo phương pháp trọng tài hoặc không quá 35% theo phương pháp trực tiếp. Đối với Thái Lan gạo xuất khẩu có mức xát không quá 10% theo phương pháp trong tài hoặc không lớn hơn.30% theo phương pháp trực tiếp. Theo số liệu thống kê của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì hiện nay thiết bị xay xát có 626 cơ sở quốc doanh có công suất 15-200 tấn lúa/ca và hàng chục ngàn cơ sở xay xát tư nhân. Tổng năng lực xay xát khoảng 15 triệu tấn gạo/ năm, trong đó tư nhân chiếm khoảng 70%.Trừ một số máy xay xát có công nghệ hiện đại, thiết bị đồng bộ của Nhật và một số hệ máy 15-30 tấn/ ca có trang bị thêm thiết bị tách tấm, phân loại, đánh bóng phục vụ cho xuất khẩu. Còn lại thì ở đồng bằng, ven đô, ven đường giao thông khoảng 80% thóc gạo được xay xát bằng các máy xát nhỏ có công nghệ lạc hậu. Ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa thóc gạo được xay xát thủ công. Với việc xay xát như vậy thì mức xát theo TCVN 5645 - 1992 sẽ không cao, tỷ lệ phần trăm xát dối lớn. Ngoài ra việc sử dụng thiết bị xay xát với công nghệ lạc hậu sẽ làm chi phí cao mà chất lượng không cao: chất lượng gạo xay xát thấp, tỷ lệ tấm cao, độ bóng kém, chưa được thị trường ưa chuộng. Do vậy hầu hết các nhà máy này chỉ thích hợp với việc xay xát gạo phục vụ nội địa. Trên thực tế chỉ mới đáp ứng được 30-35% năng lực chế biến gạo có chất lượng xuất khẩu (Báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh 12/1999 - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn). Những năm gần đây, công nghệ và thiết bị xay xát lúa có tiến bộ nhanh. Một số công ty lương thực đã xây dựng xí nghiệp có dây chuyền chế biến từ gạo lật đến đóng gói thành bao bì thành phẩm. Các thiết bị này đều do Việt Nam chế tạo. Công nghệ chế biến gạo để xuất khẩu của ta cũng được quan tâm cải tiến vì vậy chất lượng gạo xuất khẩu tuy chưa cao nhưng cũng từng bước được nâng cao, thể hiện ở tỷ trọng gạo chất lượng cao tăng dần. Nếu như vào năm 1989 gạo 5-10% tấm chỉ chiếm 1,8% tổng số gạo xuất khẩu thì đến năm 1997 con số này là 41% và đến năm 1998 đã tăng lên 53%. Ngược lại, gạo 35% tấm trở lên đã giảm từ 88% vào năm 1989 xuống còn 36% vào năm 1998 (Dự thảo về công tác sau thu hoạch đối với gạo, ngô, lạc - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn - 1/1999). d. Bảo quản: Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5646 - 1992) thì: "Gạo bảo quản trong kho ở dạng đóng bao, không nên bảo quản ở dạng rời. Kho bảo quản phải đảm bảo các yêu cầu sau: - Không bị hắt, dột khi mưa bão. - Sàn và tường kho đảm bảo chống thấm, chống ẩm tốt. - Bảo đảm thoáng mát. - Hạn chế sự lây nhiễm, xâm nhập của sâu, mọt, nấm mốc, chuột và các côn trùng khác. - Trước khi chứa gạo, kho phải được quét dọn, làm vệ sinh sạch sẽ, tường kho, nền kho, bục kê phải đợc diệt trùng bằng các loại thuốc cho phép sử dụng trong kho lương thực và thực phẩm và phải theo đúng quy định của các cơ quan chuyên ngành. - Trước khi chất gạo vào kho, nền kho phải được kê lót bằng bục gỗ hoặc dùng trấu khô đã sát trùng để trải thành lớp dầy 0,3-0,4m sau đó trải cót hoặc bạt. Lô gạo xếp cách tường 0,5-8,8m. Khoảng cách giữa hai lô ít nhất là 1m, có thể đi lại kiểm tra, lấy mẫu, xử lý. Gạo đưa vào bảo quản phải đạt tiêu chuẩn độ ẩm không lớn hơn 14%. Nếu độ ẩm vượt quá 14% phải xếp riêng để bảo quản tạm thời chờ xử lý hoặc tiêu thụ ngay". Như vậy TCVN 5646 -1992 đã quy định khá rõ về kho ._.ạo . Điều này đã đặt ra yêu cầu với các nhà sản xuất, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo mà đặc biệt là Tổng công ty lương thực Việt nam, nơi hàng năm xuất từ 75% - 80% trong trị giá cả nước phải quan tâm nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng gạo . Mục tiêu đến năm 2000 – 2010, xuất khẩu gạo nước ta giữ mức ổn định khoảng 4 triệu tấn đạt kim ngạch 1-1,2 tỷ USD. Để đạt mục tiêu nêu trên, việc cải tiến nâng cao chất lượng gạo và vì vậy cần thiết phải đề ra mục tiêu, giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu để có thể chinh phục được các thị trường khó tính như Tây âu, Bắc mĩ, Nhật bản và nâng cao uy tín với các bạn hàng . I.Mục tiêu chất lượng đối với mặt hàng gạo xuất khẩu : 1. Mục tiêu lâu dài đối với mặt hàng gạo xuất khẩu : 1.1. Mục tiêu lâu dài về giống : Giống là một trong những vật tư quan trọng nhất của sản xuất nông nghiệp Để