Hành vi mua của khách hàng tổ chức với hoạt động marketing của Công ty cổ phần cơ điện Alphanam

MỤC LỤC Trang Sơ đồ 1.2 Mô hình những ảnh hưởng chủ yếu đến hành vi mua sắm TLSX của các doanh nghiệp 15 SƠ ĐỒ TỔ CHỨC – ORGANIZATION 35 Sơ đồ : kênh phân phối phụ của công ty Alphanam 61 Bảng 1 . Vị trí công tác của những người có ảnh hưởng mua chủ yếu thiết bị điểm của khách hàng tổ chức 51 Bảng 2. Các yếu tố cá nhân của người có ảnh hưởng mua chủ yếu sản phẩm thiết bị điện của khách hàng tổ chức 52 Bảng 3 Số lượng thành viên tham gia trong quá trình mua sắm 54 Sản phẩm thiết bị điện v

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 5526 | Lượt tải: 5download
Tóm tắt tài liệu Hành vi mua của khách hàng tổ chức với hoạt động marketing của Công ty cổ phần cơ điện Alphanam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à mối quan hệ giữa các thành viên 54 Bảng 4 Các tiêu chuẩn mua được khách hàng tổ chức sử dụng khi lựa chọn nhãn hiệu thiết bị điện 55 Bảng 5 Đánh giá của khách hàng tổ chức về các yếu tố kích thích marketing của nhà cung cấp về sản phẩm thiết bị điện 56 Bảng 6 Đánh giá của khách hàng tổ chức về các yếu tố kích thích khác của nhà cung cấp sản phẩm thiết bị điện 58 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã xây dựng Chiến lược PTKTXH 10 năm (2001-2010) với tầm nhìn đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam đã chủ động đẩy nhanh hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển mạnh giao lưu kinh tế với nước ngoài, mở rộng kinh tế đối ngoại gắn với việc xây dựng nền kinh tế của đất nước tham gia vào sự phân công quốc tế. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, trong ba năm qua, biến động của nền kinh tế toàn cầu tác động nhanh và trực tiếp hơn vào Việt Nam. Sau một thời gian dài hoạt động hiệu quả, cấu trúc tài chính, tiền tệ thế giới bắt đầu bộc lộ những nhược điểm như: các dòng vốn lưu chuyển quá dễ dàng, tín dụng được quản lý lỏng lẻo, thị trường tài chính ảo phát triển vượt tầm kiểm soát. Từ cuộc khủng hoảng tín dụng nợ dưới chuẩn của Hoa Kỳ, cuộc khủng hoảng tài chính đã lan rộng ra tất cả các nước, làm thay đổi sâu sắc toàn bộ hệ thống tài chính toàn cầu và đang tiếp tục diễn biến với những chiều hướng phức tạp, khó lường. Ở trong nước, những thuận lợi cơ bản đã từng bước được phát huy trong quá trình điều hành thực hiện kế hoạch. Tình hình chính trị - xã hội tiếp tục ổn định là yếu tố cơ bản để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Những cơ chế chính sách được ban hành đã đi vào cuộc sống; thu hút nhiều hơn và sử dụng tốt hơn các nguồn lực hướng vào các mục tiêu phát triển dài hạn, nhất là xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năng lực sản xuất và kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường và khai thác ngày càng có hiệu quả hơn. Hiện nay tại thị trường thiết bị điện tại Việt Nam  nhìn chung các hãng thiết bị lớn, nổi tiếng đều đã có mặt trên thị trường Việt Nam. Họ có hệ thống đảm bảo chất lượng sản phẩm tương đối tốt. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng thị trường Việt Nam hiện đang có mặt rất nhiều chủng loại sản phẩm thiết bị điện có chất lượng khác nhau, xuất phát từ Trung Quốc và các nước trong khu vực. Trong đó, không ngoại trừ những sản phẩm có chất lượng chưa được kiểm chứng và do nhà sản xuất quá chú tâm vào việc hạ giá thành sản phẩm nên có thể chất lượng không đảm bảo tiêu chuẩn tiết kiệm điện. Công ty cổ phần cơ điện ALPHANAM là công ty cung cấp thiết bị điện và tổng thầu các công trình điện lớn tại Việt Nam. Với uy tín sẵn có công ty luôn cố gắng đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh tại thị trường nước nhà. Công nghiệp phát triển nhanh và nhu cầu xây dựng nhiều dẫn đến nhu cầu về các sản phẩm thiết bị điện, cơ khí có thị trường tương đối tốt, bởi dường như tất cả các nhà máy, khu công nghiệp, đô thị đều cần dùng thiết bị điện. Do vậy em quyết định nghiên cứu đề tài “ Hành vi mua của khách hàng tổ chức với hoạt động marketing của công ty cổ phần cơ điện Alphanam” nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Do hạn chế về mặt thời gian và tài lực nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót mong thầy hướng dẫn và chỉ bảo để em hoàn thành chuyên đề này. Cuối cùng em xin cảm ơn thầy Phạm Văn Tuấn đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề có tính chất lý luận kết hợp với việc điều tra, phân tích đánh giá thực tế hành vi mua sắm sản phẩm thiết bị điện của khách hàng tổ chức, đề xuất một số giải pháp marketing cho công ty cổ phần cơ điện ALPHANAM. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hành vi mua sắm sản phẩm máy điều hòa không khí của khách hàng là tổ chức. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các khách hàng tổ chức bao gồm các doanh nghiệp và tổ chức, cơ quan nhà nước tại Hà Nội và một số tỉnh phía bắc. Thời gian nghiên cứu của đề tài là từ 01/03/2010 đến ngày 10/05/2010. Chuyên đề tập trung phân tích đánh giá về hành vi mua sắm sản phẩm thiết bị điện của khách hàng tổ chức trên cơ sở kết hợp giữa những kết quả nghiên cứu đã được tổng kết và những số liệu được thu thập thông qua điều tra thực tế Phương pháp nghiên cứu Thông tin thứ cấp được thu thập trên báo, tạp chí, internet Thông tin sơ cấp được thu thập thông qua điều tra phỏng vấn cá nhân Chuyên đề sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp, phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp. CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ HÀNH VI MUA CỦA KHÁCH HÀNG TỔ CHỨC VỚI HOẠT ĐỘNG MARKETING CỦA DOANH NGHIỆP Tổng quan về khách hàng tổ chức Có sự khác biệt đáng kể giữa thị trường công nghiệp và thị trường người tiêu dùng. Các khách hàng trên thị trường người tiêu dùng mua hàng hóa và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ, trong khi đó các khách hàng tên thị trường công nghiệp mua hàng hóa và dịch vụ để sản xuất ra những hàng hóa và dịch vụ khác để bán, cho thuê hay cung ứng cho những người khác. Khách hàng công nghiệp nói chung là các tổ chức và có thể là tổ chức công cộng hoặc tư nhân. Vì thế thuật ngữ “khách hàng tổ chức” được dùng để miêu tả những khách hàng trên thị trường công nghiệp Các tổ chức kinh doanh không chỉ bán, mà họ còn mua những khối lượng lớn nguyên liệu, các bộ phận thành phẩm, dịch vụ lắp đặt, thiết bị phụ trợ và các dịch vụ kinh doanh. Webster và Wind định nghĩa việc mua hàng cho tổ chức là “quá trình thông qua quyết định, qua đó các tổ chức chính thức xác nhận có nhu cầu về những sản phẩm và dịch vụ mua ngoài”. Khách hàng tổ chức có thể được phân loại thành ba nhóm chính, như sau: Các doanh nghiệp sản xuất, (2) các doanh nghiệp thương mại và (3) các tổ chức phi lợi nhuận mà điển hình là các tổ chức Chính Phủ. Thị trường hành vi mua của các doanh nghiệp sản xuất Đặc trưng của thị trường các doanh nghiệp sản xuất Thị trường các doanh nghiệp sản xuất bao gồm tất cả những tổ chức mua hàng hóa và dịch vụ để sử dụng vào việc sản xuất ra những hàng hóa hay dịch vụ khác, để bán, cho thuê hay cung ứng cho những người khác. Những đặc trưng cơ bản của thị trường các doanh nghiệp sản xuất bao gồm: Thứ nhất, thị trường TLSX có quy mô, danh mục hàng hóa, khối lượng tiền tệ chu chuyển lớn hơn nhiều so với thị trường hàng tiêu dùng. Bởi vì, để có được những sản phẩm tiêu dùng cuối cùng xã hội đã phải thực hiện cả một chuỗi các giai đoạn sản xuất, phân phối và thực hiện một khối lượng gia dịch khổng lồ để mua - bán vô số các chủng loại hàng hóa và dịch vụ khác nhau. Thứ hai, trên thị trường các doanh nghiệp sản xuất người mua có số lượng ít, nhưng khối lượng hàng mua sắm lớn hơn nhiều so với thị trường tiêu dùng. Thậm chí có một số thị trường sản phẩm luôn có số lượng đông đảo