Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Standard Chartered

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Tên viết tắt Tên đầy đủ SCB Ngân hàng Standard Chartered NHTM Ngân hàng thương mại NHNN Ngân hàng Nhà nước L/C Letter of Credit (thư tín dụng) LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng. Hoạt động của NHTM rất đa d

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Standard Chartered, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạng và mang tính rộng khắp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Do phạm vi hoạt động cũng như phạm vi ảnh hưởng rộng khắp như vậy, ngân hàng phải gánh chịu nhiều rủi ro khác nhau liên quan đến các hoạt động kinh tế đó. Một số rủi ro đặc thù mà các NHTM thường gặp phải, đó là: rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý,.... Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, cho đến nay hoạt động thanh toán quốc tế vẫn là hoạt động kinh doanh quan trọng nhất, mang lại phần lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế có thể gây ra tác động nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác, thậm chí đe doạ sự tồn tại của Ngân hàng . Chính vì vậy, quản trị rủi ro trong thanh toán quốc tế là một công việc không thể thiếu đối với bất kỳ một Ngân hàng nào. Ngân hàng Standard Chartered là một trong những ngân hàng nước ngoài đã tồn tại ở Việt Nam khá lâu, ngày càng gây dựng được uy tín và lòng tin đối với khách hàng. Là một ngân hàng nước ngoài nên hoạt động thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ quan trọng của SCB. Chính vì vậy, việc hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, đề tài: “Hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng Standard Chartered” đã được lựa chọn làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp . Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM Ngân hàng thương mại và các hoạt động chủ yếu của NHTM Khái niệm về NHTM Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Ở các nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, mô hình ngân hàng phổ biến là hệ thống ngân hàng hai cấp : ngân hàng trung ương (Ngân hàng Nhà nước) làm chức năng phát hành tiền, quản lý Nhà nước về mọi hoạt động tiền tệ, tín dụng ngân hàng ; NHTM và các tổ chức trung gian tài chính khác. NHTM thực chất là một doanh nghiệp được thành lập và hoạt động dưới sự kiểm soát, quản lý, điều tiết của ngân hàng Nhà nước, thực hiện kinh doanh tiền tệ tín dụng, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tính dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Trong khi nhiều người cho rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế – nhận gửi và cho vay – thì trên thực tế, ngân hàng hiện đã phải thực hịên nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Ngày nay, các ngân hàng có những vai trò cơ bản sau: - Vai trò trung gian : Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần kinh tế khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác phục vụ mục đích kinh doanh. - Vai trò thanh toán : Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ ( phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phôí tiền ). - Vai trò bảo lãnh : Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng không còn khả năng thanh toán ( mất khả năng thanh toán ) : phát hành thư tín dụng – L/C. - Vai trò của một đại lý : Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ; phát hành hoặc mua lại chứng khoán ( thực hiện tại phòng ủy thác ). - Vai trò thực hiện chính sách : Thực hiện các chính sách kinh tế của chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội khác. Các hoạt động chủ yếu của NHTM. Hoạt động huy động vốn. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn – hoạt động tạo ra nguồn vốn cho NHTM - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn bao gồm : - Nhận gửi tiền ( các khoản thanh toán và tiết kiệm ). Ngân hàng bảo quản hộ khách hàng một số tiền và đảm bảo hoàn trả đúng hạn mà khách hàng yêu cầu cùng với một khoản tiền lãi. - Vay ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác : đây là nguồn có tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn huy động của ngân hàng, lãi suất phải trả cho các khoản vay này thường cao hơn các khoản huy động khác, thời gian vay ngắn. Tuy nhiên, nguồn này có ưu điểm là có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn hiện tại của ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn ( hoạt động tín dụng và đầu tư ). Các ngân hàng hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng, từ cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, bảo lãnh cho khách, mua các tài sản để cho thuê... * Hoạt động cho vay. Hoạt động cho vay gồm : - Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá - Cho vay tiêu dùng - Tài trợ cho các dự án * Hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư của ngân hàng bao gồm : - Đầu tư vào chứng khoán - Hùn vốn mua cổ phần, góp vốn liên doanh : thành lập công ty, góp vốn liên doanh với công ty khác, mua cổ phần để kiểm soát hoạt động của công ty ... - Đầu tư vào tài sản cố định : các loại cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động thanh toán. Ngân hàng đưa ra một cơ chế thanh toán, cung cấp các loại tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán : séc, thẻ tín dụng ( thẻ thanh toán ) … Thông qua hoạt động tài trợ ngoại thương, Ngân hàng đã hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu : - Cung cấp các khoản bảo lãnh hoặc tín dụng : bảo lãnh tín chấp, bảo lãnh phát hành L/C, chiết khấu chứng từ hoặc mua lại chứng từ… - Trung gian thanh toán. - Tư vấn khách hàng :tư vấn trong các giao dịch ngoại thương và đối tác có liên quan. - Quản lý rủi ro tín dụng : thay mặt khách hàng cam kết thanh toán hoặc thu nợ nếu họ chấp hành đầy đủ mọi qui định. - Quản lý rủi ro ngoại hối :Ngân hàng sử dụng các nghiệp vụ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho khách hàng. - Cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán : thanh toán trước, thanh toán sau, tài khoản mở, nhờ thu, L/C … Một số hoạt động khác. - Mua – bán ngoại tệ : Đây là hoạt động mua bán 1 loại tiền này lấy 1 loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ, được xem là 1 trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên của NHTM - Quản lý ngân quĩ : là việc ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho 1 công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán - Bảo lãnh : Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho 1 khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng ,nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị,phát hành chứng khoán,vay vốn của tổ chức tín dụng khác.. - Bảo quản tài sản hộ Các ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng,các giấy tờ có giá và các tài sản khác cho khách hàng trong két. Ngân hàng thường giữ hộ những tài sản tài chính,giấy tờ cầm cố,hoặc những giây tờ quan trọng khác của khách với nguyên tắc an toàn,bí mật,thuận tiện. - Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn Ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ cá nhân và doanh nghiệp. Nhiều khách hàng còn coi ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp. - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Từ nhiều năm nay,các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết,bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt đông,mất khả năng thanh toán.Ngân hàng liên doanh với công ty bảo hiểm hoặc tổ chức công ty bảo hiểm con,ngân hàng cung cấp