BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Vũ Thị Kỳ Hương
HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 66 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là hoạt động đặc trưng của con người, là cách thức để các cá nhân trong cộng
đồng gắn kết và phát triển. Trong xã hội hiện đại, giao tiếp ngày càng đóng vai trò quan
111 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2234 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Hành động bác bỏ trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng. Cùng
với sự phát triển không ngừng của các liên ngành và một số phân ngành ngôn ngữ học như Ngôn
ngữ học tâm lý, Ngôn ngữ học xã hội, Ngôn ngữ học tri nhận, Ngữ dụng học v.v…, việc nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến giao tiếp trở thành một yêu cầu cấp thiết không chỉ của lý thuyết các
ngành khoa học mà còn của nhu cầu thực tế. Hành động bác bỏ là một trong những hành động giao
tiếp phổ biến và thông dụng của con người. Nó thúc đẩy tính hiệu quả và chuyển tải mong muốn đạt
được một nhu cầu nào đó trong giao tiếp. Do đó, nghiên cứu loại hành động này sẽ có nhiều ý nghĩa
thực tiễn và lý luận hữu ích để nghiên cứu các vấn đề khác có liên quan của hoạt động giao tiếp.
Mặt khác, xã hội càng phát triển, các mối quan hệ giao tiếp liên nhân ngày càng trở nên
phong phú về nội dung, phức tạp về cấu trúc, đa dạng về hành vi, đòi hỏi mỗi một cá nhân cần phải
biết cách vận dụng để xử lý khéo léo các nguồn thông tin được tiếp nhận. Bên cạnh hành động chấp
thuận, đồng tình được sử dụng một cách dễ dàng, tự nhiên, hành động bác bỏ lại chứa đựng nhiều
yếu tố tinh tế, phức tạp. Đây là hành động giao tiếp cần thiết trong các cuộc hội thoại; nắm vững và
sử dụng nhuần nhuyễn những hành động ngôn từ này sẽ giúp người giao tiếp đạt được hiệu quả giao
tiếp cao hơn.
Vấn đề nghiên cứu hành động bác bỏ thực ra không còn quá mới mẻ. Đã có một số công
trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính chất riêng lẻ, chỉ
xuất hiện rải rác trong những công trình nghiên cứu về ngữ pháp học, ngữ dụng học. Trên cơ sở sự
quan tâm sẵn có đối với đề tài, thực trạng nghiên cứu hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu
toàn diện về vấn đề này, chúng tôi đã chọn hành động bác bỏ tiếng Việt làm đề tài cho luận văn cao
học.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của chúng tôi là những hành động bác bỏ được sử dụng trong
môi trường giao tiếp bằng ngôn ngữ, trong hội thoại giữa người và người. Để củng cố thêm những
nhận định và tính xác thực, chúng tôi sử dụng hệ thống dữ liệu trong các văn bản hội thoại hiện đại,
các tác phẩm truyện ngắn, truyện dài của một số tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, môi trường
giao tiếp không chỉ đơn thuần liên quan tới yếu tố ngôn ngữ, mà còn có thể xuất hiện một số yếu tố
phi ngôn ngữ khác như điệu bộ, cử chỉ, hành động nên những hành động thể hiện nhận định hoặc
hành động bác bỏ phi lời cũng là đối tượng nghiên cứu bổ sung của chúng tôi.
Do giới hạn của đề tài, chúng tôi không đi sâu vào việc đi tìm đặc trưng văn hóa trong hành
động bác bỏ, hay đối chiếu hành động bác bỏ giữa các cộng đồng ngôn ngữ khác nhau mà chỉ tập
trung chủ yếu vào việc nghiên cứu, tìm hiểu những phương thức, phương tiện bác bỏ đặc trưng
được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt. Ngoài ra, chúng tôi cũng cố gắng đi tìm một quan niệm
thống nhất về hành động bác bỏ vốn đang ít nhiều gây tranh cãi trong giới ngôn ngữ học ngày nay.
3. Lịch sử vấn đề
Trước khi đi vào tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề hành động bác bỏ, chúng tôi không thể
không đề cập đến lịch sử nghiên cứu hành động ngôn ngữ - tiền đề lý thuyết quan trọng nhất của đối
tượng nghiên cứu.
Lý thuyết hành động ngôn từ, hay còn gọi là lý thuyết hành động lời nói được đánh cột mốc
ra đời kể từ công trình nghiên cứu “Những cơ sở lý thuyết của ký hiệu” (1938) của nhà ký hiệu học
Mỹ Charles W. Morris. Lần đầu tiên ông đã xem xét ký hiệu trên ba bình diện: Kết học, Nghĩa học
và Dụng học (tức Ngữ dụng học). Tuy nhiên, Ngữ dụng học chỉ phát triển rực rỡ trong vòng ba thập
niên gần đây. Sự phát triển của nó kéo theo sự phát triển của các lý thuyết mới như Lý thuyết hành
động ngôn từ.
Nếu Morris là người khởi xướng những tiền đề nghiên cứu thì chính John L.Austin là người
đã xây dựng nền móng cho lý thuyết hành động ngôn từ với công trình được công bố sau khi ông
qua đời hai năm “How to do things with words”. Tên gọi của công trình đã hé mở cho chúng ta thấy
lý thuyết hành động ngôn từ chính là lý thuyết về các hoạt động ngôn ngữ, trong đó, tác giả đã điều
chỉnh lại một cách sâu sắc mối quan hệ giữa ngôn ngữ và lời nói vốn được tách bạch từ thời của
Ferdinand de Saussure.
Hành động bác bỏ được Austin xếp vào lớp lớn thứ năm trong năm lớp lớn: 1. Phán xét; 2.
Hành xử; 3. Cam kết; 4. Ứng xử; 5. Bày tỏ. Ông coi bác bỏ, cũng như khẳng định, phủ định, giải
thích, minh họa, báo cáo, luận điểm…là những hành động dùng để trình bày các quan niệm, dẫn dắt
các lập luận, giải thích từ ngữ, đảm bảo sự quy dẫn. Sự phân loại này, ngay chính Austin cũng cảm
thấy còn có những điều không thỏa mãn, có chỗ chồng chéo, có chỗ mơ hồ không rõ ràng. Searle
bằng cách bổ sung thêm tiêu chí về nội dung, lại phân chia hành động bác bỏ này vào lớp thứ ba
được gọi là lớp chi phối, song song với các hành động như mệnh lệnh, thách thức, hỏi, yêu cầu, đề
nghị v.v…
Từ thời Aristotle, hành động phủ định, bác bỏ đã được chú ý nghiên cứu, nhưng dưới góc
nhìn của của Triết học và Logic học. Phải đến những năm 70 của thế kỷ XX trở lại đây, hành động
bác bỏ mới được xem như một trong những đối tượng nghiên cứu của Ngữ dụng học- một phân
ngành của Ngôn ngữ học và dần được đề cập trong các công trình nghiên cứu độc lập.
Panfilov trong công trình Grammar and Logic đã tiến hành khảo sát hành động phủ định
theo hướng logic-cú pháp và nhận định sự phủ định như một hiện tượng ngôn ngữ phổ quát. A. M.
Peshkovsij là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ câu phủ định toàn bộ và phủ định bộ phận. Ông cho
rằng câu phủ định toàn bộ là câu mà vị ngữ bị phủ định, câu phủ định bộ phận là câu mà những bộ
phận khác bị phủ định.
Tại Việt Nam, trước đó trong ngôn ngữ học truyền thống, câu biểu thị hành động bác bỏ
được xem như một dạng câu song song bên cạnh những dạng như miêu tả, khẳng định, trần thuật…,
đôi khi nó được đồng nhất với câu phủ định. Lúc bấy giờ, câu chỉ được đánh giá là đúng hay sai về
mặt ngữ nghĩa theo tiêu chuẩn logic, và được phân tích chủ yếu dựa trên cơ sở cấu trúc hoặc những
khái niệm về chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ, trạng ngữ v.v… Những trợ từ, tiểu từ bị xem nhẹ và được coi
là những từ hư. Vì thế, những dạng câu như:
- Con ở nhà.
- Con ở nhà chứ bộ.
- Con ở nhà mà.
đều được coi là đồng nhất về cấu trúc và ngữ nghĩa. Do đó, các công trình nghiên cứu về hành động
bác bỏ theo quan điểm này hầu không có nhiều ý nghĩa, vì phần đông các câu có hành động bác bỏ,
hoặc bị đồng nhất vào những kiểu cấu trúc nhất định, hoặc không được nghiên cứu đến. Sau này,
khi đối tượng nghiên cứu được tiếp cận dưới những nền tảng lý thuyết mới của logic học, ngữ dụng
học, hành động bác bỏ dần được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu.
Hầu hết các công trình ngữ pháp, ngữ nghĩa trong giới Việt ngữ học đều đề cập ít nhiều đến
một đối tượng rất gần gũi và có khi thống nhất với hành động bác bỏ là câu phủ định. Từ Trần
Trọng Kim, Lê Văn Lý, Hoàng Tuệ, Nguyễn Đức Dân, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê… tới
Hoàng Trọng Phiến, Nguyễn Đức Dân, Nguyễn Thị Hai… đều đề cập đến đối tượng nghiên cứu
này.
Công trình nghiên cứu có ý nghĩa lý thuyết quan trọng phải kể đến là bài viết “Phủ định và
bác bỏ” của Nguyễn Đức Dân đăng trên tạp chí Ngôn ngữ số 1-1983 và sau này được đề cập hoàn
chỉnh hơn trong công trình Logic- Ngữ nghĩa- Cú pháp. Tác giả là người đầu tiên có xu hướng xác
định ranh giới giữa phủ định và bác bỏ, phần nào phá bỏ thế nhập nhằng trước đây về hai loại hành
động này. Các tác giả khác, với những cách tiếp cận khác nhau, ít nhiều đề cập đến những mặt đa
diện về phương thức và cách thức của loại hành động này. Tiêu biểu có Hành động từ chối trong
tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Thị Hai, Cách biểu hiện hành động từ chối lời cầu khiến bằng các
phát ngôn lảng tránh của Trần Chi Mai. Một số khác lại chú trọng vào việc nghiên cứu chiến lược
dùng trong giao tiếp như Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt của Nguyễn
Quang Ngoạn, Một số kiểu hồi đáp tích cực của hành vi chê của Nguyễn Thị Hoàng Yến. Đi theo
con đường đối chiếu có các tác giả như Dương Bạch Nhật, Siriwong Hongsawan. Nếu Dương Bạch
Nhật chỉ tiến hành đối chiếu một khía cạnh nhỏ của hành động bác bỏ (khía cạnh lịch sự trong từ
chối lời mời) thì Siriwong Hongsawan trong bài báo “Đối chiếu hành động bác bỏ gián tiếp thông
qua hàm ý trong giao tiếp tiếng Thái và tiếng Việt” đã chủ trương đi sâu nghiên cứu phương thức
bác bỏ bằng hàm ý, cụ thể ở đây là đối chiếu giữa tiếng Thái và tiếng Việt.
Vấn đề của lập luận và lịch sự cũng được khá đông các nhà nghiên cứu quan tâm như
Nguyễn Đức Dân, Lê Thị Kim Đính, Lê Tô Thúy Quỳnh, Dương Bạch Nhật, Nguyễn Như Ý,
Nguyễn Thị Hoàng Yến… Ngoài các công trình dưới dạng sách, báo, tạp chí, một số luận án, luận
văn cao học viết về bác bỏ, lập luận, lịch sự cũng đã xuất hiện.
Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy, hành động bác bỏ không phải là một đề tài mới mà đã
được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận ở các góc độ cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một công
trình nào xem xét hành động này một cách toàn diện dưới góc độ Ngữ dụng học, và tìm hiểu đầy đủ
những phương thức và phương tiện biểu hiện hành động này. Đó cũng chính là cơ sở để chúng tôi
quyết định bắt tay vào thực hiện đề tài.
4. Các phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, ngoài những thủ pháp, phương pháp nghiên cứu khoa học chung như
thu thập ngữ liệu, phân loại ngữ liệu…, luận văn sử dụng chủ yếu các phương pháp nghiên cứu sau.
- Phương pháp phân tích ngữ dụng học. Trên cơ sở nguồn dữ liệu đã thu thập, chúng tôi tiến
hành thao tác phân tích từng cơ sở dữ liệu về các mặt như mục đích phát ngôn, hành động
ngôn từ, hình thức biểu hiện, ngữ cảnh v.v… nhằm đem lại những nhận định có tính xác thực
và khái quát nhất của từng vấn đề. Đây cũng là cơ sở giúp chúng tôi tiến hành xây dựng các
biểu thức bác bỏ thông qua hệ thống dữ liệu thu thập được.
- Phương pháp miêu tả. Vì đối tượng nghiên cứu là dạng hành động ngôn từ phổ biến và tồn
tại trong giao tiếp, do đó trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải tiến hành mô tả các dạng
hành động bác bỏ từ hiện tượng tới bản chất, những nội dung rút ra từ miêu tả sẽ là cơ sở để
chúng tôi xây dựng các tiêu chí phân loại cũng đồng thời giúp chúng tôi giải thích, minh họa
cho các nhận định của mình.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu. Chúng tôi tiến hành so sánh - đối chiếu trên cơ sở dữ liệu
và giữa các quan điểm nghiên cứu. Đối với dữ liệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu từng dữ
liệu với nhau, hoặc giữa nhóm dữ liệu này với nhóm dữ liệu khác, từ đó tìm ra những điểm
khác biệt hoặc tương đồng về hình thức hoặc nội dung, trên cơ sở đó có thể rút ra các nhận
định cần thiết. Việc đối chiếu bổ sung với một số hành động bác bỏ của các nền văn hóa khác
cũng là một cách thức để chúng tôi đi tìm bản sắc riêng trong hành động bác bỏ của tiếng
Việt.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học
- Vận dụng những thành tựu về lý thuyết ngữ dụng học nói chung và lý thuyết hành động ngôn
từ, lý thuyết hội thoại, lý thuyết lập luận nói riêng vào việc khảo sát một hành động ngôn từ
cụ thể là hành động bác bỏ trong tiếng Việt.