khách hàng song chỉ có một vài khách hàng đóng vai trò chi phối toàn bộ hoạt động mua và bán. Do số lượng khách hàng ít, nhưng tầm cỡ, do đó mối quan hệ mua – bán giữa người cung ứng và người tiêu thụ ở thị trường các doanh nghiệp sản xuất thường gần gũi hơn. Giữa họ luôn hình thành mỗi quan hệ thiện chí để duy trì sự làm ăn lâu dài. Quan hệ có tính hợp tác lâu dài trở thành yêu cầu luôn được các nhà cung ứng đặc biệt coi trọng trong các lời chào hàng. Thị trường các doanh nghiệp sản xuất có tính chất tập trung theo vùng địa lí. Các khu công nghiệp, đô thị luôn được coi là khu vực thị trường trọng điểm của cá nhà cung ứng hàng TLSX. Có thể nói tuyệt đại đa số hàng TLSX ở Việt Nam được tập trung tiêu thụ ở thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh... Tính chất tập trung theo vùng địa lí ở các ngành sản xuất công nghiệp khai khoáng thể hiện rõ nẹt hơn ngảnh sản xuất công nghiệp. Cầu của thị trường hàng TLSX mang tính thứ phát hay thụ động. Bởi vì cầu hàng TLSX rốt cuộc bắt nguồn từ cầu hàng tiêu dung. Đây cũng là lí do xuất hiện sự hợp tác trong số trương trình quảng cáo giữa những người bán TLSX và những người tạo ra sản phẩm tiêu dùng từ TLSX đó. Cầu hàng TLSX có độ co dãn về giá cả rất thấp ( thậm chí gần như không co dãn). Nghĩa là, tổng cầu về hàng TLSX không bị thay đổi khí giá hàng TLSX thay đổi. Bởi vì, giá cả hàng TLSX thay đổi làm chi phí sản xuất sản phẩm từ TLSX thay đổi, song khối lượng sản xuất chỉ thực sự thay đối khí tổng cầu và giá của của hàng hóa được tạo ra từ TLSX đó thay đổi. Một xu hướng có tính phổ biến về sự co dãn của cầu hàng TLSX mà các nhà làm marketing cần phải quan tâm là: 1- Cầu thường không co dãn trong ngắn hạn vì việc thay đổi công nghệ sản xuất không thực hiện được một cách nhanh chóng; 2- Cầu hàng TLSX đóng vai trò thứ yếu hoặc chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí sản xuất có dãn ít hơn cầu hàng TLSX quan trọng khác; 3- Cầu hàng TLSX có khả năng thay thế lớn trong sử dụng hoặc có nhiều nhà cung ứng, có độ co dãn về giá lớn hơn những loại hàng TLSX khác. Cầu hàng TLSX biến động mạnh với một mức độ lớn hơn nhiều so với nhu cầu hàng tiêu dùng. Các nhà kinh tế học cho biết khi nhu cầu hàng tiêu dùng gia tăng 1% thì cầu về hàng TLSX có thể sẽ gia tăng 20% ở giai đoạn sản xuất tiếp theo. Đặc trưng này đòi hỏi những người sản xuất phải cảnh giác cao độ với sự xuất hiện của các công nghệ mới cũng như việc lựa chọn một loại công nghệ nào đó trong đầu tư ban đầu. Bởi vì quyết định của họ có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng về tài chính. Để chống đỡ với những rủi ro do biến động của cầu sản phẩm tiêu dùng kéo theo sự biến động của càu hàng TLSX, thông thường các nhà sản xuất tiến hành đa dạng hóa danh mục sản phẩm mà họ cung ứng. Thứ ba, hoạt động mua sắm hàng TLSX thường có sự tham gia của nhiều thành viên và việc mua sắm có tính chất chuyên nghiệp. Các nhân viên đảm nhạn việc mua các mặt hàng TLSX phải là những người được đào tạo chuyên nghiệp. Với những hàng TLSX có giá trị càng lớn, vai trò của chúng trong sản xuất càng cao thì tính chất mua sắm càng phức tạp ( chẳng hạn như khi mua sắm thiết bị điện cho một khu công nghiệp có công suất lớn). Nó thường do một hội đồng mua sắm chuyên trách, bao gồm các chuyên viên kỹ thuật và những đại điện của ban lãnh đạo công ty chịu trách nhiệm. Điều này có nghĩa là để bán các mặt hàng TLSX, các công ty cung ứng hàng TLSX cần phải tuyển dụng một số đội ngũ nhân viên bán hàng được đào tạo giỏi về nghiệp vụ bán hàng lẫn nghiệp vụ kỹ thuật. Mô hình hành vi mua TLSX của các doanh nghiệp Phần này sẽ đề cập tới những vấn đề cơ bản của hành vi mua hàng TLSX như: các hình thực mua sắm TLSX, các thành viên tham gia vào quá trình quyết định mua, các yếu tổ ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua và các bước của quá trình mua hàng TLSX, các thành viên tham gia vào quá trình quyết định mua, các yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến quyết định mua và các bước của quá trình mua hàng TLSX. Mô hình về hành vi mua hàng TLSX Các nhà nghiên cứu marketing đã đưa ra một mô hình tổng quát về hành vi mua hàng TLSX của các doanh nghiệp như được trình bày trong sơ đồ 1.1 Môi trường Người mua Phản ứng đáp lại Kích thích marketing Kích thích khác Trung tâm mua Quá trình ra quyết định mua ( Những ảnh hưởng qua lại giữa các cá nhân và của từng cá nhân ) - Lựa chọn sản phẩm hoặc dịch vụ - Lựa chọn nhãn hiệu - Lựa chọn nhà cung cấp - Quyết định số lượng mua - Điều kiện và thời hạn giao hàng - Dịch vụ sau bán - Điều kiện thanh toán - Sản phẩm - Giá cả - Phân phối - Xúc tiến bán - Kinh tế - Công nghệ - Chính trị - Văn hóa - Cạnh tranh Nguồn : Quản trị marketing – Đại học Kinh tế Quốc dân Mô hình này cho thấy sự tác động của các kích thích ( bao gồm hai nhóm: kích thích marketing như : sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến bán và các kích thích khác như : tình trạng nền kinh tế, sự thay đổi của công nghệ, xu hướng chí trịnh, văn hóa, mức độ cạnh tranh của thị trường...) vào những người mua hàng TLSX và biến thành các quyết định ( hay phản ứng đáp lại) của họ bao gồm: các lựa chọn mặt hàng hoặc dịch vụ, khối lượng mua sắm, lựa chọn nhà cung ứng và các điều kiện khác liên quan đến giao dịch và thanh toán như thế nào? Đối với các nhà quản trị bán hàng, để có thể soạn thảo được những chisn lược bán hàng có hiệu quả, họ cần phải cố gắng tìm hiểu những gì xảy ra trong quá trình chuyển các kích thích thành các quyết định mua của người mua hàng TLSX Mô hình hành vi mua này có thể coi là mô hình về hành vi của những người mua là các tổ chức nói chung. Các dạng chính của việc mua sắm hàng TLSX Các chiên lược bán hàng cần phải được xây dựng cho những tình huống mua cụ thể. Có ba dạng tình huống mua chủ yếu mà các nhà quản trị bán hàng trên thị trường TLSX cần quan tâm đến đó là: 1- Mua lặp lại nhưng không có sự thay đổi; 2- Mua lặp lại có thay đổi; 3- Mua cho những nhu cầu, nhiệm vụ mới. Mua lặp lại không có sự thay đổi là một tình huống mua sắm trong đó người được giao nhiệm vụ mua hàng thực hiện các đơn đặt hàng về những TLSX mua có tính chất lặp lại ( mua theo thông lệ), không cần có sự điều chỉnh, sửa đổi trong các lần mua, ví dụ như các hợp đồng bảo trì định kì của các công trình điện do công ty Alphanam lắp đặt... Các loại TLSX thuộc những đơn đặt hàng loại này thường là các TLSX tiêu chuẩn hóa. Người mua thường thực hiện nhiệm vụ mua sắm của mình theo những thông lệ khuôn sáo. Họ lựa chọn những nhà cung ứng theo bản “ danh sách chấp nhận” được lập dựa vào mức độ hài lòng ở những lần mua sắm trước. Vì vậy, những nhà cung ứng “ đã được chọn” cần phải cố gắng duy trì mức chất lượng hàng hóa và dịch vụ của mình. Một phần không kém phần quan trọng là cần tìm đến những phương thức giao dịch mới nhằm giảm tới mức tối đa thời gian mua sắm và tăng tới mức tối đa sự hài lòng của khách hàng. Còn đối với những nhà cung ứng chưa nằm trong “diện được chọn” cần cố gắng lợi dụng những điều khách mua chưa hài lòng với đối thủ cạnh tranh hoặc tìm cách chào hàng về những vật tư mới nào đó để từng bước “lấn sân” thị trường của những người cung ứng cạnh tranh trong “danh sách được chấp nhận”. Mua lặp lại có sự thay đổi là tình huống trong đó người mua đưa ra những đơn đặt hàng lặp lại nhưng có những yêu cầu điều chỉnh thay đổi liên quan tới quy cách, tính năng hàng hóa, giá cả và những điều kiện cung ứng khác ( kể cả việc thay đổi người cung ứng). Trường hợp này thường là những đơn đặt hàng lặp lại về trang thiết bị hay những phụ tùng kèm theo. Sự cạnh tranh giữa các nhà cung ứng trong tình huống mua này thường gay gắt hơn vì cơ hội “chen chân” của những người thuộc diện “chưa được chọn” nhiều