dịch vụ tiết kiệm gắn với bảo hiểm như tiết kiệm an sinh,tiết kiệm hưu trí Hoạt động thanh toán quốc tế của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm thanh toán quốc tế Thanh toán quốc tế là việc thanh toán giữa các nước với nhau về các khoản tiền nợ phát sinh từ các quan hệ giao dịch về kinh tế – tài chính – văn hóa – chính trị ... Chủ thể trong thanh toán quốc tế có thể là pháp nhân hoặc có thể là chính phủ của các quốc gia có nhu cầu trao đổi ngoại thương. Thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ quan trọng, một hoạt động cơ bản trong nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại của NHTM. Thanh toán quốc tế hình thành và phát triển trên cơ sở các mối quan hệ kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội giữa các quốc gia với nhau, đồng thời góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế phát triển. Hơn nữa, thanh toán quốc tế là yếu tố đánh giá hiệu quả kinh tế của một quốc gia bởi vì nó thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát triển không ngừng, giúp cho các đồng vốn chu chuyển liên tục trên phạm vi toàn cầu. Hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ phát sinh trên cơ sở các mối quan hệ thương mại mà còn liên quan đến các hoạt động kinh tế khác như chuyển tiền kiều hối, vay nợ nước ngoài, viện trợ ( có hoàn lại hoặc không hoàn lại ) ... giữa các tổ chức kinh tế – tài chính và phi kinh tế – tài chính; giữa các quốc gia với nhau. 1.1.2.2. Vai trò thanh toán quốc tế của NHTM Do đặc điểm của thanh toán quốc tế là một quan hệ phát sinh giữa các chủ thể ở các quốc gia có vị trí địa lý, môi trường, dân cư, phong tục tập quán khác nhau, bị hạn chế bởi không gian và thời gian, thậm chí mới quen biết và chưa hiểu rõ, tin tưởng nhau...Nếu các chủ thể này tự mình tìm hiểu đối tác, tập quán kinh doanh và thực hiện việc thanh toán mà không cần đến một sự giúp đỡ từ bên ngoài thì sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức và chi phí. Từ đó nảy sinh nhu cầu cần một tổ chức trung gian làm cầu nối, thực hiện thanh toán quốc tế cho các chủ thể này, đó chính là các NHTM. Vì vậy, các NHTM có vai trò rất quan trọng trong thương mại quốc tế, điều này được thể hiện ở các mặt sau: Cung cấp các khoản bảo lãnh tín dụng hoặc tín dụng: bao gồm bảo lãnh tín chấp, bảo lãnh phát hành L/C, cho vay… đối với nhà nhập khẩu và chiết khấu chứng từ xuất khẩu, mua lại chứng từ nhờ thu… đối với nhà xuất khẩu. phép việc thực hiện thanh toán giữa các bên liên quan, đảm bảo an toàn nhanh chóng. Trung gian thanh toán: hệ thống ngân hàng nhanh chóng và chính xác. Tư vấn: trong bất kì trường hợp nào nếu gặp phải những vấn đề liên quan đến thanh toán trong giao dịch ngoại thương, khách hàng liên quan đều có thể nhận được những tư vấn tốt từ cán bộ chuyên môn trong các NHTM. Quản lý rủi ro tín dụng: trong thương mại quốc tế, người mua có thể phải giao dịch với một người bán mà họ không hề biết, thậm chí kể cả sau khi đã có công cụ dụng cụ mua bán với nhau, người mua cũng không biết về người bán một cách triệt để hoặc tốt hoặc xấu. Như vậy người mua và người bán không thể nắm bắt chắc chắn về khả năng tài chính, uy tín và khả năng thực hiện trách nhiệm thanh toán của nhau, do đó khó lường trước được những rủi ro có thể xảy ra. Với sự giúp đỡ của ngân hàng, người mua và người bán sẽ yên tâm và tin tưởng hơn vì sẽ loại từ được rủi ro. Ví dụ khi ngân hàng phát hành đã thay thế vai trò của người mua để cam kết với người bán rằng họ sẽ nhận được tiền thanh toán nếu họ chấp hành đúng và đủ các điều kiện quy định trong L/C. Quản lí rủi ro về ngoại hối: Trong thương mại quốc tế người mua và người bán ở hai nước khác nhau, nhưng chỉ giao dịch với cùng một loại tiền, họ phải đương đầu với những rủi ro về tỷ giá tiền tệ, những rủi ro này sẽ dễ dàng loại trừ nếu có sự giúp đỡ của ngân hàng thông qua các nghiệp vụ phòng ngừa rủi ro do ngân hàng thực hiện, các hợp đồng mua bán hoặc chuyển đổi ngoại tệ tuỳ theo sự lựa chọn của khách hàng. Cung cấp khả năng lựa chọn các phương thức thanh toán: hiện nay các NHTM có thể cung cấp cho khách hàng nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau như: thanh toán trước, thanh toán sau, tài khoản mở, nhờ thu và L/C. Trong tất cả cá phương thức quan trọng này quan trọng nhất là L/C. 1.1.2.3. Các phương thức thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu. Việc thanh toán hầu hết đều được thực hiện qua Ngân hàng vì chỉ có Ngân hàng mới có đủ năng lực tài chính, nghiệp vụ và an toàn; phát huy tối đa các ưu điểm của các phương thức thanh toán này. Kỹ thuật nghiệp vụ của NHTM trong thanh toán quốc tế sẽ được thể hiện rõ qua các phương thức thanh toán dưới đây Phương thức chuyển tiền(Remittance) a. Khái niệm Chuyển tiền là phương thức thanh toán quốc tế trong đó một khách hàng (nhà nhập khẩu hay người trả tiền ) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chi trả một số tiền nhất định cho một người thụ hưởng tại địa điểm xác định do khách hàng của ngân hàng yêu cầu và cung cấp thông tin. Ngân hàng chuyển tiền đi phải thông qua ngân hàng đại lý của nước người thụ hưởng để thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền. Ở đây, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian thanh toán, hưởng một tỉ lệ hoa hồng nào đó và sau khi thực hiện thanh toán thì ngân hàng sẽ không cỏnàng buộc gì với cả người bán lẫn người mua. b. Quy trình nghiệp vụ QUÁ TRÌNH THANH TOÁN DIỄN RA THEO SƠ ĐỒ : Ngân hàng phát lệnh chuyển tiền. ( 4) (2) (3) (5) Người thụ hưởng ( nhà xuất khẩu ) Người chuyển tiền ( nhà nhập khẩu, trả tiền ) Ngân hàng đại lý thanh toán. (1) Sau khi hợp đồng mua – bán ngoại thương được ký kết, người xuất khẩu sẽ cung ứng hàng hóa, dịch vụ và toàn bộ chứng từ có liên quan cho người nhập khẩu. Người nhập khẩu sau khi kiểm tra hàng hóa và chứng từ sẽ viết lệnh chuyển tiền theo mẫu rồi giao cho ngân hàng phục vụ mình chuyển tiền đi. Ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ và khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu rồi tiến hành trích tiền từ tài khoản của người này để thực hiện chuyển tiền sau đó báo nợ cho nhà nhập khẩu. Ngân hàng phát lệnh( bằng thư hoặc điện) cho ngân hàng đại lý để họ thực hiện chi trả. Ngân hàng đại lý chuyển tiền vào tài khoản cho người thụ hưởng hoặc gửi giấy thông báo. Phương thức nhờ thu ( collection ). a. Khái niệm : Nhờ thu là phương thức mà người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền nhờ ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu. Trong mối quan hệ này, ngân hàng chỉ tham gia với tư cách là trung gian thanh toán, nhận giữ các chứng từ hàng hóa nhưng không bị ràng buộc trách nhiệm về việc kiểm tra chứng từ nhờ thu hoặc giấy nhờ thu có được nhà nhập khẩu chấp nhận và thanh toán hay không. b. Qui trình nghiệp vụ Hoạt động thanh toán quốc tế có hai lọai nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. - Nhờ thu phiếu trơn ( clean collection ) : Đây là phương thức mà người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu từ người mua nhưng không kèm theo điều kiện gì . Phương thức tiến hành nghiệp vụ như sau : (3) (6) (7) (2) (5) (4) Ngân hàng bên mua Ngân hàng bên bán Nhà xuất khẩu Nhà nhập khẩu (1) : nhà xuất khẩu giao hàng và toàn bộ chứng từ cho nhà nhập khẩu : nhà xuất khẩu ký phát hối phiếu và nhờ ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ghi trên hối phiếu từ nhà nhập khẩu. : ngân hàng bên xuất khẩu chuyển hối phiếu cho ngân hàng bên nhập khẩu nhờ thu tiền hộ tư nhà nhập khẩu. : ngân hàng bên nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và yêu cầu thực hiện thanh toán ( fax hoặc thông báo bằng điện ). : nhà nhập khẩu thực hiện trả tiền hoặc từ chối thanh toán hối phiếu. : ngân hàng bên nhập khẩu chuyển tiền hoặc trả lại hối phiếu bị từ chối thanh toán. : ngân hàng bên bán chuyển tiền hoặc hoàn lại hối phiếu cho nhà xuất khẩu. - Nhờ thu kèm chứng từ ( documentary collection ) : Là phương thức mà nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong sẽ lập bộ chứng từ thanh toán nhờ thu ( gồm chứng từ gửi hàng và hối phiếu ) và nhờ ngân hàng của mình thu hộ với điều kiện là nhà nhập khẩu trả tiền ( hoặc chấp nhận thanh toán ) thì ngân hàng mới giao toàn bộ chứng từ đó cho nhà nhập khẩu để họ nhận hàng. Có hai loại phương thức nhờ thu kèm chứng từ: + Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ (D/P) :sử dụng trong trường hợp mua – bán trả tiền ngay. + Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ ( D/A) :sử dụng khi mua – bán chịu Nhà Nhập Khẩu Nhà Xuất Khẩu (1) : HĐTM giữa nhà XK – NK (2) : Hàng lưu chuyển Ngân hàng người nhập khẩu Ngân hàng người xuất khẩu chứng từ (3) chứng từ (4)chứng từ (5) thanh toán Phương thức tín dụng chứng từ ( documentary credits ). a. Khái niệm : Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ được hiểu “là một thỏa thuận mà theo đó một ngân hàng ( ngân hàng mở thư tín dụng ), theo yêu cầu từ khách hàng của mình( người xin mở thư tín dụng ) cam kết sẽ thanh toán một số tiền nhất định cho bên thứ 3 ( bên thụ hưởng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó khi người thụ hưởng xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những qui định đề ra trong thư tín dụng. b. Quy trình nghiệp vụ Nhà xuất khẩu Ngân hàng thông báo L/C Ngân hàng mở L/C Nhà nhập khẩu (3) (5) (6) (8) (1) (7) (2) (5) (6) (1): Dựa trên hợp đồng thương mại, người mua làm đơn xin và yêu cầu được mở L/C cho nhà xuất khẩu hưởng. (2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng tiến hành mở L/C và thông báo nội dung L/C cho người bán biết và gửi bản chính của L/C cho người bán thông qua ngân hàng thông báo. (3) Ngân hàng thông báo tiến hành thông báo nội dung L/C và chuyển bản chính L/C cho nhà xuất khẩu. (4) Nhà xuất khẩu khi chấp nhận L/C sẽ giao hàng cho nhà nhập khẩu; nếu không sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu và ngân hàng mở L/C sửa đổi nội dung L/C theo yêu cầu. (5) Nhà xuất khẩu lập chứng từ thanh toán và xuất trình cho ngân hàng mở L/C thông qua ngân hàng thông báo để đòi tiền. (6) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ thanh toán, nếu phù hợp sẽ trả tiền, nếu không sẽ từ chối thanh toán và gửi trả bộ chứng từ trên. (7) Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho họ. (8) Nhà nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ và tiến hành trả tiền. Nếu không hợp lệ sẽ từ chối thanh toán và gửi trả chứng từ. Phương thức ghi sổ hay tài khoản mở.( open account) Phương thức ghi sổ hay tài khoản mở là cách mà người xuất khẩu khi xuất khẩu hàng hóa – dịch vụ thì sẽ ghi nợ cho người nhập khẩu, theo dõi vào cuốn sổ này và việc thanh toán các khoản nợ sẽ được thực hiện vào một thời kì nhất định. Theo phương thức này, điều thuận lợi cơ bản là rất đơn giản và chi phí thấp, linh hoạt trong việc qui định ngày thanh toán cụ thể. Tuy nhiên, rủi ro cao cho nhà xuất khẩu vì có thể vốn bị ứ đọng do đối tác chậm thanh toán tiền hàng đã giao. Mặt khác, sự thỏa thuận này không có công cụ làm bằng chứng về những giao ước hay cam kết giữa các bên nên rủi ro mất tiền là rất cao. Phương thức chuyển tiền bồi hoàn bằng điện(telegraphic transfer Reimbusement-TTR) a. Khái niệm  Hình thức này cũng buộc người mua mở L/C như bình thường, khi người bán xuất trình bộ chứng từ cho ngân hàng thông báo, ngân hàng sẽ kiểm tra nếu thấy bộ chứng từ phù hợp với L/C thì sẽ trả tiền ngay cho người bán. Ngươi xuất khẩu sẽ nhận được tiền hàng sớm, chỉ độ vài ngày. Sau đó ngân hàng thông báo sẽ chuyển chứng từ cho ngân hàng mở L/C và ngân hàng này sẽ hoàn tiền bằng điện cho ngân hàng thông báo. b. Quy trình nghiệp vụ Ngân hàng thông báo Ngân hàng mở L/C 3 8 9 Người xuất khẩu Người nhập khẩu 11 10 2 6 7 4 1 5 Ký kết hợp đồng thương mại Người xuất khẩu xin mở L/C thanh toán theo phương thức TTR Ngân hàng mở L/C gửi cho ngân hàng thông báo một L/C với TTR Ngân hàng nhận L/C thông báo cho người xuất khẩu biết Người xuất khẩu giao hàng hoá cho người nhập khẩu Người xuất khẩu trình bộ chứng từ hàng hoá, xin thanh toán Ngân hàng thông báo thanh toán ngay cho người xuất khẩu khi chứng từ phù hợp với L/C Ngân hàng thông báo chuyển bộ chứng từ hàng cho ngân hàng mở L/C Ngân hàng mở L/C sau khi kiểm tra chứng từ phù hợp sẽ trả tiền cho ngân hàng thông báo Ngân hàng mở L/C báo cho người nhập khẩu đến thanh toán tiền hàng Sau khi người nhập khẩu kiểm tra chứng từ và thanh toán thì ngân hàng mở L/C giao cho người nhập khẩu bộ chứng từ để đi nhận hàng. 1.2. Rủi ro trong thanh toán quốc tế của NHTM 1.2.1. Khái niệm về rủi ro trong thanh toán quốc tế 1.2.1.1. Khái niệm về rủi ro Theo định nghĩa truyền thống thì rủi ro chỉ là những sự kiện xảy ra có thể làm mất mát tài sản hay làm phát sinh một khoản nợ, còn theo quan điểm hiện đại thì rủi ro bao hàm nghĩa rộng hơn, không chỉ tính đến rủi ro tài chính mà còn là những rủi ro ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động và mục tiêu chiến lược. Như vậy, rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được. Đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng thì ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…, phục vụ cho phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy, hoạt động ngân hàng chứa đựng nhiều tiềm ẩn rủi ro mà chúng ta khó có thể lường trước được. Nguyên nhân của những tiềm ẩn rủi ro này là do ngân hàng là một trung gian tài chính, huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với lãi suất thấp, sau đó cho các tổ chức kinh tế, cá nhân vay lại với lãi suất cao hơn để thu lợi nhuận. Nếu ngân hàng không đáp ứng đủ vốn cho nền kinh tế hoặc huy động đủ vốn nhưng không có thị trường để cho vay thì ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, sẽ dẫn đến rủi ro. Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội … gây ra những thiệt hại không nhỏ cho ngân hàng. Hơn nữa, ngân hàng kinh doanh không chỉ huy động vốn và cho vay mà còn rất nhiều lĩnh vực khác như thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ đại lý … Vì vậy có thể nói rằng rủi ro ngân hàng rất đa dạng. Ngoài ra, các ngân hàng đang hoạt động trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng với nhau và với các tổ chức tín dụng, dẫn đến việc cạnh tranh về lãi suất để huy động được vốn, làm cho lãi suất huy động vốn cao hơn lãi suất cho vay cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho ngân hàng. 1.2.1.2. Rủi ro trong thanh toán quốc tế Rủi ro trong thanh toán quốc tế là rủi ro phát sinh trong quá trình thanh toán giữa các bên trong giao dịch quốc tế (nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, ngân hàng, các tổ chức cá nhân, trung gian có liên quan...). Rủi ro thanh toán quốc tế cũng tương tự như rủi ro thanh toán nội địa nhưng phức tạp và khó kiểm soát hơn do trong giao dịch quốc tế, các chủ thể ở cách xa nhau, thậm chí còn chẳng biết mặt nhau, cũng như sự khác biệt về văn hóa, phong tục tập quán, luật pháp giữa các quốc gia… làm tăng thêm các khó khăn liên quan đến giao dịch thương mại quốc tế, trong đó có thanh toán quốc tế. 1.2.2. Rủi ro của NHTM trong thanh