nâng cao chất lượng gạo trước hết phải nâng cao chất lượng giống lúa . Vì vậy phải đề ra các mục tiêu lâu dài cho công tác tuyển chọn giống . Trước hết cần phải xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng giống lúa khoảng từ 10 – 12 phòng thí nghiệm để đảm bảo kiểm soát được toàn bộ giống lúa . Đây là mục tiêu mà Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đặt ra từ những năm 1995 nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu vốn. Để xây dựng một phòng kiểm nghiệm với đầy đủ các trang thiết bị phải tốn ít nhất 10 triệu USD. Như vậy là quá lớn đối với nền nông nghiệp của một nước đang phát triển như nước ta . Vì vậy việc kêu gọi đầu tư để hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng giống lúa là giải pháp tối ưu . Cùng với việc xây dựng hệ thống kiểm tra chất lượng giống thì mục tiêu lâu dài là chúng ta phải tăng cường đào tạo cán bộ kiểm định, kiểm nghiệm cho các phòng kiểm định, kiểm nghiệm được công nhân và cho các địa phương . Việc đào tạo cán bộ kiểm định cho các phòng kiểm định đặc biệt là cho các địa phương là rất cần thiết . Vì hiện nay chúng ta có một đội ngũ quá mỏng những cán bộ kiểm định nhất là những cán bộ có tay nghề rất ít . Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi sự quan tâm không chỉ của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn mà của tất cả các ngành các cấp . 1.2. Mục tiêu lâu dài của công tác sau thu hoạch để nâng cao chất lượng gạo : Trước thực tế là chất lượng gạo bị ảnh hưởng rất lớn bởi công tác sau thu hoạch mà đặc biệt là chế biến và bảo quản thì mục tiêu lâu dài của công tác sau thu hoạch cùng với định hướng phát triển nông nghiệp của nước ta là : Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, thực hiện đầu tư chiều sâu, gắn quá trình đổi mới thiết bị chế biến với việc sắp xếp lại hệ thống cơ sở chế biến. Coi trọng đầu tư trang thiết bị công nghệ cho khâu sau thu hoạch, chế biến lúa gạo . Cụ thể là : - Đa dạng hoá các sản phẩm từ thóc, gạo phục vụ cho nội tiêu và xuất khẩu - Nâng cao giá trị mặt hàng gạo, tăng khả năng cạnh tranh của gạo Việt nam cụ thể là với Thái lan. - Giảm tổn thất sau thu hoạch cả về số lượng và chất lượng . - Góp phần bảo quản đề nâng cao chất lượng gạo . - Góp phần ổn định, phát triển sản xuất nông nghiệp, tăng thu nhập cho nông dân . 2. Mục tiêu trước mắt (đến năm 2005) đối với gạo xuất khẩu : 2.1 Mục tiêu đến 2005 về giống : Củng cố 3 phòng thử nghiệm của Trung ương đặt tại 3 miền : hiện tại chúng ta có 3 phòng thử nghiệm Trung ương nhưng cơ sở hạ tầng thấp kém không đảm bảo được tốt vai trò của một cơ quan thử nghiệm Trung ương . - Đồng thời chúng ta cũng cần công nhận thêm 2-3 phòng kiểm nghiệm cấp ngành về giống cho các địa phương có điều kiện để tạo điều kiện giống lúa mới có thể cho năng suất cao và chất lượng tốt . - Đào tạo cán bộ kiểm nghiệm cho các Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Xây dựng mạng lưới kiểm nghiệm cho các công ty giống . - Xây dựng các tiêu chuẩn ngành (TCN) cho các giống lúa mới còn thiếu . - Tăng cường hợp tác nghiên cứu giống cao sản mới với các nước bạn : Asean, Nhật bản. - Thúc đẩy xuất khẩu giống sang Lào, Campuchia..... 2.2. Mục tiêu đến năm 2005 để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu : Nghiên cứu và áp dụng công nghệ và thiết bị thích ứng với điều kiện Việt nam nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch, nâng cao giá trị gạo, đa dạng hoá các sản phẩm về gạo góp phần thúc đẩy xuất khẩu . Đào tạo, tập huấn và chuyển giao công nghệ, thiết bị cho nông dân giúp nông dân có hiểu biết và kỹ xảo để sản xuất có hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu . Mở rộng quan hệ quốc tế để tiếp thu công nghệ và thiệt bị tiên tiến . Định hướng phát triển ngành công nghệ sau thu hoạch để mặt hàng gạo Việt nam có cơ hội hoà nhập vơí thị trường khu vực và thế giới . Ứng dụng các thành tựu khoa học tiến tiến nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch cho người nông dân, giúp nông dân giữ được chất lượng gạo đảm bảo cho xuất khẩu, tránh bị ép giá . * Cụ thể là : Lúa : lúa gạo được sấy khô, xay xát, đánh bóng, phân loại tốt tăng sản lượng và giá thành xuất khẩu. Tạo được chân dự trữ chờ xuất khẩu và thuân lợi cho việc điều tiết gạo nội địa . Bảo quản : sử dụng các thiết bị tiên tiến để bảo quản gạo trong lúc chờ xuất khẩu để tránh giảm sút về chất lượng . 