hơn. Vì vậy, “tìm ra những cơ hội cống hiến tốt hơn cho khách hàng”, là khẩu hiệu mà tất cả các nhà cung ứng bất luận họ thuộc diện nào đều phải làm để tác động vào khách hàng nếu họ không muốn mất hoặc muốn tăng thêm tỉ phần thị trường của mình. Mua sắm phục vụ những nhu cầu, nhiệm vụ mới là tình huống người mua phải mua một sản phẩm hay dịch vụ lần đầu tiên, chẳng hạn việc mua sắm trang thiết bị như các thiết bị điện, máy biến áp, thang máy... cho một dự án xây dựng mới. Trong tình huống mua mới này, người mua cần phải thu thập một khối lượng thông tin lớn về các sản phẩm và các nhà cung ứng. Giá trị của mặt hàng hay chi phí mua sắm và mức độ rủi ro càng cao, thì số người tham gia vào quá trình thu thập thông tin các đặc tính kỹ thuật của sản phẩm, điều kiện và thời gian giao hàng, điều kiện thanh toán, các dịch vụ sau bán... của các nhà cung ứng. Trong tình huống mua này, các nhà cung ứng sẽ đứng trước cơ hội thị trường và những thử thách để trở thành “ người được chọn” của người mua. Trong tình huống mua sắm này, các công ty cung ứng thường tập trung vào các khâu: bán hàng trực tiếp, cung cấp dịch vụ thông tin và hỗ trợ quá trình sử dụng sản phẩm sau khi bán. HỆ THỐNG TIẾP THỊ GIỮA CÁC TỔ CHỨC Những nhà cung cấp nguyên liệu Những nhà sản xuất thiết bị, bộ phận, nguyên vật liệu, khoáng sản trồng trọt Những nhà sản xuất hàng hóa/ dịch vụ Phân xưởng sản xuất, chế biến, lắp ráp, hiệu bán máy, nhà chế tạo, tổ chức dịch vụ Chi nhánh của các nhà sản xuất Chi nhánh của nhà sản xuất Nhà phân phối công nghiệp Người đại diện của các nhà sản xuất Người đại diện của các nhà sản xuất Nhà phân phối công nghiệp Nhà phân phối công nghiệp Các khách hàng tổ chức Các doanh nghiệp kinh doanh/ thương mại Các tổ chức chính phủ Các tổ chức viện/ Các trung tâm khoa học/ các trường Đại Học Nguồn : Giáo trình B2B Marketing tiếp thị giữa các tổ chức Những người tham gia vào quá trình mua hàng TLSX Nhiệm vụ mua sắm TLSX do một tập thể cá nhân đảm nhiệm. Họ bao gồm các chuyên gia ( kỹ sư) am hiểu về kỹ thuật và những chuyên gia về cung ứng và mua sắm... đảm nhận nhiệm vụ thu thập thông tin, lựa chọn mặt hàng, người cung ứng... Đội ngũ nhân viên nói trên thường được tổ chức thành “trung tâm mua” hay “hội đồng mua” và được định nghĩa là “Tất cả những cá nhân hay tập thể tham gia vào quá trình thông qua quyết định mua hàng, có chung những mục đích cùng chia sẻ những rủi ro phát sinh từ những quyết định đó”. Thuộc vào vai trò và nhiệm vụ mà các thành viên tham gia mua TLSX phải đảm nhiệm trong quá trình quyết định mua, họ được chia thành những nhóm cơ bản sau: Người sử dụng: là những người sẽ sử dụng TLSX được mua. Trong nhiều trường hợp họ đóng vai trò là người khởi xướng về những đề nghị mua sắm TLSX. Người ảnh hưởng: Là những người có ảnh hưởng đến các quyết định mua sắm. Họ thường giữ các nhiệm vụ quan trọng như: Xác định các đặc tính kỹ thuật của TLSX, cung cấp các thông tin, đánh giá, lựa chọn khả năng sử dụng thay thế các mặt hàng. Các chuyên gia và chuyên viên kỹ thuật là thành viên quan trọng nhất của nhóm này. Người quyết định: Là những người đóng vai trò quyết định việc lựa chọn mặt hàng và những người cung ứng. Họ là những người có thẩm quyền của công ty mua. Người phê duyệt: Là người có trách nhiệm phê chuẩn những đề nghị của người quyết định hoặc người mua. Người mua: Là nhừng người trực tiếp là nhiệm vụ gia dịch, mua sắm TLSX. Họ giữ vai trò quan trọng trong việc lựa chọn địa điểm bán hàng, các điều kiện liên quan đến thời hạn, phương thức thanh toán, giao hàng... với những loại TLSX quan trọng, kế haochj hoạt động của ho phải được những người quyết định có thẩm quyền phê duyệt. “Trung tâm mua” không phải là tổ chức cố định. Số lượng, cơ cấu của các thành viên trong tổ chức này có thể thay đổi tùy thuộc vào nhiệm vụ mua sắm và vai trò mà các thành viên có thể đảm nhiệm. Vấn đề quan trọng nhất mà những nhà quản trị bán hàng TLSX phải quan tâm là: Ai là người tham gia vào quyết định mua? Họ ảnh hưởng đến quyết định mua ở mức độ nào? Những tiêu chuẩn nào mà những người tham gia vào quyết định mua sử dụng để đánh giá? Những quyết định marketing đúng đắn mà các nhà cung ứng TLSX có thể đưa ra là dựa vào những hiểu biết này. Các yếu tố ảnh hưởng tới hành vi mua hàng TLSX Trong quá trình thông qua quyết định mua, người mua TLSX chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố như: mội trường, tổ chức, quan hệ giữa các cá nhân tham gia vào trung tâm mua, cá nhân người mua. Những yếu tố môi trường. Những người mua TLSX chịu ảnh hưởng rất mạnh của những yếu tố thuộc về môi trường như: tình trạng của nền kinh tế hiện tại và trong tương lại, mức nhu cầu cơ bản, giá trị của tiền, cán cân thanh toán, chính sách tài chính tiền tệ, hoạt động điều tiết của Chính phủ, mức độ gay gắt trong cạnh tranh... Các nhà quả trị bán hàng trên thị trường thị trường TLSX, thường xuyên phải theo dõi một các chặt chẽ những dự báo kinh tế để điều chỉnh chiến lược bán hàng của mình. Dưới tác động của các yếu tố môi trường, người mua TLSX bộc lộ hành vi mua của họ theo một số xu hướng sau: - Khi nền kinh tế suy thoái, nhu cầu đầu tư kinh doanh giảm, người mua TLSX giảm mức mua sắm các loại trang thiết bị, nguyên liệu... nhằm giảm khối lượng sản phẩm tồn kho do cầu về các loại hàng hóa giảm. - Gia tăng lượng dự trữ nguyên vật liệu quý hiếm và các hợp đồng dài hạn mua bán chúng. - Đẩy mạnh việc mua sắm trang thiết bị mới liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường, đầu tư cho công nghệ mới và sự cạnh tranh... Những xu thế này có thể coi là những chỉ báo về cơ hội thị trường và rủi ro cho các nhà kinh doanh hàng TLSX Những yếu tố tổ chức ( đặc điểm của công ty mua TLSX) Mỗi công ty mua TLSX đều có những mục tiêu riêng, các chính sách, những phương pháp làm việc và cơ cấu tổ chức riêng của mình mà ngowif bán hàng TLSX cần phải nghiên cứu và giải đáp hàng loại câu hỏi liên quan đến việc lựa chọn những các giải pháp marketing của mình như: có bao nhiêu người giam gia vào việc thông qua quyết định mua? Họ là những ai? Họ sử dụng những tiêu chuẩn đánh giá nào? Môi trường làm việc của công ty có ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực nào tới hoạt động của các thành viên trong công ty? Các nhà quản trị bán hàng TLSX cần tập trung vào một số khuynh hướng sau đây của các khách hàng mua TLSX: Thứ nhất, sự nâng cấp về địa vị và tổ chức của các bộ phận cung ứng vật tư trong công ty. Xu thế này biểu hiện ở chỗ bộ phận cung ứng vật tư thiết bị được tổ chức chặt chẽ hơn. Người lãnh đạo của “trung tâm mua” ở nhiều công ty được xếp vào diện ban lãnh đạo công ty. Các nhân viên làm nhiệm vụ cung ứng được đào tạo có hệ thống và nhận mức thù lao cao hơn. Thứ hai, việc mua sắm, giao dịch, ký kết hợp đồng mang tính chất tập trung hơn. Thứ ba, Tỷ lệ các hợp đồng mua dài hạn gia tăng. Thứ tư, khuynh hướng áp dụng gia tăng các chính sách khen thưởng và xử phạt đối với các hoạt động mua. Những yếu tố quan hệ cá nhân Việc mua sắm TLSX được thực hiện bởi những thành viên có cương vị, quyền hạn và năng lực khác nhau. Giữa họ có sự tương hỗ trong việc thực hiện các công việc mà công ty giao phó cho trung tâm mua. Mối quan hệ cá nhân ảnh hường đến phương thức ra quyết định và “không khí làm việc” của một tổ chức. Các công ty có “ không khí làm việc” nề nếp, tích cực, các quyết định mua của họ sẽ được quyết định nhanh chóng, có hiệu quả và ngược lại. Mối quan hệ cá nhân có ảnh hưởng mạnh đến các quyết định mua song việc xác định chính xác mức độ ảnh hưởng của nó luôn là “bí ẩn” với những người bán hàng TLSX. Nhưng dù khó khăn, những người bán TLSX vẫn phải tìm cách phân tích cặn kẽ mối quan hệ qua lại này để tạo ra những kích thích marketing “ đúng chỗ, đúng