toán quốc tế Do kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt, vì vậy những rủi ro trong hoạt động ngân hàng cũng mang tính đặc thù. Hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung thường phải đối mặt với những rủi ro sau dây: 1.2.2.1. Rủi ro tín dụng: Rủi ro tín dụng phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kỳ hạn. Trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng có thể đóng vai trò là ngân hàng phát hành, ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu hoặc ngân hàng thông báo. Dù ở bất cứ vai trò nào thì trong phương thức tín dụng chứng từ, ngân hàng cũng đều gặp những rủi ro nhất định: + Đối với ngân hàng phát hành Rủi ro tín dụng đối với ngân hàng phát hành là việc không thu được hoặc thu không đầy đủ từ nhà nhập khẩu số tiền có giá trị bằng giá trị số tiền mà ngân hàng đă bỏ ra thanh toán cho nhà xuất khẩu. Các trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng: . Rủi ro trong tín dụng thế chấp hàng nhập khẩu. Đây là rủi ro thường gặp khi nhà nhập khẩu dùng số hàng nhập khẩu để thế chấp nó rất khó để các ngân hàng đánh giá giá trị của lô hàng này hoặc việc phá bỏ hợp đồng của nhà nhập khẩu. Có thể tóm tắt rủi ro sảy ra như sau: nhà nhập khẩu xin mở L/C nhưng khi ngân hàng thanh toán cho nhà xuất khẩu và lấy chứng từ gửi hàng, nhà nhập khẩu không lấy chứng từ để lĩnh hàng và dĩ nhiên là không trả tiền cho ngân hàng. Rủi ro xảy ra khi ngân hàng cho khách hàng vay ký quỹ mở L/C cũng như thanh toán hàng nhập khẩu mà bảo đảm chính lô hàng đó. Ngân hàng phải bán lô hàng đó và luôn bị lỗ do các lý do: Ngân hàng không phải là nhà kinh doanh nhập khẩu; Hàng nhập khẩu có khi phải chế biến mới bán được; sự giảm chất lượng do nhiêu yếu tố tác động. Rủi ro trong tín dụng bảo lãnh trả chậm: Cần phải hiểu chữ tín dụng theo nghĩa rộng hơn, nó không chỉ là khoản tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay mà nó còn có cả tín dụng bằng chữ ký tức là vay bằng uy tín của mình. Theo nguyên tắc khi khách hàng vay thì phải có một khoản ký quỹ nhất định song ngân hàng ngân hàng cũng có thể cho khách hang một khoản tín dụng bằng lời hứa trả của khách hàng khi tiền ký quỹ không đủ. Rủi ro xảy ra khi nhà nhập khẩu không thanh toán ctiền hàng khi đến hạn thanh toán cho ngân hàng. + Đối với ngân hàng xác nhận Hoạt động tín dụng còn thể hiện trong mối quan hệ giưa ngân hàng xác nhận và ngân hàng mở thư tín dụng. Trong trường hợp ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng nhỏ, ít có danh tiếng hoặc ítcó giao dịch với ngân hàng thông báo. Nói cách khác, ngân hàng xác nhận đã cung cấp tín dụng cho ngân hàng mở L/C. Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng xác nhận là khi không nắm được năng lực tài chính của ngân hàng mở đã vội xác nhận theo yêu cầu của họ để rồi ngân hàng xác nhận phải lấy trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở khi ngân hàng mở thiếu thiện trí hay mất khả năng thanh toán, thậm chí phá sản. + Đối với ngân hàng chiết khấu và ngân hàng hoàn trả thì rủi ro tín dụng xảy ra khi không thu được khoản tiền mà trước kia đã thanh toán hoặc đã chiết khấu cho nhà nhập khẩu. + Đối với ngân hàng thông báo đôi khi đóng vai trò của cả ngân hàng xác nhận, ngân hàng chiết khấu. Rủi ro tín dụng cho ngân hàng thông báo khi cho vay tài trợ xuất nhập khẩu mà không thu hồi được vốn. Ngoài ra trong nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trường hợp ngân hàng phát hành không chịu trả tiền cho ngân hàng thông báo mặc dù nhà nhập khẩu đã thanh toán tiền rồi. Trường hợp này ít xảy ra tuy nhiên để đảm bảo an toàn ngân hàng chỉ thông báo với ngân hàng mở quen biết, có uy tín hoặc phải ký quỹ. 1.2.2.2. Rủi ro lãi suất: thể hiện rủi ro lỗ tiềm tàng của một Ngân hàng do các biến động của lãi suất. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như: rủi ro xác định lại lãi suất, rủi ro đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro tương quan lãi suất, và rủi ro quyền chọn đi kèm. 1. 2.2.3. Rủi ro thanh khoản: Rủi ro thanh khoản phát sinh khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lâpj tức. Trong những trường hợp như vậy, ngân hàng phải di vay bổ sung nguồn vốn thanh toán hoặc phải bán tài sản có của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi tiền. Trong cơ cấu tài sản có thì tiền mặt có độ thanh khoản cao nhất, do đó trước hết ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Bởi vì tiền mặt tại quỹ không mang lại thu nhập lãi suất, cho nên trong những trường hợp bình thường, ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt ở mức tối ưu đủ để đáp ứng các nhu cầu rút tiền thường xuyên của người gửi tiền mà không gây ảnh hưởng đến độ thanh khoản của ngân hàng. Ngân hàng có thể làm được điều này, vì qua kinh nghiệm công tác ngân quỹ hàng ngày, ngân hàng có thể dự tính chính xác nhu cầu rút tiền gửi hàng ngày và trong trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì ngân hàng chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, ví dụ như trong tình huống dân chúng mất lòng tin vào ngân hàng, hoặc nhu cầu rút tiền có tính chất thời vụ mà ngân hàng không dự tính trước được, đòi hỏi ngân hàng phải chi trả tức thời một khoản tiền lớn hơn mức bình thường. Trong bối cảnh đó, hầu hết các ngân hàng đều đang phải đối phó với tình huống tương tự, thì chi phí để huy động vốn bổ sung tăng lên một cách đáng kể do lượng vốn cung ứng trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán một số tài sản có độ thanh khoản thấp để đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi. Điều này khiến cho ngân hàng gặp phải rủi ro thanh khoản nghiêm trọng và ngân hàng buộc phải bán gấp ngay cả những tài sản khó chuyển nhượng với giá rẻ. Do bán khẩn cấp một số tài sản với giá thấp khiến cho khả năng thanh toán cuối cùng của ngân hàng bị đe dọa. Trong trường hợp rủi ro thanh khoản ngày càng nghiêm trọng, nếu tất cả những người gửi tiền đồng loạt yêu cầu ngân hàng chỉ trả toàn bộ tiền cảu họ thì ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro phá sản. 1.2.2.4. Rủi ro ngoại hối: Một xu hướng đang phát triển mạnh mẽ trong hoạt động của các ngân hàng hiện đại là việc mở rộng các nghiệp vụ ngoại hối. Rủi ro ngoại hối phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của các khoản ngoại hối nắm giữ, vì thế làm cho Ngân hàng có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động. 1.2.2.5. Rủi ro công nghệ và hoạt động: Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đẩu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dựtính khi mở rộng qui mô hoạt động. Tính không hiệu quả trong đầu tư công nghệ của ngân hàng phát sinhtrong trường hợp, ví dụ, dung lượng đầu tư quá lớn dẫn đến công nghệ không sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở nên quan liêu, kém hiệu quả, hoặc là qui mô hoạt động không được mở rộng mặc dù đã đầu tư công nghệ mới. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu qủ là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và là nguyên nhân tiềm ẩn cảu sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Ngược lại, lợi ích từ việc đầu tư công nghệ là tạo cho ngân hàng một sức bật quan trong trong cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép ngân hàng phá._.t triển các sản phẩm mới, tiên tiến, hiện đại giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững. Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc là khi hệ thống hỗ trợ bên trong ngừng hoạt động. Ví dụ trong giao dịch trên thị trường liện ngân hàng, ngân hàng có thể là người cho vay hoặc là người đi vay. Việc thanh toán giữa các ngân hàng diễn ra trong ngày. Thông thường thì hệ thống máy tính của ngân hàng hoạt động hiệu quả, nhưng đôi khi cũng xảy ra trục trặc và do đó rủi ro có thể phát sinh. Rủi ro có thể xảy ra khi hệ thống máy tính đã xử lý sai khoản đi vay của ngân hàng thành khoản cho vay. Kết quả là đến cuối ngày, trạngthái tiềncho vay của ngân hàng có thể ở mức cao quá mức, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán cảu ngân hàng. 1.2.2.6. Rủi ro pháp lý: Thường tác động tới các Ngân hàng theo hai cách:     + Các khách hàng và những người khác có thể khởi kiện Ngân hàng. Lý do của việc khởi kiện có thể phát sinh từ quá trình hoạt động kinh doanh bình thường, ví dụ việc Ngân hàng từ chối cấp lại hạn mức cho vay mà theo khách hàng là vô lý. Tuy nhiên, các trường hợp khác cũng có thể phát sinh từ các lý do tách biệt khỏi hoạt động kinh doanh Ngân hàng như việc tài trợ cho những khách hàng gây ô nhiễm môi trường có thể làm Ngân hàng bị các bên thứ ba kiện cáo... + Thu xếp pháp lý của Ngân hàng: ví dụ, các hợp đồng cho vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của Ngân hàng có vấn đề, hoặc Nhà nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu tiên...điều này có thể dẫn tới rủi ro thua lỗ cho Ngân hàng. 1.2.2.7. Các rủi ro khác Ngoài những rủi ro cơ bản trên thì hoạt động ngân hàng còn phải đối mặt với một số rủi ro như sau: Rủi ro chiến lược: phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của Ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân Ngân hàng. Ví dụ, việc xâm nhập vào một thị trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các nguồn lực cần thiết để khai thác thị trường này có thể làm Ngân hàng gặp phải rủi ro thua lỗ. Rủi ro uy tín: Là rủi ro dư luận đánh giá xấu về Ngân hàng, gây khó khăn nghiêm trọng cho Ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ Ngân hàng. Nhận thức rõ tầm quan trọng của uy tín và thương hiệu, hiện nay,các ngân hàng đều đang cố gắng xây dựng được hình ảnh đẹp với khách hàng nhằm xây dựng uy tín. Rủi ro quốc gia: Rủi ro quốc gia là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối, ngoại thương của một quốc gia. Như chúng ta đã biết, mỗi một thay đổi trong chính sách của mỗi một quốc gia đều có tác động rất lớn không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng mà tác động đến toàn bộ nền kinh tế nói chung. Nếu ngân hàng hoạt động ở một quốc gia có tình hình chính trị, kinh tế không ổn định, các chính sách kinh tế cũng như lãi suất biến đổi thất thường thì sẽ gây rất nhiều rủi ro cho ngân hàng. 2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro trong thanh toán quốc tế 2.3.1. Nguyên nhân khách quan Trong thanh toán quốc tế có rất nhiều nguyên nhân gây ra nhiều rủi ro trong thanh toán như môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý...Sau đây là những nguyên nhân khách quan chủ yếu: Nguyên nhân xuất phát từ phía khách hàng Trong những năm gần đây nền kinh tế nước ta đang có những chuển biến hết sức rõ rệt. Với xu thế hôi nhập các doanh nghiệp việt nam có cơ hội thử trên thương trường quốc tế rộng lớn. Bên cạnh đó cũng có những hạn chế do mới tham gia nên kinh tế mở cửa các nhà doanh nghiệp việt nam phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh có kinh nghiệm. Sự hiểu biết hạn chế về thông lệ quốc tế, luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của đối tác. Thêm vào đó là sự thiếu các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, kỹ thuật, nghiệp vụ thanh toán. Thực trạng của các doanh nghiệp việt nam hiện nay là tiềm lực kinh tế còn rất kém chỉ dựa vào tài trợ của ngân hàng. Khi kinh doanh với các đối tác nước ngoài bị thua lỗ thì hầu như đều ảnh hưởng trực tiếp tới ngân hàng. Trong kinh doanh ngoại thương các doanh nghiệp việt nam tưởng rằng thanh toán bằng thư tín dụng là an toàn song trong thực tế đã chứng minh nhiều doanh nghiệp đã phải trả giá cho các điều kiện lập lờ trong hợp đồng ngoại thương cũng như trong thư tín dụng. Do vậy ngân hàng khi thanh toán cũng gặp nhiều rủi ro. Một nguyên nhân nưa là khách hàng cố ý làm sai nguyên tắc. Khách hàng bao gồm cả nhà xuất khẩu lẫn cả nhập khẩu, vấn đề ở đây là đạo đức kinh doanh của khách hàng. Họ đã nắm được điểm yếu của thư tín dụng là việc thanh toán tách rời khỏi hàng hoá mà chỉ căn cứ vào chứng từ. Dối tác có thể tinh vi lập bộ chứng từ giả mà ngân hàng không thể phát hiện tính xác thực của nó. Môi trường pháp lý Trong thanh toán quốc tế luôn chứa đựng những rủi ro, những tranh chấp và nó tỷ lệ thuận với sự hoà nhập ngày càng rộng, càng nhiều ,càng sâu vào nền kinh tế khu vực và quốc tế. Trong những nhân tố quan trọng gây ra rủi ro là sự thiếu trung thực hay cố ý lam trái của khách hàng. Do vậy pháp luật của mỗi quốc gia cần phải có những quy định cụ thể điều chỉnh mối quan hệ này trong sự tương quan hợp lý với thông lệ quốc tế. Ví dụ như: Trung quốc người ta cho phép toà án địa phương có quyền ra lệnh tạm nghừng thanh toán thư tín dụng khi người cung cấp thư tín dụng có khiếu nại. Bộ luật dân sự cộng hoà liên bang nga quy định khá nhiều điều khoản liên quan đến giao dịch thư tín dụng tương quan với thông lệ quốc tế. ở việt nam những quy định về thư tín dụng là chưa nhiều có thể nói là chưa có. Hiện nay tại các ngân hàng thì chỉ thực hiện theo quy định của UCP500 là chủ yếu. Môi trường pháp lý có thể gây ra rủi ro cho ngân hàng khi chính sách luật thay đổi hoặc hệ thống luật chưa hoàn thiện, cách thức thi hành chưa đảm bảo thời gian, tính nghiêm minh và còn nhiều kẽ hở cho các doanh nghiệp lợi dụng. Trong thanh toán quốc tế sự khác biệt về pháp luật giữa các nước cũng gây ra tranh chấp giữa các ngân hàng. Môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội NHTM, các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đều hoạt đọng trong môi trường kinh tế xã hội chung. Môi trường kinh tế xã hội coa ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của ngân hàngthương mại và các doanh nghiệp. Nếu môi trường kinh tế xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt đọng hiệu quả, tăng khả năng thanh toán cho ngân hàng. Ngược lại môi trường kinh tế xã hội biến động sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tình hình kinh doanh của các doang nghiệp. Khi đó ngân hàng sẽ chụi ảnh hưởng trầm trọng ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của mình. Khi nhắc đén môi trường kinh tế xã hội thì không thể không nhắc tới môi trường tự nhiên như thiên tai, dịch hoạ...cũng làm cho ngân hàng gặp phải khó khăn. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan Đây là nguyên nhân xuất phát từ chính ngân hàng, do những sơ suất không đáng có mà ngân hàng gây thiệt hại tới lợi nhuân của mình và mất uy tín trong kinh doanh. Một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong thanh toán quốc tế xuất phát từ chính cán bộ ngân hàng do chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế. Trước khi mở L/C cho khách hàng thì ngân hàng phải thẩm định tính pháp lý của doanh nghiệp. Khi tiến hành mở L/C việc ký quỹ, miễn giảm ký quỹ, cho vay thanh toán hàng nhập... ngân hàng phải xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như uy tín và mối quan hệ với ngân hàng. Đặc biệt trong trường hợp khách hàng thế chấp tài sản để đảm bảo. Tuy nhiên kết quả thẩm định không khi nào cũng chính xác do thông tin không cân xứng. Vì vậy cán bộ ngân hàng ngoài khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp còn phải biết về tình hình kinh tế nói chung để dự toán khả năng thanh toán của khách hàng. Ngoài ra nhiều cán bộ biến chất còn thông đồng với khách hàng đưa ra những quyết định không đúng gây ra thiệt hại lớn cho ngân hàng. Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI NGÂN HÀNGSCB CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1. Giới thiệu tổng quan về SCB chi nhánh Hà Nội 2.1.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển Ở Việt Nam,SCB có mặt lần đầu tiên vào năm 1904 và ngừng hoạt động từ năm 1975, sau đó đã quay trở lại mở văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1990. Chi nhánh ngân hàng tại Hà Nội được thành lập năm 1994 theo giấy phép số 12/GP-NH ngày 01/06/1994 do thống đốc NHNN cấp, đặt trụ sở tại tầng 8, trung tâm tháp Hà Nội, số 49 phố Hai Bà Trưng. Tiếp đó, ngày 11, tháng 1 năm 2006, NHNN Việt Nam chính thức trao giấy phép số 12/GP-NH ngày 28/12/2005 cho phép SCB thành lập chi nhánh tại Tp. Hồ Chí Minh, tăng số lượng chi nhánh của SCB tại Việt Nam lên 2 chi nhánh. Vào ngày 7 tháng 6 năm 2006, SCB chính thức khai trương chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh. Đối vớiSCB, chi nhánh mới tại thành phố Hồ Chí Minh đem đến cho ngân hàng cơ hội tốt giúp ngân hàng đẩy mạnh và mở rộng các hoạt động tại Việt Nam. Như vậy, ở Việt Nam, SCB đã hoạt động và phát triển được 17 năm, một khoảng thời gian khá dài so với các ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam hiện nay. Trải qua quá trình hoạt động và phát triển, SCB đã hoà nhập vào hoạt động chung của cả hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa, trong lúc hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, SCB không chỉ đứng vững trong cạnh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiệu quả ngày càng cao. 2.1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của SCB. Huy động vốn. Ngân hàng huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và các loại tiền gửi khác. Mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VND và ngoại tệ. Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước khi được thống đốc NHNN chấp nhận. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và các tổ chức tín dụng nước ngoài. Vay vốn ngắn hạn của NHNN dưới hình thức tái cấp vốn. Các hình thức huy động vốn khác theo qui định của NHNN, như tiếp nhận vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư từ NHNN và các tổ chức quốc tế, chính phủ của các nước và các cá nhân… Hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng cho các tổ chức cá nhân dưới các hình thức Cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, các cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế. Chiết khấu, tái chiết khấu. cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác Bảo lãnh: bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, vay vốn với bên thứ ba, bảo lãnh tiền đặt cọc, bảo lãnh giao nhận hàng Cho thuê tài chính và các hình thức theo qui định của NHNN. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ. Ngân hàng thực hiện các dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Cung ứng các phương tiện thanh toán. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán trong và ngoài nước cho khách hàng: thực hiện các nghiệp vụ ghi có và ghi nợ cho tài khoản khách hàng thông qua hệ thống điện tử liên ngân hàng. Có hai hệ thống chính: Hệ thống CITAD: là hệ thống thanh toán thông qua NHNN, thực hiện với các giao dịch thanh toán ở trong nước và bằng tiền VND Hệ thống Vietcombank: là hệ thống thanh toán thông qua Vietcombank, thực hiện với các giao dịch ngoại tệ và thanh toán nước ngoài Thực hiện nghiệp vụ thu hộ và chi hộ. Thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế: thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu hàng hoá dịch vụ bằng các phương thức Thư tín dụng (L/C): nhận phát hành thư tín dụng, thông báo L/C, xác nhận, chiết khấu và thanh toán L/C… Nhờ thu: nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A)… Chuyển tiền kiều hối Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, séc du lịch… Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Thực hiện các dịch vụ kinh doanh tiền tệ, ngoại hối Dịch vụ mua bán ngoại hối giao ngay (Spot) Dịch vụ mua bán ngoại hối kỳ hạn (Forward) Dịch vụ hoán đổi SWAP Các hoạt động khác. - Dùng vốn điều lệ và quỹ dự trả để góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức tín dụng khác và các doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. - Góp vốn với tổ chức tín dụng nước ngoài để thành lập tổ chức tín dụng liên doanh tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ về tồ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. - Được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức cá nhân trong nước và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác và đại lý. - Cung ứng dịch vụ bảo hiểm thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh ngoại hối theo quy định của pháp luật. Tư vấn tài chính và tiền tệ trực tiếp cho khách hàng hoặc qua các công ty trực thuộc được thành lập theo quy định của pháp luật. Bảo quản hiện vật quý và các giấy tờ có giá khác, cho thuê tủ két, nhân cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. 2.1.3. Cơ cấu bộ máy tổ chức của SCB tại Hà Nội Đứng đầuSCB Hà Nội là ông Asok Sud, tổng giám đốcSCB tại Việt Nam, Lào, Campuchia. Ông Asok Sud có trách nhiệm giám sát chung mọi hoạt động củaSCB tại Hà Nội. Dưới sự quản lý của ông là các phòng ban với từng chức năng riêng biệt nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Phòng quan hệ đại lý, quản lý khách hàng (CR & IB): Tiếp cận với khách hàng, giới thiệu với họ những dịch vụ của ngân hàng. Chọn lọc hồ sơ khách hàng: Sau khi tiếp cận và giới thiệu cho khách hàng, các cán bộ phòng sẽ chọn lọc những khách hàng phù hợp Kiểm tra hồ sơ khách hàng: Sau khi tiếp cận và chọn lọc được những khách hàng phù hợp, các cán bộ của phòng sẽ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ khách hàng để xem hồ sơ của khách hàng có đầy đủ và tuân thủ đúng luật pháp hay không. Sau đó sẽ báo cáo với tổng giám đốc giám đốc cũng như thông báo cho những phòng liên quan để hoàn tất việc kiểm tra hồ sơ. Phòng cố vấn pháp luật: Tư vấn cho khách hàng về những thủ tục pháp lý khi thực hiện và tham gia các dịch vụ của ngân hàng. Cập nhật những quy định pháp luật mới ban hành để từ đó hướng dẫn cho các phòng ban khác Hoàn tất những thủ tục pháp lý của ngân hàng. Hỗ trợ các phòng khác trong việc thực hiện nghiệp vụ sao cho tuân thủ đúng pháp luật. Phòng quản lý rủi ro (Credit Risk Control – CRC): Phòng có chức năng nhằm đảm bảo hạn chế và tránh các rủi ro cho ngân hàng thông qua những chức năng chính sau: Quản lý rủi ro tín dụng Quản lý hạn mức khách hàng Thụ lý hồ sơ khách hàng và hoàn tất thủ tục pháp lý của khách hàng đối với ngân hàng. Theo dõi quản lý hạn mức ngoại hối Phòng ngoại hối (Global Market): Chịu trách nhiệm cao nhất là bà Saranya Srotratak người Thái Lan. Chức năng chính của phòng ngoại hối là Kinh doanh ngoại tệ Nhận và đặt tiền gửi của các công ty và tổ chức tín dụng Mua bán trái phiếu. Thực hiện các nghiệp vụ phái sinh, tham gia đấu thầu trái phiếu trên sàn giao dịch, thực hiện chức năng bảo lãnh cho các tổ chức tín dụng. Phòng thanh toán (Payment Centre) thực chất chia làm 2 bộ phận với chức năng riêng biệt Bộ phận thực hiện các nghiệp vụ thanh toán thông thường Thực hiện thanh toán trong và ngoài nước: thông qua việc ghi có và ghi nợ cho tài khoản khách hàng, Chuyển tiếp các khoản kiều hối Thực hiện các nghiệp vụ ngoại hối Thực