Lời cảm ơn
Để hoàn thành tốt đề tài tốt nghiệp, ngoài sự lỗ lực của bản thân, tôi còn nhận được sự quan tâm giúp đỡ quý báu của các tổ chức cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Trịnh Văn Trung cùng TS. Giang Hồng Tuyến đã giành nhiều thời gian chỉ dẫn và giúp đỡ tôi tận tình trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô trong khoa nông nghiệp của trường ĐH Dân Lập Hải Phòng đã trực tiếp giảng dạy
61 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1878 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng chăn nuôi trâu, khả năng sinh trưởng và phát triển của đàn nghé tại xã Vân Hòa, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và tạo điều kiện giúp dỡ tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của tập thể cán bộ-bộ môn nghiên cứu Trâu-Viện chăn nuôi quốc gia cùng gia đình chú Đinh Công Kiểm-xã Vân Hòa-huyên Ba Vì-TP Hà Nội đã tạo điều kiện tốt để tôi hoàn thành đề tài của mình.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới người thân và bạn bè đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Hải Phòng, ngày 8 tháng 6 năm 2009
Sinh viên
Nguyễn Đức Hải
danh mục chữ viết tắt
VCK : Vật chất khô
VCT : Vật chất tươi
SS : Sơ sinh
CV : Cao vây
CK : Chất khô
VN : Vòng ngực
DTC : Dài thân chéo
mục lục
Phần thứ 1 1
Mở đầu 1
1. Đặt vấn đề 1
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài 2
2.1. Mục đích của đề tài 2
2.2. Yêu cầu của đề tài 2
Phần thứ 2 3
Tổng quan tài liệu 3
2.1. Sơ lược về sự thuần hoá và nguồn gốc của trâu nhà 3
2.1.1. Sự thuần hoá trâu nhà 3
2.1.2. Nguồn gốc của trâu nhà 4
2.2. Các loại hình trâu 5
2.2.1 Trâu đầm lầy 5
2.2.2. Trâu sông (River Buffalo) 6
2.3. Tình hình chăn nuôI trâu 7
2.3.1. Tình hình chăn nuôi trâu trên thế giới 7
2.3.2. Tình hình chăn nuôi trâu trong nước 9
2.4. Đặc điểm sinh trưởng của trâu 11
2.4.1. Khái niệm về sự sinh trưởng 11
2.4.2. Các quy luật về sự sinh trưởng của trâu 12
Phần thứ 3 16
đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu 16
3.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghên cứu 16
3.1.1. Thời gian, địa điểm nghiên cứu 16
3.1.2. Đối tượng nghiên cứu 16
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu 16
3.2.1. Nội dung 16
3.2.2. Phương pháp 16
3.3. Phương pháp xử lý số liệu 17
Phần thứ 4 18
Kết quả và thảo luận 18
4.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 18
4.1.1.Vị trí địa lí, đặc điẻm địa hình 18
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 19
4.1.3. Khí hậu thuỷ văn 20
4.1.4. Tình hình sử dụng đất 22
4.2. Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 23
4.2.1. Tình hình sản xuất ngành trồng trọt của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 23
4.2.2. Tình hình sản xuất ngành chăn nuôI của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 25
4.3. Hiện trạng sử dụng phụ phẩm nông nghiệp cho chăn nuôI trâu tại xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 28
4.3.1. Một số loại phụ phẩm chủ yếu dùng cho chăn nuôi trâu ở xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 28
4.3.2. Tỷ lệ và những hạn chế trong việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi trâu ở xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 29
4.4. Tình hình chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 32
4.4.1. Diễn biến đàn trâu qua các năm 32
4.4.2. Quy mô chăn nuôi trâu của người dân xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 33
4.4.3. Tập quán chăn nuôi trâu của người dân xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 34
4.5. Khảo sát sự sinh trưởng đàn nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi của xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 35
4.5.1. Khối lượng nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi 35
4.5.2. Khối lượng nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi 40
4.5.3. Kích thước một số chiều đo cơ thể của đàn trâu ở xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội 44
Phần thứ 5 49
Kết luận và đề nghị 49
5.1. Kết luận 49
5.2. Đề nghị 49
Tài liệu tham khảo 51
danh mục chữ viết tắt
VCK : Vật chất khô
VCT : Vật chất tươi
SS : Sơ sinh
CV : Cao vây
CK : Chất khô
VN : Vòng ngực
DTC : Dài thân chéo
DANH MụC BảNG BIểU
Bảng 1: Kích thước của trâu trưởng thành ở Việt Nam (nghìn con) 6
Bảng 2: Sự phân bố và phát của đàn trâu trên thế giới (nghìn con) 7
Bảng 3: Sự phân bố trâu giữa các vùng ở Việt Nam (nghìn con) 9
