Hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Lời cám ơn Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có được kết quả trên, trước hết là nhờ sự giúp đỡ tận tình, chu đáo và hiệu quả của Tiến sĩ Đinh Quang Ty, thầy giáo hướng dẫn của tôi. Tôi xin được bầy tỏ lòng biết ơn chân thành đến Tiến sĩ, người đã giúp đỡ tôi trong quá trình lựa chọn đề tài, xác định hướng nghiên cứu, sửa chữa và hoàn thiện luận văn. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn châ

doc123 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1400 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hệ thống bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n thành đến các thầy cô giáo Khoa Kinh tế, Đại học quốc gia Hà nội, những người đã trực tiếp giảng dạy tôi, cung cấp cho tôi nhiều kiến thức lý luận, phương pháp luận và thực tiễn, giúp đỡ tôi trưởng thành. Những kiến thức mà các thầy cô đã cung cấp sẽ giúp ích cho tôi rất nhiều trong quá trình học tập và nghiên cứu sau này. Tôi cũng xin được bày tỏ sự biết ơn đối với các cán bộ của Khoa Kinh tế đã giúp đỡ nhiệt tình, tận tâm đối với chúng tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu tại Khoa. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong học tập và nghiên cứu, song do kiến thức, kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn, lại gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập tài liệu, luận văn này chắc không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và bạn đọc. Những ý kiến đóng góp đó chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân tôi trong quá trình nghiên cứu sau này. Xin chân thành cám ơn! Phần mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài Dù được xây dựng theo những mô hình được coi là hợp lý nhất và ngay cả khi đã đạt tới trình độ cao, kinh tế thị trường vẫn không thể tránh khỏi một số khuyết tật và bản thân các quan hệ thị trường tự chúng không đủ sức giải quyết những vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì vậy, bảo hiểm xã hội ra đời, trở thành công cụ điều tiết quan trọng và phổ biến đối với hầu hết các nước trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. ở Việt Nam, BHXH là một trong những chính sách lớn và trong tương lai sẽ trở thành một ngành quan trọng. Nó có chức năng, nhiệm vụ góp phần bảo đảm đời sống của hàng triệu người lao động khi họ gặp phải những bất trắc làm giảm nguồn thu nhập từ lao động như ốm đau, tuổi già, tai nạn lao động… Lâu nay, đặc biệt là trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến lĩnh vực này. Tuy nhiên, hệ thống BHXH hiện có của Việt Nam đang vướng phải những hạn chế và mâu thuẫn, đòi hỏi những biện pháp khắc phục thiết thực và hữu hiệu. Đổi mới hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam theo cơ chế quản lý mới là yêu cầu khách quan do chính quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế nước ta đặt ra. Đó là sự ràng buộc có tính quy luật, bởi lẽ tương ứng với mỗi loại cơ chế quản lý phải có loại hình tổ chức BHXH phù hợp, và việc đổi mới hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam cũng không thể nằm ngoài ràng buộc đó. Khi Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì chức năng nhiệm vụ của ngành BHXH ngày càng được tăng cường và mở rộng; đối tượng phục vụ của ngành BHXH phát triển; loại hình BHXH được đa dạng hoá; phạm vi hoạt động của BHXH sâu rộng hơn. Cơ chế quản lý quỹ BHXH, cơ chế tài chính của BHXH cũng phải được hoàn thiện dần theo hướng dựa trên nguyên tắc tự trang trải chi phí, Nhà nước hỗ trợ một phần trong khuôn khổ điều kiện nền kinh tế và ngân sách cho phép để bảo đảm thực hiện các chế độ chính sách BHXH. Vì mục tiêu xã hội, trong cơ chế hoạt động BHXH không thể vượt qua khả năng thực tế của ngân sách và nền kinh tế, không thể đồng nhất việc thực hiện các chính sách xã hội dựa vào ngân sách nhà nước với việc thực hiện BHXH dựa vào sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Sự kết hợp và hỗ trợ của ngân sách nhà nước trong việc thực hiện các chính sách chế độ BHXH phải phù hợp với điều kiện mới và bảo đảm tính độc lập của quỹ BHXH với ngân sách nhà nước. Chính cơ chế quản lý mới này đòi hỏi ngành BHXH Việt Nam phải đổi mới và cải cách một cách toàn diện để đáp ứng và theo kịp sự phát triển của đất nước trong tình hình mới. Như vậy, từ sự phát triển của nền kinh tế thị trường, từ đòi hỏi của cơ chế quản lý mới cũng như sự mở rộng không ngừng các đối tượng tham gia BHXH, các loại hình BHXH ngày càng đa dạng, phong phú, phức tạp. Trong khi đó hệ thống tổ chức của ngành BHXH Việt Nam được hình thành trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và do sự sát nhập giữa Bảo hiểm y tế và BHXH vừa là một yêu cầu mới, vừa hàm chứa nhiều vấn đề rất phức tạp, … Do đó, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống tổ chức BHXH ở Việt Nam là một trong những vấn đề cấp bách đang đặt ra, cần được giải quyết. Xuất phát từ những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay- Thực trạng và giải pháp " để thực hiện luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế. 2. tình hình nghiên cứu Những vấn đề cơ bản của BHXH trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam chỉ mới được quan tâm nghiên cứu trong một số năm gần đây, đặc biệt là từ năm 1995, khi ngành BHXH Việt Nam ra đời. Những công trình nghiên cứu về BHXH ở nước ta cho đến nay còn ít và mới chỉ đề cập đến một số nội dung cơ bản như "Đổi mới chính sách BHXH" (tác giả Trần Quang Hùng và TS. Mạc Văn Tiến - Viện Khoa học lao động & các vấn đề xã hội); "Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay" (PGS - TS Đỗ Minh Cương và các tác giả); và một số tài liệu hội thảo, một số bài báo đơn lẻ, đề cập đến một vài khía cạnh của BHXH... Việc nghiên cứu toàn diện và hệ thống về tổ chức BHXH Việt Nam trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải phân tích sâu về lý luận, đánh giá đúng thực trạng, phát hiện những hạn chế và nguyên nhân, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục và vận dụng kinh nghiệm của các nước phát triển và đang phát triển vào thực tiễn Việt Nam. Rõ ràng đây đang là những vấn đề cần được làm sáng tỏ. Luận văn này hy vọng sẽ có những đóng góp nhất định để đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc đó về cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam trong điều kiện đổi mới kinh tế, đánh giá các kết quả đã đạt được, những mặt hạn chế và nguyên nhân, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam trong thời gian tới. 4. đối tượng và phạm vi nghiên cứu Hệ thống hoá các nguyên lý tổ chức, đánh giá và phân tích hệ thống các văn bản pháp quy, các tài liệu, số liệu về BHXH của Việt Nam; phân tích mối quan hệ kinh tế - xã hội giữa tổ chức cung ứng BHXH và khách hàng của BHXH Việt Nam, tìm hiểu kinh nghiệm tổ chức, hoạt động BHXH của một số nước trên thế giới. Những vấn đề liên quan đến BHXH Việt Nam chủ yếu được nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 1995 trở lại đây. 5. phương pháp nghiên cứu - Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị học mác- xít phù hợp với đối tượng, mục đích nghiên cứu. - Tập hợp, xử lý và phân tích hệ thống văn bản pháp quy về BHXH có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và các bài viết của các nhà khoa học. - Đánh giá và phân tích thực trạng của hệ thống tổ chức BHXH, rút ra những kết luận có tính khoa học, bảo đảm được mục tiêu nghiên cứu của luận văn. 6. đóng góp của luận văn - Đưa ra các luận cứ khoa học góp phần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện mô hình, cơ cấu tổ chức bộ máy của BHXH Việt Nam nhằm hoạt động có hiệu lực và hiệu quả phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. - Đưa ra các khuyến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn các cơ chế, chính sách, chế độ BHXH hiện hành; nâng cao hiệu quả hoạt động thu chi BHXH; quản lý có hiệu quả quỹ BHXH, thúc đẩy việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH trong quá trình hội nhập với các nước trong khu vực và thế giới. - Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng phục vụ và bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách BHXH nói riêng; đồng thời góp phần giảm bớt những bất hợp lý của hệ thống tổ chức BHXH, làm cho hệ thống này tinh gọn hơn trên cơ sở hạ thấp mức chi phí, làm cho bộ máy đỡ tốn kém, hiệu quả hoạt động quản lý được nâng cao. - Đề xuất các biện pháp xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH. 7. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được thiết kế thành ba chương: Chương 1: Cơ sở lý thuyết và kinh nghiệm của một số nước về Bảo hiểm xã hội, Chương 2: Thực trạng của hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, Chuơng 3: Kiến nghị về định hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển hệ thống tổ chức Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới. Chương 1 Cở sở lý thuyết và thực tiễn về bảo hiểm xã hội 1. 1- Những vấn đề lý luận cơ bản về Bảo hiểm xã hội. 1. 1. 1- Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển Trong hai thập kỷ gần đây, cùng với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), BHXH đã được nhiều người biết đến bởi nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của đại bộ phận người làm công ăn lương. Mục đích của BHXH là nhằm bù đắp hoặc thay thế thu nhập cho người lao động khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động, giúp ổn định đời sống cho người lao động cũng như gia đình họ. "BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử tuất… dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật, nhằm đảm đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội" (Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập I). Đối tượng của BHXH là người lao động. Có hai hình thức BHXH là hình thức bắt buộc và hình thức tự nguyện. Hình thức bắt buộc thường được thực hiện đối với người làm công ăn lương, vì đó là những người có công việc, thu nhập và nơi làm việc tương đối ổn định. Để bảo đảm thu chi cho quỹ BHXH cần nắm chắc số lượng và tình trạng của người phải đóng BHXH, số lượng và tình trạng của người được bảo hiểm. Hơn nữa, những đối tượng này lại được người sử dụng lao động đóng thêm phí BHXH cho họ. Mức đóng góp thường quan hệ tỷ lệ thuận với tiền lương của người lao động. Mặt khác, tiền lương của những đối tượng này bao giờ cũng có mối quan hệ thuận với tăng trưởng kinh tế, do vậy tổng quỹ lương tăng thì quỹ BHXH cũng tăng theo. Hình thức tự nguyện áp dụng đối với người lao động thuộc khu vực phi thể chế hoá, người lao động độc lập, nông dân, … Những người này thường không có công việc, thu nhập và nơi làm việc ổn định, đặc biệt họ không được người sử dụng lao động (nếu có) đóng thêm phí cho mình. Do vậy, việc ấn định mức phí đóng góp đối với những đối tượng này không hề đơn giản, đòi hỏi phải có những cân nhắc và tính toán kỹ, và chính việc hình thành quỹ BHXH tự nguyện sẽ ảnh hưởng đến việc cân đối quỹ BHXH. ở nhiều nước, hình thức BHXH tự nguyện thường được áp dụng sau hình thức bắt buộc và ban đầu chỉ thực hiện một số chế độ thiết yếu đối với người lao động. Bản chất của BHXH là bảo hiểm nguồn thu nhập cho người lao động nên mức đóng và mức hưởng BHXH có liên quan chặt chẽ với tiền lương của người lao động. Mức đóng góp và mức hưởng được tính theo tỷ lệ tiền lương. 1. 1. 2- Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội Bàn về sự cần thiết khách quan của BHXH, trước hết phải khẳng định BHXH là nhu cầu của người lao động. Điều đó được giải thích bởi việc người lao động luôn bị đe doạ bởi các rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập, gây khó khăn cho cuộc sống của người lao động và gia đình họ. Những rủi ro đó có thể do: - Qui luật "sinh - bệnh - lão - tử". Theo qui luật này, trong cuộc đời người lao động sẽ gặp rủi ro làm giảm hoặc mất nguồn thu nhập từ lao động; - Lực lượng sản xuất phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, mặt khác cũng gây những hậu quả không nhỏ như: tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…; - Ô nhiễm môi trường làm cho người lao động suy giảm sức khoẻ, dễ mắc bệnh…; - Môi trường kinh tế - xã hội: kinh tế khủng hoảng hoặc kém phát triển dẫn đến tình trạng thất nghiệp, xã hội kém phát triển dẫn đến ốm đau bệnh tật, … Để khắc phục những rủi ro đó, ngay từ thời cổ đại, con người phải tự khắc phục bằng cách tự tiết kiệm, có sự cưu mang giúp đỡ của cộng đồng. Tuy nhiên, sự tương trợ này chỉ mang tính tự phát trong phạm vi hẹp. Chính vì vậy, nguồn tài chính để khắc phục rủi ro không chắc chắn. Đến giai đoạn phân công lao động được mở rộng hơn, sản xuất xã hội phát triển, quan hệ xã hội, giữa các cá nhân và cộng đồng cũng phát triển hơn, do đó đã xuất hiện các tổ chức từ thiện nhằm giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn. Từ đầu thế kỷ 16, khi các ngành công nghiệp ra đời và phát triển thì số công nhân công nghiệp tăng dần. Đây là những người làm công ăn lương, lấy tiền lương làm nguồn sống chủ yếu. Những người này chỉ khi làm việc mới có lương, nếu ốm đau, tai nạn… phải nghỉ việc không có lương và cuộc sống bị đe doạ. Để giảm thiểu nỗi lo của người làm công ăn lương, nhiều tổ chức với những hình thức trợ giúp xã hội lần lượt ra đời. Nhiều quỹ tiết kiệm được nhà nước khuyến khích thành lập, có sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, được dùng để chi trả cho người lao động khi ốm đau, tai nạn, chết, … Đây chính là tiền thân của các tổ chức BHXH. Đối với người lao động khi gặp rủi ro, thu nhập từ quỹ BHXH dưới hình thức BHXH trả thay tiền lương hoặc tiền công, được coi là nguồn thu nhập quan trọng (có khi là chủ yếu) để sống, để khắc phục khó khăn. Ngày nay, BHXH được pháp luật của nhiều nước ghi nhận, đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận trong Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH. Quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và tự do phát triển của con người". Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chính phủ ta cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH như: Sắc lệnh 54/SL qui định điều kiện nghỉ hưu đối với công chức, Sắc lệnh 29/SL qui định chế độ thai sản - ốm đau… Ngày 27/12/1961, Điều lệ tạm thời về BHXH ra đời kèm theo Nghị định 218/CP và Nghị định 161/CP qui định 6 chế độ BHXH đối với công nhân viên chức và người làm việc thuộc lực lượng vũ trang. Do đặc điểm quản lý kinh tế của thời kỳ này, chỉ có công nhân viên chức nhà nước mới được tham gia đóng BHXH, nguồn chi trả chủ yếu lấy từ ngân sách nhà nước. Khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, hệ thống BHXH cũng phải chuyển đổi cho phù hợp với xu hướng chung, đối tượng tham gia được mở rộng đến người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, người lao động phải tham gia đóng BHXH, quỹ BHXH tách ra hoạt động độc lập, tự cân đối thu chi. Những dẫn chứng mang tính lịch sử nêu trên đã chứng tỏ rẳng BHXH thực sự là nhu cầu thiết yếu của người lao động, đòi hỏi xã hội phải đáp ứng. Mức độ và hình thức đáp ứng của xã hội về BHXH cho người lao động trong các thời kỳ khác nhau dĩ nhiên là không giống nhau, do phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế - xã hội và cơ chế vận hành của nền kinh tế trong từng thời kỳ. Sự cần thiết khách quan của BHXH còn được thể hiện từ góc độ BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội. Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế hoá bằng pháp luật của nhà nước dưới dạng hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến công bằng xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển đất nước, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Chính sách BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản, liên quan đến quyền và lợi ích của người lao động, có vai trò to lớn trong việc ổn định đời sống cho đại bộ phận dân cư, từ đó góp phần ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhà nước phải có sự can thiệp và điều tiết nhất định, bảo đảm việc thực hiện những quyền xã hội của người lao động. Bước vào công cuộc đổi mới, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã khẳng định: "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hoá, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc…Coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng CNXH". Như vậy, chính sách xã hội đã được Đảng ta nhận thức sâu sắc về vị trí và tầm quan trọng của nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc quy định người lao động phải đóng BHXH có tác dụng quan trọng trong việc phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia. Có thể là phân phối lại thu nhập theo chiều ngang được thực hiện giữa những người lao động trẻ, khoẻ với những người lao động già, ốm yếu; giữa những người đang làm việc và những người đã về hưu…. Có thể là phân phối thu nhập theo chiều dọc được thực hiện giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp…. Sự phân phối lại thu nhập thông qua BHXH có tác dụng góp phần thực hiện công bằng, ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH xuất hiện và dần dần trở thành một lĩnh vực kinh tế quan trọng, có quan hệ chặt chẽ với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông qua việc đóng BHXH, nền kinh tế huy động được một lượng tiền đáng kể để đầu tư cho phát triển. Nguồn thu BHXH là một nguồn tiết kiệm nội bộ quan trọng vì các khoản chi trợ cấp, nhất là trợ cấp tuổi già, tử tuất chưa thực hiện ngay. Nguồn thu từ các khoản nhàn rỗi được tích tụ thành quỹ có quy mô ngày càng lớn, quỹ này được đầu tư để sinh lời. Do phải bảo đảm an toàn, chi trả kịp thời, có ích với xã hội nên các khoản mục đầu tư thường do nhà nước xét duyệt. Nhà nước thường khuyến khích đầu tư vào phát triển hạ tầng, y tế, giáo dục, … Như vậy, chính sách BHXH đã góp phần vào thực hiện các chính sách xã hội khác, thúc đẩy xã hội tiến bộ. Có thể nói, chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội. BHXH giúp người lao động tự bảo đảm cuộc sống cho chính bản thân và gia đình mình, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, góp phần thực hiện có hiệu quả các mục tiêu mà chính sách xã hội đặt ra. Để phân tích tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội, cần đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau. Trước hết, hoàn toàn có cơ sở khẳng định rằng BHXH có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. BHXH góp phần ổn định đời sống cho người tham gia bảo hiểm. Khi rơi vào những trường hợp rủi ro (như đã đề cập ở trên), thu nhập của người lao động bị giảm sút, họ và gia đình sẽ lâm vào cảnh khó khăn và khi đó, khoản tiền BHXH sẽ là thu nhập chính. Ngoài việc giải quyết các rủi ro xảy ra đối với người lao động, BHXH còn giúp họ nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, yên tâm làm việc, nâng cao năng suất lao động, còn góp phần thúc đẩy đầu tư vào nền sản xuất xã hội thông qua việc sử dụng nguồn quỹ đã tích luỹ, góp phần tạo ra mức độ tăng trưởng cao của nền kinh tế. BHXH còn có vai trò quan trọng trong việc ổn định đời sống xã hội. Chính sách BHXH được thực hiện cho phần lớn người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, do vậy, có vai trò góp phần thực hiện công bằng xã hội giữa "làm" và "hưởng", giữa người lao động trong các thành phần kinh tế, làm lành mạnh hoá thị trường lao động, tạo điều kiện cho người lao động tự do di chuyển, củng cố lòng tin của nguời dân vào chế độ, tạo nền tảng vững chắc cho một thể chế chính trị xã hội . Mặt khác, gia đình là tế bào của xã hội, gia đình ổn định và phát triển góp phần làm cho xã hội ổn định và phát triển. 1. 1. 3- Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội a) Bộ máy Bảo hiểm xã hội Bộ máy BHXH là cơ quan đề ra cơ chế chính sách về BHXH và tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách BHXH. Hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy phụ thuộc vào mô hình tổ chức, cách thức giao chức năng nhiệm vụ, nguyên tắc vận hành của hệ thống tổ chức và khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống BHXH. Để bộ máy hoạt động có hiệu quả, trong tổ chức bộ máy người ta thành lập một hệ thống bộ máy có sự "phân tách quyền" cho các bên nhằm tạo ra một cơ chế có thể kiểm tra kiểm soát hoạt động của bộ phận nắm quyền thu chi BHXH, thông qua đó, bảo đảm sự nghiêm túc trong hoạt động thu chi BHXH. Có thể thể hiện điều đó trong sơ đồ 1 (xem trang 14). Theo sơ đồ này, nghị viện (quốc hội) sẽ là cơ quan ban hành các văn bản luật về BHXH trên cơ sở dự thảo luật do cơ quan quản lý nhà nước về BHXH đệ trình thông qua chính phủ. Sau khi luật được nghị viện (quốc hội) thông qua và có hiệu lực thi hành, chính phủ sẽ ban hành các văn bản (nghị định, quyết định, chỉ thị …) về việc thi hành một số điều của luật. Cơ quan quản lý nhà nước về BHXH sẽ ra các văn bản (thông tư, công văn, quyết định v. v…) hướng dẫn thi hành văn bản của chính phủ và tổ chức thực hiện thanh, kiểm tra việc thực hiện hệ thống văn bản này của cơ quan hoạt động BHXH. Trên cơ sở hệ thống các văn bản luật, dưới luật, cơ quan tổ chức thực hiện các hoạt động BHXH sẽ tổ chức thực hiện các hoạt động thu chi BHXH. Hoạt động thu chi này được đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước về BHXH. Nghị viện (Quốc hội) - cơ quan ban hành khung pháp lý về BHXH Cơ quan quản lý nhà nước về BHXH Cơ quan hoạt động BHXH Chính phủ (cơ quan triển khai các luật) Sơ đồ 1: Mô hình tổ chức quản lý và hoạt động BHXH Mặt khác, để bảo đảm tính nghiêm minh trong tổ chức hoạt động của bộ máy BHXH, có thể bổ sung thêm thiết chế cho hoạt động của nó. Một trong những cách bổ sung này là việc thiết lập một cơ chế hoạt động của bộ máy tư pháp giám sát các hoạt động BHXH, trong đó những vi phạm pháp luật về BHXH có thể được đưa ra xét xử nghiêm minh theo phân cấp ở từng thời kỳ. Riêng đối với cơ quan hoạt động BHXH, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, điều quan trọng là phải tổ chức được bộ máy đủ năng lực hoạt động và hoạt động có hiệu quả. Có hai hình thức tổ chức quản lý chủ yếu: - Hình thức thứ nhất: Tổ chức bộ máy theo mô hình trực tuyến chức năng, thực hiện quản lý trực tuyến từ trung ương đến địa phương. Kiểu tổ chức quản lý này có thể được thể hiện qua sơ đồ sau: Văn phòng BHXH cấp trung ương Văn phòng BHXH thứ nhất ở cấp địa phương Văn phòng BHXH thứ n ở cấp địa phương Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức cơ quan BHXH theo kiểu trực tuyến …… Trong mô hình này, hệ thống BHXH là thống nhất. Cấp trung ương trực tiếp quản lý các văn phòng BHXH ở địa phương. Văn phòng BHXH địa phương có thể được chia nhỏ ra thành: - Văn phòng BHXH cấp vùng. - Văn phòng BHXH cấp tỉnh. - Văn phòng BHXH cấp huyện. Chính quyền địa phương không có quyền can thiệp vào hệ thống BHXH, song có thể tham gia giám sát hoạt động BHXH. Cách tổ chức này chú trọng quyền lực của trung ương, thu BHXH về một đầu mối quản lý, nâng cao tính trách nhiệm và tính chuyên môn hoá trong việc thực hiện các hoạt động BHXH, song ít tranh thủ được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương. - Hình thức thứ hai: Tổ chức bộ máy theo kiểu kết hợp quản lý giữa trung ương và địa phương. Tổ chức này có