hiện các giao dịch mua và bán ngoại tệ, thực hiện giao dịch của sản phẩm phái sinh Thanh toán mua và bán trái phiếu Đối chiếu tài khoản mở tại các ngân hàng đại lý, nhận và gửi xác nhận giao dịch của khách hàng. Đó là những công ty, tổ chức tín dụng, các tổ chức phi chính phủ, các đại sứ quán và các công ty 100% vốn nước ngoài. Kiểm tra đối chiếu các xác nhận giao dịch gửi đi và nhận về Thanh toán séc của khách hàng và séc nhờ thu Bộ phận nghiệp vụ tín dụng và thực hiện cho vay, tài trợ tín dụng: Thanh toán L/C, thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng xuất khẩu: thông báo thư tín dụng, thông báo sửa đổi thư tín dụng; tiếp nhận kiểm tra gửi chứng từ và đòi tiền. Ngân hàng nhập khẩu: mở, sửa đổi L/C và ký quỹ; tiếp nhận kiểm tra chứng từ, giao chứng từ. Cho vay các công ty Hỗ trợ tín dụng cho các công ty, các tổ chức Phòng ngân quỹ Gồm 2 mảng nghiệp vụ chính: Thực hiện các nghiệp vụ tại quầy, thực hiện các giao dịch trực tiếp với khách hàng Trả tiền mặt bằng VND hoặc các ngoại tệ cho khách hàng Thanh toán séc và hối phiếu Huy động tiền mặt tại quầy, nhận tiền gửi của khách hàng Hướng dẫn và nhận lệnh thanh toán của khách hàng Kho tiền: Xuất tiền mặt, ngoại tệ ra quỹ nghiệp vụ. Xuất tiền đi nộp với các khách hàng. Lĩnh tiền mặt, ngoại tệ, giá từ các ngân hàng về quỹ nghiệp vụ. Nhập tiền mặt, ngoại tệ vào kho. Nhập, xuất tiền của các phòng giao dịch. Nhập, xuất các chứng từ có giá, quản lý kho tiền. Phòng dịch vụ khách hàng (Customer Service), thực hiện các chức năng sau: Mở tài khoản cho khách hàng: Sau khi phòng cố vấn về pháp luật xem xét kiểm tra hồ sơ của khách hàng thấy hợp lệ và tiếp nhận hồ sơ, phòng dịch vụ khách hàng sẽ giúp đỡ hỗ trợ khách hàng trong việc mở tài khoản tại SCB sao cho nhanh chóng và thuận tiện nhất với khách hàng. Trả lời các tra soát của khách hàng Quản lý hồ sơ khách hàng Xác nhận và đối chiếu các chữ ký thẩm quyền đối với khách hàng: để thực hiện những giao dịch của khách hàng thì trên mỗi tờ lệnh ghi có hay ghi nợ của khách hàng trước tiên đều phải được đưa qua phòng dịch vụ khách hàng để xác nhận xem chữ ký trên lệnh có đúng là chữ ký của người có thẩm quyền hay không. Điều đó đảm bảo tính an toàn, giảm thiểu rủi ro trong thanh toán, đảm bảo quyền lợi của khách hàng. Hỗ trợ tư vấn, giải đáp thắc mắc của khách hàng. Phòng kế toán (Finance): thực hiện chức năng chủ yếu sau Quản lý việc hoạch toán kế toán của ngân hàng Báo cáo tài chính về tình hình của chi nhánh SCB tại Hà Nội cho công ty mẹ và báo cáo cho NHNN Quản lý thuế đầu vào và đầu ra Thống kê đưa ra kết luận, đánh giá chung về tình hình hoạt động của ngân hàng, tình hình lỗ lãi của ngân hàng. Phòng tổ chức hành chính: Chức năng của phòng là thực hiện các công việc về hành chính quản trị, đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động kinh doanh của các phòng ban, Phòng nhân sự: Quản lý sắp xếp và điều chuyển nhân sự sao cho hợp lý Quản lý hồ sơ của cán bộ nhân viên Tiếp nhận và chọn lọc hồ sơ xin việc Tham mưu cho lãnh đạo về xét tuyển và đề bạt cán bộ Đảm bảo tiền lương và quyền lợi của nhân viên Phòng tin học Thực hiện quản lý hệ thống tin học của toàn ngân hàng, đồng thời chịu trách nhiệm cung cấp các phần mềm phục vụ cho công tác quản lý và kinh doanh trong ngân hàng Tiến hành xử lý và khắc phục các sự cố máy tính, đảm bảo hệ thống luôn làm việc hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng. Các phòng trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, phối hợp với nhau để thực hiện tốt các hoạt động của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức cảu các phòng ban ngày các được cải tiến để phục vụ tốt hơn cho nhiệm vụ của một ngân hàng đa năng, hiện đại và ngày càng có nhiều sản phẩm mới, đáp ứng được các nhu cầu của khách hàng. 2.1.4. Tình hình hoạt động của SCB chi nhánh tại Hà Nội Cùng trong làn sóng phát triển của tập đoànSCB, chi nhánh SCB tại Hà Nội cũng có những bước phát triển đáng kể. Với việc mở rộng kinh doanh, tập đoànSCB đã tăng vốn đầu tư ở Việt Nam lên 30 triệu USD. Đặc biệt, năm 2005,SCB đã trở thành định chế tài chính nước ngoài đầu tiên mua 8,56% cổ phần của NHTM Cổ phần Á châu (ACB), mở đầu cho làn sóng các ngân hàng ngoại đầu tư vào các ngân hàng Việt Nam. Sự phát triển của SCB chi nhánh Hà Nội được thể hiện cụ thể trên từng lĩnh vực. 2.1.4.1. Hoạt động huy động vốn. Trong năm 2006 hoạt động huy động vốn được SCB đặc biệt quan tâm. Do đó trong năm qua,các hoạt động huy động vốn không chỉ giới hạn ở các công ty, các tổ chức lớn màSCB chủ trương huy động vốn từ mọi nguồn, mọi đối tượng khách hàng. Là một ngân hàng nước ngoài, lại là ngân hàng bán buôn nên khách hàng củaSCB là cá nhân người Việt Nam rất ít, chủ yếu các cá nhân là người nước ngoài, đang sinh sống và làm việc tại các tổ chức, các cơ quan có mở tài khoản tại SCB, nên thựctế, việc huy động vốn từ dân cư của SCB là khá khiêm tốn. Tuy nhiên, việc huy động vốn từ các tổ chức, các công ty lớn của SCB là rất lớn. Kết quả đến hết năm 2006 tổng nguồn vốn huy động đạt trên 8943 tỷ đồng vượt kế hoạch 21%, và tăng gần 3000 tỷ đồng so với năm 2005. Chi nhánh SCB đã đạt được mức tăng trưởng cao trong bối cảnh hầu hết các NHTM đều tăng lãi suất huy động để thu hút nguồn vốn. Có thể nói, sự tăng trưởng lớn về nguồn vốn không hỉ là kết quả cảu phong cách phục vụ văn minh, lịch sự, tận tình, chu đáo mà còn khẳng định về uy tín và vị thể của chi nhánh trên thương trường. 2.1.4.2. Hoạt động tín dụng Công tác cho vay vốn SCB đã chủ trương thực hiện kế hoạch phát triển nghiệp vụ cho vay và bảo lãnh với khách hàng có sức cạnh tranh lớn, tăng cường kiểm tra giám sát khách hàng, chủ động thâm nhập thị trường cho vay. Trong năm 2006, hoạt động tín dụng cuả Standard tuy không phát triển nóng bằng cách nới lỏng điều kiện tín dụng nhưng nhờ có sự nỗ lực tiếp thị khách hàng của các đơn vị, nên tốc độ phát triển tín dụng vẫn đạt mức tăng khá, cao gấp gần 2 lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng năm 2006. Doanh số cho vay toàn hệ thống năm 2006 đạt 5207 tỷ đồng, tăng 2115 tỷ đồng( tương đương tăng 67%) so với năm 2005. Bảng 1: Tình hình công tác cho vay vốn năm 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm2005 Năm2006 2006 2005 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng số tiền cho vay 3.092.053 100% 4.598.203 100% 149% Trong đó Cho vay ngắn hạn 1.594.372 51.56% 2.359.431 51.31% 148% Cho vay trung hạn 1.497.681 48.44% 2.238.772 48.69% 149% Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 Công tác thu hồi nợ đọng Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến 31/12/2006 đạt 3592 tỷ đồng, vượt 9% so với kế hoạch, tăng gần 1459 tỷ đồng ( tương đương tăng 68%) so với năm 2005. Tỷ lệ nợ của SCB chỉ ở mức 0.6% tổng dư nợ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của ngành ngân hàng Việt Nam. Bảng 2: Tình hình công tác thu hồi nợ đọng năm 2006 Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm2005 Năm2006 2006 2005 Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Tổng dư nợ các loại 2.538.976 100% 3.592.801 100% 142% Trong đó Cho vay ngắn hạn 1.235.709 48.67% 1.770.011 49.27% 143% Cho vay trung hạn 1.303.267 51.33% 1.822.790 50.73% 140% Dư nợ xấu 19.042 0,75% 21.556 0.6% Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2006 2.1.4.3. Hoạt động thanh toán và kinh doanh đối ngoại Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ Hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại SCB bao gồm các nghiệp vụ giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi. trong