Bảng 4: Một số chỉ tiêu khí hậu của xã Vân Hoà 21
Bảng 5: Tình hình sử dụng đất của xã Vân Hoà (2008) 22
Bảng 6: Kết quả sản xuất của một số cây trồng xã Vân Hoà (2008) 23
Bảng 7: Diễn biến của đàn gia súc, gia cầm từ năm 2003-2008 28
Bảng 8: Tỷ lệ sử dụng phụ phẩm trong chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà 30
Bang9: Biến động đàn trâu của xã Vân Hoà (con) 32
Bảng 10: Quy mô chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà 34
Bảng 11: Khối lượng nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi 36
Bảng 12: Tăng trọng của nghé qua 6 tháng tuổi 38
Bảng 13: Khối lượng của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi 40
Bảng 14: Khối lượng của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi tại (trại Ngọc Thanh) 42
Bảng 15: Tăng trọng tuyệt đối của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi 43
Bảng 16: Kích thước các chiều đo của trâu đực qua các lứa tuổi (cm) 45
Bảng 17: Kích thước các chiều đo của trâu cái qua các lứa tuổi (cm) 46
DANH MụC BIểU Đồ
Biểu đồ 1: Khối lượng tích luỹ của nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuổi 37
Biểu đồ 2: Sinh trưởng tuyệt đối của nghé từ sơ sinh đến 6 tháng tuôi 39
Biểu đồ 3: Khối lượng tích luỹ của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi 41
Biểu đò 4: Sinh trưởng tuyệt đối của nghé từ 6 đến 24 tháng tuổi 44
Phần thứ 1
Mở ĐầU
1. Đặt vấn đề
Nước ta là một nước nông nghiệp với 70% dân số làm nông nghiệp. Từ xa xưa, hình ảnh con trâu luôn gắn liền với nền nông nghiệp Việt Nam, vì thế mà ông cha có câu “ Con trâu là đầu cơ nghiêp”. Với khả năng lao tác tốt, có sức kéo trung bình là 600 - 800 N ( Nguyễn Xuân Trạch - 2002) để đáp ứng một phần lớn sức kéo trong nông nghiệp, ngoài ra con trâu còn được sử dụng để kéo xe và vận chuyển hàng hoá. Phân trâu là loại phân hữu cơ tốt, một con trâu trưởng thành trung bình một ngày thải ra từ 15 - 20kg phân, cung cấp một lượng lớn phân hữu cơ có giá trị trong trồng trọt.
Trâu là con vật dễ nuôi, có khả năng chịu kham khổ tốt, dễ thích nghi với điều kiện ngoại cảnh và chống đỡ với bệnh tật cao. Cấu tạo bộ máy tiêu hoá là hệ vi sinh vật dạ cỏ phong phú nên trâu có thể có thể sử dụng tối đa nguồn thức ăn tự nhiên và nguồn phụ phẩm nông nghiệp.
Hiện nay do quá trình cơ giới hoá nông nghiệp nên sức kéo của trâu trong nông nghiệp giảm dần nhưng nhu cầu thịt trâu của thị trường ngày càng tăng. Do đó mà giá trị trâu trên thị trường tăng. Nuôi trâu đem lại hiệu quả kinh tế cao, một con trâu nuôi từ 1 - 1,5 năm có thể bán với giá từ 4 - 5 triệu đồng, vì vậy nuôi trâu dần dần đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân. Tuy nhiên ngành chăn nuôi trâu hiện nay vân chưa được quan tâm hợp lý
Thịt trâu là loại thịt đỏ có giá trị dinh dưỡng cao, thịt trâu béo cung cấp khoảng 2558 (kcal/kg), loại thịt trung bình là 2050 (kcal/kg) ( Nguyễn Xuân Trạch-2002). ở một số nước như (Azacbayzan, Acmêni…) thịt trâu tơ được chuyên dùng bồi dưỡng cho các bệnh nhân suy dinh dưỡng, thiếu máu trong các bệnh viện
Với thịt xẻ là 48%, (Nguyễn Xuân Trạch-2002) trâu là con vật cung cấp thịt chủ yếu cho con người hiện nay và trong tưong lai, theo số liệu của cục thống kê chỉ tính riêng năm 2005 cả nước có 2922,2 nghìn con trâu sản xuất được 59,8 nghìn tấn thịt chiếm 42,1% tổng số thịt trâu bò trên thị trường cả nước.
Trong mấy năm gần đây ngành chăn nuôi trâu nước ta gặp nhiều rủi ro (dịch cúm ở gia cầm và lở mồm long móng ở loài gia súc móng gốc, đặc biệt đối với lợn). Do đó thịt trâu trên thị trường được tiêu thụ mạnh hơn. Đây chính là cơ hội cho ngành chăn nuôi trâu phát triển.
Xã Vân Hoà nằm ở phía Nam của huyện Ba Vì, trên sườn phía Đông của dãy núi Ba Vì, là một xã miền núi có địa hình và điều kiện khí hậu được đánh giá là rất thuận lợi để phát triển chăn nuôi đại gia súc đặc biệt là ngành chăn nuôi trâu. Để đánh giá tiềm năng và thực trạng ngành chăn nuôi trâu ở đây, đồng thời đưa ra những giải pháp để thúc đẩy phát triển đàn trâu trong xã chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Hiện trạng chăn nuôi trâu và khả năng sinh trưởng và phát triển của đàn nghé tại xã Vân Hoà-huyện Ba Vì-TP Hà Nội”
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
2.1. Mục đích của đề tài
Nắm được thực trạng của đàn trâu và tình hình sử dụng nguồn thức ăn thô xanh, phụ phẩm nông nghiệp tại xã Vân Hoà.