lúc, đúng người”. Những yếu tố thuộc về cá nhân Mỗi cá nhân tham gia vào quá trình quyết định mua đều mang theo những động cơ, nhận thức và sở thích riêng của mình. Tất cả những cái đó tùy thuộc vào tuổi tác mức thu nhập, trình độ học vấn, cương vị công tác và kiểu nhân cách, thái độ đối với rủi ro và văn hóa. Các cá nhân khác nhau có những quan điểm và nhân cách khác nhau trong việc thực hiện những nhiệm vụ mà họ đảm nhiệm. Những nhân viên đảm nhiệm việc mua TLSX của các công ty cũng vậy. Vì vậy, những người bán TLSX phải biết rõ từng cá nhân khách hàng của mình để tiến hành phân loại họ một các chính xác. Đó cũng là sự khác biệt chủ yếu giữa những người bán hàng giỏi và những người bán hàng kém. Lời khuyên “lập sổ lý lịch khách hàng” là xuất phát từ lý do đầy sức thuyết phục đã nêu trên. Như vật, những người hoạt động trên thị trường các doanh nghiệp sản xuất cần phải biết những khách hàng của mình và điều chỉnh chiến thuật của mình cho phù hợp với những ảnh hưởng đã biết của các yếu tố mỗi trường, tổ chức, quan hệ cá nhân và cá nhân đến tình huống mua hàng. Sơ đồ 1.2 mô tả khái quát những ảnh hưởng chủ yếu đến hành vi mua hàng TLSX của các doanh nghiệp sản xuất Sơ đồ 1.2 Mô hình những ảnh hưởng chủ yếu đến hành vi mua sắm TLSX của các doanh nghiệp Môi trường Mức cầu Tình trang của nền kinh tế Giá trị đồng tiền Tốc độ thay đổi công nghệ Những phát triển về chính trị và luật pháp Sự phát triển cạnh tranh Tổ chức Mục tiêu Chính sách Thủ tục Cơ cấu tổ chức Hệ thống Quan hệ cá nhân Quyền thế Địa vị Sự đồng cảm Sức thuyết phục Cá nhân Tuổi tác Thu nhập Học vấn Vị trí công tác Nhân cách Thái độ đối với rủi ro Văn hóa NGƯỜI MUA TƯ LIỆU SẢN XUẤT Nguồn : Quản trị marketing – Philip Kotler Các bước của tiến trình mua hàng TLSX Về cơ bản, quá trình mua hàng TLSX cũng bao gồm các bước tương tự như quá trình thông qua quyết định mua hàng của người tiêu dùng. Nhưng do động cơ (mục đích), hình thức, các yếu tố ảnh hưởng tới việc mua hàng TLSX khác biệt với hàng tư liệu tiêu dùng nên các tiêu chuẩn trong việc lựa chọn mặt hàng, nhãn hiệu và quyết định mua của người mua ở hai loại thị trường có khác nhau. Nhiệm vụ của các nhà quản trị bán hàng là nhận thức được sự khác biệt đó. Một tiến trình mua hàng TLSX hoàn chỉnh bao gồm tám bước cơ bản: Nhận thức vấn đề Mô tả khái quát nhu cầu Đánh giá các đặc tính của hàng hóa Tìm kiếm các nhà cung ứng Yêu cầu chào hàng Lựa chọn nhà cung ứng Làm các thủ tục đặt hàng Đánh giá kết quả thực hiện */ Giai đoạn nhận thức vấn đề: Tiến trình mua mới được bắt đầu từ lúc có ai đó trong công ty ý thức được vấn đề (hay nhu cầu) cần phải mua sắm TLSX. Nhận thức vấn đề có thể xảy ra như một kết quả của kích thích bên trong hoặc bên ngoài. Những kích thích bên trong bao gồm: - Quyết định sản xuất sản phẩm mới của công ty làm nảy sinh nhu cầu về trang thiêt bị, nguyên liệu mới hoặc bổ sung. - Đổi mới, trang bị lại tài sản cố định. - Thay đổi những người cung ứng mới, khi phát hiện ra những lợi thế về giá cả, chất lượng vật tư hoặc dịch vụ... so với những người cung ứng cũ. Những tác nhân bên ngoài bao gồm: - Do tác động chào hàng của người cung ứng qua triển lãm, quảng cáo, và những hình thức khác làm nảy sinh ý tưởng mới cho công ty. - Do ý tưởng mới xuất phát từ đối thủ cạnh trạnh. Qua những kích thích bên trong và bên ngoài này, nhu cầu về TLSX có thể nảy sinh từ những hoạt động chào hàng và những hoạt động xúc tiến bán khác của người cung ứng TLSX. Đây là những yếu tố mà người bán có thể kiểm soát được và cũng là tác động chủ yếu mà người bán cần phải tập trung nỗ lực của mình để người mua TLSX bước tiếp sang giai đoạn tiếp theo một cách nhanh chóng. */ Giai đoạn mô tả khái quát nhu cầu Sau khi ý thức được nhu cầu, người mua TLSX bắt tay vào việc xác định đặc tính chung của hàng háo để xác định mặt hàng và số lượng cần mua. Với các hàng TLSX đã được tiêu chuẩn hóa cao, vấn đề mô tả nhu cầu sẽ không gặp khó khăn. Song với những TLSX đã được tiêu chuẩn hóa cao, vấn đề mô tả nhu cầu sẽ không gặp khó khăn. Song với những TLSX phức tạp, giá trị lớn, việc mô tả nhu cầu thường có sự tham gia của nhiều thành viên liên quan đến việc sử dụng và đánh giá hiệu suất của những TLSX dó như: các kỹ sư, chuyên gia kỹ thuật, người sử dụng... Họ cần phải tiến hành nghiên cứu và xếp hàng các chỉ tiêu theo tầm quan trọng của chúng đối với việc sản xuất sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Các chỉ tiêu được họ tiến hành xếp hạng bao gồm: độ tin cậy, giá cả, dịch vụ và nhwgnx tiêu chuẩn mong muốn khác liên quan đến mua và sử dụng TLSX cho nhu cầu sản xuất. Trong giai đoạn này, thường người mua hàng TLSX có nhu cầu rất lớn về các thông tin liên quan đến hàng hóa haowcj dịch vụ mà họ định mua. Vì vậy, vai trò của người chào hàng rất quan trọng. Sự giúp đỡ tận tình trung thực trong việc giúp người mua xác định nhanh chóng và chính xác nhu cầu sẽ gây ấn tượng tốt đẹp trong việc lựa chọn người cung ứng ở giai đoạn tiếp theo. */ Giai đoạn đánh giá các đặc tính của hàng hóa Việc đánh giá các đặc tính TLSX được thực hiện bởi một nhóm các chuyên gia kỹ thuật do ban lãnh đạo công ty quyết định. Nhiệm vụ của ho là dựa vào việc phân tích giá trị (phân tích hiệu quả - chi phí) để xác định ưu thế của hàng hóa TLSX không chỉ ở phượng diện kỹ thuật mà cả phương diện kinh tế. Trong quá trình phân tích, người mua hàng TLSX thường tập trung vào những vấn đề chính sau đây: - Những giá trị mà việc sử dụng TLSX đó có thể đem lại. - Tương quan giữa chi phí cho việc sử dụng TLSX và giá trị mà nó đem lại. - Nhu cầu sử dụng có cần đến tất cả các đặc tính mà hàng hóa đó có hay không? - Nhãn hiệu nào đáp ứng đầy đủ nhất các yêu cầu của sử dụng? - Có thể tự sản xuất TLSX cần sử dụng được hay không? Tự sản xuất có rẻ hơn đi mua không? - Có thể lựa chọn các mặt hàng đã tiêu chuẩn hóa để sử dụng được không? - Mối quan hệ giữa việc trang bị công nghệ mới hoặc bổ sung công nghệ mới có tương xứng với hiệu quả sử dụng TLSX mua sắm, xét theo quy mô không? - Có thể tìm kiếm được nhwgnx người cung ứng được coi là tốt ( chất lượng dịch vụ, giá cả...) - Có người mua nào được TLSX với giá mà các nhà cung cấp chào hàng? Các vấn đề nói trên được người mua sử dụng như là công cụ ( tiêu chuẩn) của việc lựa chọn nhãn hiệu, người cung ứng. Vì vậy, những nhà quản trị bán hàng TLSX cần phải căn cứ vào tiêu chuẩn này để định vụ sản phẩm của mình trên thị trường. Khi đã chọn được thị trường mục tiêu và định vị được sản phẩm, tiếp đến phải tìm đến những ảnh hưởng quan trọng nhất để giới thiệu, quảng cáo... các đặc tính của sản phẩm mà khách hàng mục tiêu mong đợi. Chẳng hạn, với khách hàng mong muống TLSX đem lại chất lượng hảo hạng cho đầu ra thì người cung ứng TLSX phải chứng tỏ họ đang cung cấp các đầu vào hảo hàng. Còn đối với khách hàng đang tìm kiếm khả năng giảm chi phí sản xuất đầu ra, người cung ứng cần phải nhấn mạnh lợi thế về kinh tế do việc sử dụng TLSX qua việc so sánh tổng hợp và hiệu quả... */ Giai đoạn tìm người cung ứng Ở giai đoạn này, người mua hàng TLSX cố gắng phát hiện những người cung ứng thích hợp nhất. Họ tiến hành phân tích các công ty cung ứng hàng TLSX dựa vào các nguồn thông tin khác nhau. Nguồn thông tin cơ bản thường được người mua hàng TLSX sử dụng bao gồm: - Các ấn phẩm thương mại ( sổ tay thương mại), quảng cáo, niên giám điện thoại, triển lãm.... - Qua mạng internet - Trực tiếp tiếp xúc với người cung ứng - Thông tin nội bộ ( thông qua báo cáo của bộ phận thu mua...) Kết quả của việc phân tích là xếp hạng các nhà cung ứng thuộc diện có ”khả năng lựa chọn”. Tùy vào loại TLSX mà các tiêu chuẩn liên quan đến việc lựa chọn nhà cung cấp được xắp xếp theo thứ tự khác nhau. Để đảm bảo cho các hoạt động bán hàng của mình đạt được hiệu quả cao, các nhà cung ứng hàng TLSX cần phải có tác động vào công ty mua TLSX là bằng mọi con đường cung cấp cho người mua đầy đủ các thông tin về sản phẩm, về danh tiếng của công ty, về chất lượng, dịch vụ, về kinh nghi._.