- Xác định rõ khái niệm bác bỏ, phân biệt với các hành động ngôn từ khác trong giao tiếp.
- Kết quả của luận văn có thể góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý thuyết như phương thức
bác bỏ, mối quan hệ giữa hành động bác bỏ với vấn đề lập luận, vấn đề lịch sự.
b) Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn có thể là tài liệu hỗ trợ cho quá trình học và dạy tiếng Việt trong nhà trường.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo về các chiến thuật trong giao tiếp, về hành động bác bỏ.
- Hệ thống cứ liệu, tuy không đồ sộ về quy mô, nhưng đã được chọn kỹ lưỡng để người đọc có
thể hình dung về các phương thức, cách bác bỏ khác nhau trong tiếng Việt.
- Tư liệu và nội dung của luận văn này, có thể là tài liệu tham khảo cho các công trình khác
liên quan về ngữ dụng học, đặc biệt là các công trình có liên quan tới hành động bác bỏ.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm 133 trang chính văn, một danh mục các tài liệu tham khảo và tài liệu
trích dẫn, một phụ lục gồm 70 trang. Phần nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương.
Chương Một có tiêu đề Những cơ sở lý thuyết. Trong chương này, luận văn trình bày ba
vấn đề lớn: lý thuyết hành động ngôn từ; lý thuyết hội thoại; tổng quan về hành động bác bỏ bao
gồm các tiêu chí phân biệt bác bỏ và phủ định, khái niệm, mục đích của hành động bác bỏ.
Chương Hai có tiêu đề Hành động bác bỏ trong tiếng Việt và vấn đề lịch sự, vấn đề lập
luận. Chương này nghiên cứu về mối quan hệ qua lại giữa bác bỏ và lịch sự, bác bỏ và lập luận,
cách thức để tăng hiệu quả và thể hiện sự lập luận cũng như lịch sự trong bác bỏ.
Chương Ba có tiêu đề Phương thức, phương tiện biểu hiện của hành động bác bỏ trong
tiếng Việt. Chương này nghiên cứu về những phương thức thực hiện hành động bác bỏ, và các
phương tiện hình thức và biểu thức được sử dụng để bác bỏ.
Chương 1:
NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. LÝ THUYẾT HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
1.1.1. Khái niệm hành động ngôn từ
Hoạt động giao tiếp là hoạt động có tính chất liên nhân diễn ra hai chiều: liên hệ xuôi từ
người phát tới người nhận, và liên hệ ngược từ người nhận đến người phát. Nếu chỉ có một nửa quá
trình thì sẽ không tạo thành hoạt động giao tiếp. Ngôn ngữ phục vụ cho việc giao tiếp như một cách
thức chuyển tải thông điệp và tạo hành động, do đó nó luôn chịu ảnh hưởng của người khác ngoài
chủ thể giao tiếp, đồng thời cũng mang tính quy ước xã hội sâu sắc.
Mối liên hệ giữa hành động ngôn từ và hành động của con người mang tính hiển nhiên,
không thể bỏ qua và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học liên quan, đặc biệt trong
ngữ dụng học, vấn đề này là một đối tượng nghiên cứu quan trọng.
Người ta cho rằng người đặt tiền đề, đi tiên phong cho lý thuyết này là nhà triết học người
Áo L.Wittgenstein với quan niệm đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và coi việc sử
dụng ngôn từ như một loại hành động. Nếu L.Wittgenstein là người đặt tiền đề thì chính J. Austin
và J. Searle là người đã đặt nền móng vững chắc cho đối tượng nghiên cứu này. Các ông tin rằng
ngôn ngữ không chỉ được dùng để thông báo hay miêu tả cái gì đó mà nó thường được dùng để
“làm cái gì đó”, để thực hiện hành động. Với công trình nghiên cứu “How to do thing with words”,
J. Austin đã bày tỏ quan điểm “To say is to do something”, (nói là làm). Ông cho rằng để thực hiện
một hành động ngôn từ thì việc nói ra điều đó phải đi với việc làm một điều gì đó, tức phải tác động
một điều gì đó vào thực tế. Từ luận điểm trên, lý thuyết về hành động ngôn từ đã dần được xây
dựng. Khi chúng ta nói một câu, nghĩa là chúng ta thực hiện một hành động nào đó, chẳng hạn như
cầu khiến, van xin, bác bỏ, chúc mừng, tuyên bố… Chúng được xem là những hành động ngôn từ
và được thực hiện bằng ngôn từ.
Ví dụ 1
- Con chào mẹ ạ.
- Tôi tuyên bố khai mạc hội nghị.
- Tôi chúc anh sớm khỏi bệnh.
Dễ dàng nhận ra đây là những câu chào, câu tuyên bố, câu chúc phổ biến. Chính những
động từ như “chào, tuyên bố, khuyên” đã thể hiện lần lượt các hành động trên. Người ta gọi những
động từ này là động từ ngữ vi (hay ngôn hành).
J. Austin đã coi hành động ngôn từ là một thể thống nhất của ba loại hành động: hành động
tạo lời; hành động tại lời; hành động mượn lời, hay còn gọi là hành động sau lời.
Cái khó trong lý thuyết hành động ngôn từ là một phát ngôn thường không chỉ thực hiện
một hành động mà thực hiện hai hoặc ba hành động và không phải bao giờ cũng dễ dàng quyết định
được là phát ngôn ấy thực hiện hành động nào hoặc những hành động nào bởi vì nội dung của hành
động có khi không phụ thuộc vào bản thân nội dung phát ngôn mà còn tùy thuộc vào văn cảnh nơi
phát ngôn nảy sinh.
Ví dụ 2
Đứa con mới đi học về:
- Thưa mẹ, con mới về ạ.
Hình thức là một câu thông báo sự tình, tuy nhiên, mục đích của phát ngôn trên không chỉ
là đưa ra một thông báo, mà đó là một lời chào lễ phép của người nhỏ tuổi so với người lớn tuổi.
1.1.2. Các hành động ngôn từ
Phân tích cụ thể hơn, hành động ngôn từ bao gồm những hành động cụ thể như sau.
(1) Hành động tạo lời
Đây là hành động sử dụng các chất liệu vật chất tạo nên ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp… để tạo nên một câu nói. Đây là một hành động thuần tính vật chất.
(2) Hành động tại lời
Hành động tại lời, hay còn được gọi là hành động ngôn trung là những hành động phát ra
một câu với nghĩa và sở chỉ xác định. Thực hiện hành động này tức là nói một điều gì đó và thực
hiện nó. Nó có thể tạo ra một lời tuyên bố, một lời chào, lời hứa… khi phát ra một câu nhờ hiệu lực
của những quy ước liên quan tới nó.
J. R. Searle khi nghiên cứu về hành động ngôn từ lại đặc biệt quan tâm đến người nói và
điều được nói. Dựa trên quan điểm và khắc phục những hạn chế trong lý thuyết của J. Austin, ông
đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Ông cho rằng: “Một hành động ngôn từ gián tiếp là
hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một hành động ngôn từ khác”. Nói cách
khác, một hành động tại lời được thực hiện gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác với
hai đặc điểm như sau.
- Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những hành động tại lời khác
nhau.
- Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp khác nhau.
Ví dụ 3
- Bố tôi sắp về rồi. Anh làm ơn đi ngay được không?
Ở ví dụ trên, hành động tại lời là hỏi, nhưng mục đích chính là để đề nghị, yêu cầu: Anh hãy
đi ngay đi.
J. R. Searle đưa ra 12 tiêu chí phân loại hành động ngôn từ, trong đó có 3 tiêu chí quan
trọng nhất như sau.
- Mục đích của hành động tại lời.
- Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực.
- Trạng thái tâm lý được biểu hiện.
Dựa theo đó, ông đã phân chia hành động ngôn từ ra làm 5 loại.
a) Khẳng định
- Mục đích của hành động tại lời: người nói phải chịu trách nhiệm về những giá trị chân lý của
mệnh đề được biểu đạt.
- Hướng thích nghi: từ hiện thực tới lời lẽ.
- Trạng thái tâm lý: tin tưởng vào tính đúng đắn, giá trị chân lý của điều được nói ra.
b) Cầu khiến
- Mục đích của hành động tại lời: nhằm để người tiếp nhận làm một việc gì đó.
- Hướng thích nghi: lời lẽ có trước, hiện thực thay đổi theo lời lẽ, do người tiếp nhận thực
hiện.
- Trạng thái tâm lý: người nói mong muốn điều mình cầu khiến sẽ được thực hiện.
c) Hứa hẹn
- Mục đích của hành động tại lời: người nói tự gán trách nhiệm cho mình là phải thực hiện một
hành động nào đó đã cam kết trước đó.
- Hướng thích nghi: từ lời nói tới hiện thực đều do người nói thực hiện.
- Trạng thái tâm lý: khi hứa hẹn trạng thái tâm lý không xác định, phụ thuộc vào từng hành
động hứa cụ thể.
d) Bày tỏ
- Mục đích của hành động tại lời: bày tỏ một trạng thái tâm lý nào đó.
- Hướng thích nghi: người nói làm cho lời lẽ thích nghi với hiện thực. Hiện thực xảy ra trước,
lời lẽ làm cho thích nghi.
- Trạng thái tâm lý: không xác định, phụ thuộc vào hành động ngôn từ.
e) Tuyên bố
- Mục đích của hành động tại lời: gây ra một sự thay đổi nào đó bằng lời tuyên bố.
- Hướng thích nghi: từ lời lẽ tới hiện thực, hiện thực xảy ra ngay sau khi hành động ngôn từ
được thực hiện.
- Trạng thái tâm lý: không xác định được nhưng các yếu tố của thể chế làm cho hành động
ngôn từ của người nói có giá trị.
(3) Hành động mượn lời
Hành động mượn lời là hành động thông qua câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình
cảm… của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay
mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác
nhau.
1.1.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ
Việc sử dụng lời nói trong hoạt động ngôn từ sẽ phải chịu những sự chi phối nhất định mà
L.Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn ngữ”, và J. Austin đưa ra quan điểm “nói là làm”, tức sử dụng
âm thanh để bộc lộ ra một nội dung hành động nào đó. Để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người
nói cần quan tâm đến các điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ, bởi để hành động được thực
hiện thì mỗi hành động ngôn từ phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người nghe thực hiện
một hành động nào đó theo đúng như mong muốn, suy nghĩ của mình thì người nói phải lựa chọn
cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận được
đích ngôn trung.
Đối với hành động ngôn từ tạo lời, các điều kiện sử dụng của nó liên quan đến ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp của một ngôn ngữ cấu tạo nên lời nói và có thể hiểu được đối với người nghe.
Người nói, khi phát ngôn, buộc phải tôn trọng tính hình thức và các quy tắc kết hợp của một ngôn
ngữ cụ thể. Đồng thời, cả hai bên đều phải có khả năng tiếp nhận và tạo thông tin, không bị những
hạn chế sinh lý như câm hay điếc hay không hiểu các mã ngôn ngữ mà cộng đồng tại nơi đó quy
định. Chẳng hạn, nếu ta đi ra nước ngoài và muốn trao đổi thông tin nào đó với người nước ngoài
(mua bán hay trao đổi hàng hóa v.v…), ta buộc phải hiểu rõ và sử dụng được những chất liệu ngôn
ngữ và các cách thức kết hợp đặc trưng chúng lại với nhau, khi đó hành động tạo lời mới có kết quả.
Đối với hành động tại lời, các hành động tại lời bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự
nhiên theo cộng đồng vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng riêng mà
Austin gọi là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này, Searle chia ra làm ba loại chính như sau.
- Điều kiện ban đầu: liên quan đến quan hệ của hai người, người nói và người nghe, tới những
ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe.
- Điều kiện chân thành: còn gọi là điều kiện hiện thực. Tập trung chủ yếu nói đến trạng thái
tâm lý của hành động mà người nói thực hiện. Yếu tố chân thành ở đây liên quan tới trạng
thái tâm lý đặc trưng, khác với điều kiện chân thực về mặt logic tức tính đúng sai của mệnh
đề được nói ra. Thông báo một điều gì đó cho người khác là phải tâm niệm rằng thông tin đó
là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp
hành. Dùng câu hỏi để tìm hiểu những thông tin mình chưa biết và thật sự muốn được biết về
thông tin đó chứ không phải là hỏi để xã giao, lấy lệ, hay mỉa mai, thực hiện hành động mời
mọc thì phải thực sự mong muốn người đối thoại tiếp nhận lời mời của mình.
- Điều kiện căn bản: là những điều kiện về trách nhiệm, sự ràng buộc với người nói hoặc
người nghe khi hành động đã được thực hiện. Đối với hành động ra lệnh, trách nhiệm thuộc
về người nhận lệnh. Đối với hành động mời mọc, điều kiện thiết yếu là người nghe sẵn sàng
chấp nhận lời mời mọc. Đối với hành động khuyên răn, điều kiện thiết yếu là người nghe
nhận thấy rõ giá trị của những lời khuyên răn và thực hiện một cách chủ động, tâm phục khẩu
phục lời khuyên ấy.
Trong hành động ngôn từ, tính cộng đồng không chỉ ảnh hưởng tới những yếu tố vật liệu
tạo nên ngôn ngữ, mà còn là một cách thức để hiểu rõ đích ngôn trung của lời nói.
Ví dụ 4
Hai cách thức hội thoại thể hiện một đích ngôn trung mời mọc, thúc giục người cùng bàn
hãy ăn uống thoải mái, tự nhiên của người Việt Nam và người Trung Quốc.
Người Việt: Ăn tự nhiên nhé.
Người Trung: Nĩmen màn chi.
Dịch sát nghĩa bề mặt của câu chữ, câu tiếng Trung có ý đối nghịch với câu tiếng Việt.
“Màn” có nghĩa là chậm, do đó, có thể hiểu là các bạn hãy ăn với tốc độ chậm lại, nhìn ở một
phương diện cụ thể, là đối ngược với cách thức ăn “tự nhiên” trong câu tiếng Việt, tức cứ ăn nhiều,
ăn thoải mái. Tuy nhiên, đích ngôn trung cuối cùng trong câu tiếng Trung lại thống nhất với câu
tiếng Việt, biểu lộ ý ngược lại nghĩa thực trên bề mặt câu chữ, là mời mọc các bạn hãy cứ ăn uống
tự nhiên đi.