thể được thực hiện qua sơ đồ 3 (xem trang 16). Mô hình quản lý này đòi hỏi sự tham gia quản lý của chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương chi phối hoạt động của hệ thống BHXH cả về tài chính, nhân sự, tổ chức hoạt động. BHXH cấp trung ương chỉ thực hiện quản lý về chuyên môn. Kiểu tổ chức này có lợi thế là tranh thủ được sự ủng hộ và hỗ trợ của chính quyền địa phương, song vai trò của cấp trung ương quá thấp, tính chuyên môn hoá của đội ngũ cán bộ có thể bị giảm. Nếu việc tổ chức quản lý của địa phương không nghiêm có thể để xảy ra tham nhũng. Văn phòng BHXH cấp trung ương Văn phòng BHXH cấp địa phương Văn phòng BHXH cấp địa phương Chính quyền địa phương Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức cơ quan BHXH theo kiểu kết hợp quản lý giữa trung ương và địa phương Ghi chú: - - - - - - - - - - - : Chỉ sự quản lý về chuyên môn. _____________: Chỉ sự quản lý trực tiếp, toàn diện. Trong cả hai hình thức trên, cần lưu ý là tổ chức bộ máy của một văn phòng BHXH đều nên theo một mô hình chung là mô hình trực tuyến chức năng, trong đó những bộ phận chức năng không thể thiếu là: - Thu BHXH, - Chi BHXH, - Quản lý nhân sự, - Thanh tra, - Kế toán tài vụ. Ngoài ra, tuỳ từng trường hợp cụ thể và quan điểm quản lý của từng quốc gia, có thể hình thành những phòng chức năng khác. Về công tác cán bộ, điều quan trọng là phải phân định rõ các chức danh chuyên môn - nghiệp vụ trong bộ máy và thiết lập tiêu chuẩn của từng chức danh. Khi bố trí công việc, tổ chức đào tạo cho nhân viên bộ máy, cần dựa trên hệ thống tiêu chuẩn các chức danh. Có như vậy hệ thống BHXH mới hoạt động hiệu quả. b) Giao chức năng, nhiệm vụ Nguyên tắc chung của việc giao chức năng, nhiệm vụ trong cơ cấu tổ chức bộ máy nói chung và của BHXH nói riêng là: - Tập hợp các chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy phải bảo đảm bao quát hết các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy. - Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận của bộ máy phải rõ ràng, không có sự chồng chéo. - Tạo lập được cơ chế phối kết hợp trong tổ chức hoạt động của bộ máy. - Phân rõ trách nhiệm, quyền hạn cho từng bộ phận của bộ máy. Đối với việc giao chức năng, nhiệm vụ cho nhân viên của bộ máy, nguyên tắc chung là: + Giao nhiệm vụ phải đúng với khả năng, sở trường của người lao động. + Nhiệm vụ giao cho bất kỳ nhóm nào đều phải có người chịu trách nhiệm chính. + Nhiệm vụ không được chồng chéo, có quy định rõ tiến độ thực hiện. c) Nguyên tắc vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội Hệ thống BHXH nói chung được vận hành theo 9 nguyên tắc sau: - Nguyên tắc 1: Mọi người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền được hưởng BHXH. Quyền được BHXH của người lao động là một trong những biểu hiện cụ thể của quyền con người. Nhưng BHXH không phải là cái có sẵn nên trước hết phải tìm cách tạo ra nó. ở mỗi nước khi muốn xây dựng hệ thống BHXH, nhà nước phải tạo điều kiện và môi trường kinh tế - xã hội, về chính sách và luật pháp, về tổ chức và cơ chế quản lý cần thiết. Đồng thời, những người sử dụng lao động và người lao động phải thực hiện trách nhiệm đóng góp tài chính của mình để bảo đảm hoạt động của hệ thống này. Đây cũng là điều kiện cơ bản để người lao động được hưởng quyền BHXH. Biểu hiện cụ thể quyền được hưởng BHXH của người lao động là việc họ được hưởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định gắn với trường hợp họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, dẫn đến giảm hoặc mất nguồn sinh sống. Trong nền kinh tế thị trường, những trường hợp đó rất nhiều và có thể xẩy ra ngẫu nhiên. Về nguyên lý, trong những trường hợp như vậy, người lao động được BHXH. Song, giữa nguyên lý và thực tiễn bao giờ cũng có khoảng cách. Khoảng cách đó do các điều kiện kinh tế - xã hội quy định. Do vậy, cần căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn phát triển để tổ chức và hoàn thiện dần việc BHXH đối với các trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động. - Nguyên tắc 2: Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH đối với người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình. Nguyên tắc này đề cập đến quan hệ ba bên: nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động trong hoạt động BHXH. Trong đó, nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô thông qua các công cụ chính sách của mình và dành một phần ngân sách cho BHXH để giải quyết những trường hợp được quy định cụ thể trong từng thời kỳ. Việc làm đó của nhà nước sẽ giúp người lao động yên tâm sản xuất - công tác, góp phần tăng năng suất lao động xã hội, đồng thời bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội. Người sử dụng lao động, để tạo động lực và ổn định tâm lý cho người lao động, cũng cần bảo hiểm cho người lao động trong các trường hợp rủi ro do lao động như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp v. v…Đối với người lao động, dù gặp bất cứ rủi ro nào thì trước hết, đó cũng là rủi ro của chính bản thân họ, do vậy, họ cần phải tự BHXH cho chính mình. - Nguyên tắc 3: BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH độc lập và tập trung. Nhờ sự đóng góp của các bên tham gia (nhà nước, người sử dụng lao động,và bản thân người lao động) mà phương thức riêng có của BHXH là dàn trải rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện để phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, tạo mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ giữa trách nhiệm và quyền lợi, góp phần phòng chống những hiện tượng nhiễu trong hệ thống, mang lại nhiều lợi ích cho những người có liên quan. Song, những đóng góp đó cần được thu về một mối - tức là cho cơ quan BHXH chuyên nghiệp và được tích tụ dần thành một quỹ tài chính độc lập và tập trung do một cơ quan chuyên nghiệp về BHXH chịu trách nhiệm quản lý, điều hành. - Nguyên tắc 4: BHXH phải lấy số đông bù số ít. Trong số đông người tham gia đóng góp BHXH, chỉ có những người lao động mới là đối tượng hưởng trợ cấp. Trong số những người lao động lại chỉ có những người bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hay tuổi già, đủ những điều kiện cần thiết mới thực sự được hưởng trợ cấp. Trong số đó có những người tham gia đóng góp từ lâu, nhưng cũng có những người mới tham gia đóng góp, … Điều đó lý giải tại sao BHXH lại phải lấy số đông bù số ít. - Nguyên tắc 5: Phải kết hợp hài hoà các dạng lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu BHXH. Trong BHXH các bên tham gia đều nhận được lợi ích, song các lợi ích không phải luôn như nhau, vẫn có lúc các lợi ích này mâu thuẫn nhau. Ví dụ, nếu tăng mức trợ cấp sẽ có lợi cho người lao động nhưng lại không có lợi cho người sử dụng lao động. Nếu giảm bất lợi cho người sử dụng lao động thì nhà nước lại phải gánh chịu. Đối với người lao động, muốn hưởng BHXH cao thì mức đóng góp BHXH phải cao. Song nếu đóng BHXH cao thì phần thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình sẽ giảm. Do vậy, khi nghiên cứu xây dựng thiết chế BHXH, cần xác định tỷ lệ đóng góp hợp lý để vừa bảo đảm lợi ích trước mắt (chi tiêu hằng ngày), vừa bảo đảm lợi ích lâu dài (mức hưởng bảo hiểm) của người lao động. Muốn phát triển quỹ BHXH, cần tăng nguồn thu BHXH, song trong việc thu BHXH (từ người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước), có những giới._. hạn không được phép vượt. Do vậy, cần tìm các nguồn thu khác để bổ sung cho quỹ. Những cách làm có thể là: - Đầu tư phần vốn nhàn rỗi tương đối của quỹ để sinh lợi. - Hợp tác quốc tế về BHXH để có thêm phần chênh lệch do tái bảo hiểm sinh ra. - Tìm tòi, áp dụng nhiều phương thức BHXH khác (ví dụ cho phép các doanh nghiệp có thể BHXH thêm ngoài phần quy định cứng của nhà nước). - Nguyên tắc 6: Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương đang đi làm, nhưng không được thấp hơn mức sống tối thiểu. Nguyên tắc này đề cập đến các loại trợ cấp thay thế cho tiền lương như trợ cấp ốm đau, thai sản, hưu trí tuổi già. Mức trợ cấp phải thấp hơn tiền lương khi người lao động đang đi làm để người lao động cố gắng không gặp các rủi ro dẫn đến việc nhận trợ cấp, cố gắng làm việc. Hơn nữa, cách lập quỹ theo phương thức dàn trải rủi ro không cho phép trả mức phụ cấp cao hơn mức lương, vì nếu như vậy, gánh nặng mà những người đang đi làm phải gánh cho những người được bảo hiểm sẽ quá cao. Mặt khác, do tuổi thọ của người dân ngày càng được nâng cao, thời gian hưởng bảo hiểm tuổi già (hưu trí) ngày càng dài, tổng thời gian chi cho bảo hiểm tuổi già ngày càng lớn cũng không cho phép đặt ra mức trợ cấp quá cao dành cho những người lao động gặp rủi ro. Tuy nhiên, khi trả trợ cấp BHXH, để ít nhất là bảo đảm tái sản xuất giản đơn sức lao động cho người lao động, cần trả mức trợ cấp không thấp hơn mức sống tối thiểu. - Nguyên tắc 7: Có sự kết hợp giữa BHXH bắt buộc và tự nguyện. Nhu cầu BHXH, đặc biệt là bảo hiểm tuổi già, có ở nhiều người lao động. Đối với người lao động làm việc ở khu vực kinh tế chính thức, việc tham gia BHXH là bắt buộc. Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động cùng tham gia đóng góp BHXH nên mức đóng của người lao động không cao, người lao động được bảo đảm về quyền lợi. Đối với người lao động ở khu vực kinh tế phi chính quy, cần có loại hình BHXH tự nguyện để những người có nhu cầu được BHXH tham gia đóng góp. - Nguyên tắc 8: Phải bảo đảm tính thống nhất của BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phải phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành. Hệ thống BHXH của một nước gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong đó bộ phận lớn nhất do nhà nước tổ chức và bảo hộ đặc biệt bao trùm toàn bộ những người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước và những người lao động thuộc các khu vực nhà nước. Các bộ phận nhỏ hơn do các đơn vị kinh tế và tư nhân tổ chức ra để bảo hiểm cho một số đối tượng được quy định bởi luật pháp. Trong bộ phận do nhà nước tổ chức, còn có thể có một số bộ phận bảo hiểm chuyên ngành như BHXH đối với công chức, BHXH đối với quân nhân hưởng lương và một số bộ phận BHXH theo những ngành kinh tế đặc thù (đường sắt, khai thác mỏ v.v…). Cách thức tổ chức, phạm vi và đối tượng được áp dụng do nhà nước quy định cụ thể. Để BHXH hoạt động có hiệu quả, cần bảo đảm tính thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ tiện, cục bộ hoặc những mâu thuẫn nảy sinh, đồng thời phải có cơ chế để mỗi bộ phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động của chúng để chúng có thể bù đắp, bổ sung cho nhau, phối hợp với nhau trong quá trình hoạt động. - Nguyên tắc 9: BHXH phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. BHXH của một nước gắn rất chặt với trạng thái kinh tế, điều kiện kinh tế - xã hội, cơ chế và trình độ quản lý, đặc biệt là sự đồng bộ, hoàn chỉnh của luật pháp. Việc xây dựng và phát triển BHXH phải bảo đảm chắc chắn, tính toán thận trọng từng bước đi cho phù hợp. Sự phát triển của BHXH biểu hiện trên nhiều mặt: cơ cấu các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức trợ cấp, thời hạn nghỉ việc để hưởng trợ cấp, mức đóng phí, … Nếu không lựa chọn bước đi hợp lý và cân nhắc, tính toán thận trọng, có thể phát sinh trục trặc không thể kiểm soát được. d) Khung pháp lý cho hoạt động của hệ thống BHXH BHXH là hoạt động tài chính được hình thành bởi hoạt động thu và chi BHXH, một hoạt động mang tính nhạy cảm cao. Do vậy, phải có khung pháp lý chặt chẽ quy định cụ thể vấn đề này. Mỗi kẻ hở trong quy định của luật pháp có thể bị trả giá bởi những vi phạm nghiêm trọng. Khung pháp lý cho hoạt động BHXH phải bao hàm các quy định cho các nội dung sau: - Mức đóng góp và điều kiện đóng góp của các bên tham gia cho quỹ BHXH. - Điều kiện được hưởng và cách tính mức trợ cấp. - Quản lý thu chi BHXH. - Tổ chức vận hành của hệ thống BHXH và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tham gia quản lý BHXH. - Chế tài xử lý các vi phạm những quy định về BHXH. Khung pháp lý cho hoạt động BHXH được tạo ra bởi hệ thống các văn bản pháp quy, gồm: - Luật (pháp lệnh) BHXH được ban hành bởi nghị viện (quốc hội). - Các sắc lệnh (của tổng thống), nghị định, quyết định, chỉ thị, điều lệ… của chính phủ hoặc thủ tướng chính phủ. - Các thông tư, quyết định, công văn … do bộ, ngành quản lý nhà nước ban hành. Hệ thống các văn bản này phải thống nhất, đồng bộ, không có những điểm mâu thuẫn nhau. Có như vậy mới bảo đảm tính hệ thống, đồng bộ trong cơ chế vận hành BHXH. 1. 2- Kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng, phát triển và vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội 1. 2. 1- Kinh nghiệm về xây dựng và phát triển hệ thống BHXH a) Mô hình tổ chức bộ máy Tổ chức bộ máy của cơ quan BHXH của các nước trên thế giới nhìn chung thống nhất từ trung ương đến địa phương, do văn phòng BHXH cấp trung ương quản lý trực tiếp và toàn diện, không có sự chi phối của chính quyền địa phương trong vấn đề chính sách, nhân sự, tài chính v. v… Nhờ đó, tổ chức BHXH có thể thực hiện thuận lợi các vấn đề gắn với chức năng, nhiệm vụ của nó: - Công tác luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện cho việc nâng cao năng lực và kỹ năng nghiệp vụ BHXH của đội ngũ cán bộ. - Quy trách nhiệm BHXH về một cơ quan đầu mối. - Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống tổ chức bộ máy. Cách thức tổ chức bộ máy của các quốc gia khác nhau tuy có nhiều nét tương đồng song lại có những điểm khác nhau. Điển hình về tổ chức bộ máy BHXH ở các nước ASEAN có thể kể đến ở đây là Thailand. Theo đó: + Cơ quan BHXH cấp trung ương có sự phối hợp chặt chẽ trong hoạt động với Uỷ ban Y tế (để xác định mức độ suy giảm sức khoẻ, mức độ rủi ro, bệnh nghề nghiệp) và Uỷ ban Khiếu nại - Khiếu tố (để nhận và xử lý thông tin về những hành vi gian lận trong BHXH). + Hoạt động BHXH chịu sự giám sát kiểm tra chặt chẽ bởi Tổng thanh tra (chịu trách nhiệm thanh tra phát hiện sai phạm trong khu vực công) và cơ quan Kiểm tra nội bộ (kiểm tra hoạt động BHXH trong nội bộ ngành). Tổ chức bộ máy BHXH của Thailand mang tính chuyên môn hoá cao. Văn phòng BHXH cấp trung ương được chia nhỏ thành các bộ phận như phòng thư ký, phòng xử lý dữ liệu, phòng thu, phòng phúc lợi, … (xem sơ đồ 4 trang 25). Bồi thường (đền bù) cho người lao động (công nhân) (Cơ quan) Văn phòng BHXH Uỷ ban BHXH Uỷ ban Y Tế UB khiếu nại - khiếu tố Tổng thanh tra Kiểm tra nội bộ Phòng thư ký Phòng thu Phòng quản lý nhân sự Phòng kế toán tài vụ P. thanh tra Phòng sự vụ Phòng xử lý dữ liệu Phòng phúc lợi Phân phối y tế Phòng kế hoạch nghiên cứu kỹ thuật Văn phòng quỹ bồi thường người LĐ Trung tâm phục hồi chức năng công nghiệp P. Cung ứng Phòng đào tạo Trung tâm thông tin Phòng đăng ký Quản lý địa phương 75 tỉnh. VP. BHXH 75 tỉnh VP. Chi nhánh BHXH Daeng VP. Chi nhánh BHXH Bang Khun VP. Chi nhánh BHXH Ram Judra Trung tâm điều phối dự án WB sơ đồ 4:cơ cấu tổ chức của cơ quan Bhxh thái lan (tổng cục aSXH) Khác với Thailand, tổ chức BHXH ở Malaysia do hai cơ quan đảm nhiệm: Tổng cục BHXH thuộc Bộ Nhân lực và quỹ dự phòng cho người lao động. Với BHXH thuộc Bộ Nhân lực, cơ cấu tổ chức bao gồm Hội đồng quản lý, Tổng Giám đốc và Phó Tổng Giám đốc, Thư ký Hội đồng, hệ thống thanh tra và kiểm toán nội bộ, các vụ chức năng (Vụ Pháp chế, Vụ Bảo hiểm, Vụ Quản lý, Vụ Hợp tác và phát triển, vụ Tài chính và Đầu tư và 41 đơn vị cơ sở tại địa phương). Cơ cấu tổ chức của BHXH thuộc Bộ nhân lực được thể hiện qua sơ đồ 5 trang 28. Theo sơ đồ này, Hội đồng quản lý được thành lập gồm: + Chủ tịch Hội đồng (do Bộ trưởng Bộ Nhân lực bổ nhiệm ); + Tổng Giám đốc của cơ quan BHXH (Bộ trưởng Bộ Nhân lực bổ nhiệm); + Đại diện của Bộ Tài chính, Bộ Nhân lực và Bộ Y tế; + Không quá 4 người do Bộ trưởng Bộ Nhân lực chỉ định đại diện cho giới chủ sử dụng lao động; + Không quá 4 người do Bộ trưởng Bộ Nhân lực chỉ định đại diện cho người lao động; + Ba người có chuyên môn sâu về BHXH. Cán bộ ở các vụ, ban khác được tuyển dụng và sử dụng như những công chức bình thường ở các nước khác. Mô hình BHXH của Malaysia có những nét khác so với mô hình của Thailand. Điểm khác trong tổ chức bộ máy của Malaysia là việc phân chia bộ máy thành nhiều cấp trung gian, qua đó tạo thuận lợi cho việc phân chia trách nhiệm giữa các cấp trong bộ máy. Việc tổ chức bộ máy với nhiều cấp quản lý trung gian của Malaysia tuy tạo thuận lợi cho việc nâng cao tính trách nhiệm và tính chuyên môn hoá của các bộ phận, song lại gây khó khăn cho việc phối hợp trong quản lý giữa các bộ phận nghiệp vụ. Hội đồng quản lý Thư ký Hội đồng Tổng Giám đốc Hệ thống thanh tra và kiểm toán nội bộ Phó Tổng Giám đốc Vụ Pháp chế 41 đơn vị cơ sở ở các địa phương Vụ hợp tác và phát triển Phúc lợi Bảo hiểm Y tế phục hồi chức năng Nghiên cứu thống kê Quan hệ xã hội Vụ Quản lý Vụ Tài chính và đầu tư Kế toán Tài chính Đầu tư Nhân sự Hành chính Quản lý hồ sơ Sơ đồ 5: tổ chức bộ máy BHXH ở Tổng cục BHXH, Bộ nhân lực Malaysia Vụ Bảo hiểm Xem xét hệ thống này có thể rút ra nhận xét về sự quan tâm đầu tư sinh lợi của quỹ BHXH và việc tổ chức bộ máy theo hình thức Hội đồng, tính cộng đồng trách nhiệm. Phụ trách về đầu tư BHXH là Ban Đầu tư, theo đó Chủ tịch Hội đồng quản lý là Trưởng ban, 2 thành viên do Hội đồng Quản lý chỉ định nằm trong thành viên của Hội đồng, 1 đại diện chủ sử dụng lao động, một đại diện của người lao dộng, Tổng Giám đốc BHXH, đại diện của Kho bạc nhà nước, đại diện của Ngân hàng và 2 đại diện có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh đầu tư do Bộ trưởng Bộ Nhân lực chỉ định. Hàn quốc có tổ chức bộ máy BHXH mang những nét đặc thù do trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn, mức độ phát triển của các quan hệ thị trường cao hơn. Trách nhiệm BHXH của Hàn quốc được phân định cho nhiều cơ quan nhằm tăng mức độ chuyên môn hoá trong hoạt động BHXH và tạo sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau. Các cơ quan chịu trách nhiệm về hoạt động BHXH ở Hàn Quốc là: - Bộ Lao động và Xã hội, Bộ Y tế và các vấn đề xã hội. - Hội đồng Hưu trí Quốc gia; Liên đoàn quốc gia về Bảo hiểm y tế; các tổ chức bảo hiểm y tế (gồm 419 tổ chức); Công ty BHXH quốc gia. Tuy là một “con rồng” của châu á, nhưng BHXH của Hàn quốc chưa theo kịp với tốc độ phát triển kinh tế. Hệ thống này còn nhiều bất cập như loại trừ các doanh nghiệp nhỏ ra khỏi hệ thống BHXH; quỹ bảo hiểm y tế tách riêng khỏi quỹ BHXH; phân tán trách nhiệm BHXH cho quá nhiều cơ quan, từ đó gây ra sự phức tạp và chồng chéo trong quản lý BHXH. Mô hình tổ chức bộ máy BHXH của Philippines cũng có một số đặc điểm đáng lưu ý. Hệ thống BHXH của Philippines chi trả chế độ BHXH đối với người lao động ngoài khu vực nhà nước. Hệ thống này được quản lý theo cơ chế tập trung: trung ương quản lý đối tượng được hưởng BHXH, quản lý thu chi, đầu tư và phát triển quỹ, quản lý nhân lực. Các chi nhánh cấp dưới như tỉnh, thành phố chỉ làm nhiệm vụ trực tiếp đăng ký, xử lý thông tin ban đầu, thực hiện giao dịch với các đối tượng thuộc địa bàn quản lý. Cơ quan trung ương được đặt ở thành phố Quezon; và 136 chi nhánh, trong đó 101 chi nhánh thực hiện nối mạng với trung tâm điều hành tại cơ quan trung ương. Cách tổ chức mô hình quản lý như vậy có ưu điểm là thống nhất quản lý về một đầu mối, tránh được tiêu cực ở địa phương. Điều đáng lưu ý là hệ thống BHXH Philippines quản lý 3 chương trình BHXH đối với mọi người lao động làm công ăn lương, tự tạo việc làm, nông dân và ngư dân (có thu nhập hằng tháng tối thiểu là 1500 peso, tương đương 28,5 USD). BHXH đối với công chức, viên chức lực lượng vũ trang thuộc khu vực nhà nước được thực hiện theo một hệ thống riêng biệt dưới tên gọi Hệ thống bảo hiểm phục vụ nhà nước. Ba chương trình bảo hiểm chính đối với đối tượng này là: Chương trình BHXH (trực thuộc Văn phòng Chính phủ); Chương trình chăm sóc y tế (trực thuộc Bộ Y tế); Chương trình đền bù cho người lao động (trực thuộc Bộ Lao động - Việc làm ). Việc tách ra nhiều chương trình BHXH như vậy sẽ gây bất lợi trong quản lý do BHXH khá phân tán, không tập trung về một đầu mối quản lý. Từ những phân tích trên về mô hình tổ chức bộ máy BHXH của các quốc gia có điều kiện gần tương đồng với Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có một số điểm có thể áp dụng trong việc đổi mới tổ chức BHXH ở Việt Nam: Tổ chức hệ thống BHXH theo một hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, cơ quan BHXH không chịu sự can thiệp hành chính của bộ máy chính quyền ở địa phương. Tuy nhiên, bộ máy chính quyền địa phương được quyền và cần tham gia giám sát hoạt động BHXH. Mô hình tổ chức nên phân định theo phương thức chia thành nhiều cấp trung gian như ở Malaysia, song phải thiết lập một cơ chế phối kết hợp chặt chẽ trong công tác giữa các bộ phận chức năng. Mô hình tổ chức tuỳ thuộc đặc thù của đất nước. Bảo hiểm y tế là một bộ phận cấu thành của BHXH. Trong tổ chức BHXH cần phải có Hội đồng quản lý gồm đại diện của các bên liên quan như Bộ Lao động, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Tổng liên đoàn lao động và đại diện của giới chủ. Ngoài ra, nên có những cán bộ có trình độ chuyên môn sâu giúp việc. Các cơ quan, tổ chức có đại diện tham gia Hội đồng quản lý tham gia vào việc quản lý, hỗ trợ và giám sát hoạt động của bộ máy BHXH. Thiết lập cơ chế đầu tư sinh lợi cho quỹ BHXH nhằm tăng nguồn thu cho quỹ, tạo điều kiện tăng phúc lợi được hưởng cho người lao động khi họ gặp rủi ro. b) Đào tạo đội ngũ cán bộ Vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ của BHXH các nước trên thế giới nhìn chung có những điểm giống nhau. Thứ nhất, khi cán bộ được tuyển vào làm việc trong bộ máy BHXH, về nguyên tắc họ được đào tạo theo những chương trình dành riêng cho cán bộ BHXH. Ví dụ, BHXH Thailand có hình thành riêng một phòng đào tạo. Phòng này có trách nhiệm cung cấp và phát triển chương trình huấn luyện và trợ giúp đào tạo cho nhân sự BHXH nhằm mục đích cung cấp những kỹ năng, hiểu biết và kinh nghiệm của cán bộ BHXH và người làm thuê để bảo đảm cho công tác BHXH được thực hiện có hiệu quả. Philippines lại đào tạo cán bộ theo hình thức kèm cặp (chuyên viên cấp cao sẽ được giao kèm cặp chuyên viên mới) và hình thức trao đổi kinh nghiệm (tổ chức các cuộc họp, trao đổi chuyên đề). Thứ hai, đào tạo cán bộ thông qua luân chuyển cán bộ. Mỗi cán bộ khi được phân công làm công tác BHXH ở một địa phương nào đó sau một thời gian sẽ được phân công đến địa phương khác để thực hiện nhiệm vụ. Nếu cán bộ thực hiện công tác tốt sẽ được xem xét, điều chuyển về làm việc tại cơ quan BHXH cấp trung ương. Ngược lại, một số cán bộ khi làm việc ở cấp trung ương sẽ được điều về làm việc ở các địa phương để rèn luyện kiến thức, kỹ năng và nâng cao hiểu biết thực tế. Nếu cán bộ vượt qua được những thử thách đó, sau khoảng 1- 2 năm, họ sẽ được điều chuyển trở lại về làm việc ở cấp trung ương. Cách làm này hầu như không gặp trở ngại về tâm lý, đặc biệt là khi điều chuyển cán bộ từ trung ương về địa phương. Đây là nguyên tắc sử dụng cán bộ trong hệ thống tổ chức BHXH của nhiều nước. Thailand, Philippines, Malaysia đều áp dụng cách đào tạo này. Việc đào tạo cán bộ theo phương thức luân chuyển cán bộ như vậy, một mặt, sẽ giúp nâng cao kiến thức, kỹ năng về BHXH; mặt khác, sẽ giúp cho cán bộ BHXH có thể thực hiện tốt công tác BHXH trong bất kỳ môi trường làm việc nào. Những kinh nghiệm về đào tạo cán bộ BHXH nói trên của các nước, do tính hợp lý của chúng, cần được nghiên cứu để áp dụng ở Việt Nam. 1. 