Đánh giá khả năng sinh trưởng và phát triển đàn nghé tại địa phương
2.2. Yêu cầu của đề tài
Các số liệu thu thập được phải trung thực, khách quan, có ý nghĩa thực tiễn
Phần thứ 2
TổNG QUAN TàI LIệU
2.1. Sơ lược về sự thuần hoá và nguồn gốc trâu nhà
2.1.1. Sự thuần hoá trâu nhà
Trâu là gia súc lớn nhai lại hay gia súc lớn có sừng, lớp động vật có vú (Malmalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), họ sừng rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini), loài trâu (Bubalus bubalis), giống trâu đầm lầy (Swamp buffalo).
Trâu sống hoang dã ở Pakistan, ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Bhutan, Thái Lan và Việt Nam. Con cháu của loài này cũng xuất hiện ở phía bắc Australia. Trâu hoang dã hiện nay còn rất ít, hầu hết trong số chúng đã bị lai tạp. Thậm chí người ta còn sợ rằng hiện nay không còn loài trâu hoang dã trong tự nhiên.
Không có tài liệu nào ghi chép lại chính xác sự thuần hóa của trâu bắt đầu từ khi nào, nhưng nhiều tác giả cho rằng trâu đã được thuần hóa cách đây rất lâu, khoảng 5000 - 7000 năm trước.
ở Châu á, trâu được thuần dưỡng ở vùng Sông ấn và vùng Lưỡng Hà (Irắc) từ giữa thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên (khoảng 30 thế kỷ trước Công Nguyên). Trâu nhà được nuôi ở Trung Quốc từ 2000 năm trước Công Nguyên và có lẽ được đưa từ phương Nam tới. Trâu đã có mặt ở thung lũng Jordan lần đầu tiên vào năm 723 sau Công Nguyên. Chắc chắn là chúng được người Arập đưa từ vùng Lưỡng Hà vào đây và có thể vào cả Ai Cập.
Người ta vẫn cho rằng, người Mông Cổ khi xâm lược Châu Âu đã đưa trâu vào đây. Nhưng đúng hơn có lẽ chúng đã được những người tham gia thập tự chinh đem về. Vào cuối thế kỷ 13, một số lớn trâu đã được nuôi ở khu vực sông Đanuýp và vùng đầm lầy Pontin ở Italia.
Trâu được thuần dưỡng là một vật nuôi rất quan trọng trong đời sống người dân một số vùng ở Châu á. Chúng cho sức kéo, thịt và sữa. ấn Độ là nước nuôi nhiều trâu nhất trên thế giới. ở nước này người ta sử dụng sữa của trâu thay cho sữa bò.
ở Việt Nam, những tài liệu khảo cổ đã chỉ rằng: Người Việt cổ đã sớm thuần hóa trâu, bắt đầu từ hậu thời kỳ đồ đá mới cách đây khoảng 4-4,5 ngàn năm để giúp nghề trồng lúa nước.
2.2.2. Nguồn gốc của trâu nhà
Trâu là gia súc lớn nhai lại hay gia súc lớn có sừng, lớp động vật có vú (Malmalia), bộ guốc chẵn (Artiodactyla), bộ phụ nhai lại (Ruminantia), họ sừng rỗng (Bovidae), tộc bò (Bovini), loài trâu (Bubalus bubalis), giống trâu đầm lầy (Swamp buffalo).
Trâu nhà: Có xuất xứ từ trâu rừng, được con người thuần hóa cách nay hơn 3.000 năm. Trâu nhà có tên khoa học chung là Butfalusindicus, tên tiếng Anh là Buffalo, được xếp vào loài động vật guốc chẵn, thú có móng bằng, thuộc họ nhai lại. Trâu nhà có thân dài từ 2,5-3m, chiều cao từ 1,3-1,5m, trọng lượng từ 600-800kg. Cặp sừng cong trên đầu trâu, loại sừng rỗng, được sử dụng để mở đường qua các tầng cây thấp hoặc dùng đào đất lên thành các hố bùn để tắm, dầm mình. Mỗi chiếc sừng trâu nhà dài từ 60-120cm, khoảng cách giữa hai sừng là 50-90cm. Khi được 3 tuổi, trâu nhà đẻ lứa đầu, mỗi lứa chỉ đẻ một con. Trong suốt cả một đời, trâu nhà có thể đẻ từ 5 đến 6 lứa.
2.2. Các loại hình trâu
Trâu hay còn gọi là trâu nước gồm hai loại: trâu sông (River buffalo) và trâu đầm lầy (Swamp buffalo). Chúng có chung nguồn gốc từ trâu rừng nhưng khác nhau về số lượng nhiễm sắc thể. Do quá trình chọn lọc và sử dụng mà ngoại hình và khả năng sản xuất của hai loại hình trâu có những đặc điểm khác nhau. Trâu thường có màu xám, xám tro, đen hoặc đôi khi có màu trắng, cơ thể nặng nề và tầm vóc chắc nịch, thân ngắn, bụng to và thường được miêu tả là “bụng chum”.