Do đó, trong khi thực hiện các hành động ngôn từ, ta không thể bỏ qua các yếu tố ngữ cảnh
xung quanh, bao gồm yếu tố về môi trường, văn hóa và đặc trưng cộng đồng nơi câu nói được thực
hiện.
Dễ dàng nhận thấy hành động ngôn từ trong hoạt động giao tiếp nói chung, và đặc biệt hay
được nhắc tới trong các tác phẩm văn chương, thường bao hàm hai tầng ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là
“ý tại ngôn trung” tức ý ở trong lời, là ý tường minh của phát ngôn, được nói ra trực tiếp nhờ các
yếu tố ngôn ngữ như từ vựng, ngữ âm, câu, văn bản… Ý nghĩa thứ hai là “ý tại ngôn ngoại” tức ý ở
ngoài lời, là những tầng ý nghĩa mà người nghe phải dùng đến các thao tác suy ý và phải dựa vào
những yếu tố khác ngoài ngôn ngữ, vào văn cảnh, vào các quy tắc điều khiển hành động ngôn từ,
điều khiển lập luận, điều khiển hội thoại… mới nắm bắt được.
Ngoài ra, lý thuyết hành động ngôn từ của Searle còn đề cập đến các điều kiện khác như:
điều kiện xuất phát và tới đích, điều kiện nội dung mệnh đề… Những điều kiện này có tác động
không nhỏ vào hiệu quả giao tiếp trong hội thoại.
1.2. LÝ THUYẾT HỘI THOẠI
1.2.1. Khái niệm lý thuyết hội thoại
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người, là một trong những yếu
tố cơ bản dùng để phân tách con người ra khỏi những loại động vật khác trong tự nhiên. Giao tiếp
ngôn ngữ có hai dạng: giao tiếp một chiều, hay còn gọi là độc thoại; giao tiếp hai chiều: có bên nói
bên nghe và có sự phản hồi ngược trở lại lẫn nhau, đó là hội thoại. Hội thoại là hoạt động giao tiếp
phổ biến nhất, căn bản nhất của con người.
Vấn đề hội thoại được ngữ dụng học đặc biệt quan tâm. Hội thoại bao gồm ba loại chính.
- Song thoại (dialogue)
- Tam thoại (trilogue)
- Đa thoại (polylogue)
Lý thuyết về hội thoại được các nhà ngôn ngữ học, ngữ dụng học nghiên cứu chủ yếu tập
trung vào loại song thoại, vì loại hội thoại này có tính chất bao quát và mang hầu hết những đặc
trưng cơ bản của các loại hội thoại còn lại. Song thoại, đa thoại dù xảy ra ở quy mô như thế nào đi
nữa, cũng luôn được giữ ở trạng thái song phương đối thoại, tức có song song hai nguồn phát tín
hiệu và nguồn tiếp nhận tại cùng một thời điểm nói.
1.2.2. Những đặc điểm khái quát của cuộc hội thoại
(1) Những đặc điểm nội tại
- Tương tác qua lại: Sacks và Schegloff nêu nguyên tắc: trong cuộc thoại, mỗi lúc có người
nói và không nói đồng thời. Những người nói sẽ nói luân phiên nhau. Đó là nguyên tắc luân
phiên lượt lời.
- Sự liên kết: các lượt lời có liên kết với nhau và tạo ra sự liên kết hội thoại. Đó là nguyên tắc
liên kết hội thoại. Nguyên tắc này ảnh hưởng tới sự luân phiên lượt lời. Do đó, luân phiên
lượt lời không phải đi theo một thứ tự máy móc đơn thuần, hay lần lượt giữa những người
tham gia hội thoại, mà được xác định tự động, tự nhiên giữa những người tham gia trên cơ sở
tạo ra những lượt lời có sự liên kết.
- Tính mục đích: mọi cuộc thoại đều có mục đích, đều chứa đựng một hoặc nhiều chủ đề. Ở
mỗi một cá nhân lại tìm thấy những mục đích riêng.
- Tôn trọng nguyên tắc: Muốn cho cuộc thoại thành công, mỗi bên phải tôn trọng nguyên tắc
hội thoại và nguyên lý tế nhị.
(2) Những đặc điểm bên ngoài
Những đặc điểm bên ngoài được thể hiện ở ba phương diện: số lượng, quan hệ và chu cảnh.
- Về số lượng người tham dự. Mỗi cuộc thoại đều có một số người nhất định tạo thuận tiện cho
sự trao đổi. Số người tham dự hội thoại càng đông, thì tính chất tập trung vào một chủ đề
chính và không khí bổ sung, tán thưởng càng rõ nét.
- Về quan hệ giữa những người tham dự. Nguyễn Đức Dân cho rằng, “trong hội thoại, nói một
cách khái quát, không cần trước một quan hệ cá nhân. Quá trình hội thoại sẽ làm nên quan
hệ” (14 – tr.81). Chúng tôi nhận thấy quan hệ cá nhân không quyết định việc xảy ra hay
không xảy ra một hoạt động hội thoại, mà nó chỉ ảnh hưởng tới cấu trúc bên trong của cuộc
hội thoại: nội dung, không khí hội thoại v.v…
- Về chu cảnh của những cuộc hội thoại. Có hai phương diện chính là thời gian và không gian.
Về thời gian, những người tham dự có cùng một thời lượng. Thời lượng đó có thể không xác
định, cũng có thể được quy định nghiêm ngặt tùy vào từng ngữ cảnh. Ví dụ, một cuộc họp
bình bầu trong công ty có thể kéo dài cả ngày, hoặc một buổi tùy theo sự đơn giản hay phức
tạp của những nội dung đang bàn xét, nhưng một buổi làm thủ tục hành chính có thể quy
định thời lượng được phép đối với mỗi cuộc hội thoại giữa nhân viên nhà nước và mỗi một
công dân.
- Về không gian. Có những không gian khác nhau cho mỗi cuộc hội thoại, tuy nhiên, hầu như
không có hàng rào về không gian. Cuộc hội thoại có thể diễn ra trực diện khi hai người đối
diện nói chuyện trực tiếp với nhau, cũng có thể diễn ra ở một khoảng cách rất xa mà nhờ tiến
bộ khoa học kỹ thuật, người ta có thể thực hiện được như giữa người và người cách xa nhau
nửa vòng trái đất, giữa người ở mặt đất và người ngoài không gian vũ trụ…
1.2.3 Cấu trúc hội thoại
(1) Lượt lời
Lượt lời được đa số các nhà nghiên cứu coi như một đơn vị của hội thoại. Đó là một lần nói
xong của một người trong khi những người khác sẽ không nói, để rồi đến lượt một người tiếp theo
nói. Nếu có nhiều người khác nhau nói cùng một lúc, sẽ không xảy ra lượt lời, ngoại trừ những hành
vi xưng tụng, thề nguyền trong các lễ nghi tôn giáo.
Ví dụ 5
- Tôi nói đồng bào nghe rõ không?
- Rõ.
(Trích Tuyên ngôn độc lập)
Do mỗi lượt lời được xây dựng trên cơ sở lượt lời trước đó nên ta có sự luân phiên lượt lời
trong cấu trúc hội thoại. Cơ chế hoạt động của chúng chính là sự tranh lời và trao lời.
Trao lời là sự chuyển lời tự nhiên có ý thức chủ động của người đang giữ lời. Mỗi một
người đều có thể trực tiếp chuyển giao lượt lời cho một đối tượng xác định hoặc không xác định.
Trái với trao lời gọi là tranh lời hay ngắt lời, là những lời nói “xen ngang” vào giữa lượt lời
của người đang nói. Nguyên nhân có thể xuất phát từ sự nhầm tưởng họ đã nói xong, hoặc một phản
ứng tâm lý tức thời (tích cực hay tiêu cực). Lối nói tranh lời liên quan tới văn hóa, tập tục và quy
ước của từng dân tộc, chúng thường phản ánh những quan hệ tôn ti, những cương vị nào đó. Ví dụ ._.
thầy cô có quyền ngắt lời học sinh, cha mẹ có quyền ngắt lời con, thủ trưởng có quyền ngắt lời nhân
viên nhưng hiếm khi có trường hợp ngược lại ngoại trừ cuộc hội thoại đang nằm trong một hoàn
cảnh đặc biệt nào đó (quá bức xúc hoặc quá tức giận chẳng hạn). Trong một số ngữ cảnh đặc biệt,
tranh lời là cần thiết và được cho là không vi phạm các nguyên tắc về tính lịch sự, hay chất lượng
giao tiếp. Chẳng hạn, trong các phiên tòa tại Mỹ, luật sư bên nguyên, trong quá trình chất vấn nhân
chứng, có thể tranh lời nhân chứng ngay tại một nội dung thông tin mà anh ta cho là quan trọng để
có thể thuyết phục tòa và bảo vệ ý kiến bào chữa của anh ta.
Trong hội thoại, khoảng cách giữa các lượt lời cũng được chú ý làm sao để không quá kéo
dài, tạo ấn tượng trống rỗng và ngắt quãng quá trình giao tiếp. Thường khi giai đoạn “im lặng” này
kéo dài lâu hơn mức thường lệ, nó lại được xem như một chiến thuật giao tiếp được áp dụng một
cách cố ý vào trong quá trình giao tiếp. Chẳng hạn, nguyên tắc im lặng kiểu Nhật Bản, hoặc kiểu
Phần Lan trong đàm phán thương mại thường dễ làm cho người đối thoại cảm thấy bối rối, lúng
túng.
(2) Mở thoại - thân thoại - kết thoại
Mở thoại là những lời nói được sử dụng trong một lúc nào đó để người khác cảm nhận được
là sẽ có một hoặc một chuỗi những lời nói tiếp theo.
Ví dụ 6
Người vợ nói với chồng:
- Anh ạ.
Điều đó có nghĩa là người vợ đang có câu chuyện gì đó muốn nói với người chồng. Tuy
nhiên, lời mở thoại này có thực sự thành công hay không, tức có hoàn thành được vai trò mở thoại
của mình hay không lại còn phụ thuộc vào mức độ sẵn lòng của người tiếp nhận lời mở thoại.
Đối với lời mở thoại trên, ba người chồng khác nhau có thể có ba cách phản ứng khác nhau
như sau:
Người thứ nhất:
- Có chuyện gì vậy em? -> Lời mở thoại được xem là thành công, vì người chồng đã chấp nhận
lời mở thoại và đang giữ cho cuộc thoại tiếp diễn.
Người thứ hai:
- Anh đang bận bù đầu đây.-> Lời mở thoại được xem là thất bại, vì người chồng có thái độ
bất hợp tác và đã có hành động kết thúc cuộc thoại.
Người thứ ba:
- Anh đang bận nhưng có chuyện gì quan trọng không hả em? -> Người chồng này có thái độ
lấp lửng, nửa muốn tiếp tục cuộc thoại, nửa lại muốn kết thúc cuộc thoại. Thái độ nước đôi
này cho thấy cuộc thoại có tiếp diễn hay không sẽ phụ thuộc rất nhiều vào người mở thoại,
hay cụ thể hơn, là tầm quan trọng của nội dung vấn để sẽ được người mở lời nói tiếp sau đó
trong cuộc thoại.
Mở thoại - thân thoại - kết thoại được coi là một cấu trúc hoàn chỉnh, đầy đủ nhất của một
cuộc thoại. Tuy nhiên, trong thực tế, các cuộc thoại không phải khi nào cũng diễn ra một cách trình
tự và bài bản như vậy. Tùy vào mục đích giao tiếp và nội dung chuyển tải, cuộc thoại có thể đi đến
hoàn thiện một quy trình cũng có thể ngắt quãng tại một thời điểm nào đó của cuộc thoại.
(3) Cặp thoại
Khái niệm cặp thoại được hình thành từ chính bản chất của các lời thoại trong hội thoại. Các
hành động ngôn ngữ không đứng biệt lập nhau, hành động này kéo theo hành động kia, lượt lời này
tiếp ứng lượt lời kia trong một sự tương tác hội thoại.
Chúng ta hay bắt gặp các cặp thoại như sau: hỏi - đáp, chào - chào, đề nghị - đáp ứng, đề
nghị - bác bỏ…
Sau hoạt động mở thoại, người mở thoại sẽ mong đợi hành động tiếp nối cuộc thoại ngay
sau đó. Vai trò của lời mở thoại sẽ là định hướng nội dung ngữ nghĩa cho người thứ hai. Những
trường hợp đặc biệt như người ta cố ý vi phạm các phương châm hội thoại sẽ là những trường hợp
ngoại lệ không được tính đến ở đây. Lời mở thoại thường là câu hỏi, câu đề nghị, để tương ứng với
câu trả lời, câu đồng ý hay bác bỏ tạo thành một cặp thoại tương đối hoàn chỉnh và phổ biến.
Trong công trình nghiên cứu mang tên Ngữ dụng học (1988), tác giả Nguyễn Đức Dân có
đề cập đến hai yếu tố cấu trúc khác của cuộc thoại là lượt lời ưa dùng và lời chêm xen và coi đó
cũng là một chiến thuật giao tiếp. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với nhận định trên, và nhận thấy đây
cũng là một vấn đề thú vị cần được nghiên cứu trong một dịp khác. Lời chêm xen, trong một số ngữ
cảnh đặc biệt, cũng là một cách thức tạo ra sự bác bỏ.
Ví dụ 7
Khách:
- Cháu ngoan quá, mai cô cho cháu sang nhà chị chơi nhé.
Chủ nhà:
- Sáng ngày mai hả chị. Để em xem. Linh, sao lại vẽ đầy tường nhà thế kia. Mẹ nhắc hoài mà
vẫn chứng nào tật đấy. Đấy chị xem, đi đâu cũng phá thế đấy.