2. 2- Kinh nghiệm về thiết lập cơ chế vận hành BHXH 1. 2. 2. 1- Chức năng, nhiệm vụ của các mắt xích BHXH Việc giao chức năng, nhiệm vụ cho các bộ phận chức năng thuộc hệ thống BHXH của các quốc gia (có điều kiện tương đồng với Việt Nam) là khá rõ ràng, không chồng chéo và bao kín các hoạt động cần thực hiện của tổ chức BHXH. Chức năng, nhiệm vụ của các "mắt xích" BHXH được giao tuỳ thuộc vào mô hình của tổ chức bộ máy của từng quốc gia. ở đây, chúng tôi xin nêu một số kinh nghiệm trong việc giao chức năng, nhiệm vụ cho các " mắt xích" của bộ máy ở một nước có mô hình BHXH khá đặc biệt và có tính hiệu quả cao là Thailand. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các "mắt xích" quản lý trong bộ máy BHXH ở Thailand được sắp xếp như sau: Văn phòng thư ký: có quyền và trách nhiệm thực hiện những công việc quản lý hành chính chung đối với Tổng cục An sinh xã hội (cơ quan BHXH) bao gồm thư ký, nhân sự, tài vụ, kế toán, lập ngân sách, trụ sở, vận tải và các trợ giúp chung. Phòng quản lý nhân sự: có quyền và trách nhiệm trong quản lý hệ thống thực hiện, quản lý nhân sự và phúc lợi cho nhân viên và người làm công của cơ quan BHXH. Phòng kế toán tài vụ: tiến hành các nghiệp vụ và quản lý việc thu tiền, trả tiền, lưu quỹ, cân đối và báo cáo tài chính, bao gồm cả đầu tư sinh lợi của quỹ. Phòng quản lý đóng góp: có quyền và trách nhiệm kiểm tra, tìm hiểu những thông tin về các hoạt động của giới chủ tham gia vào quỹ theo các luật về an toàn xã hội và Luật Bảo hộ lao động đối với các lĩnh vực có liên quan đến các luật này. Phòng thanh tra: có quyền và trách nhiệm thanh tra, tìm hiểu những thông tin có liên quan đến việc thực hiện những quy định của pháp luật đối với các bên tham gia BHXH và thực hiện các biện pháp xử lý theo quy định. Phòng xử lý dữ liệu: có quyền và trách nhiệm phát triển, thiết kế, thu thập, xử lý thông tin thông qua các hệ thống thông tin được tin học hoá và là trung tâm dịch vụ cung cấp mạng lưới thông tin của cơ quan BHXH. Phòng sự vụ pháp lý: quản lý các hoạt động liên quan đến luật pháp và quy chế được quy định bởi Luật An sinh xã hội và các đạo luật hoặc các văn bản pháp quy khác có liên quan, gồm các hợp đồng, thoả thuận được thực hiện dưới quyền và nhiệm vụ của Tổng cục An sinh xã hội mà Luật An sinh xã hội đã quy định. Phòng sự vụ pháp lý cũng đồng thời thực hiện nhiệm vụ thường trực của Uỷ ban Chống án. Phòng quản lý chi: có quyền và trách nhiệm trong việc thanh toán các khoản đền bù cho người lao động theo quy định của Luật An sinh xã hội và các quy định pháp lý khác có liên quan. Phòng điều phối công tác y tế: có quyền và trách nhiệm trong việc phối hợp các dịch vụ y tế cho người lao động được bảo hiểm và những người khác có liên quan theo quy định; đưa ra những tiêu chuẩn và điều kiện cần thiết cho việc thanh toán chi phí dịch vụ y tế cho người cung cấp dịch vụ đã được hợp đồng trong khuôn khổ Chương trình an toàn xã hội với vai trò là thường trực của Uỷ ban Y tế an toàn xã hội. Cơ quan này còn phát thẻ y tế cho những người lao động được bảo hiểm. Phòng kế hoạch và nghiên cứu kỹ thuật: có quyền và trách nhiệm đưa ra những thông báo và ý kiến về các hệ thống, mô hình, biện pháp và quá trình bảo hộ lao động trong các khu vực có bồi hoàn cho người lao động và Chương trình an sinh xã hội. Ngoài ra bộ phận này thiết lập những hệ thống thu thập và xử lý số liệu, các báo cáo thống kê tác nghiệp, các báo cáo hằng tháng, định kỳ và hằng năm. Phòng này còn có chức năng giáo dục chủ sử dụng lao động, giới thợ và những người được bảo hiểm về kiến thức an sinh xã hội, là cơ quan thường trực của Uỷ ban An sinh xã hội. Văn phòng quỹ bồi thường người lao động: có quyền và trách nhiệm quản lý và xây dựng tỷ lệ đóng góp, thu các khoản tiền đóng góp và đầu tư vào quỹ; quản lý việc thu các khoản đóng góp và việc hình thành các khoản đền bù, quản lý tiền mặt, cân đối tài sản và báo cáo tài chính của quỹ. Văn phòng BHXH địa phương: có quyền và trách nhiệm triển khai các nhiệm vụ BHXH tại địa phương, báo cáo các hoạt động của mình cho văn phòng BHXH ở cấp trung ương và văn phòng địa phương của Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội. Đối với những hoạt động mang tính trợ giúp, BHXH Thailand giao cho các bộ phận trực thuộc như Trung tâm phục hồi chức năng (cung cấp việc phục hồi y tế và phục hồi nghề nghiệp cho những công nhân bị tàn phế bị mất khả năng làm việc do tai nạn lao động và cho những người được bảo hiểm nhằm giúp họ tự tạo việc làm hoặc quay trở lại làm việc ở cơ sở cũ, xúc tiến việc làm, giải trí thể thao, mở rộng giáo dục …); Phòng cung ứng (thực hiện việc quản lý mua sắm trong Tổng cục); Trung tâm thông tin (thúc đẩy các mối quan hệ công cộng cuả Tổng cục như xuất bản, tuyên truyền, quảng cáo, sách, thông tin, tài liệu v. v…); Bộ phận đào tạo (cung cấp và phát triển chương trình huấn luyện kiến thức, kỹ năng, hiểu biết và kinh nghiệm nghiệp vụ); Phòng đăng ký (đăng ký cho giới chủ và thợ, cập nhật những thông tin của họ và phát hành thẻ an sinh xã hội cho những người tham gia bảo hiểm); Các văn phòng chi nhánh tại Băng Cốc (thực hiện công tác tại các vùng đặc biệt để cung cấp các dịch vụ thuận lợi hơn cho giới chủ và thợ tham gia bảo hiểm). Qua nghiên cứu về cách thức giao chức năng, nhiệm vụ cho các"mắt xích "của bộ máy BHXH ở các nước trong khu vực, những nước có điều kiện kinh tế - xã hội và phong tục tập quán gần gũi với Việt Nam, chúng tôi rút ra một số nhận xét: Việc giao chức năng, nhiệm vụ cho các đơn vị khá rõ ràng, ít có sự chồng chéo. Chức năng, nhiệm vụ của BHXH Thailand có độ bao phủ khá rộng, rộng hơn so với nhiều nước khác, đặc biệt là so với Việt Nam. BHXH ngoài việc thực hiện đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ của BHXH nói chung và các nhiệm vụ cần thiết để duy trì và phát triển bộ máy, còn thực hiện thêm chức năng phục hồi nghề nghiệp, nhà ở, xúc tiến việc làm, giải trí, thể thao, khuyến khích trồng vườn, mở rộng giáo dục, … Việc giao nhiệm vụ cho các " mắt xích" thuộc hệ thống BHXH đã tạo những điều kiện thuận lợi tối đa cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia BHXH. 1. 2. 2. 2- Nhận xét về nguyên tắc hoạt độngBHXH từ kinh nghiệm của một số nước Nguyên tắc hoạt động BHXH ở các nước trong khu vực và trên thế giới nhìn chung thống nhất, không có sự khác biệt đáng kể so với những nguyên tắc chung về hoạt động BHXH. Các quốc gia đều tuân thủ 9 nguyên tắc chung của BHXH. Ngoài ra, một số nước, ví dụ Malaysia và Philippines còn thực hiện thêm nguyên tắc: “Quỹ BHXH phải được đầu tư tăng trưởng quỹ, bảo đảm tốt hơn quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm”. Việc thực hiện nguyên tắc này đồng nghĩa với việc đưa BHXH sang loại hình hoạt động vừa mang tính phúc lợi, vừa mang tính kinh doanh, song nó phù hợp với tình hình thực tế phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, cho thấy rằng, việc tăng mức đóng góp của các bên tham gia BHXH là một việc làm khó, gặp nhiều cản trở từ phía các bên tham gia, song mức chi BHXH, đặc biệt là bảo hiểm tuổi già (lương hưu) ngày càng tăng do tuổi thọ của người dân tăng. Vì vậy, việc đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH là cách làm đúng đắn, phù hợp và rất cần thiết. 1. 2. 2. 3- Nhận xét về khung pháp lý cho hoạt động BHXH từ kinh nghiệm của một số nước Khác với Việt Nam (chưa có luật về BHXH, quy định về BHXH mới chỉ có 1 chương trong bộ Luật Lao động), khung pháp lý cho hoạt động BHXH ở phần lớn các nước trong khu vực được quy định bởi một đạo luật riêng về BHXH. Tại Thailand, hoạt động BHXH hiện hành được quy định bởi Luật An sinh xã hội số 2 được ban hành ngày 23/12/1994, gồm 42 điều (chủ yếu là sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Luật An sinh xã hội số 1, ban hành năm 1990). Tại Hàn quốc, Luật BHXH hiện hành được ban hành từ năm 1986, sau đó được sửa đổi bổ sung vào các năm 1989, 1993 và 1995. Còn tại Malaysia, song song với Luật BHXH (ban hành năm1969) còn có Luật Quỹ dự phòng (1951) và Luật Bồi thường cho người lao động (1952), … Khung pháp lý quy định cụ thể cho các loại hình BHXH ở các quốc gia khác nhau nhìn chung không có sự khác biệt đáng kể. Dưới các bộ luật là các văn bản dưới luật do tổng thống (văn phòng tổng thống), chính phủ hoặc cơ quan quản lý nhà nước (bộ) ban hành. Qua những nghiên cứu trên có thể rút ra nhận xét rằng BHXH ở các nước trên thế giới nhìn chung được quy định bởi luật. Việc quy định khung pháp lý bởi một (hay một số) đạo luật thể hiện tính chặt chẽ và nghiêm minh trong việc quản lý hoạt động BHXH. 1. 2. 2. 4- Nhận xét về quản lý các nguồn thu, chi quỹ BHXH từ kinh nghiệm của một số nước Về quản lý nguồn thu BHXH: Tại Thailand, nguồn thu BHXH phụ thuộc vào từng loại quỹ. Tại Thailand, nguồn thu Quỹ An sinh xã hội được hình thành từ các khoản sau: Các khoản đóng góp của Chính phủ, của chủ sử dụng lao động và những người tham gia bảo hiểm được quy định cụ thể cho từng loại chế độ. Các khoản đóng góp của những đối tượng tham gia BHXH cũng được quy định khá cụ thể: + Những người đã từng tham gia bảo hiểm, đã đóng góp không dưới 12 tháng, sau đó thôi không làm công nữa nhưng vẫn muốn tham gia đóng góp BHXH hằng tháng. Nếu nộp chậm phải nộp thêm mỗi tháng 2% phần đóng góp còn thiếu. + Người sử dụng lao động không nộp phần đóng góp của mình hoặc của người được bảo hiểm, hoặc chưa nộp đủ, đúng hạn phải trả thêm 2% mỗi tháng của phần chưa đóng góp, chưa nộp. Các khoản lãi do việc đầu tư tăng trưởng quỹ; Lệ phí của việc cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký An sinh xã hội, thẻ An sinh xã hội cho người được bảo hiểm khi họ bị mất, thất lạc hoặc cũ, rách; Của được tặng, cho hoặc trợ cấp; Khoản tiền được bổ sung cho quỹ: + Người sử dụng lao động nộp cho cơ quan An sinh xã hội cao hơn mức phải nộp; + Tiền bán đấu giá tài sản của người sử dụng lao động không nộp BHXH, không nộp phạt và nộp thêm; + Những người được bảo hiểm được nhận các chế độ trợ cấp từ quỹ nhưng sau 2 năm không đến nhận. Tiền trợ cấp hoặc ứng trước của Chính phủ khi quỹ không đủ trang trải các khoản chi cần thiết. Tiền phạt khác. Các khoản thu khác. Qua việc quản lý nguồn thu quỹ An sinh xã hội tại Thailand, có thể thấy rõ tính đa dạng trong các khoản thu. Việc quản lý nguồn thu BHXH có thể tìm thấy những nét tương tự ở Malaysia, Hàn quốc và Philippines. Tính đa dạng trong các nguồn thu, đặc biệt là những nguồn thu ngoài sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, là điểm có thể áp dụng được ở Việt Nam. Về quản lý các nguồn chi BHXH - Đối với trợ cấp thương tật hoặc ốm đau: Các nước đều quy định người lao động được quyền hưởng trợ cấp trong trường hợp bị thương tật hoặc ốm đau không do công việc gây ra, nếu họ đóng BHXH không ít hơn một số tháng nào đó (Thailand - 3 tháng). Việc đóng BHXH phải được thực hiện trong một thời khoảng nhất định trước ngày nhận dịch vụ y tế (Thailand- 15 tháng). Mức hưởng: gồm chi phí dịch vụ y tế và một khoản trợ cấp bằng tiền mặt (thấp hơn tiền lương) trong một khoảng thời gian được quy định. - Đối với trợ cấp thai sản: Các nước đều quy định người được hưởng chế độ phụ cấp thai sản là người lao động tham gia BHXH. Song, Thailand còn có thêm quy định người phụ nữ nếu có hôn nhân công khai với người được bảo hiểm (đã tham gia BHXH ít nhất 15 tháng) thì vẫn được hưởng trợ cấp