ệm và năng lực của công ty, về khả năng đáp ứng các cầu kỹ thuật của TLSX... Các hoạt động khuyến mại cũng được coi là có ảnh hưởng quan trọng đến việc họ có được đưa vào danh sách “diện những người cung ứng được lựa chọn” hay không? */ Giai đoạn lựa chọn nhà cung ứng Trong giai đoạn này, các thành viên của “trung tâm mua” sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng các bản chào hàng và lựa chọn người cung ứng. Họ không chỉ phân tích, xem xét năng lực kỹ thuật, mà còn có khả năng thực hiện hợp đồng và dịch vụ sau khi bán ( giao hàng đúng hẹn, phương thức thanh toán thuận lợi và dịch vụ cần thiết khác) của các công ty cung ứng đang cạnh tranh nhau. Phương thức phân tích, xem xét thường được các “trung tâm mua” TLSX áp dụng là : Liệt kê các thuộc tính mà họ yêu cầu và mong đợi ở phía người cung ứng; xác định tầm quan trọng của từng thuộc tính ( bằng phương pháp cho điểm). Họ sẽ căn cứ vào bảng phân tích đánh giá này để lựa chọn nhà cung ứng hấp dẫn nhất. Thuộc tính và tầm quan trọng của mỗi thuộc tính mà các thành viên của “trung tâm mua” sử dụng để phân tích tùy thuộc vào loại TLSX mà họ định mua và vào yêu cầu mà họ muốn có khi sử dụng TLSX. Song nhìn chung năm thuộc tính sau đây thường được họ quan tâm lựa chọn nhà cung ứng hấp dẫn nhất: Tiêu chuẩn hiệu suất Tiêu chuẩn kinh tế (giá cả và chi phí liên quan đến việc mua sắm) Tiêu chuẩn thích hợp (mức độ thuận lợi trong việc hợp tác mua bán giữa hai bên). Tiêu chuẩn thích nghi (sự thích ứng của người cung ứng về những thay đổi trong cầu của người mua). Tiêu chuẩn pháp lý (những ràng buộc về mặt pháp luật cần được xem xét). Căn cứ vào năm tiêu chí trên, người mua sẽ cho điểm từng tiêu chí đối với người cung ứng và sẽ chọn ra người cung ứng có số điểm trung bình cao nhất. Nhưng trước khi có quyết định sau cùng về việc lựa chọn nhà cung ứng, có thể một số người mua vẫn tiếp tục thương lượng. Và rất nhiều trường hợp quyết định của họ phụ thuộc vào kết quả của sự thương lượng này. Cũng có nhiều công ty mua TLSX chọn nhiều nhà cung ứng để tránh sự lệ thuộc và rủi ro trong công việc mua sắm. Những xu thế lựa chọn đã nêu trên được coi là những hướng dẫn quan trọng trong việc lựa chọn chiến lược bán hàng để cạnh tranh với các đối thủ cung ứng khác. */ Giai đoạn làm các thủ tục đặt hàng Đây là bước người mua thực hiện các thủ tục đặt hàng với người bán. Phần lớn công việc thực hiện trong bước này mang tính chất nghiệp vụ do các nhân viên mua hàng chuyên nghiệp cùng với các đại diện bán hàng chuyên nghiệp trao đổi và ký kết các hợp đồng mua bán theo những kỳ hạn hai bên cùng thỏa thuận. Trong bước này, cả hai bên đều cố gắng cụ thể hóa các điều kiện và yêu cầu liên quan đến việc mua bán như: số lượng, quy cách, phẩm chất, giá cả, danh mục đặt hàng, các loại hình dịch vụ, phương thức thời hạn giao hàng và thánh toán, những ràng buộc thực hiện hợp động... Điểm quan trọng nhất mà người mua quan tâm là việc ký kết hợp đồng mua - bán dễ dàng hay khó khăn? Sự đáp ứng của người bán về những điều họ muốn điều chỉnh như thế nào? Vì vậy, phía người bán giúp đỡ người mua soạn thảo một cách nhanh chóng, chính xác đơn đặt hàngcùng với những cam kết đáp ứng với nhu cầu của người mua có thể coi là lợi thế của họ sơ cới các nhà cung ứng cạnh tranh. Không chỉ ở lần mua hiện tại mà quan trọng hơn là ở những lần mua tiếp theo. */ Đánh giá thực hiện Đây là bước cuối dùng trong tiến trình mua sắm hàng hóa TLSX. Trong giai đoạn này, người mua tiến hành xem xét việc thực hiện của bên bán. Để duy trì được khách mua cho những hợp đồng tiếp theo, người bán phải biết được mức độ hài lòng của người mua về các hoạt động mua bán mà hai bên đã ký kết và thực heienj. Họ phải tiên liệu được các tiêu chuẩn mà người mua sử dụng để đánh giá chất lượng cũng như nỗ lực của họ và tìm cách thỏa mãi các nhu cầu mà người mua mong đợi. Để biết được thái độ của người mua hàng TLSX, các công ty cung ứng thường sử dụng phương pháp tiếp xúc trực tiệp và yêu cầu bên mua cho biết những ý kiến đánh giá của họ. Trên đây ta đã đi sâu phân tích tám giai đoạn của tiến trình mua hàng TLSX cho tình huống mua để giải quyết cho các nhiệm vụ mới. Trong những tình huống “mua lặp lại có sự thay đổi” hoặt “ mua lặp lại không có sự thay đổi”, người mua có thể bỏ bớt một số giai đoạn hoặc cũng có thể bổ xung những giai đoạn khác và quá trình mua của họ. Nhiệm vụ của các công ty cung ứng hàng TLSX là phải xác định được mô hình của từng tiến trình mua trong tình huống mua cụ thể. Thị trường và hành vi mua của các doanh nghiệp thương mại Xét trên nhiều phương diện, hành vi mua của hoanh nghiệp thương mại cũng giống như người mua là doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy, ta chỉ đi sâu phân tích một số khác biệt quan trọng trong hành vị mua của hai loại khách hàng này. . Thị trường các doanh nghiệp thương mại và các đặc tính cơ bản Thị trường người mua là các doanh nghiệp thương mại bao gồm tất cả các tổ chức mua hàng hóa để bán lại hoặc cho thuê nhằm mục đích kiếm lời. Nói một cách cụ thể hơn họ chính là nhwgnx người bán sỉ và bán lẻ các loại hàng hóa và dịch vụ. Thị trường doanh nghiệp thương mại có những đặc trưng cơ bản sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp thương mại đảm nhận khối lượng hàng hóa luân chuyển lớn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội của nước ta năm 2008 là..... tỷ đồng, năm 2009 là... Thứ hai, các doanh nghiệp thương mại phân bố phân tán hơn các doanh nghiệp sản xuất, nhưng tập trung hơn những người tiêu dùng cá nhân. Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp thương mại theo đuổi là “bán lại để kiếm lời”. Vì vậy, khi họ mua có thể xem như họ đóng vai trò giống như những người mua hàng TLSX. Hàng hóa mà họ lựa chọn mua do người mua lại của họ quyết định chứ không phải chính bản thân họ. Thứ tư, danh mục và chủng loại hàng hóa họ mua sắm rất phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng họ có thể mua “tất cả những gì mà họ bán được” để kiếm lời. . Hành vi mua của các doanh nghiệp thương mại Các doanh nghiệp thương mại có các quyết định mua khác với các doanh nghiệp mua sắm TLSX để sản xuất. Bởi vì họ đóng vai trò là người địa hiện mua cho các khách hàng của họ. Khi lựa chọn mua hàng hóa họ phải xem những sản phẩm có thu hút được khách hàng của họ không? Và từ đó quyết định kinh doanh những mặt hàng nào? Mua của công ty bán nào? Phải đưa ra những thương lượng gì về giá cả và các điều kienj mua khác? Trong các quyết định nói trên, quyết định lựa chọn danh mục mặt hàng để kinh doanh đóng vai trò quan trọng nhất. Nó xác định chỗ đứng của doanh nghiệp thương mại trên thị trường và việc lựa chọn các nhà cung ứng cho danh mục hàng hóa của họ. Các doanh nghiệp thương mại thường chọn một trong bốn chiến lược “Lựa chọn danh mục mặt hàng kinh doanh sau đây”: Thứ nhất, chiến lược kinh doanh chủng loại hàng hóa riêng biệt. Họ chỉ mua và bán một loại hàng hóa, chỉ có một người sản xuất. Chẳng hạn một người bán lẻ nào đó chỉ bán sản phẩm thiết bị điện của công ty Alphanam... Thứ hai, chiến lược kinh doanh theo chiều sâu. Kinh doanh nhiều mặt hàng tương tự do nhiều nhà sản xuất, chẳng hạn như người trung gian kinh doanh thiết bị điện với nhiều nhãn hiệu. Thứ ba, chiến lược kinh doanh theo chiều rộng, doanh nghiệp kinh doanh một chủng loại có nhiều mặt hàng có liên quan với nhau. Ví dụ : doanh nghiệp thương mại kinh doanh thiết bị điện và các phụ kiện đi kèm dùng cho việc lắp đặ hoặc thay thế sửa chữa một hệ thống