năm 2006 tổng doanh số mua ngoại tệ là 543 triệu USD ( tăng 105 triệu USD so với năm trước), doanh số bán là 498 triệu USD( tăng 75 triệu USD so với năm trước) . Doanh số mua kỳ phiếu, trái phiếu năm 2006 là 3315 tỷ đồng- tăng 1098 tỷ đồng so với 2005; giá trị kỳ phiếu, trái phiếu đến hạn thanh toán là 905 tỷ đồng, số dư chứng từ có giá đến cuối năm còn là 3196 tỷ đồng tăng 1024 tỷ đồng so với năm trước. Tổng số tiền góp vốn mua cổ phần tính đến ngày 31/12/2006 là 19853 tỷ đồng, thu nhập từ tiền cổ tức năm 2006 từ hoạt động trên là 3725 tỷ đồng. hoạt động thanh toán quốc tế năm 2006 có xu hướng tăng trưởng tốt: Doanh số mở L/C nhập khẩu đạt 55 triệu USD, tăng 14 triệu USD so với năm trước. Doanh số thông báo L/C xuất đạt 13 triệu USD. Số bộ chứng từ chiết khấu qua SCB là 81 bộ, trị giá 4.2 triệu USD. Chuyển tiền thanh toán quốc tế toàn hệ thống khoảng 500 triệu USD năm 2006, trung bình một ngày, thanh toán quốc tế qua SCB đạt khoảng hơn 1.5 triệu USD. Hoạt động thanh toán trong nước Chuyển tiền trong nước : Doanh số chuyển tiền toàn hệ thống đạt 38.925 tỷ đồng tăng 7236 tỷ đồng so với năm 2005 và tăng 45% kế hoạch năm. Phí dịch vụ chuyển tiền trên toàn hệ thống thu được 7.92 tỷ đồng, tăng gấp 1.5 lần so với năm 2005, tăng 46% kế hoạch năm. 2.2. Thực trạng về rủi ro thanh toán quốc tế tại SCB 2.2.1. Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế 2.2.1.1. Doanh số hoạt động: Sau khi thành lập được hơn một năm, năm 1995, SCB bắt đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Cùng với sự đầu tư vào hệ thống kỹ thuật cũng như không ngừng nâng cao nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, SCB ngày càng tạo được lòng tin và ấn tượng tốt cho khách hàng, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, một lĩnh vực khá phức tạp và nhiều rủi ro. Thêm vào đó, SCB còn có thế mạnh là có hệ thống SCB trên khắp thế giới nên SCB đã có những thuận lợi nhất định trong thanh toán quốc tế. Chính vì vậy, theo thời gian, hoạt động thanh toán quốc tế của SCB ngày càng được mở rộng, các phương thức thanh toán ngày càng đa dạng hơn, mạng lưới ngân hàng đại lý ở nước ngoài ngày càng tăng. Tổng doanh số thanh toán quốc tế (bao gồm thanh toán cho nước ngoài và nhận thanh toán từ nước ngoài) trong năm 1995 là 21,5 triệu USD và đến năm 2006 là 519.5 triệu USD. 2.2.2.2. Các phương thức thanh toán quốc tế tạiSCB Bank: Trong gần 10 năm thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế SCB đã thực hiện thanh toán với các đối tác nước ngoài bằng các phương thức thanh toán quốc tế như: chuyển tiền bằng điện, nhờ thu, tín dụng chứng từ. Doanh số thực hiện của từng phương thức thanh toán quốc tế được tập hợp dưới bảng sau: Bảng 3: Tình hình thanh toán quốc tế từ 2004-2006 Đơn vị tính: triệu USD Chỉ tiêu 2004 2005 %2005/2004 2006 %2006/2005 A. Thanh toán cho ngân hàng nước ngoài - L/C nhập khẩu Trong đó L/C trả chậm Thu hộ ngân hàng nước ngoài Chuyển tiền bằng điện 211.75 111.38 1.98 15.94 84.43 218.79 115.9 2.75 16.12 86.17 103.32% 104.06% 138.89% 101.13% 102.06% 237.67 124.83 3.49 19.27 93.75 108.63% 107.70% 126.91% 119.54% 108.80% B. Nhận thanh toán từ nứơc ngoài - L/C xuất khẩu: - Nhờ ngân hàng nước ngoài thu hộ: - Chuyển tiền bằng điện 230.63 11.24 5.65 213.74 259.88 10.01 4.89 244.97 112.68% 89.06% 86.55% 114.61% 281.86 13.34 5.98 262.54 108.46% 133.27% 122.29% 107.17% C. Tổng doanh số thanh toán 442.38 478.67 108.20% 519.53 108.53% Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2004,2005,2006 2.2.2. Rủi ro trong thanh toán quốc tế tại ngân hàng Standard Chartered Giống như các NHTM khác, trong thanh toán quốc tế, SCB cũng phải đối mặt với một loạt những rủi ro. Mặt khác, là một ngân hàng hoạt động theo hình thức bán buôn nên khách hàng của SCB chủ yếu là những công ty lớn, hoạt động xuất nhập khẩu rất phát triển. Chính vì vậy, đối với SCB, thanh toán quốc tế giữ một vai trò rất quan trọng, chiếm phần quan trọng trong lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên, do khách hàng là những khách hàng lớn, lượng ngoại tệ trong mỗi một giao dịch quốc tế là rất lớn, vì vậy, rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế của SCB là rất lớn. Chỉ cần một giao dịch trong thanh toán quốc tế gặp rủi ro sẽ có nguy cơ gây tổn hại nghiêm trọng cho hoạt động của SCB. Những rủi ro mà SCB gặp phải trong thanh toán quốc tế là: rủi ro công nghệ, rủi ro pháp lý, rủi ro tín dụng, rủi ro tác nghiệp, rủi ro uy tín và rủi ro lãi suất. Những rủi ro này được thể hiện thông qua ba phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu của SCB là: phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền bằng điện và phương thức tín dụng chứng từ. 2.2.2.1. Rủi ro pháp lý Đây là một rủi ro mà bất kỳ ngân hàng nào cũng phải đối mặt và đều có nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện phòng chống rủi ro đó. Đó chính là việc xác định xem liệu giao dịch thanh toán quốc tế đó có phải là một hoạt động rửa tiền hay không, liệu người ra lệnh thanh toán có nằm trong “Danh sách đen” của NHNN cũng như của chính phủ hay không. Đây là một rủi ro mà các ngân hàng rất dễ mắc phải và hậu quả của nó gây ra rất nghiêm trọng. Theo quy định của NHNN với SCB, nếu SCB chuyển tiền ra nước ngoài mà người đó nằm trong danh sách khủng bố, mức phạt nặng nhất đối với SCB lên tới 80 triệu USD. Chính vì vậy, trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, các ngân hàng nói chung cũng như SCB nói riêng đều rất chú trọng trong việc phòng ngừa rủi ro này. Đối vớiSCB, là một ngân hàng nước ngoài đã có kinh nghiệm rất lâu trong hoạt động ngân hàng nên SCB thực hiện việc hạn chế rủi ro này rất hiệu quả. Để tránh tình trạng rủi ro này, SCB luôn cập nhật danh sách những thành phần được nghi ngờ là khủng bố hay rửa tiền mà NHNN cũng cấp. Với hình thức chuyển tiền bằng điện: SCB hạn chế rủi ro này theo phương pháp: một giao dịch thanh toán quốc tế qua phương thức chuyển tiền bằng điện sẽ được thực hiện qua những bước kiểm tra sau: Kiểm tra xem tên người chuyển có nằm trong danh sách mà NHNN cung cấp hay không (Tuy nhiên, số liệu NHNN cung cấp vẫn còn nhiều hạn chế, va thường chỉ giới hạn ở những người mang quốc tịch Việt Nam, thiếu tính cập nhật) Sau đó kiểm tra theo một hệ thống danh sách riêng của SCB. Cuối cùng, trước khi đẩy điện đi, SCB có một hệ thống kỹ thuật rất hiện đại, theo đó nếu tên người chuyển mà trùng với một trong những cái tên ở trong danh sách của hệ thông, giao dịch đó sẽ tự động bị khóa lại và không ra được khỏi hệ thống ngân hàng. Chính nhờ những bước kiểm tra nghiêm ngặt như vậy nên rủi ro này rất hiếm khi xảy ra ở SCB. Trong hơn 10 năm hoạt động, rủi ro này chỉ chiếm 0.05% trong tổng số giao dịch thanh toán quốc tế, và mức độ rất nhẹ. Một biện pháp để SCB hạn chế rủi ro này đó là bất kỳ những giao dịch nước ngoài nào đều cũng cần phải có chứng từ, tờ khai hải quan.Tuy nhiên, đây cũng là một bài toán khó cho ngân hàng. Rất nhiều khách hàng không hợp tác trong việc giao các chứng từ cho ngân hàng. Rất rất nhiều trong số đó đều là những khách hàng có uy tín lớn, và việc từ chối thực hiện giao dịch nếu không có ngay chứng từ có thể sẽ làm khách hàng không hài lòng và dần từ bỏ dịch vụ của SCB. Do vậy ngân hàng nhiều khi buộc phải thực hiện thanh toán và cho khách hàng được nợ một số ít chứng từ trong một thời gian nhất định. Rủi ro sẽ xảy ra khi khách hàng không giữ đúng lời hứa, không chịu trả chứng từ đúng thời hạn, điều này đư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0139.doc
Tài liệu liên quan