thai sản. Chế độ bảo hiểm thai sản ở Thailand chỉ được tính với lần sinh con thứ nhất và thứ hai, còn ở Philippines quy định cho 4 lần sinh con. Số lần sinh con được hưởng trợ cấp thai sản được quy định phụ thuộc vào chính sách dân số của từng quốc gia. Người lao động trong thời gian nghỉ thai sản được hưởng trợ cấp gồm chi phí dịch vụ y tế và một khoản trợ cấp bằng tiền. Thời gian được nghỉ thai sản đối với lao động nữ nghỉ thai sản thông thường được quy định theo giới hạn dưới (ví dụ Philippines quy định 2 mức 60 ngày và 78 ngày phụ thuộc điều kiện lao động). Song, ở Thailand lại có quy định người phụ nữ được nghỉ thai sản không quá 90 ngày (quy định theo giới hạn trên). Việc quy định giới hạn trên về thời gian được nghỉ thai sản có thể dẫn đến trường hợp huy động người lao động có con nhỏ đi làm sớm, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của lao động nữ. - Đối với trợ cấp mất khả năng lao động: Thailand quy định người được hưởng BHXH hưởng trợ cấp đền bù trong trường hợp mất khả năng lao động không do công việc, khi người đó đã đóng góp BHXH không dưới 3 tháng và tham gia BHXH 15 tháng trước khi mất khả năng lao động. Philippines quy định loại trợ cấp này dành cho người lao động bị tàn tật hoàn toàn (có thể do công việc hoặc không do công việc) khi đã có đóng BHXH ít nhất 36 tháng trước khi bị tàn tật. Mức hưởng gồm chi phí dịch vụ y tế và trợ cấp bằng tiền thay thế cho thu nhập ở mức được quy định trong suốt đời.. - Đối với trợ cấp tử tuất, tang lễ: Tại Thailand quy định, trong trường hợp người được bảo hiểm chết mà không bị thương tật hay ốm đau do công việc gây ra, nếu đã đóng BHXH không dưới 1 tháng trong khoảng thời gian 6 tháng trước khi chết, thì sẽ được chi trả khoản trợ cấp khi chết. Mai táng phí theo mức không được thấp hơn 10 lần mức tối đa của lương tối thiểu ngày theo Luật Bảo hộ lao động. Mức cụ thể phụ thuộc vào thời gian tham gia đóng BHXH của người hưởng. Malaysia quy định chế độ trợ cấp tang lễ cho những người được bảo hiểm bị chết trong trường hợp đang hưởng trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp hoặc đang hưởng trợ cấp hưu trí thương tật. Mức hưởng là 1000USD (lĩnh 1 lần). Philippines quy định trợ cấp tang lễ được cấp cho người đang được bảo hiểm bị chết (do thương tật hay không do thương tật) được hưởng mức mai táng phí 10. 000 Peso (lĩnh một lần). - Đối với phụ cấp con: Tại Thailand có quy định thêm chế độ phụ cấp con. Điều kiện hưởng: Người được bảo hiểm được nhận phụ cấp con, nếu đã đóng BHXH không dưới 1 năm và chỉ được phụ cấp không quá 2 con. Mức hưởng gồm chi phí đời sống trẻ em; học phí trẻ em; chi phí y tế trẻ em và các chi phí cần thiết khác. Các chi phí này được chi trả theo quy định chung. - Đối với trợ cấp tuổi già (hưu trí): Tại Thailand, người được bảo hiểm được hưởng trợ cấp tuổi già nếu đã đóng BHXH không dưới 15 năm, bất kể thời gian đóng góp có liên tục hay không và phải đủ 55 tuổi trở lên. Tại Philippines, c._. quy định tại Nghị định số100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ, chúng tôi đề nghị: - Bổ sung, sửa đổi Tiết 3, Điều 4 "Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam", cụ thể như sau: Quy định tại Nghị định 100/2002/NĐ- CP Đề xuất sửa đổi Điều 4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam … 3. Thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam, kế hoạch dài hạn, 5 năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và các đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH do Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam (sau đây gọi là Tổng Giám đốc) xây dựng để Tổng Giám đốc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; giám sát, kiểm tra Tổng Giám đốc thực hiện chiến lược, kế hoạch đề án sau khi được phê duyệt. … Điều 4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam … 3. Xây dựng và thông qua chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam, kế hoạch dài hạn, 5 năm về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và các đề án bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH trên cơ sở các phương án do đại diện các bên tham gia BHXH xây dựng và đệ trình. Giám sát, kiểm tra Tổng Giám đốc thực hiện chiến lược, kế hoạch đề án sau khi được phê duyệt. … Bổ sung vào Tiết 3, Điều 6 "Chế độ làm việc của Hội đồng Quản lý như sau (phần in nghiêng gạch chân): 3. Các cuộc họp của Hội đồng quản lý phải có ít nhất hai phần ba thành viên Hội đồng quản lý tham dự nhưng số lượng đại diện tham dự của các bên phải như nhau. Nghị quyết của Hội đồng phải được đa số thành viên Hội đồng quản lý dự họp biểu quyết tán thành. Trường hợp số phiếu như nhau, nghị quyết của buổi họp sẽ nghiêng về bên có Chủ tịch Hội đồng quản lý biểu quyết. Những vấn đề chưa thống nhất ý kiến giữa các thành viên Hội đồng quản lý thì Chủ tịch Hội đồng quản lý báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. 3. 2. 1. 2- Hoàn thiện tổ chức của Bộ máy điều hành BHXH Việt Nam Trước mắt, cần nghiên cứu xây dựng và ban hành chính sách bảo hiểm thất nghiệp do vấn đề bảo hiểm thất nghiệp đã được đề cập đến trong bộ Luật Lao động sửa đổi bổ sung năm 2002 (nội dung của chính sách này chúng tôi sẽ đề xuất sau). Sau khi các văn bản này được ban hành, trong cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam cần có sự thay đổi về tổ chức. Có 2 phương án: Phương án 1: Vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức của hệ thống BHXH như hiện nay (được thực hiện theo quy định tại Nghị định số 100/2002/NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ và Quyết định số 1620/2002/QĐ- BHXH- TCCB ngày 17/12/2002 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương) nhưng bổ sung thêm nhiệm vụ nghiên cứu, quản lý bảo hiểm thất nghiệp cho các bộ phận chức năng. Phương án 2: Cơ cấu BHXH cũng như chức năng nhiệm vụ của các bộ phận thuộc bộ máy điều hành vẫn giữ nguyên như hiện nay, thành lập thêm bộ phận bảo hiểm thất nghiệp . Chúng tôi kiến nghị nên chọn phương án 1, vì nếu phương án này được thực hiện sẽ giảm bớt chi phí hành chính, tránh được sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, tránh được sự gia tăng biên chế trong tổ chức của BHXH Việt Nam. Về điều chỉnh bộ máy quản lý điều hành nói chung, có một số điểm chính cần phải tiếp tục đổi mới là: - Làm rõ hơn vị trí pháp lý của Tổng Giám đốc, quy định rõ hơn những trường hợp nào thì Tổng Giám đốc được tự quyết định và tự chịu trách nhiệm, trường hợp nào cần xin ý kiến của Hội đồng quản lý. Cũng cần quy định rõ trường hợp nào thì Tổng Giám đốc được quyết định với tư cách Tổng Giám đốc, trường hợp nào được quyết định với tư cách thành viên Hội đồng quản lý. - Cần phân định rõ hơn chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của từng Phó Tổng Giám đốc với tư cách giúp việc Tổng Giám đốc. Quan điểm của chúng tôi là, do Phó Tổng Giám đốc được Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm thì chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của Phó Tổng Giám đốc cũng cần được Thủ tướng chính phủ quy định trên cơ sở đề xuất của Hội đồng quản lý và Tổng Giám đốc. - Tiếp tục đổi mới bộ máy giúp việc theo yêu cầu tinh gọn, trên cơ sở xác định lại tổng số các chức năng quản lý của bộ máy giúp việc; từ đó phân công lại chức năng và xây dựng lại cơ cấu tổ chức hợp lý hơn theo nguyên tắc "mỗi chức năng quản lý cần có tổ chức đảm nhiệm nhưng không nhất thiết mỗi chức năng phải thành lập riêng một tổ chức, một tổ chức có thể đảm nhiệm một số chức năng gần nhau hoặc liên quan đến nhau". Cùng với việc đổi mới cơ cấu tổ chức phải coi trọng và hoàn thiện quy chế làm việc, trong đó quy định rõ quy chế chủ trì và phối hợp công tác giữa các bộ phận của bộ máy. Về việc đổi mới bộ máy điều hành BHXH cấp địa phương, chúng tôi kiến nghị một số phương án sau: Phương án 1: Tiếp tục giữ bộ máy điều hành như hiện nay, nhưng phải tinh giản đội ngũ cán bộ quản lý điều hành theo hướng: tại địa phương có ít đối tượng tham gia BHXH sẽ giảm số cán bộ BHXH. Thực hiện theo cách này chúng ta sẽ tinh giản được khá nhiều cán bộ BHXH ở các tỉnh, huyện hiện còn chưa phát triển hoạt động sản xuất - kinh doanh, còn có ít người tham gia BHXH. Phương án 2: Tiếp tục giữ bộ máy điều hành cấp tỉnh như hiện nay, nhưng giảm bớt các đơn vị cấp huyện. Nên căn cứ vào địa bàn quản lý mà nhóm các quận, huyện, thị lại với nhau. Mỗi một nhóm khoảng 4 - 5 huyện tập hợp thành một cụm và có cơ sở BHXH cấp cụm. Riêng tại tỉnh lỵ, nơi đặt trụ sở của BHXH tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), các nghiệp vụ BHXH sẽ do BHXH tỉnh (thành phố) thực hiện… Phương án này cho phép nâng cao năng lực và hiệu lực của quản lý, giảm đáng kể lực lượng cán bộ BHXH, giảm chi cho hoạt động của bộ máy (tương tự như cách tổ chức của Thailand). Phương án 3: Nên tổ chức BHXH thành BHXH vùng theo các vùng kinh tế, không tổ chức BHXH theo tỉnh, thành phố nữa như kinh nghiệm của Philippines. Mỗi tỉnh sẽ đặt một BHXH tỉnh trực thuộc BHXH vùng. Loại bỏ BHXH cấp huyện. Do địa bàn các tỉnh của Việt Nam nhỏ, việc đi lại không còn nhiều khó khăn như trước nên biện pháp này có thể áp dụng. Biện pháp này cho phép tiết kiệm tối đa nhân công, giảm đáng kể chi phí cho bộ máy. Thực ra, trong 3 phương án trên, nếu thực hiện phương án 1 sẽ có độ "an toàn" cao nhất vì như vậy sẽ không có sự xáo trộn lớn, không gây phản ứng. Thực hiện phương án 2 sẽ có mô hình BHXH gần tương tự như Thailand, tuy có gây một số phản ứng nhưng có thể khắc phục được, hiệu quả thu được vẫn cao. Còn phương án 3 đòi hỏi một sự cải cách, không những đối với ngành BHXH mà còn là đối với các ngành chức năng khác. Các tỉnh sẽ có những phản ứng nhất định, nhiều khi là phản ứng lớn nếu thực hiện phương án này. Trong điều kiện hiện tại, phương án 3 không có tính khả thi. Quan điểm của chúng tôi là chọn phương án 2. Phương án này có thể cho phép tránh trùng lặp về chức năng nhiệm vụ giữa BHXH tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương) và BHXH của quận, huyện, thị, thành phố trực thuộc tỉnh, vừa giúp cho việc tinh giản bộ máy, giảm chi phí cho hoạt động của bộ máy. Ngoài ra, khi cơ cấu lại tổ chức, cũng cần nghiên cứu, sắp xếp lại bộ máy giúp việc như cách đã đề cập đối với bộ máy cấp trung ương nhằm bảo đảm bộ máy tinh giản, gọn nhẹ, tránh sự chồng chéo chức năng nhiệm vụ. 3. 2.2- Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Xuất phát từ quan điểm và nguyên tắc đổi mới đội ngũ cán bộ đã được trình bầy ở mục 1. 1 của chương 3, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau: a) Trước mắt, cần thành lập chuyên ngành đào tạo riêng về BHXH, đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ BHXH ở trình độ cao đẳng - đại học nhằm đào tạo và đào tạo bổ sung cho ngành BHXH. Thực tế, BHXH là một ngành hẹp, do vậy nếu cơ sở đào tạo do BHXH Việt Nam thành lập và quản lý sẽ không hiệu quả. Chuyên ngành này nên đặt ở trường Cao đẳng Lao động - Xã hội, trường có truyền thống và đào tạo lâu năm về BHXH, đang sắp được nâng cấp thành Đại học Lao động - Xã hội. Hiện nay, trường Cao đẳng Lao động - Xã hội đang dự kiến và có kế hoạch xây dựng nội dung chương trình đào tạo cho chuyên ngành BHXH mới này. b) Cần thực hiện chuẩn hoá trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ càn bộ của cả hệ thống BHXH, theo đó có quy định cụ thể phải có bằng cấp về BHXH mới được làm công tác BHXH và phải đặt ra một giai đoạn chuyển tiếp. Sau khi chuyên ngành BHXH được thành lập, các cán bộ BHXH phải được học và cấp bằng của chuyên ngành đào tạo này mới được tiếp tục thực hiện nghiệp vụ BHXH. c) Phải xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ của các chức danh trong ngành BHXH Việt Nam. Tiêu chuẩn này cần phải chỉ rõ mỗi chức danh cần làm được gì, có hiểu biết gì, có kỹ năng gì… Tiến hành rà soát đội ngũ cán bộ trên cơ sở so sánh với tiêu chuẩn để xác định những kiến thức và kỹ năng còn thiếu. Từ đó xây dựng nội dung chương trình đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ thông qua các lớp đào tạo ngắn hạn. Nhiệm vụ tổ chức đào tạo này do Trung tâm đào tạo thuộc BHXH Việt Nam đảm nhận. Giảng viên của các lớp đào tạo này phải là những giảng viên có kinh nghiệm, có nghiệp vụ sư phạm tốt, am hiểu sâu về BHXH. d) Hằng năm tổ chức các lớp trao đổi kinh nghiệm về hoạt động BHXH cho cán bộ ngành BHXH. Những kinh nghiệm tiên tiến cần được phổ biến lại cho cán bộ BHXH ở các địa phương, cơ sở. e) Thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo và trao đổi kinh nghiệm hoạt động BHXH với các nước trong khu vực và thế giới. 3. 