LỜI MỞ ĐẦU
Tháng 7/2000 đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng của nền kinh tế Việt Nam đó là việc trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh chính thức thực hiện phiên giao dịch đầu tiên, mở ra một thời kì phát triển mạnh mẽ cho cả nền kinh tế, thời kì hội nhập kinh tế quốc tế. Kể từ đó đến nay thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc ngoài sức tưởng tượng, từ một thị trường sơ khai với vài mã cổ phiếu đến nay thị trường đã có trên 200 mã cổ phiếu được giao
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch chính thức với tổng giá trị giao dịch hàng nghìn tỷ đồng. Người dân Việt Nam cũng đã trở nên quen thuộc với các khái niệm đầu tư chứng khoán, cổ phiếu, cổ phần…Và thị trường chứng khoán cũng không còn cái cảnh cứ mua cổ phiếu là lãi như thời gian đầu mới hoạt động. Cùng với việc thị trường chứng khoán dần đi vào quy luật thì nhà đầu tư cũng phải dần chuyên nghiệp hơn. Sự xâm chiếm tất yếu của các tổ chức tài chính vào mảnh đất màu mỡ - thị trường chứng khoán đang diễn ra một cách nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc biệt là ngân hàng – trung gian tài chính khổng lồ của nền kinh tế. Bên cạnh việc thành lập ra các công ty chứng khoán thực hiện các nghiệp vụ chuyên môn về chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngân hàng còn triển khai một nghiệp vụ quan trong không kém đó là cho vay cầm cố chứng khoán, đây là một nghiệp vụ cho vay bình thường có tính thông lệ quốc tế về hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng trên thế giới đã triển khai nghiệp vụ này từ rất lâu song đối với các ngân hàng Việt Nam thì đây là một hoạt động hoàn toàn mới. Nhu cầu vay vốn đầu tư của các nhà đầu tư Việt Nam là rất lớn do khả năng tài chính hạn hẹp vì vậy đây là một thị trường béo bở cho các ngân hàng thu lợi.
Tuy vậy do có ít kinh nghiệm về nghiệp vụ này nên những rủi ro cho ngân hàng là không thể tránh khỏi, đặc biệt là mức độ rủi ro của thị trường chứng khoán Việt Nam là rất cao, tính quy luật còn thấp, đầu tư mang tính bày đàn, những ngân hàng nào coi thường các biện pháp quản trị rủi ro sẽ phải chịu hậu quả, có thể dẫn đến hậu quả to lớn cho ngân hàng như: phá sản và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề quản trị rủi ro đối với nghiệp vụ cho vay cầm cố như vậy, trong quá trình thực tập tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội em đã chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội” làm mục tiêu nghiên cứu trong khoá luận tốt nghiệp của mình.
Kết cấu chuyền đề gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội thời gian tới.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Thị Bất, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên ngân hàng No&PTNT Hà Nội đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình để em có thể hoàn thành chuyên đề của mình. Do thời gian có hạn và hiểu biết có thể còn hạn chế nên chuyên đề của em không thể không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ các thầy cô giáo, ban lãnh đạo và các cô chú trong ngân hàng No&PTNT Hà Nội để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TRONG CHO VAY CẦM CỐ CỔ PHIẾU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.1. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay hầu hết các thành phần trong nền kinh tế. Đối với các hộ tiêu dùng thì khoản vay từ ngân hàng giúp cho họ trang trải chi phí cho những nhu cầu trong cuộc sống: xây mới, sửa nhà, mua ôtô… Đối với doanh nghiệp thì những khoản vay giúp doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ thì họ thường sử dụng séc, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử... Ngoài ra, ngân hàng cũng là địa chỉ tin cậy để mọi người gửi tiền hay nhận được lời tư vấn về lĩnh vực đầu tư cho khoản tiết kiệm.
Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành để tài trợ cho các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, các công trình giao thông.
Để tránh sự nhầm lẫn giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Theo cách này thì ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Theo cách tiếp cận này thì hoạt động cơ bản của ngân hàng bao gồm 3 hoạt động chính: cho vay, nhận tiền gửi và cung cấp các dịch vụ khác.
* Cho vay:
Khi mới ra đời, ngân hàng thực thiện chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay với các doanh nhân địa phương (họ bán các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền mặt). Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng hóa dự trữ, mua sắm thiết bị nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Nhận tiền gửi:
Cho vay được cho là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng tìm kiếm mọi cách để huy động được nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi của khách hàng (bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán). Ngân hàng nhận tiền gửi của khách hàng với cam kết hoàn trả đúng hạn phần gốc cộng thêm một phần tiền lãi theo lãi suất trong hợp đồng coi như phí sử dụng khoản tiền gửi của ngân hàng.