Theo logic thông thường, thì câu trả lời đã có sự xen ngang đột ngột của nội dung và đối
tượng tiếp nhận ngôn ngữ. Trong một lượt lời, vừa hướng đến hai cá nhân khác nhau. Tuy nhiên, đó
chính là chiến thuật “một mũi tên trúng hai đích”, vì người mẹ vừa nhắc nhở đứa con, vừa bày tỏ
thái độ từ chối không muốn cho đứa bé đi chơi.
1.3. KHÁI NIỆM BÁC BỎ, HÀNH ĐỘNG BÁC BỎ
Bác bỏ là một trong những loại hành động ngôn từ đặc trưng thường được sử dụng phổ biến
trong các quá trình giao tiếp. Tuy nhiên, vai trò của nó có phần ít được chú ý hơn so với các hoạt
động ngôn từ được phân chia theo mục đích nói khác như nghi vấn, cầu khiến, trần thuật, cảm thán.
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu trước đây, chúng tôi cố gắng hệ thống một số vấn đề lý
thuyết về hành động bác bỏ, làm căn cứ cơ sở cho các bước nghiên cứu cụ thể hơn của chúng tôi ở
các phần sau.
1.3.1. Khái niệm
Bác bỏ là một phương thức lập luận đã được chú ý ngay từ thời của Aristote. Nó gắn liền
với nghệ thuật hùng biện. Bác bỏ có mối quan hệ hữu cơ với lập luận và sự bảo vệ quan điểm của
cái tôi. Đó là một hành động phức tạp, phức hợp và có sự liên quan với nhiều hành động khác như
cầu khiến, nghi vấn, giải thích, cấm đoán, cảm thán… Chính sự phức tạp nội tại của hành động này,
mà người ta khó có thể sắp xếp bác bỏ vào làm một trong số những kiểu câu tiêu biểu theo đích
ngôn trung.
Bác bỏ là một vấn đề được nhiều bộ môn khoa học xã hội quan tâm và cũng là đối tượng
nghiên cứu quan trọng của một số ngành khoa học như Logic học, Ngữ dụng học. Logic học rất
quan tâm đến phủ định và bác bỏ và mối quan hệ của chúng với vấn đề lập luận.
Tuy nhiên, bác bỏ chỉ trở thành đối tượng chính thống của ngôn ngữ học kể từ khi có sự ra
đời của ngành Ngữ dụng học và bộ môn Phân tích diễn ngôn.
Bác bỏ về mặt giao tiếp, là một loại hành động có nguy cơ đe dọa thể diện của người nói
khá cao, vì bác bỏ, dưới góc độ nhẹ nhàng nhất, cũng là cách thức phủ định một vấn đề nào đó mà
người nói đồng tình, đặt ra nhưng người nhận không chấp thuận. Dưới áp lực này, khi thực hiện
hành động bác bỏ, người ta có nhiều hình thức bác bỏ khác nhau nhằm phù hợp với mục đích giao
tiếp, ngữ cảnh giao tiếp và đảm bảo khả năng bảo toàn thể diện cho cả đôi bên.
Khái niệm bác bỏ hiện nay cũng được sử dụng không nhất quán. Lý do là tùy theo đối tượng
khảo sát, mục đích khảo sát mà thuật ngữ này được các nhà logic học, logic học ngôn ngữ và ngữ
dụng học nhìn nhận rất khác nhau.
Phân tích theo phương thức chiết tự dựa trên từ điển Hoàng Phê, bác là gạt bỏ bằng lý lẽ
quan điểm, ý kiến của người khác, còn bỏ là không giữ lại, coi là đối với mình không có giá trị.
Cũng theo Hoàng Phê, bác bỏ là bác đi, gạt đi, không chấp thuận, ví dụ như bác bỏ ý kiến.
Cùng trường nghĩa với bác bỏ, chúng ta có các từ phản bác, phủ định, phủ nhận, phủ quyết,
cãi…
Có thể hình dung, bác bỏ là một hành động ngôn từ, ở đó người ta sử dụng lý lẽ của mình
để gạt bỏ quan niệm, nhận xét, đánh giá của người khác.
Một số nhà nghiên cứu có ý phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối. Trong bài
nghiên cứu “Hành động từ chối trong tiếng Việt hội thoại” (Nguyễn Thị Hai, Ngôn ngữ số 1-2001-
trang 1), tác giả cho rằng “Sự bác bỏ, chối, cãi chỉ xảy ra khi trước đó có sự khẳng định. Do vậy,
trong mối quan hệ với hành động hỏi, hành động bác bỏ, chối, cãi có liên quan với các câu có hình
thức hỏi mang nội dung khẳng định. Còn hành động từ chối không liên quan tới những câu hỏi loại
này”. Tuy nhiên, tác giả cũng thấy được sự nhập nhằng của hai loại hành động này khi chỉ rõ “Mặt
khác, hành động từ chối lại cũng có thể liên quan đến hành động bác bỏ nói chung. Bởi vì khi thực
hiện hành động từ chối, người đáp lời không tránh khỏi việc phải nêu lý do từ chối. Những tham
thoại có nội dung chỉ ra các lý do ấy chính là tiền đề kích thích hành động bác bỏ nảy sinh, có thể
là, tiếp ngay sau đó”.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng đã bắt gặp không ít các hiện tượng thuần tính
phủ định, tuy nó cũng nằm trong cặp thoại nhưng lại không có dấu hiệu của hành động bác bỏ.
Ví dụ 8
Bỗng anh người nhà về, nói:
- Thưa cụ, đích là chết rồi.
- Mày thấy tiếng khóc chưa?
- Chưa.
- Sao mày biết là chết?
- Con hỏi thăm.
- Thăm ai?
- Ngay chị cu Sứt ạ.
- Tốt. Thế mày không xui chị ta biện cái gì để đi trình làng à?
- Không ạ.
(21-tr.419)
Đoạn hội thoại chỉ đơn thuần là việc người mẹ đưa ra đề nghị mang tính lựa chọn và không
hề khẳng định bất cứ một điều gì, đưa ra một nhận định chủ quan nào. Do đó, lời thoại trả lời của
đứa con chỉ đơn thuần mang ý nghĩa phủ định nội hàm, tức thông báo, miêu tả một tình huống chứ
không hề có sự bác bỏ ý kiến của người mẹ trước đó.
Chúng tôi nhận thấy bên cạnh một số trường hợp nhập nhằng, thì yếu tố quan trọng nhất
phân biệt hành động bác bỏ và hành động từ chối là ở chỗ hành động bác bỏ chỉ xảy ra khi câu trước
hành động đó có ẩn chứa một ý kiến, một suy nghĩ, một quan điểm nào đó, có thể hiện thực trên bề
mặt câu chữ, có thể tiềm tàng trong các nội dung hàm ý, còn hành động từ chối xuất hiện trong
những lời thoại có tính lựa chọn. Trong những lời thoại ấy, chúng ta gần như không thể tìm ra được
bất cứ một sự khẳng định, một quan niệm hay một ý kiến cá nhân nào.
Tuy nhiên, cũng có những trường hợp rất nhập nhằng không thể phân tách trên bề mặt câu
chữ, mà phải dựa vào văn cảnh hoặc chỉ có những người trong cuộc đối thoại biết được.
Ví dụ 9
Tôi vừa nhai đậu phộng vừa trầm trồ:
- Nhà mày đẹp quá há?
- Ừ.
- Ba mẹ mày hiền quá hả?
- Ừ.
- Mày là con một hở?
- Không. Tao còn một đứa em gái. Nó học lớp mười một.
Đông Anh hí hửng khoe:
- Em tao dễ thương lắm. Người đẹp mà tên cũng đẹp. Tên nó là Đinh Lăng.
Tôi liếc vào trong nhà:
- Em mày ở đằng sau hở?
- Không. Nó đi mua đồ, lát về.
(11-tr.68)
Trong hai câu trả lời lần lượt cho câu hỏi “Mày là con một hở?” và “Em mày ở đằng sau
hở” nếu hiểu theo nghĩa hỏi đáp thông thường, không có hành động bác bỏ, vì nhân vật “tôi” không
biết, do đó không có dấu hiệu của một ý kiến hay một suy nghĩ, nhận định gì. Tuy nhiên, nếu đặt
nhân vật “tôi” vào hoàn cảnh đang ngờ ngợ, đang đoán mò những thông tin về nhà nhân vật “Đông
Anh”, và đang muốn khẳng định những điều mình đang suy đoán, thì hai câu trả lời lại chính là hai
hành động bác bỏ thông tin vừa được nêu ra.
Có thể thấy, để xác định hành động nào là bác bỏ, hành động nào không phải là bác bỏ,
không thể dựa vào bản thân hành động đó, mà phải dựa vào câu hội thoại trước nó. Và trong một số
trường hợp, đôi khi chúng ta còn phải dựa vào ngữ cảnh cụ thể bên ngoài câu, chữ nữa.
Do phạm vi của luận văn, chúng tôi sẽ không đi sâu vào nghiên cứu về hành động từ chối,
mà chỉ tập trung vào các vấn đề trọng tâm và xung quanh hành động bác bỏ.
1.3.2. Hành động phủ định1 và hành động bác bỏ2
Trong quá trình hành chức, các phán đoán về thuộc tính và quan hệ của các sự vật tất yếu
xảy ra, và tất yếu xảy ra thao tác tư duy khẳng định hoặc phủ định thuộc tính, sự vật ấy. Phủ định và
bác bỏ có một đặc trưng chung là không thừa nhận một đặc tính, một sự vật, một thuộc tính A nào
đó. Cũng chính từ đặc trưng chung này mà người nghiên cứu cũng như người tiếp nhận rất dễ có
những nhầm lẫn và đôi khi nghiên cứu nhầm đối tượng.
Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy cơ sở để có thể phân tách hai loại hành động này một
phần nằm sẵn ngay trong tên gọi loại hành động. Khi nói đến phủ định, người ta thường hiểu sự phủ
định đó mang tính nội tại, tức bản thân bên trong câu nói, thuộc phạm vi câu nói và quan điểm của
người phát ra câu nói, không có mối quan hệ liên nhân với ý kiến của người khác. Những câu dạng
này thường được gọi rõ ràng hơn dưới dạng câu phủ định miêu tả. Khi nói đến bác bỏ, người ta
thường hiểu đó là sự phủ định mang tính hướng ngoại, tức có liên hệ hữu cơ với một nhận định nào
đó bên ngoài câu nói, do một người đối thoại khác đem tới. Vì một cá nhân không thể tự mâu thuẫn
với chính mình, không thể bác bỏ chính những nhận định của mình (trừ một số ngữ cảnh rất đặc
biệt) do đó, hiện tượng bác bỏ hiếm khi xảy ra trong phạm vi của một cá nhân, trong một văn cảnh
không có tính hội thoại.
Chúng tôi nhận thấy giữa hai loại đối tượng này có những tiêu chí phân biệt nhau như
sau. Bảng 1.1
1 Chúng tôi thống nhất hiểu phủ định theo nghĩa hẹp, tức phủ định trong bản thân câu nói, hay được các nhà nghiên cứu hiểu dưới
dạng phủ định miêu tả.
2 Bác bỏ cũng là một hành động phủ định, nhưng là hành động phủ định theo nghĩa rộng, còn gọi là phủ định bác bỏ.
Hành động phủ định
(tức phủ định miêu tả)
Hành động bác bỏ
(tức phủ định bác bỏ)
Hình thức
- Sử dụng những từ ngữ phủ
định đơn thuần như không,
chẳng, chưa…
Ví dụ 10
Con cá này không tươi.
- Sử dụng những từ ngữ đặc
trưng cho hành động bác bỏ
như nào, đâu,mà…
Ví dụ 11
Con cá này mà không tươi.
Tôi đâu có biết.
- Thường hạn chế trong hình
thức câu trần thuật và ít gặp
trong giao tiếp hội thoại.
Ví dụ 12
Nhưng bà nực, bà không ngủ
được. Bà chỉ chợp mắt được độ
dăm phút là cùng. Vừa thấy ngọn
quạt phẩy không đều tay, bà đã
cựa, và giục (…)
(21-tr.101)
- Có thể sử dụng nhiều hình
thức câu khác nhau như cảm
thán, cầu khiến, nghi vấn….để
tạo thành hành động bác bỏ.
Hành động bác bỏ chỉ nảy
sinh trong môi trường có sự
đối thoại, có thể là song thoại,
tam thoại hoặc đa thoại.
Ví dụ 13
-Ngươi đứng lên, ta sẽ giết ngươi
bằng cây kiếm này, vì ngươi đã
giết con trai ta.
Người thương gia run lẩy bẩy
đáp:
- Làm sao tôi lại giết con ông
được? Tôi không biết anh ấy kia
mà.
(12-tr.26)
- Không thể thực hiện hành
động phủ định bằng cách im
lặng hoặc ngập ngừng.
- Có thể dùng sự im lặng, hoặc
ngập ngừng để thể hiện hành
động bác bỏ.
Ví dụ 14
- Bây giờ tôi nuôi thằng bé này,
cũng như thằng bếp trước, vì nó
là người làng nhà tôi đây. Nó
ngoan lắm.
Tôi cười nhạt, không trả lời.
(21-tr.399)
Nội dung
- Chỉ chuyển tải thông điệp
miêu tả thuộc tính mà không
góp phần vào việc biểu lộ
những sắc thái, ý nghĩa, cảm
xúc của câu nói.
Ví dụ 15
Lần này, nó không thể thức hơn
được nữa. Quả nhiên bà ngáy hơi
to. Nó không biết bà ngủ, song tự
nhiên tay nó đưa thong thả dần,
rồi như chiếc đồng hồ hết dây, tay
nó không phe phẩy nữa.
(21-tr.102)
- Vì câu phủ định không nhất
thiết phải nảy sinh ngay sau
một nhận định của người tham
gia đối thoại nên không thể
phủ định tiền giả định của bản
thân câu nói mà chỉ phủ định
- Bộc lộ nhiều đích ngôn trung
và các sắc thái cảm xúc khác
nhau.
Ví dụ 16
- Tại tôi không muốn để ông đi,
mà ông cũng không đi được, vì
tôi biết ông rồi. Không ai tin ông
nữa đâu. Bởi vì ông là người thụt
két, ông có biết không?
- Tôi? Thụt két? Thưa cụ?