3. Yêu cầu của thị trường đối với xuất khẩu gạo : - Thông thường những lô hàng gạo không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu như gạo gãy nhiều, độ bóng không cao..thường được bán tiêu dùng trong nước. - Không bị mốc, mọt. - Không có các độc tố gây hại cho sức khoẻ người tiêu dùng với gạo xuất khẩu cần quan tâm các yêu cầu sau : - Mặt hàng đẹp : cỡ hạt đồng đều, trắng, bóng, ít hạt gãy. - Độ ẩm thấp dưới 14% đo theo phương pháp xác định trong tiêu chuẩn ISO 6673. - Tuyệt đối không mốc, mọt . - Không có dư lượng thuốc trừ sâu, hàm lượng kim loại nặng trên mức giới hạn cho phép . - Gạo phải có mùi thơm, không lẫn các mũi vị xấu như mũi đất . - Nhìn chung thị trường thế giới thiên về mua bán gạo hạt dài, trừ thị trường gạo của Nhật có mua bán gạo hạt tròn, nhưng số lượng không lớn và rất kém về chất lượng . Các tiêu chuẩn chính của hạt gạo xuất khẩu có giá trị cao như sau : - Chiều dài hạt gạo : ± 7mm - Chiều dài/ chiều rộng hạt gạo : ³3 Gạo trong, nấm bạc bụng : 0 - 1. Một số giải pháp nâng cao chất lượng gạo : Bên cạnh việc đề ra các mục tiêu chất lượng thì để gạo của ta có thể hoà nhập và cạnh tranh được với Thái lan thì cần phải tiến hành các giải pháp hữu hiệu. Sau đây là một số giải pháp để khắc phục . 1. Giải pháp về chính sách : 1.1.Chúng ta cần phải xây dựng đề án nâng cao chất lượng gạo trong toàn ngành trên cơ sở : Nghiên cứu nhu cầu về thị trường và thị hiếu khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm, khả năng trao đổi và tính ổn định đối với những loại gạo có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và định hướng quy hoạch sản xuất một cách đồng bộ bao gồm các yếu tố sản xuất và thị trường trong các vùng chuyên canh xuất khẩu . Thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu gạo trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, từng sản phẩm, tạo lợi thế thế cạnh tranh để nâng cao hiệu quả , góp phần tăng nhanh kinh ngạch xuất khẩu . Nghiên cứu tìm ra những giống lúa có ưu thế trong lĩng vực sản xuất và xuất khẩu, trên cơ sở vận dụng lý thuyết về lợi thế so sánh tìm ra những sản phẩm xuất khẩu có hiệu quả cao, có chi phí và giá thành thấp so với thế giới . Xây dựng hệ thống thông tin nhằm mục đích xúc tiến thương mại. Hiện nay do thiếu những thông tin cập nhật về tình hình thị trường, giá gạo mà nhiều doanh nghiệp đã để mất hàng triệu USD. Như năm 1997 các doanh nghiệp kí hợp đồng xuất ồ ạt đã phải chịu nhiều rủi ro do giá lúa từ 1700đồng/kg lên tới 2100đồng/kg và 2200đồng/kg . Trong khi giá gạo thế giới lại xuống . 1.2. Đề xuất những định hướng kế hoạch nâng cao chất lượng thóc gạo đến năm 2005 và 2010. Ban hành các tiêu chuẩn quốc gia về các sản phẩm gạo. Coi việc áp dụng tiêu chuẩn chính thức là một yêu cầu bắt buộc đối với các nhà xuất khẩu. Tiêu chuẩn ban hành phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế . Ban hành chế độ kiểm tra chất lượng từ cơ sở sản xuất đến cơ sở xuất nhập khẩu . * Định hướng đến năm 2005 : Hoàn chỉnh việc ban hành và áp dụng các tiêu chuẩn vào các cơ sở. Tăng cường công tác quản lý và áp dụng hệ thống đảm bảo tiêu chuẩn theo HACCP hoặc theo ISO 9000 tuỳ thuộc vào thực tế . Chấm dứt tình trạng sản xuất gạo không đảm bảo chất lượng . * Định hướng đến năm 2010 : Nâng cao chất lượng gạo Việt nam có ưu thế xuất khẩu giành được vị thế cao về chất lượng . 1.3. Xây dựng các chính sách về giống : Chúng ta biết rằng Nghị định 07/CP ban hành 5/2/1996 của Chính phủ về ‘ quản lý giống cây trồng “ được thực thi không hiệu quả . Vì vậy nên chăng nâng Nghị định 07/CP thành pháp lệnh quản lý giống cây trồng để nâng cao hiệu quả quản lý . Đề ra các chính sách hỗ trợ cho công tác sản xuất, kinh doanh giống như các chính sách về thuế, tạo cơ sở vật chất, đào tạo cán bộ , cấp kinh phí.... 1.4. Xây dựng các chính sách về công tác sau thu hoạch : Như chúng ta đã biết công tác sau thu hoạch có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng gạo. Do vậy việc xây dựng các chính sách để nâng cao chất lượng gạo . Do vậy việc xây dựng các chính sách để nâng cao chất lượng của công tác sau thu hoạch là vô cùng cấp bách . Hiện nay công nghệ sau thu hoạch ở nước ta ở mức thấp. Tổn thương rất lớn . Nhà nước cần ban hành các quy trình quy phạm