2.2.1. Trâu đầm lầy
Đây là loại trâu được nuôi chủ yếu ở khu vực Đông Nam á nhằm cung cấp sức kéo và phân bón cho ngành trồng trọt. Đàn trâu Việt Nam cũng được xếp vào loại hình trâu đầm lầy.
Trâu đầm lầy (Swamp buffalo) tập trung ở vùng Đông Nam á, có nhiều nhất ở Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Philipine, Trung Quốc. Trâu đầm lầy ít được chọn lọc cải tiến, gần với trâu rừng hơn: Sừng thon, cong hình bán nguyệt, trán phẳng, hẹp, mắt lồi, mắt ngắn, mồm rộng, thân ngắn, chân thấp, vai vạm vỡ, ngực rộng, bụng to, mông thấp, đuôi ngắn, móng xòe, vú bé thích hợp cho việc cày kéo. Trâu thường có màu xám đen hoặc sẫm hơn, đặc biệt chúng có 2 bợt lông màu nhạt: một ở dưới hàm, một ở dưới ngực. Trâu đầm lầy có thời gian chửa dài hơn trâu sông. Trâu được sử dụng chủ yếu để cày kéo, do ít được chọn lọc và cải tạo đến nay không phân thành nhiều giống như trâu sữa. Tuy nhiên, do trâu được nuôi ở những vùng khác nhau nên có những tên gọi địa phương khác nhau như: Trâu Ngố, trâu Gié ở Việt Nam; trâu Carabo ở Phipipin; trâu Krbau ở Malaysia…
Theo Mai Văn Sánh và Lê Viết Ly (2004) kích thước một số chiều đo của trâu đầm lầy trưởng thành ở Việt Nam như sau:
Bảng 1. Kích thước của trâu trưởng thành ở Việt Nam (nghìn con)
Chỉ tiêu đơn vị (cm)
Miền Trung
Miền Đông Nam Bộ
Miền Bắc
Đực
Cái
Đực
Cái
Đực
Cái
Cao vây
129,2
121,3
129,5
126,2
120,6
118,0
Cao khum
128,3
120,9
129,2
127,0
121,2
119,0
Vòng ngực
197,6
192,4
197,0
192,9
189,9
179,5
Dài thân chéo
135,6
128,0
135,2
132,1
133,5
127,7
Nguồn: Mai Văn Sánh và Lê Viết Ly
2.2.2. Trâu sông (River Buffalo)
Trâu sông (River buffalo Carabao) được chọn lọc cải tạo qua thời gian dài theo hướng sản xuất sữa, có mặt dài và thân dài thon hơn trâu đầm lầy, sừng ngắn, cong về phía dưới, ra sau rồi cong xoắn lên phía trên, khung xương sâu, rộng, chân cao và mập, đuôi dài, bầu vú phát triển, các núm vú to được sắp xếp cân đối thích hợp cho việc khai thác sữa. Trâu Sông có da lông đen và bóng hơn trâu đầm lầy. Trâu sông tập trung ở Tây á, sử dụng chủ yếu để khai thác sữa, do được chọn lọc và cải tạo nhiều nên hình thành nhiều giống riêng biệt với các loại hình khác nhau, nhìn chung có khả năng sản xuất thịt sữa cao. Đến nay, ở ấn Độ và Pakistan người ta ước tính có tới 18 giống trâu sông khác nhau và được xếp vào 5 nhóm giống chính là:
- Nhóm trâu Murrah: có các giống Murrah, Nili-Ravi và Kundi.
- Nhóm trâu Gujarak có các giống Surti, Mehsana và Jafarabadi.
- Nhóm trâu Uttar Pradesh có các giống Bhadawari và Tarai.
- Nhóm trâu vùng Trung ấn có các giống là Nagpuri, Pandharpuri, Manda, Jerangi, Kalahandi và Sambalpur.
- Nhóm trâu vùng Nam ấn có các giống Toda và Nam Kanara.
Trong các nhóm trâu trên thì giống trâu Murrah đã được nhập vào Việt Nam để lai tạo với giống trâu nội nhằm cải tại tầm vóc và tính năng sản xuất của đàn trâu nội.
2.3. Tình hình chăn nuôi trâu
2.3.1. Tình hình chăn nuôi trâu trên thế giới
Bảng 2: Sự phân bố và phát triển của đàn trâu trên thế giới (nghìn con)
Năm
Châu lục
2000
2001
20002
2003
Toàn thế giới
165000
166447
168861
171142
Châu Phi
3300
3329
3215
3423
Châu Mỹ
1320
1331
1350
1369
Châu á
159225
169622
162951
164153
Châu Âu
115
127
141
120
( Nguồn: theo số liệu của FAO năm 2004)
So với các loài động vật nhai lại khác, trâu phân bố chủ yếu ở Châu á, nơi có khí hậu nhiệt đới, nơi có nhiều đàm lầy, ao hồ, sông suối thích hợp với đặc điểm thải nhiệt của trâu. Theo số liệu thống kê của FAO, năm 2003, toàn thế giới có khoảng 171,142 nghìn con trâu, trong đó Châu á chiếm 95,9% tổng số đàn trâu trên thế giới.