21-tr.382)
- Ngoài thuộc tính nghĩa biểu
hiện của bản thân câu nói vừa
tiếp nhận, có thể phủ định tiền
giả định của câu đó.
thuộc tính nội tại bên trong
câu nói.
Ví dụ 17
Vì muốn có tiền để thỏa mãn đời
sống vật chất với chồng, nên cô
không từ chối người Mỹ.
(21-tr.478)
- Tại bất kỳ thời điểm nào của
quá trình tư duy về sự vật và
mối quan hệ giữa chúng. Câu
phủ định có thể đứng một
mình hoặc trong bất kỳ vị trí
nào của đoạn mà không gây ra
sự bất thường về cách diễn đạt.
Ví dụ 19
Nhưng không hiểu sao, mãi không
thấy ông vào nằm. Tôi bèn lắng
tai nghe, và cố giương mắt xem
ông làm những gì. Song, tôi chẳng
trông thấy và nghe thấy ông đâu.
Góc nhà, thằng Quít vẫn ngáy khò
khò như tiếng hàng xóm xay lúa.
(21-tr.67)
Ví dụ 18
Thấy Cóc cứ chõ vào nhà mình
mà la. Trê đực quát hỏi:
Này cái anh nhà kia, ở đâu
đến mà to mồm thế?
Tôi mất con thì tôi phải rao
chứ!
(28-tr.10-11)
- Chỉ xảy ra khi trước đó có sự
khẳng định hoặc trực tiếp,
hoặc gián tiếp, hoặc phi ngôn
ngữ về một thuộc tính, một sự
vật A nào đó, nói cách khác,
phải xuất hiện trong một cuộc
hội thoại. Nếu không có câu
trước đó, câu bác bỏ sẽ trở
nên “bất bình thường” trong
cách diễn đạt.
Ví dụ 20
- Ông có ăn, tôi không nói sai.
Nghĩa vẫn cãi:
- Tôi không ăn gì cả.
(21-tr.20
Những cách thức phân biệt trên chỉ mới dựa vào mặt nội dung và hình thức về mặt ngôn
từ, còn một số yếu tố khác không thể nắm bắt về mặt câu chữ, mà thuộc về ngữ cảnh giao tiếp và
hành vi của những người tham gia thực hiện hành động.
Ví dụ 21
A: Món ăn này ngon không?
B: Món này không ngon.
Đặt trong bối cảnh A chỉ đơn thuần hỏi ý kiến B về món ăn, thì sự trả lời của B là một
hành động phủ định, tức tự loại trừ một thuộc tính “ngon” của món ăn, và không bác bỏ nhận định
nào cả (vì A không đưa ra nhận định, mà hỏi nhận định của B). Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh A hỏi
B trong tư thế đang ăn rất ngon lành, thích thú, thì mặc nhiên B sẽ hiểu là A đang nghĩ món ăn này
rất ngon, thì câu trả lời của B chính là một hành động bác bỏ: bác bỏ ý kiến của A về thuộc tính
“ngon”.
Do đó, sự phân tách hành động của B là bác bỏ hay phủ định không thể dựa vào bản thân
ý nghĩa của hành động ngôn từ, mà phụ thuộc vào cách thức tri nhận hành động và thái độ của
người tiếp nhận. Do đó, để hiểu đúng đích ngôn trung, đòi hỏi người tham gia đối thoại phải có kinh
nghiệm hiểu ý nghĩa của hành vi, ngữ cảnh cũng như kinh nghiệm xử lý những hành vi, hoặc bối
cảnh mà mình đang thực hiện hoạt động giao tiếp.
1.3.3. Mục đích của hành động bác bỏ
Mỗi một hành động ngôn từ đều hướng đến những cái đích khác nhau. Hành động bác bỏ
cũng vậy. Bên cạnh mục đích rõ ràng là “dùng để bác bỏ”, trong quá trình nghiên cứu hệ thống dữ
liệu, chúng tôi nhận thấy hành động bác bỏ còn tiềm tàng chuyển tải những mục đích cụ thể khác
hướng tới người đối thoại.
1.3.3.1. Thực thi những hành động ngôn hành cụ thể
(1) Mệnh lệnh, yêu cầu
Người thực hiện hành động bác bỏ có thể dùng chính hành động đó để yêu cầu người nghe
thực hiện một hành động nào đó đối nghịch với A, do đó, gián tiếp bác bỏ A. Yêu cầu có thể được
thể hiện trực tiếp, mà khẩu ngữ dân gian hay dùng là “nói huỵch toẹt”, tuy nhiên, cũng có thể vì
những lý do tế nhị (muốn giữ thể diện cho mình, tránh đề cập đến một vấn đề nhạy cảm, che giấu
đối với những người nghe…) mà người ta có thể dùng những lối nói vòng vo, liên tưởng xa xôi.
Mục đích cuối cùng là chuyển được đích xác đích ngôn trung tới người đối thoại.
Ví dụ 22
Người xúm quanh, mỗi người một điều:
- Thôi, bác quản, giời sinh ra thế, bác ngơ cho chị ấy, chị ấy không biết phép.
- Không được, nghĩa là không biết phép thì tôi làm cho biết phép. Tôi có tư cách coi đường
làng. Nếu tôi dễ dãi, ngộ rồi trên các cụ “trách nhiệm” tôi, thì ai ra chịu tội cho tôi.
(21-tr.425)
Ở ví dụ này, “bác quản” ngoài việc bác bỏ sự xin xỏ và yêu cầu làm ngơ cho “chị ấy”, còn
hàm ý yêu cầu nhân vật “chị ấy” phải làm theo đúng lệ làng (được bác ta gợi ý ngầm khi nói “không
biết phép thì tôi làm cho biết phép”. Dụng ý cuối cùng bác ta muốn chuyển tới người nghe là phải
gửi cho bác vài xu tiền gọi là tiền bảo vệ đường, chứ không phải là nhất quyết không cho “chị ấy”
đưa đám ma mẹ chồng.
(2) Van xin
Động thái van xin chỉ xảy ra khi người ta tha thiết cầu khẩn về một điều gì đó rất hệ
trọng, và người van xin ở trong vị trí “lép vế” rất nhiều so với người được van xin. Chính vì thế mà
sự bác bỏ ở đây cũng có những đặc trưng riêng: thường không trực tiếp, không thẳng thừng, không
dùng lý lẽ, lập luận mà chủ yếu nhằm đánh vào tư tưởng, tình cảm của người đối thoại, kẻ bề trên.
Ví dụ 23
Chị Cu choáng váng, vội đứng dậy. Chị thấy ông quản lộ giẫm một chân lên đầu đón để ghì xuống.
Chị khóc:
- Thôi, tôi lạy ông, tủi vong linh mẹ tôi lắm, ông ơi.
(21-tr.61)
Ví dụ 24
- Mai ai thổi cơm cho tao ăn? Mày phải chờ đến sáng, đến chiều, tao thuê được đứa khác cái
đã.
- Lạy ông, mai ba mươi mất rồi.
(21-tr.78)
Sự bác bỏ trong hai ví dụ này lộ rõ tâm lý sợ sệt, thái độ chống cự yếu ớt, đầy vẻ van xin
của nhân vật người ở. Nhân vật người ở, rõ ràng yếu thế hơn trước con người đang nắm nhiều quyền
lợi của họ trong tay, do đó, anh ta phải thực hiện sự bác bỏ của mình như một sự xin xỏ ơn huệ.
Hành động cầu xin thể hiện ở nhiều cấp độ, trong đó cấp độ lạy thể hiện cầu xin ở mức độ cao.
Nghĩa là khi người ta tha thiết với một việc gì đó lắm, thì người ta mới đi đến hành động này, và từ
đặc trưng đó, nó mới được mượn như một hình thức bên ngoài của nội dung bác bỏ bên trong.
Trong một số trường hợp, do tính chất “van xin” trở nên lấn át và bao trùm lên toàn bộ
những nội dung được nói ra khác nên tính chất bác bỏ trở nên mờ nhạt. Hay nói cách khác, người ta
vô thức quên đi đó là một câu bác bỏ.
Ví dụ 25
Alice trân trối nhìn tôi, ánh nhìn đầy vẻ van nài, đôi lông mày dài và đen của cô bạn nhíu sát vào
nhau kéo xếch lên, khóe môi run rẩy. Alice đang rất đau lòng.
- Mình xin bạn, mình xin bạn, mình xin bạn – Alice nói liền một nơi – Mình xin bạn đấy, Bella,
mình xin bạn – Nếu bạn thật lòng thương yêu mình… Xin bạn hãy để cho mình đứng ra tổ
chức đám cưới.
(34-tr.704)
Khi nhân vật “tôi” đang rất băn khoăn và có ý không đồng tình với đám cưới của Alice,
Alice đã bác bỏ thái độ đó nhằm mục đích cầu xin “tôi” đi tới một quyết định khác mà Alice mong
muốn hơn. Tính chất bác bỏ ở đây yếu, vì người bác bỏ không đưa ra bất cứ lỹ lẽ, dẫn chứng hay lời
nói biểu thị sự bác bỏ nào mà chỉ thực hiện hành động chuyển hướng nội dung sang phía có lợi cho
mình với một thái độ rất khẩn khoản, chân thành nhằm mục đích thể hiện sự tha thiết muốn đạt
được một điều gì đó khác.
(3) Khen, chúc tụng
Công thức chung của mục đích này là bác bỏ những yếu tố có phẩm chất thấp, thay thế
bằng những yếu tố có phẩm chất cao hơn, do đó, hình thành nên lời khen, lời chúc tụng. Trong quá
trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hình thái bác bỏ nhằm khen, chúc tụng cũng có hai sắc thái,
hai mục đích thể hiện khác nhau: bác bỏ của đối tượng B bằng cách đưa ra những phẩm chất tốt đẹp
hơn được cho là có ở đối tượng A là sự khen ngợi từ bên ngoài; bác bỏ nhận xét của đối tượng B về
mình bằng cách đưa ra những thuộc tính tốt đẹp hơn của bản thân là sự tự tôn, tự khen.
Công thức 1: A nói về nội dung A
B bác bỏ nội dung A bằng một nội dung A’ cao hơn thì đây là lời khen ngợi, đề cao A.
Ví dụ 26
Thủ trưởng: Việc khó khăn vậy mà cậu cũng hoàn thành đúng hẹn. Tôi rất hài lòng.
Nhân viên: Em chỉ may mắn thôi, chứ sếp giao người khác chắc họ cũng làm được như em thôi.
Thủ trưởng: Làm gì có chuyện đó. Chỉ có cậu mới làm nổi cái việc khó khăn đấy thôi.
Thông qua thông điệp của người nhân viên: việc đó là bình thường, ai cũng làm được, ông
giám đốc đã bác bỏ nhận định đấy bằng cách bác bỏ tính chất của công việc (đó không phải là công
việc bình thường), qua đó, đề cao khả năng làm việc của anh nhân viên này.
Công thức 2: A nói về nội dung B
B bác bỏ nội dung B bằng B’ cao hơn thì đây là tời tự khen, tự tôn.
Ví dụ 27
Thủ trưởng: Cậu làm tốt đấy. Nhiệm vụ tôi phân công cũng nhẹ nhàng chứ hả.
Nhân viên: Tính chất công việc cũng có nhiều khó khăn hơn công việc của những người khác đấy
ạ.
Trái ngược với ví dụ trên, ở đây, cậu nhân viên tự bác bỏ nội dung nhận xét của thủ trưởng,
thông qua đó gián tiếp tự đề cao khả năng, công sức của mình cao hơn so những gì thủ trưởng của
cậu ta đánh giá. Thông thường, cách thức này không được sử dụng nhiều như cách thức trong công
thức 1. Một phần lý do xuất phát từ văn hóa của người phương Đông, đề cao sự khiêm tốn, khiêm
nhường, phần nữa xuất phát từ tâm lý thường có: không thích nghe người khác khen về mình và tự
khen mình là một cách thể hiện thông tin dễ khiến người ta lúng túng, ngại ngần nhất. Tất nhiên
ngoại trừ trường hợp những người bị cho là mắc bệnh ngôi sao, thích tự nói về bản thân mình.
(4) Thanh minh
Một khi ý kiến, quan điểm của người đối thoại trước được cho là sai, vô lý và không thỏa
mãn mong đợi của người đối thoại sau, tất yếu họ sẽ thực hiện hành động bác bỏ thông qua việc giải
thích, trình bày lý do dẫn tới sự bác bỏ.
Nếu như ở mục đích van xin như đã phân tích ở phần (2) trên đây thể hiện rõ cho thấy mối
quan hệ không cân xứng giữa hai bên đối thoại, thể hiện rất rõ sự thống trị của một bên và sự yếu ớt,
lép vế của một bên thì ở mục đích thanh minh, mối quan hệ đó không được chỉ định rõ nếu không
có các dấu hiệu trực chỉ như cách xưng hô, cách dùng các từ hô, gọi…
Ví dụ 28
Ông chủ cau mặt có vẻ giận:
- Tôi xem ý, thì ra ông không muốn làm với tôi, có lẽ tại ai đã trả ông hơn tôi. Vậy tôi xin nhắc
lại, ông cứ nói thực, tôi sẽ đãi ông như người ta, chứ không khi nào tôi để người ta cướp nổi
ông với tôi đâu.
- Bẩm không phải thế. Chỉ tại sức tôi yếu.
(21-tr.381)
Với ví dụ trên, ông chủ ngờ rằng người làm từ chối làm thuê tiếp bởi vì đã có người trả
cao hơn. Đây cũng là nội dung thông tin quan trọng nhất trong câu nói của ông chủ. Người làm đã
bác bỏ nguyên nhân này bằng cách trình bày một nguyên nhân khác mà anh ta cho là xác thực hơn,
đó là nghỉ làm vì lý do sức khoẻ.
Ở dạng mục đích này, hiệu quả bác bỏ sẽ phụ thuộc vào tính chất của lời giải thích, thanh
minh. Nếu lời giải thích, thanh minh được người nghe cho là xác thực, có lý và có độ tin cậy cao, thì
hiệu quả bác bỏ càng lớn. Ngược lại, nếu người nghe cảm thấy lời giải thích đó vô lý, nghe “không
lọt tai” thì tất nhiên sẽ làm cho lời bác bỏ trở nên vô ích.