thuộc các lính vực của công đoạn sau thu hoạch và cần có các chính sách khuyến khích các hoạt động công nghệ sau thu hoạch về lúa gạo như chính sách thuế, bù giá, khen thưởng và xử phạt nghiêm kkhắc những sai phạm trong bảo quản , chế biến và kinh doanh lương thực. Nhà nước luôn phải giữ vai trò đảm bảo an toàn, bình ổn giá và điều hoà. Đặc biệt phải chú ý đến chính sách về kiểm tra chất lượng gạo . Tập trung giải quyết việc nâng cao chất lượng, giá trị hàng hoá, giá trị dinh dưỡng của gạo phục vụ nội tiêu và xuất khẩu . Có chính sách tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đào tạo cán bộ để một mặt có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ giỏi, đủ thông tin và năng lực lựa chọn nhập kỹ thuật công nghệ tiến tiến chế biến sâu tạo ra các hàng gạo có chất lượng cao, giá thành hạ, có sức cạnh tranh . ứng dụng công nghệ bảo quản chế biến có quy mô và chi phí thích hợp cho hộ nông dân nhằm giảm tỷ lệ hao hụt, tăng phẩm chất, giá trị của nguyên và đảm bảo sức khoẻ cho người tiêu dùng. Coi trọng công tác chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và áp dụng công nghệ mới cả trước và sau thu hoạch vào sản xuất. Nhanh chóng xây dựng vùng chuyên canh sản xuất lúa gạo để tạo ra khối lượng lớn và đồng nhất về chất lượng phục vụ cho công tác xuất khẩu. 2. Giải pháp về kỹ thuật, công nghệ . Để nâng cao chất lượng gạo một trong những biện pháp quan trọng là đưa ra các giải pháp để nâng cao kỹ thuật và công nghệ. Bởi như chúng ta đã biết do có trình đọ kỹ thuật và công nghệ thấp kém đã ảnh hưởng rất lớn chất lượng gạo đặc biệt là chất lương gạo xuất khẩu. Do đó chúng ta nên: - Đầu tư vào nghiên cứu các thiết bị máy móc kỹ thuật thích ứng để làm khô lúa, nhất là làm khô lúa hè thu ở phía Nam vì nơi này thường có lũ vào dịp thu hoạch lúa hè thu. Bên cạnh việc nghiên cứu thì đối với việc nhập khẩu máy móc thiết bị cần phải tuyển chọn những maý móc thiết bị phù hợp với điều kiện Việt Nam. - Sử dụng các công nghệ thiết bị tiên tiến, thích ứng với điều kiện Việt Nam để đa dạng hoá các mặt hàng gạo phục vụ cho nhu cầu của người tiêu dùng trong nước cũng như để xuất khẩu. - Đổi mới công nghệ và thiết bị bảo quản, chế biến để một mặt nâng cao giá trị của gạo mặt khác tạo điều kiện mở rộng diện tích trồng lúa, tăng sản lượng phục vụ nhu cầu xuất khẩu. Áp dụng các biện pháp hữu hiệu ở giai đoạn trước thu hoạch như xây dựng vùng nguyên liệu tức là vùng chuyên sản xuất giống và áp dụng kỹ thuật tiên tiến để có khối lượng nguyên liệu lớn, có chất lượng cao và đồng đều, các biện pháp ở khâu sơ chế trước bảo quản để có chất lượng gạo cao, giảm đáng kể tổn thất. Kết hợp nghiên cứu trong nước và nhập công nghệ thiết bị mới hiện đai thay thế thiết bị công nghệ cũ lạc hậu, mở rộng quy mô cho các doanh nghiệp, khu công nghiệp lớn để chế biến, bảo quản nông sản nhằm phục vụ cho nhu cầu trong nước và đặc biệt là cho xuất khẩu. Cụ thể chúng ta cần đưa ra các giải pháp kỹ thuật, công nghệ cho các khâu sau để góp phần nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu: 2.1 áp dụng kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến cho khâu chọn giống: Hiện nay Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam đang lưu giữ một ngân hàng gen về lúa gồm trên 6000 mẫu giống lúa địa phương và trên 500 mẫu giống lúa nhập nội (Số liệu: Báo cáo của viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam) 12/1999 Ngoài ra các viện nghiên cứu khác về lúa cũng lưu giữ một số lớn mẫu giống. Những mẫu giống này là tư liệu quý phục vụ cho việc lai tạo, chọn lọc các giống mới, trong đó có những giống có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Muốn vậy chúng ta cần: - Nhập nội ngay các giống lúa có năng suất cao, chất lượng cao của thế giới như các giống lúa của Thái Lan, Nhật Bản, ấn Độ... để thử nghiệm và bổ sung vào nguồn gen của nước ta. Những giống thích ứng được thì cho nhân nhanh đưa vào vùng lúa xuất khẩu. - Chủ động chọ lọc giống mới từ trong nước bằng cách kết hợp chặt chẽ các phương pháp truyền thống như lai, đột biến với các công nghệ sinh học: nuôi cấy mô, nuôi cấy bao phấn, cứu phôi, dung hợp tế bào trần, chuyển gen... để tăng năng suất cho các giống cổ truyền hoặc cải thiện chất lượng giống đã có năng suất cao để đạt chất lượng xuất khẩu. - Chọn lọc, nhân thuần một số