Các nước có nhiều trâu nhất là: ấn Độ (97000 nghìn con), Pakistan (25200 nghìn con), Trung Quốc (22900 nghìn con), còn lại là Nêpan, Philippin, Indonexia, Ai Cập, Thái Lan. Việt Nam có khoảng 3 triệu con (số liệu của FAO năm 2005)
Qua số liệu của bảng 2 được trình bày ở trên, chúng tôi thấy đàn trâu trên thế giới từ năm 2000 - 2003 có mức tăng trung bình hàng năm là 1,13% (năm 2001 tăng hơn năm 2000 là 0.8%, năm 2002 so với năm 2001 là 1,4% và năm 2003 tăng so với năm 2002 là 1,3%), trong đó chủ yếu là tăng ở các nước Châu á, con ở các lục địa khác đàn trâu hầu như không tăng.
Trong những năm gần đây, sản lượng sữa trâu trên thế giới có xu hướng tăng lên hàng năm, năm 2000 sản lượng sữa đạt 51,884 nghìn tấn và năm 2003 sản lượng sữa đạt 59,656 nghìn tấn (FAO-2004). Sữa trâu chủ yếu sản xuất ở ấn Độ và Pakistan. Năm 2003, ấn Độ sản xuất được 37,120 nghìn tấn, Pakistan sản xuất được 18000 nghìn tấn, chiếm 50% tổng sản lượng sữa trâu trên toàn thế giới.
Sản lượng thịt trâu cũng có xu hướng tăng lên trong những năm gần đây. Năm 2000, toàn thế giới đã mổ hơn 2000 nghìn con trâu, thu được hơn 3 triệu tấn thịt trâu.
2.3.2. Tình hình chăn nuôi trâu trong nước
Bảng 3: Sự phân bố trâu giữa các vùng ở Việt Nam (nghìn con)
Năm
Vùng
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Đồng Bằng Sông Hồng
213,7
182,2
171,2
164,9
149,5
145,9
120,6
110,8
Đông Bắc
1251,8
1218,4
1222,3
1224,1
1213,1
1226,3
1237,8
1277,5
Tây Bắc
374,6
381,2
390,4
399,3
437,8
453
465,1
485,8
Bắc Trung Bộ
679
685,4
689,3
706,9
719,4
734,4
737,6
755,6
Duyên Hải Nam Trung Bộ
127,8
127,9
129,9
131,9
134,4
139,5
156,6
163,2
Tây Nguyên
684
61,6
62,1
65,9
68,7
71,8
79,0
84,7
Đông Nam Bộ
118,2
111
112
106
105,4
103,2
85,6
80,7
Đồng Bằng Sông Cửu Long
63,7
40,2
37,3
35,9
36,4
38,8
38,8
38,1
Toàn Quốc
2897,2
2807,9
2814,5
2834,9
2869,8
2922,1
2921,1
2996,4
(Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2006)
Trâu nước ta thuộc loại hình trâu đầm lầy, có nguồn gốc bản địa và được nuôi khắp ở các vùng trong cả nước. Nước ta được xác nhận là một trong những nước nuôi nhiều trâu (đứng hàng thứ 7 trên thế giới). Nhưng những năm qua, cùng với sự phát triển và đổi mới trong nền kinh tế của cả nước làm cho đàn trâu nước ta cũng bị ảnh hưởng rõ rệt. Theo số liệu thống kê thì trong những năm gần đây số lượng trâu trong cả nước tăng lên rất chậm. Năm 2000 là 2897,200 con, năm 2005 là 2922,100 chỉ tăng 0,86% trong vòng 5 năm.
Theo số liệu thống kê, ta thấy rằng đàn trâu nước ta phân bố không đồng đều ở các vùng sinh thái. Lãnh thổ Việt Nam được chia làm 8 vùng sinh thái là: Vùng Đồng Băng sông Hồng, Vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ, Duyên Hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long. Các vùng trên có địa hình, khí hậu, thuỷ văn, tình hình kinh tế xã hội và tập quán khác nhau nên phương thức chăn nuôi và số lượng trâu cũng có những nét riêng. Điều này được thể hiện rõ ở bảng 3
Trong tổng số 2996,4 nghìn con trâu trong toàn quốc thì vùng Đông Bắc có 1277,5 nghìn con, chiếm 42,63%, sau đó đến vùng Bắc Trung Bộ có 755,6 nghìn con, chiếm 25,21%. Như vậy số lượng trâu tập trung chủ yếu ở hai vùng này, nguyên nhân ở đây địa hình không được bằng phẳng, kinh tế còn nhiều khó khăn. Vì vậy, nuôi trâu không chỉ cung cấp sức kéo, phân bón cho trồng trọt mà nó còn là tài sản, là nguồn lợi kinh tế quan trọng của mỗi gia đình nông dân. ở các vùng đồng bằng như Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long thì số lượng trâu lại tập trung ít (chỉ chiếm 3,69% - Đồng Bằng Sông Hồng và 1,27% - Đồng Băng Sông Cửu Long). Đó là do trước kia trâu được nuôi chủ yếu là để cung cấp sức kéo và phân bón phục vụ trồng trọt, nhưng trong điều kiện hiên nay ngành nông nghiệp đang được áp dụng các phương tiện máy móc vào trong sản xuất nên vai trò của con trâu ở các vùng này trong nông nghiệp không còn được coi trọng nữa. Đây là nguyên nhân làm giảm số lượng trâu ở các khu vực này.