Tuy nhiên, nó cũng phần nào phụ thuộc vào vị trí vai giao tiếp và tâm tư, suy nghĩ của
người tham gia giao tiếp. Nếu người phát ngôn ở vào vị thế thống trị, tức không sợ bị đe dọa về thể
diện, lý lẽ, họ có thể biến cái có lý thành vô lý, vô lý thành “có lý”. Hoặc tình cảm cũng có thể tham
gia làm cho chuyện vô lý trở thành có lý, có lý trở thành vô lý v.v… Dân gian có câu “Một trăm cái
lý không bằng một tý cái tình” và được nói chệch ra thành “Một trăm cái lý không bằng một tý cái
tiền”. Do đó, mục đích thanh minh có đạt được hay không, ngoài lý lẽ, chứng cứ xác thực còn phụ
thuộc vào các yếu tố ngoại biên nữa.
(5) Ám chỉ sâu xa
Trong một số trường hợp, người ta mượn lời bác bỏ để nhằm hiện thực hóa một nhận
định khác, một thông tin khác mà người bác bỏ mong muốn người tiếp nhận tri nhận được ý nghĩa
hàm ẩn sâu xa đấy.
Trong một số trường hợp, hành động bác bỏ mượn hình thức của hành động đồng ý, thừa
nhận như “ừ”, “phải”, “đúng”… đi kèm theo một nội dung vô lý khác để tạo thành hành động bác
bỏ.
Ví dụ 29
Học sinh: Băng Cốc là thủ đô của Singapore.
Thầy giáo: Ừ, như Luân Đôn là thủ đô của Pháp ấy.
Trong câu nói của học sinh không chứa bất kỳ một hàm ý nào, chỉ đơn thuần là sự thể hiện
kiến thức về địa lý của cậu ta. Còn câu nói của thầy giáo, xét về nghĩa biểu hiện, là một so sánh sai
thực tế, vì đối tượng được so sánh (Luân Đôn là thủ đô của Pháp) không xác thực. Tuy nhiên, đối
tượng so sánh (Băng Cốc là thủ đô của Singapore) sai, đưa tới đối tượng được so sánh cũng sai, và
mục đích “cố ý đưa một thông báo sai về chất” của thầy giáo là nhằm làm cho học trò tự nhận thức
được giá trị sai thứ hai, và do đó, đồng thời liên tưởng ngược và nhận thức được giá trị sai đầu tiên
do mình nói ra. Điều ám chỉ sâu xa mà thầy giáo muốn nói ở đây chính là việc tại sao cậu học sinh
lại có thể sai một điều đơn giản, căn bản như thế. Đây là một cách bác bỏ rất nhẹ nhàng, không gây
nhiều áp lực bị bác bỏ lên đối tượng, có phần hài hước nhưng vô cùng ý vị, sâu xa.
1.3.3.2. Bổ sung thông tin mới
Giữa hai mục đích thanh minh và bổ sung thông tin mới chúng tôi nhận thấy cũng có
nhiều điểm tương đồng. Vì xét về nội dung, thông tin sử dụng trong thanh minh cũng là một dạng
thông tin mới so với người tiếp nhận hành động bác bỏ. Nhưng xét về mục đích, có những thông tin
mà người bác bỏ sử dụng để thanh minh, nhưng cũng có những thông tin người ta chú trọng vào vấn
đề bổ sung thông tin mới hơn, hay nói cách khác, là làm xác thực hóa, minh bạch hóa thông tin,
nhận định sai lệch từ người phát chứ không nhằm mục đích phân trần, giãi bày.
Ví dụ 30
- Anh bắt được?
- Bà cụ nhà tôi, à, bà đẻ ra Huệ ấy mà, rình bắt được. Chứ tôi tin nó quá, nên không ngờ.
(21-tr.398)
Xét về phương diện phương châm hội thoại, câu trả lời đã không đi vào trọng tâm câu
hỏi, hay nói cách khác, yêu cầu về lượng không được coi trọng. Vì người hỏi có ý ngờ rằng người
đối thoại với mình là người bắt được. Người trả lời, ngược lại, không đi thẳng vào việc bác bỏ thông
tin sai này, mà đưa ra một thông tin khác bổ sung cho tính xác thực của sự việc, qua đó gián tiếp trả
lời trọng tâm nghi vấn là không phải tôi bắt được, mà là mẹ vợ tôi bắt được. Do đó, người hỏi đã có
được thêm thông tin mới mà anh ta chưa kịp có nhu cầu biết hoặc ngoài sự mong đợi của anh ta.
Hành động bác bỏ nhằm bổ sung thông tin mới thường xảy ra với những thông tin mang
tính dự đoán và không thỏa mãn nhu cầu của người tiếp nhận. Do đó, việc bổ sung thêm thông tin
trở thành một cách thức để người tiếp nhận “chế biến” và “làm đúng” thông tin mà mình nhận được.
1.3.3.3. Bộc lộ thái độ, cảm xúc
(1) Sửng sốt
Sửng sốt là một trạng thái tâm lý khi người ta đạt đến mức độ cao của sự ngạc nhiên, và
không thể tin được về một sự việc, hành động được cho là có thể xảy ra nào đó. Do đó, trong một số
trường hợp, khi một thông tin vừa tiếp nhận mang quá nhiều yếu tố bất ngờ đối với họ, họ phản ứng
lại thông qua việc bác bỏ. Mối quan hệ giữa hai yếu tố này có tính thuận chiều thống nhất.
Mức độ bác bỏ Sơ đồ 1.1 Mức độ sửng sốt
+ +
_ _
Mức độ bác bỏ ._.ó khăn, còn nhiều việc phải làm.
Đối ngược với tình huống trên, ở tình huống này, khi người thực hiện hành động bác bỏ
“nhận biết”, “tiên đoán” trước được việc người nói sẽ nói ra điều bất lợi cho mình, họ sẽ tìm cách
ngắt lời hoặc tạo ra những tình huống trong đó người nói sẽ không thể nói trọn vẹn được yêu cầu, đề
nghị của mình nữa. Trường hợp ví dụ trên đây, tại giai đoạn giữa của quá trình diễn ngôn, vì đoán
trước được là người nhân viên sẽ đề nghị tăng lương, lúc đó ông sẽ khó đưa ra lời từ chối. Vì vậy,
ông đã ngắt ngang lời người nhân viên trước khi cậu ta kịp đề cập vào nội dung chính, và bác bỏ
một cách hiệu quả: vừa cứu mình khỏi thế bí, khỏi phải giải thích lý do cho quyết định của mình,
vừa làm người nhân viên e ngại không dám đưa ra đề nghị một lần nữa.
Chúng tôi dựa trên cơ sở của tính lịch sự trong giao tiếp (tức mức độ lịch sự càng cao khi
người ta tính toán mối thiệt hại cho người tiếp nhận càng thấp) chứ không phải nội dung giao tiếp để
phân chia hai thái cực tích cực và tiêu cực ở các cách thức thực hiện bác bỏ. Do đó, kể cả những
trường hợp hành động ngắt lời của người thực hiện bác bỏ được phần đông người nghe ủng hộ,
chẳng hạn, luật sư ngắt lời khai vô lý của bị cáo, thì chúng tôi cũng cho hành động này nằm trong
bình diện tiêu cực theo tiêu chí trên.
3.3. BIỂU THỨC BÁC BỎ TIẾNG VIỆT
So với các hành động ngôn từ như nghi vấn, cầu khiến, cảm thán…, hành động bác bỏ có
những đặc trưng riêng, có sự phong phú về nội dung, hình thức và có sự giao thoa với các hành
động kể trên, ngoài ra, trong câu bác bỏ, các hình thức được sử dụng linh hoạt, không gò bó, cố
định. Do đó, chúng tôi gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý ngữ liệu và tìm ra những dạng
thức tiêu biểu của bác bỏ.
Biểu thức 1
X: (khẳng định A)
Y: chẳng/đâu/nào có/mà lại/chả dại mà/không A
Biểu thức này dùng từ ngữ bác bỏ trực tiếp. Hình thức bác bỏ này rất dễ nhận dạng, và cũng
có cấu trúc khá đơn giản. Người ta thường sử dụng các từ ngữ chỉ ý bác bỏ đi kèm theo một ý kiến,
nhận định cần bác bỏ. Vị trí của các từ biểu thị ý bác bỏ rất linh hoạt phụ thuộc vào đặc trưng ý
nghĩa và hình thức được quy định của từng đơn vị từ. Do đó, nó có thể đứng đầu, giữa hoặc cuối
nhận định để trực tiếp bác bỏ nhận định ấy. Cũng có khi nhận định không được nhắc lại trong hành
động bác bỏ mà chỉ thể hiện thông qua các từ biểu thị ý bác bỏ. Kết hợp cùng cấu trúc lượt lời tuần
tự với sự tiếp nối ý trong suốt quá trình diễn ngôn tạo thành hành động bác bỏ.
Ví dụ 116
Mẹ: Con đi chơi cả chiều nay phải không?
Con: Đâu có ạ.
Biểu thức 2
X: (khẳng định) A
Y: (khẳng định) B
Chuyển đề tài: còn gọi là lối nói vòng vo. Chuyển đề tài bao gồm cùng một bản chất đề tài,
nhưng thể hiện dưới một hình thức hoàn toàn khác hoặc một góc nhìn khác hẳn so với quan điểm
của người đưa ra đề nghị.
Có hai cách chuyển đề tài.
Chuyển đề tài trong nội bộ thông tin đề nghị.
Biểu thức 2.1
X: (khẳng định) A
Y: Không phải A
Ví dụ 117
- Thưa chú, khi nào làm việc, chú cứ bảo cháu.
- Cháu uống nước đi. Chú nói ngay để cháu yên tâm. Cháu sẽ không phải làm cái việc ngồi
mẫu cho chú vẽ đâu.
Quan điểm của người cháu: công việc là công việc. Đích ngôn trung nhắm tới là khi nào sẽ
làm việc. Câu trả lời của người chú đi chệch đích ngôn trung đấy, nói về việc phải làm hay không
làm. Hàm ý của người chú, đấy là công việc vất vả, và việc từ chối cháu làm việc không phải là điều
gì không may, mà là một điều rất may mắn cho người cháu (thể hiện qua cụm từ không phải). Đây
là cách bác bỏ giúp giải tỏa tâm lý cho người tiếp nhận hành động bác bỏ.
Biểu thức 2.2
X: (khẳng định) A
Y: B
Chuyển đề tài bên ngoài nội dung thông tin. B ở đây có thể là một câu chuyện có liên quan
ít nhiều đến A, cũng có thể là một nội dung chêm, xen vu vơ bên ngoài, không liên quan gì tới A mà
chỉ là một câu nói lảng tránh trọng tâm, để biểu thị ý không muốn tiếp nhận đề nghị. Đặc trưng hình
thức của dạng biểu thức này là không dùng các từ ngữ là dấu hiệu chỉ sự bác bỏ, câu bác bỏ có tính
chất của một câu thông báo sự tình.
Ví dụ 118
- Mày cho tao mượn ít tiền.
- Thôi chết, tháng này công ty chưa trả lương làm sao mà sống đây.
Việc đưa ra một sự tình không liên quan, hoặc theo hướng lảng tránh đích nhận định vừa
tiếp nhận, chính là một cách thức nhằm ngầm thông báo cho đối tượng về hành động bác bỏ của
mình.
Biểu thức 3
X: (khẳng định) A
Y: Thôi, B cũng được
Những hành động bác bỏ đi theo khung này thường có tính chất tạm thời, khuyên nhủ, nhẹ
nhàng với những nội dung bác bỏ đơn giản, ít thao tác lập luận, suy lý.
Ví dụ 119
Tôi muốn thử sức mình nên nhìn mẹ tôi:
- Mẹ đưa bút thước cho con cầm.
Mẹ tôi cúi đầu nhìn tôi với cặp mắt thật âu yếm:
- Thôi để mẹ cầm cũng được.
(48-tr.6)
Biểu thức 4
Biểu thức này sử dụng hình thức hỏi để tạo hành động bác bỏ.
Biểu thức4.1
X: (khẳng định) A
Y: Tôi (anh ta, nó…) mà A à?/ sao?/ư?/ A hồi nào?
Người ta sử dụng các trợ từ, tiểu từ, đại từ nghi vấn thêm vào A nguyên bản tạo thành câu
bác bỏ mang hình thức hỏi. Thực chất những câu hỏi này có khi đơn thuần là câu hỏi tu từ, cũng có
khi là dạng câu hỏi hỏi nhằm mục đích làm cho người bị hỏi suy nghĩ về câu trả lời và vấn đề bất
khả thi của việc trả lời.
Ví dụ 120
Nhỏ Kim Hà, lớp phó trật tự, đứng trong hang, liếc tôi:
- Bạn Huy đánh lộn trong sân trường nghen! Tôi trừ điểm thi đua à!
Tôi cãi.
- Tôi rượt chơi chớ tôi đánh lộn hồi nào?
(6-tr.18)
Dưới góc độ tu từ học, câu hỏi biểu thị tâm lý ngạc nhiên, sửng sốt của người thực hiện
hành động bác bỏ.
Ví dụ 121
Tôi vặn lại:
- Vậy sao hôm trước tao…liếc sơ bài của thằng Bảy một chút mày lại làm khó làm dễ? Tại mày
mà tổ mình mới tụt hạng đó, mày biết không?
- Sao lại là tao? Đó là tại mày không chịu học hành đàng hoàng. Muốn cho tổ tiến bộ thì mỗi
người phải cố học chứ đâu phải bày trò gian lận. Giúp đỡ nhau học tập không có nghĩa là cho
bạn mình cóp-pi!
(6-tr.64-65)
Biểu thức 4.2
X: (khẳng định) A
Y: A’? A’’? A’’’? (A’ + A’’ +A’’’…= A)
Người nêu bác bỏ sử dụng hình thức hỏi theo chuỗi bằng cách ngắt nhỏ những yếu tố hạt
nhân của nhận định cần bác bỏ. Nó thường bộc lộ thái độ bất ngờ, ngạc nhiên cực độ của người bác
bỏ với vấn đề vừa tiếp nhận.