giống đặc sản truyền thống để xuất khẩu cho các thị trường có nhu cầu về gạo thơm (ấn Độ, Pakistan có Basmati, Thái Lan có Khaodakmali, Việt Nam nên nhân rộng tám thơm...). Hiện nay các tỉnh phía Nam đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu chọn các giống hạt gạo trắng, dài như tiêu chuẩn xuất khẩu. Mặt khác để đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu đã tiến hành nghiên cứu chọn lọc các giống lúa thơm nhập nội và các giống đặc sản của địa phương. Và phương pháp đang chứng tỏ hiệu quả khá rõ trên các đồng ruộng thuộc vùng lúa xuất khẩu của đồng bằng sông Cửu Long. ở các tỉnh phía Bắc thuộc đồng bằng sông Hồng cùng với việc nghiên cứu lai tạo chọn lọc các giống lúa gạo dài, cần coi trọng việc chọn lọc các giống đặc sản địa phương (gạo tám) và các giống Joponica hiện đang được thử nghiệm và rất có triển vọng. 2.2 Sử dụng máy móc kỹ thuật hiện đại cho khâu thu hoạch và sơ chế: a Thu hoạch: Tình trạng thu hoạch và gặt hái bằng phương pháp thủ công đã gây ra không ít tổn thất. Chính vì vậy cần phải thay thế phương pháp thủ công bằng các phương pháp hiện đại. - Đưa các máy móc như gặt, máy tuốt vào sử dụng. Hiện nay do giá các máy này quá cao nên nhiều hộ nông dân không đủ tiền mua. Do vậy nên chú trọng nghiên cứu chế tạo các máy gặt loại nhỏ với giá hợp lý phục vụ cho đại đa số nông dân. Mặt khác các ruộng ở Việt Nam là các ruộng nhỏ không thích hợp với các máy lớn. Thêm vào đó, một diện tích không nhỏ lúa tại đồng bằng sông Cửu Long thu hoạch bằng máy gặt chỉ hoạt động trong vụ đông xuân tức là mùa khô. Cần có máy móc thích ứng với điều kiện khí hậu và đặc điểm canh tác của Việt Nam. b. Sấy: Làm khô thóc gạo để đảm bảo độ ẩm cho phép cho gạo xuất khẩu là một khâu rất quan trọng cần phải được sự quan tâm đúng mức. Các phương pháp sấy thủ công, truyền thống không thể đáp ứng một cách tốt nhất các thông số về độ ẩm cho gạo xuất khẩu mà đôi khi lại làm cho gạo lây nhiễm một số mùi lạ khiến cho gạo xuất khẩu của ta có chất lượng không cao. Với lý do đó chúng ta cần phải tập trung ưu tiên nghiên cứu thiết kế, chế tạo và phát triển các công cụ sấy hiện đại. Trong quá trình nghiên cứu này cần chú ý hai loại máy sấy: - Loại nhỏ: phục vụ hộ gia đình và cụm gia đình. Loại máy này nên tận dụng các nhiên liệu sấy có sẵn ở địa phương như rơm rạ, trấu, than, củi... - Loại quy mô vừa và lớn: khẩn trương hoàn thiện để nhân nhanh những máy sấy thích ứng do Việt Nam chế tạo, thiết kế theo công nghệ tiên tiến. Đồng thời chú ý chọn lọc một số máy sấy lúa phù hợp với Việt Nam phục vụ cho nhu cầu sấy lúa giống và xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Xây dựng các nhà máy sấy có quy mô lớn để có điều kiện áp dụng nhanh nhất và hiệu quả nhất các công nghệ tiên tiến của thế giới. Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực ASEAN đặc biệt là Thái Lan để hỗ trợ về kỹ thuật và công nghệ trong lĩnh vực sấy, làm khô. c. Xay xát: - Để nâng cao chất lượng và chống tổn thất lúa gạo trong công đoạn xay xát thì phải nhanh chóng tập trung cải tạo, nâng cấp các nhà máy xay xát đã có ở đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Nam. Đặc biệt là các máy xay xát loại công suất 15 tấn/ ca cần bổ sung dây chuyền thiết bị tách tấm, đánh bóng ẩm, phân loại theo định lượng và phẩm cấp, phục vụ cho kinh doanh xuất khẩu gạo. - Nghiên cứu cải tiến các máy hiện có của Việt Nam sản xuất loại 400-500kg/giờ và các máy của Nhật kiểu Yanmar (có tại Quỳnh Phụ - Thái Bình) và máy NODA công suất 1 tấn/ giờ. 2.3 Đưa các công nghệ tiên tiến vào quá trình bảo quản Bảo quản tại kho là một công đoạn không thể thiếu trong khi chờ xuất khẩu. Như chúng ta đã biết nhiều khi gạo có chất lượng tốt nhưng do bảo quản không đúng cách, công nghệ, kỹ thuật sử dụng trong quá trình bảo quản lạc hậu đã dẫn tới chất lượng gạo xuất khẩu xấu đi thậm chí không thể xuất khẩu được. Do vậy muốn nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì không thể không có những biện pháp để đưa công nghệ tiên tiến vào quá trình bảo quản. - Giải pháp về kho: + Quy hoạch mạng lưới kho dự trữ quốc gia đáp ứng yêu cầu an toàn lương thựcquốc gia để tạo điều kiện tốt cho xuất khẩu. + Cải tạo, nâng cấp và trang bị thêm thiết bị cần thiết cho hệ thống kho dự trữ quốc gia và dự trữ kinh doanh xuất khẩu hiện có đáp ứng yêu cầu các