điện... Thứ tư, kinh doanh hỗn hợp. Mặt hàng kinh doanh bao gồm nhiều chủng loại khác nhau. Kinh doanh theo kiểu siêu thị là một trong những điển hình cho chiến lược kinh doanh này. Quyết định về doanh mục hàng hóa kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại đưa người cung ứng hàng hóa vào những tình huống cạnh tranh khác nhau, buộc người cung ứng phải có những chiến lược marketing – mix phù hợp với từng quyết định của họ. Nếu người trung gian (doanh nghiệp thương mại) chọn chiến lược “kinh doanh theo chiều sâu”. Họ sẽ đưa các nhà cung ứng vào thế cạnh tranh giữa các nhãn hiệu của loại hàng hóa tương tự nhau. Trong trường hợp này, nỗ lực marketing mà người cung ứng phải là giữ được vị trí của mình và tìm cách lấn vị trí của nhãn hiệu khác. Ai là người thực hiện việc mua hàng cho các tổ chức là các doanh nghiệp thương mại? Câu trả lời này tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của họ có quy mô như thế nào, với hình thức kinh doanh? Trong các công ty lớn, việc mua hàng kinh doanh do những người có trình độ chuyên nghiệp phụ trách. Họ được đào tạo và tổ chức giống như các trung tâm mua TLSX của các doanh nghiệp. Còn trong các công ty nhỏ hoặc hộ gia đinh, người chủ thường đảm nhiệm việc lựa chọn và mua hàng hóa. Với các công ty kinh doanh lớn, người tham gia quyết dịnh việc mua sắm hàng hóa còn tùy thuộc vào hình thức tổ chức kinh doanh như: cửa hàng tổng hợp siêu thị, người đại lí. Với các nhà cung ứng, để bán được hàng hóa, nhiệm vụ của họ là phải biết được những ai tham gia vào tiến trình mua, để việc chào hàng của họ thực hiện đúng đối tượng. . Một số đặc trưng trong hành vi mua của các doanh nghiệp thương mại Đối với các mặt hàng mới, các bước của tiến trình mua mà doanh nghiệp thương mại thực hienj cũng giống như những người mua hàng TLSX. Trong mỗi giai đoạn của tiến trình mua doanh nghiệp thương mại cũng chịu những tác động của các yếu tố ảnh hưởng như doanh nghiệp sản xuất. Tuy nhiên, do mục đích (động cơ) mua của doanh nghiệp thương mại khác với doanh nghiệp sản xuất, nên trong việc mua hàng kinh doanh của mình doanh nghiệp thương mại đã bộc lộ một số quan tâm khác biệt. Sau đây là một số xu thế của hành vi mua khác. */ Với những loại hàng hóa thông thường, doanh nghiệp thương mại căn cứ vào lượng hàng tồn kho để thực hiện các đơn đặt hàng tiếp theo. Việc lựa chọn người cung ứng họ căn cứ vào mức độ hài lòng về hàng hóa, sự phục vụ và các điều kiện khác mà người cung ứng đem lại cho họ. */ Doanh nghiệp thương mại luôn căn cứ vào sự biến động về doanh số và mức lời mà họ đạt được làm căn cứ thỏa thuận với người cung ứng về giá cả. So với hàng tư liệu sản xuất, sự biến động của số lượng hàng mua, giá cả diễn ra thường xuyên hơn vì cầu về mặt hàng mà doanh nghiệp thương mại kinh doanh kém ổn định hơn cầu các mặt hàng TLSX. */ Ngoài yếu tố giá cả, doanh nghiệp thương mại còn lựa chọn một số tiêu chuẩn để ra quyết định lựa chọn người cung ứng như: Sự hấp dẫn của hàng hóa với người tiêu thụ, những hứa hẹn của chương trình quảng cáo và xúc tiến bán mà người cung ứng áp dụng cho tiêu thụ, các điều kiện hỗ trợ và những ưu đãi mà người cung ứng danh cho họ (tiền thưởng, cung cấp phương tiện hỗ trợ cho bán hàng...). */ Xu thế phổ biến hiện này, năng lực kinh doanh của người bán ngày càng được hoàn thiện. Là người trực tiếp xúc tiến với người tiêu thụ cộng với sự hỗ trợ của các phương tiện tiên tiến như máy bán hàng tự động, vi tính nối mạng Internet... doanh nghiệp thương mại có những bước tiến đáng kể trong kỹ thuật mua và bán. Nhiều doanh nghiệp thương mại đạt tới quy mô kinh doanh khổng lồ. Sản phẩm của nhiều người cung ứng đã đem nhãn hiệu của những doanh nghiệp thương mại, chịu sự chi phối của họ. Từ những khác biệt trên cho thấy các công ty cung ứng hàng hóa cho các trung gian không thể coi họ là các khách hàng thuần túy theo đúng nghĩa của thuật ngữ này, mà phải coi họ như những “đại diện” của mình đối với tiêu thụ. Quan hệ giữa người cung ứng và người trung gian phải là quan hệ hợp tác. Chiến lược marketing - mix mà người cung ứng soạn thảo không thể không tính đến những hoạt động đóng góp của lực lượng trung gian. Qua lực lượng trung gian, người cung ứng còn có thể tiếp nhận một cách đầy đủ, chính xác sự biến đổi của thị trường như cầu thị trường, các hoạt động của đối thủ cạnh tranh. Thị trường và hành vi mua của các tổ chức nhà nước Thị trường các tổ chức Nhà nước bao gồm những tổ chức của Chính phủ và các cơ quan địa phương, mua hay thuê những mặt hàng cần thiết để thực hiện những chức năng cơ bản theo sự phẩn công của Chính quyền. Chính phủ các cơ quan các cấp là người tiêu thụ rất lớn. Phần chi tiêu ngân sách mà các tổ chức Nhà nước các cấp dành cho hoạt động của mình dưới hình thức hàng hóa hay dịch vụ hàng năm rất cao. Với tư cách là người tiêu thụ hàng hóa, các tổ chức nhà nước được những người cung ứng hàng hóa và dịch vụ đặc biệt quan tâm. Cũng giống như thị trường các doanh nghiệp thương mại, thị trường các tổ chức Nhà nước xét trên nhiều phương diện giống thị trường các doanh nghiệp sản xuất. Vì vậy không nhất thiết phải trình bày lại các vấn đề đã đề cập. Song để đạt được sự thành công trên thị trường các tổ chức Nhà nước, người cung ứng hàng hóa cho họ phải nhận dạng được các nét khác biệt về người ra quyết định mua, các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua và tiến trình mua thông qua việc giải đáp các câu hỏi cơ bản: Ai là người tham gia vào thị trường các tổ chức Nhà nước? Họ phải thông qua các quyết định mua nào? Có những ảnh hưởng quan trọng nào tới người mua hàng của cá tổ chức nhà nước? Các tổ chức nhà nước thông qua các quyết định mua hàng như thế nào? Các tổ chức Nhà nước bao gồm các tổ chức dân sự ( các bộ, ban ngành tổ chức hành chính các cấp), các tổ chức quân sự (Bộ quốc phòng, Binh chủng, quân chủng và các tổ chức quân sự các cấp); các trường học, bệnh viện... Mỗi năm các tổ chức Nhà nước phải chi phí nhiều tỷ đồng để mua sắm hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của mình. Các tổ chức nói trên thực hiện các nhiệm vụ khác nhau, song hoạt động của các tổ chức này đều mang tính chất phi thương mại. Thể thức, thủ tục mua bán của họ mang tính chất riêng biệt mà người cung ứng phải nghiên cứu. Khi mua sắm hàng hóa và dịch vụ, mỗi tổ chức nhà nước cần phải thông qua hàng loạt các quyết định: Mua các loại hàng hóa dịch vụ nào? Trong mỗi loại số lượng mua là bao nhiều? Mua của người cung ứng nào? Chi phí mua sắm là bao nhiều? Cần yêu cầu các dịch vụ nào sau khi mua? Vì bị giới hạn về tài chính (chỉ được phép chi tiêu theo quy định của Nhà nước) nên các quyết định mua của các tổ chức Nhà nước dựa trên cơ sở có thể giảm tối đa phần chi tiêu của ngân sách dành cho họ. Chính vì vật, các khách hàng là các tổ chức Nhà nước luôn có xu hướng tìm kiếm các nhà cung ứng đáp ứng được yêu cầu của họ với chi phí rẻ nhất. Cũng như các khách hàng tổ chức khác, khi mua sắm hàng hóa các tổ chức Nhà nước cũng chịu chi phối của các nhân tố: Môi trường, tổ chức, tương quan cá nhân và cá nhân những người tham gia tiến trình mua. Điều nổi bật trong việc mua sắm của các tổ chức Nhà nước là họ bị giám sát chặt chẽ của cả những tổ chức thanh tra nhà nước và công chúng. Vì thế, để thuận lợi cho việc kiểm tra và giám sát, việc mua sắm của các tổ chức nhà nước phải thực hiện rất nhiều thủ tục giấy tờ và các nguyên tắc hành chính phức tạp và điều đó sẽ gây ra khó khăn hoặc chậm tiến độ cho hoạt động mua bán. Để hỗ trợ cho hoạt động mua bán giữa những người cung ứng và các tổ chức Nhà nước, người mua của các tổ chức Nhà nước thực hiện tiến trình quyết định mua của mình theo cách thức tương đối phổ biến như sau: Khi nhân thức được nhu cầu, các tổ chức Nhà nước