Ví dụ 122
- Tại tôi không muốn để ông đi, mà ông cũng không đi được, vì tôi biết ông rồi. Không ai tin
ông nữa đâu. Bởi vì ông là người thụt két, ông có biết không?
- Tôi? Thụt két? Thưa cụ?
(20-tr.382)
Biểu thức 4.3
X: (khẳng định) A
Y: A làm gì/để làm gì? A để B à?
Người bác bỏ đặt nhận định vào trong những cảnh huống nghi vấn không thể thực hiện
được, hoặc những vấn đề khó khăn mà câu trả lời hầu như không thể tìm ra.
Ví dụ 123
- Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấy.
- Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương tao? Hôm ấy mày mà không đi,
tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêu.
(51-tr.172)
Những dạng hình thức này rất thích hợp dùng để biểu thị tính vô lý của nhận định hay thái
độ mỉa mai của người bác lời.
Ví dụ 124
- Nhưng mà lỡ nó chơi bời phá của thì em tính núi cũng phải hết.
- Ồ! Nhiều ông quan giàu lắm, chú không rõ à? Các ông ấy có hàng dãy nhà ở Hà Nội, không
kể tiền gửi nhà băng, đồn điền, và ruộng nương ở nhà quê nữa. Con cháu phá mấy đời cho
hết. Vả lại mình gả làm gì cho mấy đứa phá gia?
(21-tr.617-618)
Biểu thức 4.4
X: (khẳng định) A
Y: Sao?/Sao cơ?/Gì cơ?
Người đáp thực hiện hành động bác bỏ bằng những thông điệp ngắn, chủ yếu bao gồm các
từ, ngữ chỉ ý nghi vấn. Do tính chất liên tiếp của lượt lời, nên nội dung bác bỏ không cần phải lặp
lại mà sẽ được đôi bên ngầm hiểu thông qua lượt lời trước đó.
Những hành động bác bỏ nằm trong khuôn khổ biểu thức này, thường đi kèm với sắc thái
sửng sốt, ngạc nhiên của người thực hiện hành động bác bỏ.
Ví dụ 125
Một bữa xe dừng ở ngã tư chợ, em rời khỏi cabin lau kính xe trong lúc anh Tìm Nội và ông Buồn
bốc dỡ những thùng hàng. Chợ trưa đông ruồi, ít người. Thưa thớt vài người đàn ông để trần đánh
bài, gần đó có mấy chị bỏ sạp tụm lại tỉa chân mày, nhổ tóc. Một người thanh niên dáng vẻ u ám,
gầy nhom ghé lại, thì thầm:
- Em tưởng bỏ tôi dễ dàng như bỏ một con chó sao?
Và một chị gục xuống, trong âm thanh róng riết kinh hoàng. Máu chị phun ra thành vòi từ mũi dao
xuyên qua ngực.
(www.evan.vnexpress.net)
Biểu thức 5
X: (khẳng định) A
Y: A hoặc B
Chúng tôi gọi đây là những biểu thức lựa chọn. Hình thức là lựa chọn nhưng nội dung
không phải đưa ra sự lựa chọn vì hướng lựa chọn đã được sắp đặt sẵn theo ý đồ của người thực hiện
hành động bác bỏ.
Có ba biểu thức nhỏ chỉ ý bác bỏ bằng lựa chọn như sau
Biểu thức 5.1
X: (khẳng định) A
Y: Hoặc A, hoặc B
Ví dụ 126
Anh công an nói với tội phạm:
- Hoặc anh khai ra để được giảm nhẹ tội, hoặc chúng tôi sẽ tăng án phạt vì tội cố ý che giấu.
Đây là dạng khung lựa chọn ít bộc lộ tính đe dọa hay điều kiện nhất vì nó không thể hiện ý
ràng buộc như dạng thức “Nếu…thì”, “Muốn…thì phải…”. Tuy nhiên, để xác định chính xác mức
độ căng thẳng của các lựa chọn phải dựa vào nội dung, nội hàm bên trong của các lựa chọn ấy.
Biểu thức 5.2
X: (khẳng định) A
Y: Muốn A (thì) phải B
Nội dung B mang tính chất là một điều kiện cần bắt nuộc phải có để thực hiện A. Điều kiện
này trái với mong muốn của X, hoặc bất khả thi với X, do đó gián tiếp bác bỏ luôn yêu cầu A của X.
Ví dụ 127
Quan Công hỏi:
- Ngươi không cho ta qua cửa quan phải không?
Khổng Tử nói sẵng:
- Muốn đi phải để cả già trẻ lại đây làm con tin.
(40-tr.443-444)
Biểu thức 5.3
X: (khẳng định) A
Y: (Nếu) A thì B
Nội dung B không phải là một điều kiện cần, trái lại, là một hệ quả nặng nề hơn, có mức độ
thiệt hại gấp nhiều lần hơn, nếu thực hiện A. Do đó, không chấp nhận hệ quả B nghĩa là không chấp
nhận nhận định A.
Ví dụ 128
Tôi bật cười bảo lão:
- Sao cụ lo xa thế? Cụ còn khỏe lắm, chưa chết đâu mà sợ! Cụ cứ để tiền ấy mà ăn, lúc
chết hãy hay! Tội gì bây giờ nhịn đói mà tiền để lại?
- Không, ông giáo ạ! Ăn mãi hết đi thì lúc chết lấy gì mà lo liệu?
(48-tr.43)
Biểu thức 6
X: (khẳng định) A
Y: còn B, hãy C
Chúng tôi không xếp biểu thức này vào như một dạng của biểu thức lựa chọn- bác bỏ vì B,
C không phải là hệ quả, không phải là điều kiện, không đưa ra lựa chọn mà chỉ là gạt bỏ thẳng
thừng tính vô lý, có hại của A và thay thế luôn bằng B. Hay nói cách khác, người thực hiện hành
động bác bỏ đã định sẵn hướng bác bỏ cho người tiếp nhận theo một đích ngôn trung khác trước.
Ví dụ 129
Hoàn thuộc loại người rất dễ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp bên ngoài. Tiếng Anh gọi đó là “face – eater”.
Năm nó 15 tuổi, nó từng thẳng thắn đứng trước anh hàng xóm rất đẹp trai mà rằng: “Em rất thích
gương mặt của anh!”. May phước cho nó (hay là cho anh ta), anh hàng xóm cũng là người chững
chạc đàng hoàng. Anh ta xoa đầu nó mà rằng: “Em còn bé, hãy lo học trước đã!”.
(38-tr.128)
Biểu thức 7
Chúng tôi gọi đây là dạng bác bỏ nhiều lần nhằm bày tỏ ý cương quyết vì cả hai bên tham
gia đối thoại đều lần lượt thực thi hành động bác bỏ.
X: (khẳng định) A
Y: (phủ định) A
Y: phủ định [ (phủ định) A]
X: phủ định { phủ định [ (phủ định) A] }
. . .
Ví dụ 130
Hắn cười ầm ĩ:
- Đốc tờ, đốc tờ. Thôi đi, tôi lại các ông đốc tờ cả nón…Tôi bất cần đến các ông đốc tờ, tôi chỉ
cần tiền thôi. Tôi cứ đi dạy học.
- Thế mà cũng nói…
- Chứ không à? Chỉ ba hôm nữa là tôi đi.
- Không đi nữa!
- Cứ đi.
- Cứ đi là cứ thế nào. Tôi có để cho mình đi, tôi chết.
(20-tr.124-125)
Diễn giải ví dụ theo biểu thức trên đây như sau:
- X: khẳng định chuyện sẽ đi dạy học.
- Y: bác bỏ hiệu lực câu nói.
- X: khẳng định lại, thêm thông tin “Chỉ ba hôm nữa là tôi đi”.
- Y: bác bỏ lại dự định trên.
- X: khẳng định lại là vẫn sẽ đi.
- Y: bác bỏ mạnh mẽ bằng điều kiện “Tôi có để cho mình đi, tôi chết”.
Số lần bác bỏ lặp lại dường như không hạn chế trong hội thoại nhưng do bị quy định bởi
khả năng ghi nhớ, tri nhận và đặc trưng của hoạt động giao tiếp mà bác bỏ hai lần phổ biến nhất,
càng nhiều lần trở lên càng hiếm gặp hơn, và càng có nguy cơ tạo thành những tranh cãi dai dẳng
không đáng có.
Biểu thức 8
X: (khẳng định) Đối tượng A thì A
Y: Khẳng định B thì B
Những cặp hội thoại đi theo cấu trúc này có một điểm chung là mượn các từ tạo nghĩa
khẳng định của câu khẳng định như vâng, đúng, phải, ừ…đặt trước hành động bác bỏ.
Tiến trình bác bỏ sẽ được người nói và người nghe tri nhận như sau:
- Giai đoạn 1: X đưa ra nhận định sai A (nhưng chưa tri nhận được nó sai).
- Giai đoạn 2: Y đồng ý nhận định sai này, bằng một sự so sánh với nhận định sai B (Y
phải đảm bảo rằng A phải tri nhận được nhận định sai này).
- Giai đọan 3: X nhận ra thái độ bác bỏ A của Y thông qua việc tri nhận sự vô lý của B.
Các câu bác bỏ thể hiện theo khung biểu thức này có nhận định nêu mang đặc trưng chung
là tính vô lý được người bác bỏ tri nhận. Biểu thức chung này được phân tách làm hai biểu thức nhỏ
phân chia theo tính sai của hàm ý hay của nghĩa biểu hiện như sau:
Biểu thức 8.1
X: (khẳng định) Đối tượng A thì A (Điều kiện: A phải vô lý)
Y: Vâng/đúng/phải, B thì B
Ví dụ 131
Có hai bà đang nói về các bà Liên Xô.
(1)A: Cái bà Liên Xô béo, xấu ơi là xấu.
B: Vâng, các bà thì đẹp.
Cách thể hiện bác bỏ này cố ý đánh vào tính “chột dạ” của người nêu nhận định. Những từ
chỉ ý khẳng định được mượn vào nhằm mục đích diễn tả sự mỉa mai, nhắc khéo ý nhị. Câu bác bỏ
tuy ngắn gọn, ít thông tin, nhưng lại có sức nặng bác bỏ rất lớn.
Biểu thức 8.2
X: (khẳng định) A (Điều kiện: A phải vô lý)
Y: Vâng/đúng/phải/ừ như B (Điều kiện: B cũng phải vô lý).
Ví dụ 132
Vợ: Chồng chị Sen giỏi giang quá.
Chồng: Vâng, chị Sen cũng tháo vát chả kém.
Cô vợ có ý khen chồng hàng xóm, đồng thời trong mắt người chồng, cô ấy có thể có hàm ý
so sánh ngầm hai đối tượng (chồng mình và chồng người), do đó người chồng thể hiện sự đồng tình
bằng cách thêm thông tin để tạo thành cặp song trùng vô lý. Sự vô lý chúng tôi nói tới ở đây là sự
vô lý về mặt hàm ý, chứ không phải là sự vô lý về nội dung biểu thị. Mối quan hệ giữa hai tầng
nghĩa và sự bác bỏ như sau:
Vợ: Chồng chị Sen giỏi -> Hàm ý: Chồng mình không giỏi bằng.
Chồng: Chị Sen giỏi -> Vợ mình không giỏi bằng.
Hành động bác bỏ: Bác bỏ sự so sánh vô lý của vợ.
Biểu thức 9
X: (khẳng định) A
Y: Aaaaaaaaaaaaaa (ngân dài A)
Kéo dài ngữ điệu tạo nên nhiều mục đích thể hiện khác nhau từ ngạc nhiên, thích thú tới
giễu cợt, mỉa mai, bác bỏ. Công thức chung của khung bác bỏ là người thực hiện bác bỏ không sử
dụng các yếu tố trực tiếp bác bỏ, không thể hiện sự bác bỏ bằng đơn vị câu hoàn chỉnh mà dùng
phương thức vật chất, cách thức tạo lời đặc trưng để tập trung vào một hoặc vài từ hạt nhân cần bác
bỏ.
Ví dụ 133
X: Đây là nhà tôi.
Y: Nhà a a a a a!
Ở ví dụ này, sự ngân dài giọng của Y bộc lộ thái độ ngạc nhiên cùng với hành động bác bỏ
các thuộc tính đặc trưng về ý niệm nhà trong sự so sánh đối chiếu với sự vật được gọi là nhà trước
mặt.
Tiểu kết
Có thể nói, hành động bác bỏ trong tiếng Việt vừa phong phú về nội dung, đa dạng về hình
thức, gắn kết chặt chẽ với các dạng thức ngôn từ khác. Phong phú về nội dung vì hành động bác bỏ
không chỉ nhắm đến đích nghĩa biểu hiện của câu, mà cả hàm ý, tiền giả định, thái độ phát ngôn,
thậm chỉ cả hành động cụ thể trong giao tiếp. Có thể nói nó có khả năng bác bỏ mọi yếu tố tham gia
vào hội thoại. Sự đa dạng về hình thức thể hiện ở chỗ hành động bác bỏ không có một hình thức nào
nhất định, nó có thể dễ dàng mượn hình thức của các dạng câu từ nghi vấn, cảm than, cầu khiến,
trần thuật…để làm lớp vỏ cho đích ngôn trung của mình. Cũng chính từ mối quan hệ qua lại này,
mà người ta thấy hành động bác bỏ có khả năng gắn kết với các hoạt động ngôn từ khác như cầu
khiến, tuyên bố, van xin, ngờ vực v.v…
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng nhận thấy bác bỏ không mang tính lưỡng phân
chặt chẽ, tức hoặc đúng hoặc sai mà nó còn có ranh giới trung gian đôi khi rất khó phân định. Đó là
dạng bác bỏ nửa vời, mà chúng ta hay quen gọi dưới cái tên hành động bắt bẻ.