công nghệ bảo quản tiên tiến. + Cần thiết kế, xây dựng kho liên hợp hiện đại, cơ giới hoá có tích lượng 10000-15000 tấn đáp ứng yêu cầu công nghệ bảo quản hiện đại. Thiết kế, chế tạo, phát triển một số mẫu kho, công cụ chứa có dung tích lượng từ 200kg đến 1000-2000kg cho khu vực nông thôn phía Bắc, từ 1000kg-10000kg cho khu vực phía Nam phục vụ việc bảo quản cất trữ của các hộ nông dân. Các chính cấp quyền phải có các biện pháp để nhanh chóng thay thế các loại cót, bồ, bao đay, bao dứa bằng các dụng cụ, phương tiện bảo quản mới để chống được các tổn thất do chuột, sâu hại, nấm mốc giúp nông dân giữ được thóc có chất lượng tốt phục vụ xuất khẩu. + Chọn lọc nhập thử nghiệm kho plastic bảo quản ngoài trời theo kiểu kho của israel. - Áp dụng công nghệ bảo quản gạo xát trắng, gạo lật trong khí CO2 hoặc khí nitơ kết hợp với bảo quản mát. - Áp dụng công nghệ bảo quản mát (ở nhiệt độ 15-16 độ C ) thóc gạo ở các kho dự trữ quốc gia hoặc kho dự trữ kinh doanh xuất khẩu. - Áp dụng chế phẩm vi sinh vật, các loại thuốc thảo mộc diệt côn trùng không gây độc cho người và gia súc, không nhiễm bẩn môi trường để bảo quản thóc, gạo ở khu vực kho dự trữ quốc gia, kho dự trữ kinh doanh xuất khẩu nhất là kho của các hộ nông dân. 3. Giải pháp đầu tư: Nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu tức là nâng cao sức cạnh tranh của mặt hàng gạo xuất khẩu Việt Nam. Trong bối cảnh hiện nay, ngoài các chính sách ưu đãi, bảo trợ của Nhà nước, cần chú trọng đến giải pháp đầu tư. Mặt khác để thực hiện tốt, có hiệu quả các giải pháp kỹ thuật, công nghệ nêu trên thì cần phải có nguồn đầu tư. Trong những năm gần đây GDP tăng trưởng bình quân khoảng 7%/năm nhờ đó từ năm1991 đã có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Mặc dù vậy vốn tích luỹ trong nước vẫn không thể đảm bảo nhu cầu đầu tư phát triển nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng vì vậy cần có vốn hỗ trợ ODA của các nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì số vốn được huy động từ những nguồn nói trên nên đầu tư vào. 3.1. Đầu tư nâng cao chất lượng giống lúa: - Đầu tư xây dựng hệ thống phòng kiểm định, kiểm nghiệm chất lượng giống lúa thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trước mắt đầu tư vào các phòng đã được công nhận phòng thử nghiệm cấp ngành từ nay đến năm 2005. Theo dự tính của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí để nâng cấp các phòng thử nghiệm cấp ngành cũng không dưới 2 tỷ đồng. - Đầu tư xây dựng hệ thống thông tin, tư liệu từ trunh ương đến địa phương theo hệ thống các phòng kiểm nghiệm từ nay đến năm 2005. Cũng theo dự kiến của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí sẽ vào khoảng 5 tỷ đồng. 3.2. Đầu tư vào công tác quản lý chất lượng thương phẩm thóc gạo: - Đầu tư đổi mới công nghệ và hệ thống quản lý chất lượng cho những cơ sở sản xuất, kinh doanh thóc gạo xuất khẩu. Nâng cấp hệ thống máy sấy gạo phục vụ cho xuất khẩu. - Ban hành các nghị định điều kiện cho các cơ quan giám định chất lượng nông sản. Xây dựng hệ thống phòng thí nghiệm kiểm định chất lượng nông sản thực phẩm được công nhận cấp quốc gia và quốc tế. - Thống nhất quản lý chỉ đạo các cơ quan giám định chất lượng nông sản. Không cho phép các nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam ký kết các hợp đồng mua bán theo tiêu chuẩn tuỳ tiện, đơn giản như lâu nay vẫn thực hiện. - Xây dựng hệ thống thông tin, tư liêu, truyền tin để đem đến cho nhà xuất khẩu Việt Nam những thông tin cập nhật nhất về thị trường gạo, thị hiếu của người tiêu dùng... phát huy vai trò của công tác xúc tiến thương mại. Thường xuyên cập nhật thông tin về chất lượng gạo từ khâu giống, vật tư nông nghiệp, chế biến sản phẩm, đến các tiến bộ khoa học công nghệ đang được áp dụng. 3.3. Đầu tư vào công tác sau thu hoạch: - Đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ tiếp thị như giao thông, kho tàng, bến bãi hiện đại, gắn sản xuất với chế biến để giảm bớt chi phí và thất thoát trong vận chuyển, đảm bảo tiến độ xuất khẩu , chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Coi trọng việc mở rộng thị trường sang các nước bạn đặc biệt là các nước trong khối ASEAN, Nhật... - Đầu tư xây dựng mới và nâng cao năng lực hệ thống kiểm tra, kiểm soát chất lượng gạo, tập trung vào các chỉ tiêu an toàn vệ sinh để thoả