tiến hành việc thông tin mô tả các nhu cầu của họ và các phương thức mua một cách công khai cho tất cả các đối tượng cung ứng. Có hai phương thức mua mà các tổ chức thường áp dụng là:1- Đấu thầu công khai và 2- Hợp đồng dựa vào thương lượng. Khi sử dụng phương thức đấu thầu công khai, các tổ chức mua của Nhà nước yêu cầu những nhà cung ứng có trình độ chuyên môn gửi đơn chào hàng, mô tả chi tiết về nội dung mua bán và các điều kiện giao dịch. Hợp đồng thường được trao cho những người có giá chào hàng thấp nhất. Trong trường hợp này, người cung ứng phải cân nhắc khả năng đáp ứng các yêu cầu của người mua về hàng hóa bao gồm: những yêu cầu về đặc tính kỹ thuật, giá cả, các yêu cầu về giao hàng... để thắng thầu. Khi sử dụng phương thức hợp đồng theo các kết quả thương lượng, tổ chức mua là Nhà nước thường làm việc với một hay nhiều công ty và tiến hành thương lượng trực tiếp để ký hợp đồng mua bán với một công ty trong số đó theo các điều kiện đã được hai bên nhất trí. Phương pháp này thường được sử dụng cho các dự án phức tạp, đòi hỏi những chi phí lớn về việc nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm, mức độ rủi ro cao và trong các trường hợp không có sự cạnh tranh thực sự. Việc thi hành hợp động được kiểm soát thường xuyên và trong trường hợp người cung ứng thu được lợi nhuận quá mức thì hợp đồng có thể được xem xét lại. Nhiều công ty cung ứng hàng cho các tổ chức của Chính phủ, do một số nguyên nhân, đã không áp dụng những nguyên tắc marketing trong hoạt động của mình. Vì cho rằng tổng chi phí cho các cơ quan Nhà nước do các quan chức dân cử xác định. Chính sách mua sắm của các cơ quan Nhà nước tập trung chú ý vào vấn đề giá cả. Nên những người cung ứng chỉ tập trung nỗ lực tối đa trong lĩnh vực công nghệ với mục địch giảm chi phí sản xuất. Và một khi các đặc tính của hàng hóa đã được trình bày tỉ mỉ trong những yêu cầu kỹ thuật thì sự phân biệt hàng hóa không còn là yếu tố marketing nữa. Còn đối với phương pháp đấu thầu công khai thì quảng cáo và các phương pháp bán hàng cá nhân không còn ý nghĩa đặc biệt nữa. Song ngày càng có nhiều công ty bắt đầu thành lập những bộ phân chuyên trách marketing, chịu trách nhiệm về công tác cung ứng cho các cơ quan Nhà nước. Họ muốn phối hợp công tác chào hàng và chuẩn bị các bản chào hàng trên một sơ sở khoa học hơn, chứ không chỉ hưởng ứng sáng kiến của các tổ chức Nhà nước, tự mình đưa ra những dự án cho các tổ chức đó, thu thập thông tin cạnh tranh và soạn thảo một chương trình thông tin thiết thực hơn để tuyên truyền về uy tín của công ty. Vai trò của việc nghiên cứ hành vi mua của khách hàng tổ chức đối với công tác quản trị bán hàng của doanh nghiệp. Nghiên cứ hành vi mua của khách hàng tổ chức là công việc với mục đích tìm hiểu những đặc điểm về nhwgnx người ảnh hưởng mua chủ yếu, quá trình mua của họ diễn ra như thế nào, những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua của họ, những tiêu chuẩn nào được những ảnh hưởng mua dùng làm căn cứ chủ yếu để quyết định lựa chọn nhãn hiệu cũng như nahf cung ứng... Tất cả những thông tin này có vai trò rất lớn đối với công tác quản trị bán hàng của doanh nghiệp. Có thể nêu một số vai trò cụ thể của nó như sau: Thứ nhất, nghiên cứu hành vi mua của khách hàng tổ chức giúp doanh nghiệp biết được những cơ sở vững chắc nhằm xây dựng được một chiến lược bán hàng hợp lý. Thật vậy, để đạt được hiệu quả trong hoạt động bán hàng, doanh nghiệp nhất thiết phải đạt được hiệu quả trong hoạt động bán hàng, doanh nghiệp nhất thiết phải đạt được hiệu quả trong tất cả các bước của một quá trình quản trị bán hàng như: xác định mục tiêu chiến lược bán hàng, quy định loại nhân sự bán hàng cần thiết, mô hình tổ chức lực lượng bán hàng, quy mô lực lượng bán hàng, xây dựng khu vực bán, tuyển chọn, đào tạo huấn luyện lực lượng bán, chế độ thù lao, động viên khuyến khích và giám sát lực lượng bán... Cuộc nghiên cứu hành vi mua của khách hàng tổ chức sẽ đem lại kết quả như: “trung tâm mua” của mỗi tổ chức có bao nhiêu thành viên, ai là người có ảnh hưởng mua chủ yếu, những đặc điểm cá nhân của từng thành viên, mối quan hệ cá nhân giữa cá thành viên trong “trung tâm mua”, những tiêu chuẩn mua nào được khách hàng tổ chức sử dụng trong quá trình mua của họ... Căn cứ trên những thông tin này, nhà quản trị bán hàng của doanh nghiệp sẽ xây dựng được một chiến lược bán hàng đạt được hiệu quả trong tất cả các nội dung của quá trình quản trị bán hàng. Chẳng hạn, căn cứ vào các đặc điểm về hành vi mua của khách hàng tổ chức, kết hợp với các chiến lược marketing mà doanh nghiệp theo đuổi, nhà quản trị bán hàng của doanh nghiệp có thể xây dựng được một mục tiêu chiến lược bán hàng phù hợp. Khi đã có một mục tiêu chiến lược bán hàng, nhà quản trị bán hàng sẽ có cơ sở để xác định loại nhân sự bán hàng nào cần thiết, mô hình tổ chức lực lượng bán cũng như quy mô của lực lượng này như thế nào để phù hợp với kiểu chiến lược thị trường mà doanh nghiệp đã lựa chọn theo đuổi. Lực lượng bán hàng sẽ phải được tuyển chọn đào tạo, huấn luyện sao cho có thể nắm bắt được các đặc điểm về hành vi mua của khách hàng. Có như vậy thì các xúc tiến bán hàng của doanh nghiệp mới có hiệu quả và có thể thỏa mãn tối đa những nhu cầu và mong muốn của nhóm khách hàng mà doanh nghiệp có ý định phục vụ. Thứ hai, hoạt đọng bán hàng sẽ không đem lại hiệu quả nếu không có các hoạt động marketing – mix hỗ trợ cho nó. Nghiên cứ hành vi mua của khách hàng tổ chức giúp doanh nghiệp có cơ sở để phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu. Đây chính là hoạt động marketing – mix hỗ trợ cho hoạt động bán hàng đạt được hiệu quả cao. Người làm thị trường, cả công nghiệp và tiêu dùng, tư lâu đã nhận thấy rằng thị trường không chỉ bao gồm những khách hàng heienj tại và tương lại với nhu cầu và mong muốn như nhau. Một công ty có thể bán sản phẩm và divhj vụ của mình cho hàng trăm khách hàng tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, những nhu cầu và mong muốn của những người ảnh hưởng mua của các tổ chức đó không nhất thiết là như nhau. Hơn nữa, không có marketing - mix nào cần thiết hấp dẫn tất cả các loại khách hàng tổ chức. Dường như thị trường được cấu tạo bơi các nhóm nhỏ hơn hay các khúc khác nhau ở một vài cách thức, vì vậy các marketing – mix riêng bietj được cần đến. Khả năng phân khúc thị trường là yếu tố chủ chốt để xác định được một chiến lược marketing hiệu quả Thị trường hàng TLSX được mua bởi các khách hàng tổ chức là không đồng nhất, phức tạp và thường khó tiếp cần vì có quá nhiều sản phẩm và vì sự đa dạng của khách hàng. Các khách hàng hiện tại và tiềm năng trong hành vi mua hàng hóa và dịch vụ. Trong một thị trường, có thể có những sự khác biệt rõ ràng trong chính sách các quá trình thủ tục mua và các động cơ mua thường là khác biệt từ tổ chức này đến tổ chức khác. Bởi vậy, chỉ có dựa trên cơ sở những nghiên cứu về hành vi mua của các khách hàng tổ chức này thì người phụ trách marketing mới xác định được những sự khác biệt này để phân chia khách hàng hiện tại và tiềm năng thành các phân nhóm tương tự và có thể xây dựng nên các chiến lược marketing có hiệu quả. Khi tiến hành phân khúc thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu, các nhà marketing thường phân chia quá trình phân khúc thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất hay còn gọi là giai đoạn phân khúc vĩ mô tức là phân khúc giữa các tổ chức. Trong giai đoạn này, khách hàng được phân khúc vĩ mô tức là phân khúc giữa các tổ chức. Trong giai đoạn này, khách hàng được phân khúc bởi các tính chất địa lý, mua thuộc về tổ chức và các tính chất khác. Giai đoạn thứ hai, giai đoạn phân khúc vi mô, liên quan vào phên khúc trong một tổ chức, phân khúc vi mô cố gắng tìm