2.3- Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH Để bộ máy BHXH hoạt động hiệu quả, cần có khung pháp lý hoàn thiện về BHXH. Do vậy, cần áp dụnh một số giải pháp sau: Ban hành Luật BHXH. Hiện nay mới chỉ có các văn bản pháp quy dưới luật qui định về chế độ, chính sách BHXH. Dự thảo luật BHXH đã được các cơ quan chức năng xây dựng và trình ban hành, song cho đến nay vẫn chưa được ban hành. Cần sớm ban hành Luật BHXH bởi vì Luật BHXH ra đời sẽ là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động BHXH phát triển. Kiện toàn hệ thống pháp luật về tổ chức, quản lý, quy chế tài chính, xây dựng qui chế vận hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới của ngành BHXH Việt Nam. Tăng cường chức năng thanh tra, kiểm tra trên lĩnh vực BHXH của BHXH Việt Nam. Cần tăng chế tài trong trường hợp vi phạm và tái vi phạm các quy định về BHXH. 3. 2.4- Triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện Hiện nay nước ta về căn bản vẫn là một nước nông nghiệp, phần lớn người lao động làm việc trong lĩnh vực này. Đây là một tiềm năng rất lớn để BHXH Việt Nam khai thác. Theo số liệu thống kê của BHXH Việt Nam thì mới có khoảng 10% lực lượng lao động được tham gia BHXH, trong khi đó bộ Luật Lao động đã có qui định đối với hình thức BHXH tự nguyện. Ngoài ra, Việt Nam còn có khoảng 8 - 10 triệu lao động làm việc trong khu vực kinh tế không chính thức mà phần lớn trong số họ có nhu cầu được hưởng BHXH, đặc biệt là chế độ hưu trí. Việc thực hiện hình thức BHXH tự nguyện đối với BHXH Việt Nam là rất khả thi do có sự hậu thuẫn của Nhà nước. Đối với hình thức tự nguyện, ban đầu nên thực hiện 2 hoặc 3 chế độ mà người lao động quan tâm là chế độ hưu trí, chế độ thai sản... Mức đóng góp và thời gian đóng góp có thể căn cứ trên tiền lương tối thiểu. Chế độ được hưởng có thể qui định tương tự như ở hình thức bắt buộc. Theo quan điểm của chúng tôi, không nên quy định thời gian đóng BHXH phải là đóng góp liên tục. Thực tế cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường hiện nay, những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước thường ký hợp đồng lao động ngắn hạn, họ có thể đóng góp BHXH trong một khoảng thời gian đang làm việc. Sau khi chấm dứt hợp đồng, thời gian đóng góp BHXH bị gián đoạn, và họ sẽ tiếp tục đóng BHXH khi chuyển sang làm việc tại doanh nghiệp khác, nhưng với mức đóng khác, có thể cao hơn hoặc có thể thấp hơn. Vì vậy, nên giao sổ BHXH riêng cho từng người bảo quản để họ chủ động trong việc đóng BHXH. Thời gian đóng BHXH nên tính là thời gian cộng dồn cho các lần đóng BHXH. Mức đóng BHXH làm cơ sở để tính chế độ BHXH cho người lao động nên lấy theo mức bình quân gia quyền của các lần đóng BHXH. Việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH không những thực hiện được sự công bằng giữa người lao động trong xã hội mà còn góp phần làm tăng quỹ đầu tư, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. 3. 2.5- Triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm thất nghiệp đang là vấn đề mới mẻ ở nước ta. Đây cũng là trọng tâm nghiên cứu hiện nay của các bộ, ngành có liên quan như Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, BHXH Việt Nam, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ …Nếu chế độ bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện, các chế độ trả trợ cấp thôi việc và chế độ trợ cấp mất việc cần được bãi bỏ do tính chất cuả 2 chế độ trợ cấp này giống như chế độ trợ cấp thất nghiệp. Để triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp , cần phải xác định rõ: - Quan điểm về người thất nghiệp. - Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp . - Các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp . - Hình thức chi trả và cách chi trả bảo hiểm thất nghiệp . Sau đây là một số kiến nghị của chúng tôi về bảo hiểm thất nghiệp . a) Quan điểm về người thất nghiệp. Có nhiều quan điểm khác nhau về thất nghiệp, song theo chúng tôi, nên hiểu khái niệm này như sau: "Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, trong khoảng thời gian xác định không có việc làm, đang tìm việc làm, đã đăng ký thất nghiệp theo quy định". Cách hiểu này sẽ tạo thuận lợi cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp . b) Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp . Nghiên cứu thông lệ ở các nước trong khu vực và thế giới cho thấy, quy định của các quốc gia khác nhau về điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp có nhiều nét tương đồng. Dựa trên cơ sở này, xem xét điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng tôi thấy nên quy định điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp như sau: Người lao động muốn được hưởng bảo hiểm thất nghiệp phải có đủ 5 điều kiện: - Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 24 tháng trở lên. - Đã đăng ký thất nghiệp theo quy định. - Đã nộp đơn yêu cầu trả bảo hiểm thất nghiệp . - Sẵn sàng làm việc, chấp nhận sự sắp xếp của cơ quan dịch vụ việc làm. - Đã thất nghiệp 30 ngày kể từ ngày đăng ký. c) Các nguồn hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp : Theo kinh nghiệm của một số nước, tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp khoảng 6,5 - 7% được chia đều cho người sử dụng lao động và người lao động. Ví dụ, ở Cộng hoà Liên bang Đức, người sử dụng lao động và người lao động cùng đóng với tỷ lệ 3,25%; Anh, Pháp, Hà Lan, người lao động và người sử dụng lao động đều đóng như nhau. Riêng Mỹ, Italia, người sử dụng đóng toàn bộ bảo hiểm thất nghiệp, … Tham khảo cách làm của một số nước và căn cứ vào thực tiễn của Việt Nam, chúng tôi đề nghị lấy mức lương cơ bản (lương cấp bậc hay chức vụ) hoặc tiền lương theo hợp đồng lao động của mỗi người làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp và khi hưởng thì tính trên mức lương bình quân làm căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp . Tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp nên lấy mức 6%, người sử dụng lao động đóng 3%, người lao động đóng 3%, phần còn lại sẽ do Nhà nước bù. Chúng tôi cũng đề nghị tỷ lệ % được hưởng là 60% với thời gian hưởng tối đa 12 tháng (như thông lệ quốc tế), không phụ thuộc thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp nhiều hay ít, sau khi đã đóng đủ thời gian quy định để hưởng trợ cấp. d) Hình thức chi trả và cách chi trả bảo hiểm thất nghiệp : Về việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp , chúng tôi cho rằng cần chuyển việc này cho các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc ngành lao động - thương binh và xã hội ở các địa phương. Các trung tâm này cần được nối mạng Intranet trên phạm vi toàn quốc. Cần có quy định những người thất nghiệp muốn nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp phải đến đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm dịch vụ việc làm. Bằng cách đó, Nhà nước có thể nắm chính xác số người thất nghiệp vào các thời điểm khác nhau ở từng vùng, từng địa phương và trên phạm vi toàn quốc, không cần lập các trạm thông tin thị trường lao động hoặc tiến hành điều tra tổng thể trên toàn quốc để xác định tỷ lệ thất nghiệp v. v… Đây cũng là kinh nghiệm hoạt động của các quốc gia khác như Anh, Pháp, Philippines … Để trả tiền bảo hiểm thất nghiệp cho người thất nghiệp, cần có quy định mỗi người lao động có một cuốn sổ lao động. Sổ này là chứng chỉ ghi chép toàn bộ quá trình làm việc, các chế độ đã giải quyết khi chấm dứt hợp đồng lao động , quá trình đóng bảo hiểm thất nghiệp , lý do chấm dứt hợp đồng lao động. Khi chấm dứt hợp đồng lao động, người thất nghiệp đem sổ lao động đến trung tâm dịch vụ việc làm đăng ký thất nghiệp và yêu cầu được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Khi người thất nghiệp đã tìm được việc làm thì trung tâm dịch vụ việc làm ghi thời gian đã hưởng bảo hiểm thất nghiệp vào sổ và trả lại cho người lao động. Nếu hết thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp mà cả 2 bên vẫn không tìm được việc làm cho người thất nghiệp hoặc chưa hết thời hạn 12 tháng, trung tâm dịch vụ việc làm đã sắp xếp được việc làm cho người lao động nhưng người lao động vẫn không đi làm thì bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị cắt. Trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, ngay khi người thất nghiệp tìm được việc làm, bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị cắt. Tiền bảo hiểm thất nghiệp được trả trực tiếp hằng tháng cho người thất nghiệp. 3. 2. 6- Tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH Để tăng nguồn vốn cho đầu tư phải quản lý chặt chẽ các nguồn thu, chi của quỹ. - Đối với công tác thu BHXH: Tiến hành thu đúng, thu đủ của người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quản lý chặt chẽ số lao động và bảng lương của đơn vị, đặc biệt là đối với các đơn vị ngoài khu vực nhà nước. Đối với các đơn vị chậm đóng hoặc trốn đóng BHXH, cần thường xuyên theo dõi tình hình sản xuất - kinh doanh của đơn vị để đôn đốc thu, tạo mối liên hệ hai chiều giữa cơ quan BHXH với người lao động và người sử dụng lao động, tránh tình trạng người sử dụng lao động dùng tiền đóng BHXH của người lao động sai mục đích, vừa ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, vừa gây thất thu cho quỹ BHXH. Có cơ chế thưởng thích đáng đối với các cá nhân, đơn vị có thành tích trong công tác thu BHXH. - Đối với công tác chi BHXH: Quản lý chặt chẽ đối tượng hưởng BHXH, thường xuyên tiến hành rà soát hồ sơ hưởng BHXH để phát hiện những đối tượng đã hết thời hạn hưởng, những đối tượng làm giả hồ sơ giấy tờ… tránh tình trạng chi sai đối tượng, sai chế độ chính sách. Qui trách nhiệm và có biện pháp xử phạt thích đáng đối với những đối tượng chiếm dụng hoặc để thất thoát quỹ BHXH. Đối với chi phí hoạt động sự nghiệp cần triệt để tiết kiệm. 3. 2. 7- Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất Cần quan tâm đến việc đầu tư xây dựng cơ sở vất chất cho toàn bộ hệ thống, đặc biệt là trang bị công nghệ tin học hiện đại, ứng dụng các thành tựu tiên tiến của công nghệ thông tin để phục vụ cho việc quản lý đối tượng cũng như quản lý tài chính quỹ BHXH, tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. Cần hiện đại hoá ngành BHXH, giúp BHXH Việt Nam hoà nhập với BHXH khu vực và trên thế giới. Tăng cường hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ về vật chất, tài chính và học hỏi kinh nghiệm trong công tác quản lý và điều hành quỹ BHXH. 3. 2. 8- Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH Cần tăng cường sự phối kết hợp với các ngành, địa phương liên quan tổ chức tuyên truyền, giáo dục thường xuyên về chính sách, chế độ BHXH với những nội dung phong phú, thiết thực để mọi người lao động, tổ chức kinh tế hiểu đầy đủ nghĩa vụ, quyền lợi khi tham gia BHXH; tạo cho họ niềm tin vào chính sách BHXH để họ không chỉ tự giác chấp hành mà còn yêu cầu, đòi hỏi được tham gia. Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền như: phát tờ rơi, biểu ngữ, mở các chuyên mục trên một số tờ báo lớn và các phương tiện thông tin đại chúng khác,... Làm tốt công tác tuyên truyền sẽ tăng số lượng người tham gia BHXH góp phần làm tăng nguồn thu cho quỹ BHXH.  kết luận Đổi mới mô hình tổ chức, hoạt động và cơ chế, chính sách, chế độ BHXH là xu thế vận động tất yếu của ngành BHXH Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang hình thành. BHXH, với vai trò phòng tránh rủi ro cho người lao động, là một lĩnh vực mang tính kinh tế, xã hội và nhân văn cao. Điều đó đòi hỏi đổi mới BHXH cũng cần vận động theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao tính xã hội và nhân văn. Nâng cao hiệu quả kinh tế của BHXH có nghĩa là đào tạo quản lý và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động hiện có để nâng cao năng suất và hiệu quả công việc, tránh lãng phí và thất thoát; tinh giản bộ máy, đổi mới mô hình tổ chức hoạt động của bộ máy để giảm chi cho hoạt động của bộ máy, giảm sự chồng chéo và nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy; nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ BHXH trong hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, … Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH là làm cho BHXH được phổ biến rộng rãi hơn, đến được với nhiều người lao động hơn, có mức độ "bao phủ" rộng rãi hơn, giảm được chi phí đóng góp của các bên tham gia, tăng mức hưởng cho người lao động nhờ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Nâng cao tính xã hội và nhân văn của BHXH còn được thể hiện ở chỗ làm cho BHXH phong phú hơn; các chính sách, chế độ về BHXH ngày càng hoàn thiện hơn… Với quan điểm đó, qua quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn khẳng định một số kết quả chủ yếu sau đây: 1. Trên phương diện lý thuyết, chúng tôi đã cố gắng hệ thống hoá được những lý luận cơ bản có liên quan đến BHXH và hệ thống BHXH. Đó là lý luận về bản chất và tính tất yếu khách quan của BHXH; nguyên tắc vận hành của hệ thống BHXH, cơ chế tổ chức và các mô hình tổ chức BHXH, ưu nhược điểm và xu hướng phát triển của chúng trong điều kiện tri thức hoá, toàn cầu hoá kinh tế. 2. Từ những nghiên cứu chuyên sâu về kinh nghiệm tổ chức, hoạt động và vận hành của hệ thống BHXH của một số nước trên thế giới, đặc biệt là kinh nghiệm của Thailand, Philippines, Malaysia, Hàn Quốc, luận văn đã chỉ ra được một số kinh nghiệm tốt có thể vận dụng ở Việt Nam. 3. Từ việc phân tích xu hướng vận động của nền kinh tế, luận văn đã chỉ ra được tác động của xu hướng phát triển kinh tế đến hệ thống BHXH và những yêu cầu, đòi hỏi mới đối với hệ thống BHXH trong các giai đoạn phát triển. 4. Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng hệ thống BHXH ở Việt Nam hiện nay liên quan đến mô hình tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của các cấp quản lý, đội ngũ cán bộ và trình độ đội ngũ cán bộ, cơ chế vận hành của hệ thống BHXH, tình hình tham gia BHXH, thực hiện các chế độ BHXH, tình hình thu chi, quản lý thu chi BHXH, cân đối và tăng trưởng quỹ, xây dựng hệ thống chính sách chế độ …, luận văn đã chỉ ra những hạn chế đáng lưu ý của hệ thống BHXH Việt Nam, đồng thời phân tích những nguyên nhân dẫn đến các mặt hạn chế đó. 5. Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của hệ thống BHXH Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển trong tương lai, luận văn đã đề xuất hệ thống các quan điểm, định hướng và giải pháp cơ bản. Một là, về quan điểm đổi mới BHXH Việt Nam. Quan điểm chung là đổi mới trên cơ sở không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHXH, dựa trên xu thế phát triển chung của đất nước, vận dụng những kinh nghiệm quốc tế thích hợp đối với Việt Nam. Mô hình tổ chức BHXH của Việt Nam phải là mô hình tổng hợp những tinh hoa của các nước trong khu vực và thế giới, mang đặc thù Việt Nam, bảo vệ tối ưu quyền và nghĩa vụ của những người tham gia BHXH, mang đậm nét xã hội - nhân văn đặc trưng cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, phải đổi mới nhận thức về BHXH; xây dựng hệ thống BHXH với cơ cấu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; đổi mới cơ chế quản lý BHXH theo hướng tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách nhà nước; tăng cường hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH; đổi mới BHXH Việt Nam theo hướng hình thành một mô hình bảo đảm đầy đủ các chính sách, chế độ trợ cấp phòng tránh rủi ro cho người lao động; chuyển hệ thống BHXH hiện hành sang hệ thống BHXH mới phải được thực hiện dần dần theo những bước đi và biện pháp quá độ thích hợp; đổi mới chính sách BHXH phải gắn liền với sự thay đổi đồng bộ các chính sách kinh tế - xã hội khác. Hai là, về định hướng phát triển BHXH Việt Nam: cần hoàn thiện các cơ sở pháp lý và bảo đảm về pháp lý; mở rộng đối tượng và hình thức tham gia BHXH; hoàn thiện hệ thống chính sách chế độ BHXH; mở rộng quan hệ của BHXH Việt Nam; nâng cao năng lực và hiệu lực điều hành của bộ máy quản lý; nâng cao năng lực quản lý thu, chi BHXH, tăng cường các nguồn thu BHXH; nâng cao năng lực hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Ba là, về các giải pháp phát triển hệ thống BHXH Việt Nam. Luận văn đã đề cập đến một số các giải pháp cơ bản như giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam (gồm hoàn thiện tổ chức của Hội đồng quản lý, hoàn thiện tổ chức của Bộ máy điều hành BHXH Việt Nam); giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; giải pháp về hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH; giải pháp về triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện; giải pháp về việc triển khai chế độ bảo hiểm thất nghiệp ; giải pháp về tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH; giải pháp về việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và giải pháp về việc tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH. Với đường lối phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn của Đảng và nhà nước được xác định trong các văn kiện Đại hội Đảng, các nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng, chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng, hệ thống BHXH ở Việt Nam sẽ phát triển mạnh và hiệu quả trong những năm tới, ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu cơ bản của người lao động về BHXH. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, song vấn đề đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH là một vấn đề phức tạp. Những nghiên cứu của luận văn này mới chỉ là những nét chấm phá bước đầu, mang tính xới xáo vấn đề nghiên cứu. Để tiếp tục hoàn thiện vấn đề nghiên cứu, theo chúng tôi cần tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về những nội dung sau: - Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của nó trong điều kiện thiết lập bộ máy quản lý điều hành BHXH theo vùng kinh tế. - Nghiên cứu xây dựng nội dung, phương thức và cơ chế tổ chức thực hiện chế độ trợ cấp gia đình, trợ cấp tàn tật và trợ cấp mất người nuôi dưỡng. - Nghiên cứu xây dựng nội dung, chương trình đào tạo cử nhân đại học chuyên ngành BHXH và nội dung chương trình đào tạo sau đại học về BHXH. - Nghiên cứu mô hình đầu tư tăng trưởng hiệu quả quỹ BHXH Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. - Nghiên cứu mô hình và chế độ BHXH đối với lao động khu vực kinh tế phi kết cấu và lao động nông nghiệp Việt Nam,... Những vấn đề đặt ra trên đây đòi hỏi sự phối kết hợp nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Chúng tôi tin tưởng rằng, những vấn đề đó sẽ sớm được sáng tỏ và được áp dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và vận hành của hệ thống BHXH Việt Nam. /. Hệ thống các chú thích của luận văn. BHXH: Bảo hiểm xã hội BHXH Việt Nam: Bảo hiểm xã hội Việt Nam Danh mục tài liệu tham khảo. BHXH Việt Nam (1999), Kỷ yếu Hội thảo khoa học "Chiến lược phát triển BHXH ở Việt Nam đến năm 2001". BHXH Việt Nam (1995-2002), Báo cáo tài chính các năm. BHXH Việt Nam - Ngân hàng Thế giới (1999), Tài liệu tọa đàm về "cơ chế hình thành, quản lý và sử dụng quỹ BHXH". Bộ Lao động - Thương binh và xã hội (1997), Hệ thống các văn bản hiện hành về lao động, việc làm, tiền lương, BHXH, NXB Thống kê. Đỗ Minh Cương và các tác giả (1996), Góp phần đổi mới và hoàn thiện chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia Lê Thanh Hà (2000), Bài giảng Dịch vụ việc làm, NXB Lao động - Xã hội. Trần Quang Hùng, Mạc Văn Tiến (1998), Đổi mới chính sách BHXH đối với người lao động, NXB Chính trị Quốc gia. NXB Lao động- xã hội (1995-2003), Hệ thống các văn bản quy định hiện hành về chính sách BHXH. Nguyễn Kim Thái, (1997), Đề tài nghiên cứu khoa học "Đổi mới tổ chức - cán bộ của BHXH Việt Nam theo cơ chế quản lý mới". Trường Cao đẳng lao động xã hội (2001), Tập bài giảng BHXH, NXB Lao động - xã hội Trường Đại học Quốc gia, Khoa Kinh tế (1998-2003), Các bài giảng và giáo trình trong chương trình cao học kinh tế. Mục lục Trang Phần mở đầu Chương 1. Cơ sở lý thuyết và kinh nghiêm của một số nước về Bảo hiểm xã hội 1 1. 1. Những vấn đề về lý luận cơ bản về Bảo hiểm xã hội 6 1. 1. 1. Khái niệm BHXH và lịch sử phát triển 6 1. 1. 2. Sự cần thiết khách quan của BHXH và tác động của BHXH đến đời sống kinh tế - xã hội 7 1. 1. 3. Cơ chế tổ chức Bảo hiểm xã hội 12 1. 2. Kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng, phát triển và vận hành hệ thống Bảo hiểm xã hội 23 1. 2. 1. Kinh nghiệm về xây dựng và phát triển hệ thống BHXH 23 1. 2. 2. Kinh nghiệm về thiết lập cơ chế vận hành BHXH 31 Chương 2. Thực trạng của hệ thống tổ chức BHXH ở Việt Nam hiện nay 43 2. 1. Đổi mới kinh tế và những yêu cầu đang đặt ra với hệ thống BHXH ở Việt Nam 43 2.1.1 Đổi mới kinh tế và tác động đến hoạt động của hệ thống BHXH 43 2.1.2 Những yêu cầu mới đối với hệ thống BHXH 45 2. 2. Thực trạng hệ thống BHXH trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay 47 2. 2. 1. Thực trạng về hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam 47 2. 2. 2. Thực trạng về đội ngũ cán bộ của BHXH Việt Nam 53 2. 2. 3. Thực trạng cơ chế vận hành của hệ thống BHXH Việt Nam 57 2. 3. Đánh giá tổng quát về hệ thống BHXH hiện có của Việt Nam 66 2. 3. 1. Những kết quả chính đã đạt được 66 2. 3. 2. Những mặt hạn chế đáng lưu ý và nguyên nhân 80 Chương 3. Kiến nghị về định hướng và giải pháp nhằm góp phần phát triển hệ thống BHXH Việt Nam trong tình hình mới 89 3. 1 Quan điểm và định hướng phát triển 89 3. 1. 1. Quan điểm phát triển hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam 89 3. 1. 2. Về định hướng phát triển BHXH Việt Nam 96 3. 2. Giải pháp hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam 100 3. 2. 1. Giải pháp hoàn thiện tổ chức bộ máy BHXH Việt Nam 100 3. 2. 2. Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ 106 3. 2. 3. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động BHXH 108 3. 2. 4. Triển khai có hiệu quả hình thức BHXH tự nguyện 108 3. 2. 5. Triển khai hình thức bảo hiểm thất nghiệp 109 3. 2. 6. Tăng cường quản lý các nguồn thu, chi của quỹ BHXH 112 3. 2. 7. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất 113 3. 2. 8. Tăng cường công tác tuyên truyền về BHXH 113 Kết luận 115 Hệ thống các chú thích của luận văn 119 Danh mục tài liệu tham khảo 120 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37189.doc
Tài liệu liên quan