mãn những khách hàng khó tính như Nhật Bản. - Nhanh chóng xây dựng các phòng kiểm tra chất lượng nông sản hiện đại đủ năng lực phân tích các chỉ tiêu về thành phần dinh dưỡng, chất phụ gia, chất kích thích, độc tố, thóc gạo chuyển gen. Có như vậy trong thời gian tới sản phẩm gạo của Việt Nam mới có chất lượng và giá trị cao, có cơ hội hoà nhập vào thị trường khu vực và thế giới , nhất là mới có thể cạnh tranh được với gạo của Thái Lan. - Đầu tư nâng cấp các khâu bảo quản, chế biến, vận chuyển... - Thúc đẩy hợp tác quốc tế, sử dụng hiệu quả vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, tiến tới xây dựng và mở rộng thị phần mặt hàng gạo, một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ra thị trường nước ngoài. 3.4. Một số biện pháp đầu tư khác: - Đầu tư giống mới cho các hộ nông dân. Hướng dẫn họ các khâu các bước để cho lúa sinh trưởng tốt đem lại chất lượng cao. - Đầu tư quy hoạch những vùng chuyên trồng lúa phục vụ cho xuất khẩu. Các vùng này phải được hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và được bao tiêu sản phẩm. - Đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật nhất là các nhân viên kỹ thuật, cán bộ kiểm định, giám định chất lượng. 4. Giải pháp tổ chức và quản lý: Một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng không cao là do lơi lỏng ở khâu quản lý chất lượng, hệ thống quản lý chất lượng không đồng bộ, thiếu tính thống nhất. Chính vì vậy, để nâng cao chất lượng mặt hàng gạo, tạo lợi thế cạnh tranh cho mặt hàng xuất khẩu của mình thì một trong những biện pháp quan trong là cải thiện hệ thống quản lý chất lượng nông sản nói chung và quản lý chất lượng sản phẩm gạo. - Muốn nâng cao hiệu quả của việc tổ chức và quản lý chất lượng thì trước hết phải hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với đặc tính của mặt hàng gạo Việt Nam. - Thành lập bộ phận chuyên trách về quản lý chất lượng nông sản, chịu trách nhiệm toàn bộ về công tác quản lý chất lượng, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng hoặc xử phạt. - Thiết lập hệ thống kiểm định chất lượng nông sản có trách nhiệm kiểm định chất lượng nông sản trên phạm vi toàn quốc. - Tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra, khen thưởng, xử phạt trong việc sản xuất, lưu thông giống, sản phẩm nông sản chế biến... Thành lập hệ thống quản lý chất lượng nông nghiệp ở Trung ương trực thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, ở địa phương trực thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn. Hình thành hệ thống thanh tra, kiểm tra thống nhất nằm trong hệ thống quản lý chất lượng từ nay đến năm 2010. Theo ước tính ban đầu của phòng kế hoạch - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí dự kiến khoảng trên dưới 50 tỷ đồng, chưa kể đến các chi phí phát sinh. - Hoàn chỉnh các văn bản quản lý, xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cho giống lúa, cho gạo xuất khẩu còn thiếu để tránh tình trạng chắp vá, vay mượn tiêu chuẩn của các nước khác không phù hợp với điều kiện Việt Nam. Kinh phí để xây dựng các văn bản, tiêu chuẩn này cũng không phải là nhỏ, theo tính toán của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn thì kinh phí vào khoảng 200 triệu đồng. - Tăng cướng công tác quản lý xuất nhập khẩu giống mới phục vụ cho các vùng sản xuất lúa gạo xuất khẩu theo đúng nghị định 07/CP của Chính phủ đã ban hành ngày 5/2/1996. Phải có cơ chế, chính sách khuyến khích thích đáng đối với cá nhân hoặc tập thể tạo ra giống mới, cũng như chính sách hỗ trợ nông dân sử dụng giống mới trong vùng lúa xuất khẩu. 5. Một số giải pháp khác: Bên cạnh các giải pháp nêu trên còn một số giải pháp nữa mà chúng ta cần tham khảo để chất lượng gạo của Việt Nam ngày một nâng cao, thoả mãn nhu cầu của các thị trường nhập khẩu gạo cũng như có thể xâm nhập vào các thị trường mới. 5.1. Giải pháp về nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực: Trong tất cả các ngành sản xuất thì nhân lực là một yếu tố không thể thiếu được đặc biệt nông nghiệp là ngành thu hút 70% lao động xã hội. Như vậy nhân lực là một yếu tố quan trọng, để cải tạo và nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu thì cần có các giải pháp về nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực: - Trước hết là phải đào tạo một đội ngũ cán bộ kỹ thuật làm việc