ra sự tương tẹ giữa các tổ chức khách hàng bằng quan điểm các quá trình mua, những người ảnh hưởng mua liên quan và các động cơ của người mua, các phong cách ra quyết định. Giai đoạn hai sử dụng các tính chất khó nắm bắt hơn và liên quan chặ chẽ đến việc sử dụng những cố gắng nghiên cứu về hành vi mua của khách hàng Thứ ba, nghiên cứu hành vi mua của khách hàng tổ chức giúp doanh nghiệp kế hoách hóa chiến lược bán hàng. Thật vậy, kế hoạch hóa và chiến lược phát triển là một trong những nhiệm vụ chính của nhà quản trị bán hàng trên thị trường khách hàng tổ chức. Sự xác định những thị trường mục tiêu và sau đó phát triển marketing – mix đối với những thị trường đó là tất cả những gì liên quan đến quản trị bán hàng. Sản phẩm và dịch vụ phải được phát triển phù hợp với nhu cầu của những ảnh hưởng mua ở những thị trường mục tiêu. Chính những sản phẩm và dịch vụ này phải được phân phối sao cho chúng đến đúng những người cần và đúng lúc họ cần chúng. Tiếp đến những sản phẩm và dịch vụ này phải được xúc tiến có hiệu quả thông qua những người bán hàng, quảng cáo và xúc tiến bán hàng, sao cho những khách hàng của thị trường mục tiêu nhận thức được. Cuối cùng, giá cả phải được xác định sao cho người mua và người bán đều có thể chấp nhận được. Liên kết tất cả những hoạt động đó cấu tạo nên lĩnh vực của kế hoạch hóa và chiến lược phát triển. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HÀNH VI MUA B2B VÀ HOẠT ĐỘNG MARKETING TẠI CÔNG TY CƠ ĐIỆN ALPHANAM 2.1 Giới thiệu sơ lược về công ty 2.1.1 Tập đoàn Alphanam group ALPHANAM – group là tập đoàn đầu tư, sản xuất công nghiệp, xây lắp công nghiệp, xây dựng giao thông và phát triển hạ tầng tại Việt Nam. CÁC GIÁ TRỊ Nhân lực : Là tài sản quý nhất, là sức mạnh của ALPHANAM. Đoàn kết và cống hiến là giá trị nhân bản của công ty Sản phẩm : Các sản phẩm của ALPHANAM là kết quả của sự sáng tạo, sự tự nỗ lực không ngừng và là hình ảnh của công ty. ALPHANAM quyết tâm phục vụ tốt nhất, đem đến cho khách hàng những sản phẩm tốt nhất với giá cả cạnh tranh nhất. Lợi nhuận : Là thước đo sự hoàn hảo đối với sản phẩm, là sự đánh giá của khách hàng cho những nỗ lực của ALPHANAM CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG Chất lượng là sự sống còn : Không ngừng phấn đấu để vươn tới sự hoàn thiện đáp ứng kỳ vọng của khách hàng về sản phẩm mà thương hiệu ALPHANAM. Hướng về khách hàng : ALPHANAM làm việc với lòng tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, coi trọng sự đa dạng của từng cá nhân và bản sắc của từng địa phương. Hợp tác cùng tồn tại : ALPHANAM duy trì mối quan hệ các bên cùng có lợi, cùng phát triển đối với các đại lí, đối tác kinh doanh, các nhà cung cấp và các doanh nghiệp. Đoàn kết là sức mạnh : ALPHANAM làm việc với lòng tin cậy và tôn trọng lẫn nhau, coi trọng sự đa dạng của từng cá nhân và bản sắc của từng địa phương. Liên khiết, trung thực : Là cách xử sự có văn hóa, có trách nhiệm đối với bản than và công ty, là yếu tố then chốt để cùng tồn tại và phát triền. 2.1.2 Công ty cổ phần Alphanam cơ điện Với 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất, lắp đặt và cung cấp thiết bị cho các ngành năng lượng và công nghiệp tại Việt Nam, Công ty cổ phần ALPHANAM Cơ Điện- đơn vị thành viên của ALPHANAM Group đã và đang khẳng định vị thế dẫn đầu của mình trong lĩnh vực sản xuất, xây lắp và tổng thầu cơ điện trên thị trường toàn quốc. Đội ngũ của công ty với hơn 400 cán bộ, kỹ sư và công nhân lành nghề đã và đang được đào tạo qua các chương trình chính khóa và qua thực tế thực hiện các dự án trọng điểm của Việt Nam, luôn không ngừng phấn đấu cho sự phát triển của mình và đất nước. Khối hệ thống điện ALPE do Phó Tổng Giám Đốc Thạc sỹ/ MBA Nguyễn Trần Đại phụ trách. Khối hệ thống điện ALPE là khối chủ lực của công ty- Khối Hệ thống điện chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu và lợi nhuận, với hơn 30 cán bộ và kỹ sư được đào tạo chuyên sâu đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ALPHANAM Cơ Điện. Hiện tại khối hệ thống điện đang thực hiện các công việc thiết kế, cung cấp, lắp đặt, thí nghiệm và đưa vào vận hành các trạm điện có điện áp từ 110kV trở lên các trạm điện như : Trạm 110kV Nhị Chiểu – Hải Dương, trạm 110kV Thăng Long – Quảng Ninh, trạm 110kV Xi măng Hòa phát…, phấn đấu trong 5 năm tới mở rộng phạm vi thực hiện các dự án đến 220kV. Ngành nghề kinh doanh - Buôn bán tư liệu sản xuất (chủ yếu là hàng vật liệu xây dựng, thiết bị điện và vật liệu điện).  - Đại lý mua, đại lý bán, ký gửi hàng hoá. Thi công xây lắp các công trình điện có cấp điện áp đến 35KV.  - Sản xuất các sản phẩm cơ khí, cơ điện (sản xuất lắp ráp tủ bảng điện trung và hạ thế, tủ điều khiển, hòm công tơ, tủ chiếu sáng, chi tiết cơ khí, phụ tùng linh kiện ngành điện và các loại sản phẩm cơ khí tiêu dùng khác. - Sản xuất máy móc và chuyển giao công nghệ các dây chuyền công nghiệp. Sản xuất các sản phẩm từ vật liệu Composite.  - Sản xuất, lắp đặt thang máy. Cho thuê mặt bằng, nhà xưởng sản xuất. Xây dựng và lắp đặt các công trình hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật trong các khu công nghiệp, đô thị.  - Xây dựng các công trình dân dụng và công nghiệp.  - Đầu tư, xây dựng và kinh doanh phát triển nhà.  - Giải phóng mặt bằng tổ chức san nền bằng các khu vực dân dụng công nghiệp.  - Buôn bán máy móc, thiết bị. Xúc tiến thương mại và quảng cáo.  - Buôn bán và sửa chữa ô tô.  - Thi công xây lắp các công trình điện có cấp điện áp từ 110 KV trở lên.  - Thiết kế tổng thể mặt bằng, kiến trúc, nội ngoại thất: đối với công trình xây dựng dân dụng công nghiệp.  - Thiết kế quy hoạch các công trình. Thiết kế phong cảnh, sân vườn.  - Tư vấn dự án, lập dự án. Sản xuất và kinh doanh sơn, bột bả và vật liệu xây dựng. Cho thuê: xe ô tô, phương tiện vận chuyển. SƠ ĐỒ TỔ CHỨC – ORGANIZATION ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ BAN KIỂM SOÁT Cty CP TM&DV Đông Á Tích hợp hệ thống Điện lực Nhà máy composite Hành chính nhân sự Công nghiệp Nhà máy cơ điện Tài chính- Kế toán Dân dụng Kinh doanh & Marketing Nghiên cứu & phát triển VPĐD tại tp. Đà Nẵng TỔNG GIÁM ĐỐC VPĐD tại tp. HCM Trung tâm Tổng thầu cơ điện Công ty thành viên Nhà máy cơ điện Phòng ban trực thuộc Văn phòng đại diện Xây lắp NGUỒN TỪ TƯ LIỆU CỦA CÔNG TY ALPHANAM 2.2 Chính sách và hoạt động marketing tại công ty 2.2.1 Chính sách đối với người lao động Chế độ làm việc Thời gian làm việc: Công ty tổ chức làm việc 8h/ngày, 5 ngày/tuần, nghỉ trưa 1h, từ 12h đến 13h đối với các bộ phận văn phòng. Đối với cán bộ và công nhân trực tiếp sản xuất, Công ty đang tổ chức sản xuất theo ca, đảm bảo đáp ứng nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Khi có yêu cầu đột xuất về tiến độ sản xuất, kinh doanh các nhân viên Công ty có trách nhiệm làm thêm giờ. Công ty đảm bảo quyền lợi cho người lao động theo quy định của nhà nước và có đãi ngộ thoả đáng cho người lao động. Thời gian nghỉ phép, nghỉ lễ, Tết, nghỉ ốm thai sản được bảo đảm theo đúng quy định của Bộ luật lao động. Điều kiện làm việc: Văn phòng làm việc, nhà xưởng khang trang, thoáng mát. Đối với lực lượng lao động trực tiếp, Công ty trang bị đầy đủ các phương tiện bảo hộ lao động, vệ sinh lao động, các nguyên tắc an toàn lao động được tuân thủ nghiêm ngặt. Chính sách tuyển dụng, đào tạo Tuyển dụng: mục tiêu tuyển dụng của Công ty là thu hút nhân tài, ưu tiên người lao động có kinh nghiệm, đáp ứng được yêu cầu công việc và có năng lực. Định kỳ dựa trên nhu cầu lao động, Công ty tiến hành thi tuyển với các tiêu chí đặt ra gồm: trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học đạt yêu cầu từ khá trở lên. Đào tạo: Công ty chú trọng đẩy mạnh các hoạt động đà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31697.doc