KẾT LUẬN
Nói khái quát, hễ ở đâu có bất đồng, tranh cãi thì ở đó có bác bỏ, và sự bác bỏ xuất hiện
trong mọi vấn đề của cuộc sống, từ những vấn đề thường nhật, đơn giản tới những vấn đề phức tạp,
hệ thống. Có thể nói, không có một lĩnh vực nào của giao tiếp mà không có sự tồn tại của hành động
bác bỏ ngoại trừ những vấn đề có tính chất cấm kỵ, thiêng liêng thuộc về đức tin như tôn giáo, tín
ngưỡng… Vì nó liên quan tới yếu tố đức tin cùng sự nhạy cảm tâm linh nên hầu như chỉ tồn tại vấn
đề của việc chấp nhận hay không chấp nhận về mặt nhận thức chứ không được thể hiện ra thành lời
nói trong giao tiếp thông thường. Nguyên nhân sâu xa ở chỗ những thể hiện thành lời trong địa hạt
này thường rất nguy hiểm, mang tính nhạy cảm cao và dễ dẫn đến các cuộc xung đột lớn.
Bác bỏ là một hành động có tính phổ quát tồn tại trong giao tiếp ngôn ngữ. Bên cạnh tính
phổ quát về phương châm, mục đích giao tiếp, nó còn có những đặc trưng văn hóa, cộng đồng, đa
dạng về hình thức, phương thức biểu hiện. Do đó, hiểu ngôn ngữ trên bình diện ngữ nghĩa từ, câu,
chưa chắc sẽ hiểu được nội dung xác thực của hành động và đích ngôn trung mà người nói nhắm
tới. Nói cách khác, từ, ngữ chỉ là điều kiện cần thiết chứ không phải là điều kiện đủ để có thể tri
nhận được đầy đủ nội dung hành động. Do đó, nếu không tính đến các yếu tố khác liên quan, hiệu
quả giao tiếp có thể sụt giảm hoặc thất bại.
Mức độ bác bỏ không chỉ phụ thuộc vào từng yếu tố tạo nên hành động, mà còn phụ thuộc
vào mức độ liên kết và sử dụng các yếu tố. Do đó, khi một hành động bác bỏ có càng nhiều phương
thức và hình thức khác nhau cùng tồn tại, cấp độ bác bỏ sẽ càng cao và ngược lại.
Ví dụ 134
Điểm thêm một “giây” nức nở, chị Dậu ngó con bằng cách xót xa:
- Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Đoài.
Cái Tí nghe nói giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc:
- U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng bán con đi, tội nghiệp. U
để cho con ở nhà chơi với em con.
(48-tr.28)
Ở trích đọan này, lời “Tý” là một hành động bác bỏ rất thiết tha và quyết liệt. Nhân vật “Tý”
đã dùng cả hình thức câu hỏi “U bán con thật đấy ư?”, hình thức van xin “Con van u, con lạy u”, cả
ngôn ngữ cử chỉ “giãy nảy, giống như sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc”…,
tất cả kết hợp với nhau thành một hành động phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt và làm đau lòng người
mẹ trẻ.
Tuy không có các tiêu chí rõ ràng để phân cấp về mức độ nhưng nhìn chung, hành động bác
bỏ không phải luôn luôn đồng nhất mà có xu hướng nằm trong khoảng giữa của hành động bác bỏ
tuyệt đối (biểu hiện cụ thể là bác bỏ hoàn toàn nhận định) và bác bỏ tương đối (biểu hiện cụ thể là
lối bác bỏ nửa vời đã được phân tích ở phần 3.1.2.8).
Người Việt có thể sử dụng các hình thức và phương thức bác bỏ phù hợp để đạt đến hiệu
quả giao tiếp cao nhất. Tuy nhiên, hành động này có thuyết phục được đối tượng tiếp nhận hay
không lại không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân hành động. Có những yếu tố bên ngoài cần phải
tính đến như quan hệ giao tiếp, nội dung sự tình… Do đó, có thể nói phương thức và hình thức phù
hợp chỉ có hiệu quả khi đôi bên đối thoại có xu hướng tích cực tham gia giao tiếp, và cùng hướng
tới giao tiếp trong sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhau. Còn những giao tiếp không có tính cân
bằng giữa một bên thống trị và bên bị trị, hiệu quả bác bỏ sẽ thuộc về bên mạnh hơn, những yếu tố
phương thức và hình thức, nếu đi ngược với mong muốn của bên thống trị, cũng sẽ vô tác dụng và
bị lờ đi.
Hội thoại chỉ là môi trường phổ biến nhất của bác bỏ, nhưng không phải là môi trường duy
nhất mà bác bỏ được hiện thực hóa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy bác bỏ còn
được thể hiện dưới những dạng thức đặc biệt, có thể coi như những môi trường biến thể như hành
động tự nói trong nội tâm và bác bỏ trong nội tâm, hành động bác bỏ cử chỉ hoặc bác bỏ lời nói
bằng cử chỉ. Do đó, khi nghiên cứu và xác định hành động bác bỏ, cần xem xét quá trình diễn ngôn
theo một hướng mở và linh hoạt, nhằm tránh bỏ sót những hành động bác bỏ không đi theo quy luật
bác bỏ thông thường của cấu trúc lượt lời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Austin J.L (1962), How to do things with words, Cambridge University press, UK.
2. Nguyễn Phương Chi (2001) Một số ghi nhận về hành vi từ chối, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ
học Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Phương Chi (2003), Một số cơ sở của các chiến lược từ chối, Ngôn ngữ số 8.
4. Nguyễn Phương Chi (2004), Một số chiến lược từ chối thường dùng trong tiếng Việt, Ngôn
ngữ số 3
5. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học, Tập 2, Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
7. Đỗ Hữu Châu (2001), Cơ sở Ngữ dụng học, Tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Dân (1987), Logic ngữ nghĩa cú pháp, Nxb Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, Hà Nội.
9. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Đức Dân (1999), Lôgích và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Đức Dân (2002), Nỗi oan thì, là, mà, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Đức Dân (1977), Biểu thức và ngữ vi, Ngôn ngữ số 2.
13. Nguyễn Đức Dân (1977), Lôgích và sự phủ định trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 3.
14. Nguyễn Đức Dân (1983), Phủ định và bác bỏ, Ngôn ngữ số 1.
15. Nguyễn Đức Dân, Lê Tô Thúy Quỳnh (2002), Phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý,
Ngôn ngữ số 5.
16. Đào Mục Đích (1999), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận (trên cứ liệu phê bình văn học
bằng tiếng Việt, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn
Thạc sỹ Ngữ Văn.
17. Lê Thị Kim Đính, (2006) Lịch sự trong hành động cầu khiến tiếng Việt, Luận văn Thạc sĩ
Ngữ Văn.
18. Triệu Truyền Đống (1999) - biên sọan: Nguyễn Quốc Siêu, Phương pháp biện luận, thuật
hùng biện, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Grice H. Paul (1975), Logic and conservation, Nxb Cole and Morgan, New York, USA.
20. Nguyễn Thị Hai (2001), Hành động từ chối trong tiếng Việt hiện đại, Ngôn ngữ số 1.
21. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt – Văn Việt - Người Việt, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
22. Phan Văn Hòa (1989), Phương tiện liên kết phát ngôn đối chiếu ngữ liệu Anh-Việt, Luận án
Phó tiến sỹ.
23. Nguyễn Văn Hương (1997), Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ
Nguyễn Công Hoan, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ
Văn.
24. Lương Đình Khánh (2005), Quan hệ nghĩa giữa các phát ngôn, giá trị của từ và trong liên kết
văn bản tiếng Việt, Ngôn ngữ số 4.
25. Lado. R. (2002), Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn Vân dịch), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
26. Đinh Trọng Lạc (2001), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Thanh
Hóa.
28. Hồ Lê (1996), Quy luật ngôn ngữ, tính quy luật của cơ chế ngôn giao, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
29. Phạm Thị Ly (2002), Tiểu từ tình thái cuối câu - một trong những phương tiện chủ yếu diễn
đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt (đối chiếu với những phương tiện diễn đạt nghĩa tương
ứng trong tiếng Anh), Ngôn ngữ số 2.
30. Trần Chi Mai (2005), Cách biểu hiện hành vi từ chối lời cầu khiến bằng các phát ngôn lảng
tránh (Trên cứ liệu tiếng Anh và tiếng Việt), Ngôn ngữ số 1.
31. Nguyễn Quang Ngoạn (2007), Một số chiến lược phản bác thường dùng trong tiếng Việt,
Ngôn ngữ số 8.
32. Huỳnh Thị Ái Nguyên (2001), Hành vi phủ định trong tiếng Anh và tiếng Việt - những trở
ngại của người học ngoại ngữ, Ngữ học trẻ, Hội ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội.
33. Dương Bạch Nhật (2008), Chiến lược lịch sự trung tính trong mời và từ chối lời mời trong
tiếng Anh Mỹ và tiếng Việt, Ngôn ngữ số 8.
34. Hoàng Phê (2003), Logic – Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
35. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
36. Hoàng Phê, Hoàng Văn Hành, Đào Thản (2002), Sổ tay dùng từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
37. Hoàng Trọng Phiến (2003), Cách dùng hư từ tiếng Việt, Nxb Nghệ An.
38. Nguyễn Phú Phong (1994), Vô định, nghi vấn và phủ định, Ngôn ngữ số 2.
39. Lê Tô Thúy Quỳnh (2000), Ngôn ngữ và phương pháp lập luận trong tranh cãi pháp lý,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sỹ Ngữ
Văn.
40. Đặng Thị Hảo Tâm (2003), Thử tìm hiểu hiệu lực bác bỏ trong mối quan hệ với hành vi hỏi,
Ngôn ngữ và & Đời sống số 4.
41. Tạ Thị Thanh Tâm (2005), Vai giao tiếp và phép lịch sự trong tiếng Việt, Ngôn ngữ số 1.
42. Nguyễn Thị Việt Thanh (2001), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ
Chí Minh.
43. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng
Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Ngọc Tiến (1996), Cách thức biểu đạt nghĩa phủ định trong tiếng Việt, Trường Đại
học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, Luận văn đại học.
45. Phạm Anh Toàn (2007), Từ câu nói Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau đến tính phù hợp
trong giao tiếp, Ngôn ngữ và & Đời sống số 6.
46. Matsumoto Y (1989), Poliness and conversational universals – observation from Japanese,
University of London, UK.
47. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa, dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở
người Việt (trong sự so sánh với các dân tộc khác), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
48. Cù Đình Tú (2001), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Tp. Hồ Chí
Minh.
49. Hoàng Tuệ (1996), Ngôn ngữ và đời sống xã hội-văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Lê Anh Xuân (2006), Một cách trả lời gián tiếp cho câu hỏi chính danh- trả lời bằng sự im
lặng, Ngôn ngữ số 5.
52. Nguyễn Như Ý (1990), Vai xã hội và ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, Ngôn ngữ số 2.
53. Nguyễn Thị Hải Yến (2005), Hành vi từ chối lời mời của người Việt và người Nhật, Khoa
học ngoại ngữ số 4, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.
54. Nguyễn Thị Hoàng Yến (2001), Thành phần mở rộng và các yếu tố lịch sự trong phát ngôn
chê, Ngôn ngữ số 4.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Nguyễn Nhật Ánh (1991), Hạ đỏ, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Buổi chiều windows, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
3. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Phòng trọ ba người, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Nhật Ánh (1996), Chuyện cổ tích dành cho người lớn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Nhật Ánh (1997), Nữ sinh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bàn có năm chỗ ngồi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
7. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Bồ câu không đưa thư, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Út Quyên và tôi, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Nguyễn Nhật Ánh (2006), Ông thầy nóng tính, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
10. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Những cô em gái, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Bong bóng lên trời, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Tôi là Bêtô, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
13. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Trước vòng chung kết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
14. Nguyễn Nhật Ánh (2008), Cô gái đến từ hôm qua, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
15. Nguyễn Nhật Ánh, Kính vạn hoa 17, Nxb Kim Đồng, Tp. Hồ Chí Minh.
16. Nam Cao (2006), Nam Cao tuyển tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
17. Nam Cao (2007), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.
18. Tào Đình (2006), Anh trai và em gái), Nxb Hội nhà văn.
19. J.K. Rowling (2009), Harry Potter và bảo bối tử thần, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
20. Nguyễn Công Hoan, Truyện ngắn chọn lọc - tập 2, Nxb Hội nhà văn, Tp. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Công Hoan (2006), Lá ngọc cành vàng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
22. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước đường cùng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
23. Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu, Nxb Văn hóa Thông tin, Tp. Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Hiện (2008), Làng người xanh, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
25. Nhiều tác giả, 1001 đêm, Nxb Văn hóa Sài Gòn, trang 12.
26. Tô Hoài (1996), Dế mèn phiêu lưu kí, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
27. Tô Hoài (2000), Võ sĩ bọ ngựa, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
28. Khái Hưng (2006), Nửa chừng xuân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
29. Nguyên Hương (2009), Hoa rù rì, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
30. Lê Xuân Khoa, Đá Đỏ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội..
31. Phạm Công Luận (1998), Chú bé Thất Sơn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
32. Macxim Gorki (2007), Thời thơ ấu, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
33. Stephen Meyer (2009), Esclipe (Nhật thực), Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
34. Vũ Trọng Phụng (2004), Số đỏ, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
35. Ngô Tất Tố (2006), Tắt đèn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
36. Nguyễn Quang Thiều (1998), Bí mật hồ cá thần, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
37. Dương Thụy (2009), Hè của cô bé mất gốc, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
38. Dương Thụy (2009), Mọi cô gái đều thích hoa hồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
39. Dương Thụy (2009), Oxford thương yêu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
40. La Quán Trung (2006), Tam Quốc Chí, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
41. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
42. Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (2009), Trà sữa cho tâm hồn, Hà Nội.
44. Nhiều tác giả (2008), Kẻ rao bán mùa thu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (1999), Tổng tập văn học Việt Nam-tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
46. Edmond De Amicis (2003), Tâm Hồn Cao Thượng, Nxb Thanh niên, Tp. Hồ Chí Minh.
47. Ngữ văn lớp 5, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Ngữ văn lớp 8, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Ngữ văn lớp 9, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Ngữ văn lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Hoa học trò số 834, 793.
53. VTM, số 268.
54. Website: www.evan.vnexpress.net.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA5140.pdf