tại các phòng thí nghiệm để có thể lai tạo, chọn lọc nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt để đưa vào các vùng lúa xuất khẩu. - Nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ phòng thí nghiệm kiểm định chất lượng thóc gạo - Quy hoạch và tăng cương đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng thóc gạo. - Tổ chức việc tập huấn, chuyển giao kỹ thuật về tiêu chuẩn chất lượng gạo đến cơ sở. - Đào tạo quy hoạch đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chất lượng sản phẩm. - Tăng cường đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên ngành. Tổ chức đào tạo một đội ngũ cán bộ nắm vững tiêu chuẩn chất lượng gạo làm công tác thanh tra chuyên ngành, tiến hành thanh tra các cơ sở sản xuất, chế biến và xuất khẩu, đảm bảo gạo Việt Nam được chế biến và xuất khẩu theo đúng tiêu chuẩn Việt Nam. 5.2 Giải pháp về hợp tác quốc tế : Với chính sách đối ngoại "muốn là bạn với tất cả các nước", Việt Nam hết sức quý trọng thiện chí và sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, hoan nghênh các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài đến hợp tác đầu tư, kinh doanh chuyển giao công nghệ và chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam. Ở Việt Nam hiện nay cũng như nhiều năm nữa hợp tác quốc tế và đầu tư nước ngoài có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của nông nghiệp. Đặc biệt là sự hợp tác với các nước trong khu vực, nhờ những đặc điểm kinh tế, xã hội tương đồng, điều kiện thiên nhiên cũng như nhiều loại cây trồng rất gần gũi nhau, nên sự hợp tác có điều kiện thuận lợi. Trong lĩnh vực xuất khẩu gạo, Việt Nam và Thái Lan là hai nước xuất khẩu hàng đầu thế giới đã có hợp tác với nhau về công nghệ xay xát..., thúc đẩy việc bán hàng. Mở rộng hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, trước mắt là hợp tác với các nước trong khu vực nhằm trao đổi kinh nghiệm và học tập kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý lúa gạo. Trên đây là một số biện pháp nếu đứng ở một góc độ nào đó sẽ góp phần vào việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Hy vọng trong thời gian tới, với các biện pháp giải pháp hữu hiệu, gạo Việt Nam có thể đứng ngang hàng hoặc vượt trội Thái Lan về mặt chất lượng. KẾT LUẬN. Những đóng góp của xuất khẩu gạo trong những năm qua vào kim ngạch xuất khẩu đã khẳng định vai trò to lớn của nó vào việc cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, vào việc phát triển kinh tế đất nước. Qua đó ta có thể khẳng định với thế giới rằng Việt Nam không chỉ bất khuất trong chiến đấu chống ngoại xâm mà còn kiên cường trong công cuộc xây dựng đất nước. Để đẩy mạnh xuất khẩu thì biện pháp hữu hiệu là nâng cao chất lượng. Chính vì vậy mà Nhà nước đã đầu tư không nhỏ để nâng cao chất lượng mặt hàng gạo từ khâu giống đến khâu bảo quản. Và thực tế là chất lượng gạo xuất khẩu của ta đã được nâng cao đáng kể: gạo được xay xát, đánh bóng, sấy... Nhưng những thay đổi đó không làm cho chất lượng gạo của Việt Nam vượt trội so với Thái Lan và một số nước khác. Chất lượng gạo của ta còn kém nhiều so với các nước xuất khẩu gạo như Mĩ, Thái Lan thể hiện: gạo gãy nhiều, độ ẩm cao, độ bóng chưa đạt tiêu chuẩn... Thêm vào đó việc quản lý chất lượng lại chưa tốt, thiếu tính đồng bộ, còn nhiều kẽ hở làm cho chất lượng gạo xuất khẩu không được cải thiện nhiều. Các giải pháp đề ra muốn thực hiện thành công phải có sự kết hợp đồng bộ, chặt chẽ có hiệu quả giưã các cấp, các ngành, các cơ quan hữu quan trong việc thắt chặt quản lý, nâng cao chất lượng để thực thi tốt chiến lược kinh tế, xã hội của đất nước. Trên đây là một số ý kiến nhỏ bé về việc nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu của Việt nam. Do hiểu biết còn hạn chế, nội dung đề tài có tính bao quát và là lần đầu tiên nghiên cứu sâu chuyên ngành nên nội dung trình bày và các giải pháp kiến nghị đưa ra không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Với tinh thần cầu tiến tri thức em rất mong nhận được sự góp ý và hướng dẫn quý báu của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Quản lý chất lượng hàng hoá và dịch vụ 2. Thời báo kinh tế Việt Nam 3. Dự thảo nâng cao chất lượng hàng nông sản Việt Nam 4. Tình hình nghiên cứu giống Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0043.doc
Tài liệu liên quan