2.4. Đặc điểm sinh trưởng của trâu
2.4.1 Khái niệm về sự sinh trưởng
Sinh trưởng của gia súc là sự tăng kích thước của tế bào mô hay bộ phận đến một hình dáng nhất định. Đó là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ do quá trình đồng hoá và dị hoá của gia súc tạo ra.
Sự sinh trưởng được đặc trưng bởi tốc độ sinh trưởng, độ dài sinh trưởng và được phản ánh chung ở khối lượng, kích thước các chiều đo cơ thể.
Sự sinh trưởng (biến đổi về số lượng) cùng với sự phân hoá (biến đổi về chất lượng) đã tạo nên sự phát triển của cơ thể gia súc từ khi nó mới hoàn thành đến lúc chết, sự phát triển này được thể hiện như là kết quả của những mối liên hệ phức tạp giữa đặc điểm di truyền và điều kiện ngoại cảnh.
Sự phát triển của cơ thể nghé cũng như các gia súc khác đều tuân theo quy luật nhất định. Tìm hiểu quy luật này, ta có thể chủ động nuôi dưỡng nghé theo giai đoạn để có được những con trâu sau này có những phẩm chất cao và sức sản xuất tốt.
2.4.2. Các quy luật sinh trưởng của trâu
Quá trình phát triển của cơ thể từ khi còn là bào thai đến khi sinh ra, trưởng thành và già cỗi đều tuân theo quy luật tự nhiên của sinh vật.
Nhiều tác giả bỏ nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi nhằm mục đích tìm ra các quy luật để từ đó tìm ra các tác động vao từng giai đoạn phát triển của cơ thể gia súc làm cho năng suất sản phẩm vật nuôi tăng lên, phục vụ lợi ích kinh tế của người chăn nuôi, sau nhiều năm nghiên cứu người ta đã tìm ra quy luật sau:
2.4.2.1 Quy luật sinh trưởng phát triển không đều
Điểm nổi bật nhất trong sự phát triển của cơ thể gia súc là sự sinh trưởng, phát dục không đều. Đặc điểm đó thường thể hiện ở sự thay đổi rõ rệt về tốc độ sinh trưởng và cường độ tăng trọng của cơ thể tuỳ theo tuổi.
Sự phát triển không đều còn thể hiện ở thể vóc, trao đổi chất…
- Thể vóc chủ yếu do hệ cơ và hệ xương tạo nên. Trong giai đoạn bào thai mô xương có cường độ phát triển mạnh nhất, còn sau khi sơ sinh tốc độ phát triển của mô xương giảm xuống nhưng mô cơ lại tăng lên.
Ví dụ: Từ sơ sinh đến 18 tháng tuổi thể trọng bê nghé tăng 16 lần, khối lượng xương tăng 8,7 lần còn cơ tăng 18,6 lần.
- Trao đổi chất: Cơ thể non có cường độ tổng hợp protein mạnh. Tuổi càng tăng thì khả năng này càng giảm xuống cùng với sự thay đổi cơ cấu của các loại protein. ở con vật non nucleoprotein chiếm tỉ trọng lớn, khi tuổi tăng lên cơ thể tích luỹ nhiều các proteit có chức năng đặc hiệu với khả năng tự đổi mới thấp.
2.4.2.2. Sinh trưởng theo giai đoạn
Cũng như các gia súc khác, đặc điểm cơ bản sinh trưởng của trâu là quy luật phát triển không đồng đều giữa các giai đoạn và giữa các bộ phận khác nhau trong cơ thể. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy, sự phát triển diễn ra nhanh nhất ở thời kỳ mới sinh, sau đó giảm dần đến khi trưởng thành và giảm mạnh khi già. Sinh trưởng theo giai đoạn không chỉ là đặc trưng của cơ thể nói chung mà còn là của từng bộ phận, từng hệ thống cơ quan trong cơ thể.
Sinh trưởng của gia súc nhìn chung có thể chia làm hai giai đoạn chính như sau:
+ Giai đoạn bào thai (Trong cơ thể mẹ) và giai đoạn sau bào thai (ngoài cơ thể mẹ). Giai đoạn bào thai lại chia làm hai thời kỳ: Thời kỳ bú sữa và thời kỳ cai sữa. Sự tăng trưởng của giai đoạn bào thai chịu ảnh hưởng nhiều của mẹ, còn giai đoạn sau bào thai chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố di truyền và ngoại cảnh.
Sinh trưởng theo giai đoạn có mối liên hệ mật thiết với sự sinh trưởng của các bộ phận cơ thể. ở giai đoạn đầu xương phát triển sớm nhất sau đó đến thịt và mỡ, giai đoạn này xương chiếm tới 30% khối lượng thịt xẻ ở tuổi sơ sinh. Giai đoạn tiếp theo cơ thể phát triển mạnh nhất sau đó đến mỡ. ở giai đoạn sau sự tích luỹ tăng lên rõ rệt khi trâu gần đạt đến tuổi thành thục về thể vóc và tăng nhanh khi trưởng thành, giai đoạn này mỡ phát triển nhanh nhất sau đó đến thịt và xương.
Quy luật sinh trưởng theo giai đoạn và các yếu tố ảnh hưởng có một ý nghĩa quan trọng trong chăn nuôi. Để thu được năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất, người chăn nuôi cần phải hiểu được điều này để từ đó đưa ra các biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp nhất vào mỗi giai đoạn của vật nuôi.
2.4.2.3. Quy luật tính chu kỳ
Sự phát triển cơ thể của gia súc và của từng bộ phận trong cơ thể gia súc qua các thời kỳ có những đặc điểm khác nhau. Tính chất không đồng đều của nhịp độ phát triển rất phù hợp với hoạt động hưng phấn và ức chế của hệ thần kinh, với sự đồng hoá dị hoá, có thời kỳ diễn ra mạnh, co thời kỳ yếu của cơ thể, và cũng từ tính chất không đồng đều của hệ thần kinh và quá trình trao đổi chất mà sự sinh trưởng của gia súc chịu ảnh hưởng cũng đi theo nhịp độ lúc yếu lúc mạnh. Biểu hiện rõ nhất là tốc độ tăng trọng lượng của cơ thể. Có những thời kỳ đói với gia suc mức tăng trọng hàng ngày cao nhưng sau đó lại thấp. Tăng trọng nhiều hay ít chính là do sự cân bằng của quá trình oxy hoá khử trong sự trao đổi chất có đều hay không. Chu kỳ động dục của con cái cũng tuân theo tính chu kỳ sau một thời gian nhất định chu kỳ động dục lại được lặp lại.
2.4.2.4. Hiện tượng sinh trưởng bù
Hiện tượng sinh trưởng bù xảy ra ở một giai đoạn nào đó mà sự phát triển của con vật bị kìm hãm do cung cấp thức ăn hạn chế. Sau đó con vật nhận được khẩu phần dinh dưỡng tốt hơn, cường độ sinh trưởng tăng cao, cơ thể không bị ức chế và đạt khối lượng cùng lúc với những con vật cùng tuổi. Đó là hiện tượng sinh trưởng bù.
2.4.2.5. Khả năng sinh trưởng của trâu
Khả năng sinh trưởng của trâu ở các giai đoạn khác nhau là khác nhau. Trâu sinh trưởng nhanh vào vài tháng đầu sau khi được sinh ra, sau đó tốc độ tăng trưởng giảm dần. theo Nguyễn Đức Thạc nghé từ sơ sinh đến một năm tuổi trong điều kiện dựa vào sữa mẹ và chăn thả tự nhiên, bình quân đàn nghé tăng trọng 127 - 439g/ngày. Nếu bổ sung thức ăn tinh (Cám gạo, khoai sắn ), một ngày tăng trọng 500-600g/ ngày. Trong tháng tuổi thứ nhất và thứ 2 có thể tăng trọng 1000g/ngày. Theo Lê Đăng Đảnh thì trâu có tốc độ tăng trưởng khởi đầu trung bình là 650g/ngày, tăng trọng giảm dần xuống còn 300g/ ngày khi trâu được 1 năm tuổi, lúc 2 năm tuổi là 200g/ngày và giảm xuống 100g/ngày khi trâu được 3 năm tuổi.
Khả năng sinh trưởng của trâu phụ thuộc vào độ tuổi, khối lượng lúc trưởng thành của giống và cả tính biệt của chúng. Trâu Việt Nam thường đạt tầm vóc trưởng thành lúc 6 - 7 tuổi với khối lượng cơ thể trung bình là 300-400kg với trâu cái, trâu đực đạt khoảng 350 - 450. Đặc biệt có những con cái nặng trên 600 và con đực nặng trên 800kg.
Phần thứ ba
ĐốI TƯợNG, NộI DUNG Và PHƯƠNG PHáP NGHIÊN CứU
3.1. Thời gian, địa điểm và đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Thời gian, địa diểm nghiên cứu
- Địa điểm: Xã Vân Hoà-huyện Ba Vì - TP Hà Nội
- Thời gian: từ ngày 20/2/2009 đến ngày 8/6/2009
3.1.2. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng: Đàn trâu đàn trâu được nuôi tại các hộ chăn nuôi của xã Vân Hoà
3.2. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Nội dung
- Đặc điểm tự nhiên - kinh tế xã hội của xã Vân hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
- Tình hình sản xuất nông nghiệp của xã Vân Hoà -Ba Vì-TP Hà Nội.
- Tình hình chăn nuôi trâu của xã Vân Hoà -Ba Vì-TP Hà Nội.
- Hiện trạng sử dụng phụ phẩm nông nghiệp trong chăn nuôi trâu tại xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
- Khảo sát sự sinh trưởng đàn nghé từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi ỡ xã Vân Hoà-Ba Vì-TP Hà Nội.
3.2.2. Phương pháp
- Các số liệu về đặc điểm tự nhiên, xã hội của địa phương được thu thập từ các số liệu thống kê của xã và phòng nông nghiệp huyện Ba Vì.
- Căn cứ vào số liệu thống kê của xã và phòng thống kê của huyện
- Căn cứ vào số liệu thống kê hàng năm của ban thống kê xã và phòng thống kê huyện.
- Dựa vào kết quả điều tra của chúng tôi, kết quả nghiên cứu và phân tích tình hình sử dụng phụ phẩm nông nghiệp của một số tác giả.
- Điều tra qua sổ sách của các thôn trưởng và phỏng vấn trực tiếp các hộ chăn nuôi.
Để đánh giá khả năng sinh trưởng của gia súc, người ta thường dùng phương pháp cân khối lượng và đo kích thước chiều đo của cơ thể. Đối với trâu thường tiến hành cân đo ở các lứa tuổi: Sơ sinh, 3 tháng tuổi, 12, 18, 24, 36, 48, 60 và 72 tháng tuổi. khi trâu đạt 72 tháng tuổi trở lên là thời điểm đã thành thục về thể vóc.
- Xác định kích thước chiều đo: Đối với nội dung này chúng tôi tiến hành xác định kích thước 4 chiều đo (Vòng ngực, dài thân chéo, cao vây, cao khum) theo giáo trình chăn nuôi trâu bò – Trường Đại Học Nông Nghiệp I – Hà Nội 1991).
+ Vòng ngực (VN): Là chu vi của vòng ngực được đo sau xương bả vai, theo chiều thẳng đứng, đo bằng thước dây.
+ Dài thân chéo (DTC): Là khoảng cách giữa điểm trước là khớp xương bả vai và điểm cuối là u ngồi xương chậu, đo băng thước dây.
+ Cao vây (CV): Đo bằng thước gậy, đặt thước gậy vuông góc với mặt phẳng đất, khoảng cách tính từ mặt đất đến điểm cao nhất của bả vai.
+ Cao khum (CK): Đo bằng thước gậy, đặt thước gậy vuông góc với mặt đất, tính từ mặt đất đến điểm cao nhất của xương khum.
- Khối lượng trâu qua các lứa tuổi được xác định như sau:
+ Khối lượng nghé sơ sinh: Được cân trực tiếp bằng cân treo, cân ngay sau khi nghé được sinh ra.
+ Khối lượng nghé từ 3, 6,12, 24, 30, 36, 48, 60, 72tháng tuổi, được cân bằng cân điện tử Rudd Weight, cân vào buổi sáng trước khi ăn.
- Khả năng sinh trưởng của trâu sẽ được đánh giá dựa vào kết quả cân, đo và được biểu diễn bằng các đại lượng sau:
+ Sinh trưởng tích luỹ: Là sự tăng khối lượng cơ thể, kích thước các chiều đo trong một đơn vị thời gian nhất định.
+Sinh trưởng tuyệt đối : Là khối lượng và kích thước cơ thể gia súc tăng lên trong một đơn vị thời gian và được tính theo công thức sau:
(g/con/ngày)
+ Sinh trưởng tương đối : Là tỉ lệ phần trăm của khối lượng, thể tích, các chiều đó của cơ thể tăng ỏ thời kì cuối so với thời kì đầu cân đo và được tính theo công thức sau:
R = (%)
Trong đó :
A- Là sinh trưởnh tuyệt đối (g/con/ngày)
R- Là sinh trưởng tương đối (%)
V1- Là khối lượng, kích thích tương ứng với thời điểm khảo sát là T1
V2- Là khối lượng, kích thước, thể tích ứng với thời điểm khảo sát T2
T1, T2 là thời điểm khảo sát
3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý trên máy tính theo chương trình excel và chương trình Minitab 14,0 để tìm ra các tham số: n, X, SE, SD, Cv%.
Trong đó:
N : dung lượng mẫu
: giá trị trung bình
SE: sai số chuẩn của giá trị trung bình
SD: độ lệch chuẩn
Cv%: hệ số biến dị
Phần thứ 4
KếT QUả Và THảO LUậN
4.1. Đặc điểm tự nhiên - kinh tế, xã hội của xã Vân Hoà
4.1.1. Vị trí địa lý, đặc điểm địa hình
Xã Vân Hoà nằm ở phía nam của huyện Ba Vì, TP Hà Nội cách thị xã Sơn Tây khoảng 12 km, có địa giới giáp với:
Phía Bắc giáp với xã Yên Bái
Phía Đông và phía Nam giáp với xã Kim Sơn
Phía Tây giáp với xã Tản Lĩnh
Nằm trên sườn núi phía đông của dãy núi Ba Vì. Tổng diện tích tự nhiên của xã là 3289,2 ha, trong đó 75% diện tích phía Nam là đồi núi cao, có nhiều khe suối, vì vậy đất nông nghiệp chiếm một phần rất ít, nằm rải rác ở các thung lũng nhỏ, còn lại đa phần là đất lâm nghiệp. Đây chính là một lợi thế cho chăn nuôi đại gia súc nói chung và trâu nói riêng.
Còn lại 25% diện tích phía Bắc của xã có điạ hình thấp và bằng phẳng với những quả đồi thấp đan xen với những thung lũng khá rộng, thích hợp với việc trồng những loại cây lương thực và hoa màu như lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, đâu tương… Hàng năm những loại cây trồng này cho một lượng lớn phụ phẩm như: rơm, lá sắn, lá và thân cây ngô, thân lá cây lạc… Đây là nguồn thức ăn phong phú vớ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1.NguyenDucHai.doc