* Cung cấp các dịch vụ khác: Ngoài nhận tiền gửi và cho vay, ngân hàng còn cung cấp các dịch sau:
+ Kinh doanh ngoại tệ: là một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện để đáp ứng nhu cầu buôn bán giữa các vùng hay các quốc gia với nhau. Ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Hiện nay, hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường được thực hiện bởi những ngân hàng lớn vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
+ Cung cấp các tài khoản giao dịch: khi khách hàng mở một tài khoản giao dịch tại ngân hàng, ngân hàng sẽ thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng khi họ có nhu cầu. Thanh toán qua ngân hàng mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Những hình thức chủ yếu của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thẻ thanh toán… Tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt là nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí. Điều này khuyến khích các doanh nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng.
+ Bảo quản vật có giá: ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá trị cho khách hàng trong kho bảo quản.
+ Quản lý ngân quỹ: các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng, nhờ đó ngân hàng có mối quan hệ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong việc quản lý ngân quỹ, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý việc quản lý thu và chi cho một công ty kinh doanh.
+ Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: do nhu cầu chi tiêu lớn và thường là cấp bách của Chính phủ, vì vậy Chính phủ các nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Trong điều kiện các ngân hàng tư nhân không muốn tài trợ cho Chính phủ vì rủi ro cao, Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy các khoản vay của ngân hàng. Ngày nay, Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp phép hoạt động với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được; hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của chính phủ.
+ Bảo lãnh: Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hóa, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn tổ chức tín dụng khác…
+ Dịch vụ thuê mua thiết bị: Ngân hàng cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó khách hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Cuối hợp đồng khách hàng có thể mua lại tài sản. Hợp đồng thuê mua thường phải bảo đảm yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê.
+ Dịch vụ ủy thác và tư vấn: các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vây hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Nhiều khách hàng tìm đến ngân hàng để nhận được lời tư vấn về quản lý tài chính, thành lập, mua bán hay sáp nhập doanh nghiệp.
+ Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: ngân hàng bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
+ Dịch vụ bảo hiểm: các ngân hàng bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro mất khả năng thanh toán.
+ Các dịch vụ đại lý: các ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập các chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng lớn cung cấp dịch vụ đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.1.2. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng sẽ chuyển giao cho bên vay (khách hàng) một khoản vốn tiền tệ, bên vay sẽ sử dụng khoản vốn tiền tệ đó trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó sẽ hoàn trả cho tổ chức tín dụng cả gốc và lãi theo thoả thuận.
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng – để tài trợ chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan của Chính phủ. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị trổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu của ngân hàng. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động của ngân hàng có xu hướng tập trung vào các khoản cho vay phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi.
1.1.2.2. Phân loại cho vay
* Căn cứ theo thời hạn cho vay
+ Cho vay ngắn hạn: thời hạn của khoản vay dưới 12 tháng và mục đích chủ yếu là để bù đắp sự thiếu hụt vốn tạm thời như tài trợ vốn lưu động cho doanh nghiệp hay hộ sản xuất.
+ Cho vay trung hạn: là những khoản vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Những khoản vay này thường sử dụng để đổi mới trang thiết bị, mua sắm máy móc có thời gian khấu hao không quá dài, xây dựng dự án có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh.
+ Cho vay dài hạn: là những khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm, thời hạn có thể lên đến 20 – 30 năm. Những khoản vay này đáp ứng các nhu cầu dài hạn như mua nhà đối với cá nhân, xây dựng nhà xưởng mới, đầu tư vào những dự án lớn đối với các doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mục đích khoản vay
+ Cho vay kinh doanh bất động sản: bao gồm các khoản cho vay liên quan đến lĩnh vực đầu tư bất động sản như xây dựng nhà, trung tâm thương mại, giải phóng mặt bằng...
+ Cho vay sản xuất: bao gồm các khoản cho vay đối với các hãng sản xuất kinh doanh và hộ gia đình nhằm tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ.
+ Cho vay tiêu dùng: giúp tài trợ cho nhu cầu mua sắm của cá nhân hay hộ gia đình như mua ô tô, nhà ở, trang thiết bị... hoặc trang trải cho các chi phí khác như viện phí, học tập...
+ Các khoản cho vay khác: gồm các khoản cho vay không được xếp loại ở trên và các khoản cho vay kinh doanh chứng khoán.
* Căn cứ vào khách hàng vay vốn
+ Cho vay đối với các tổ chức tài chính: bao gồm các khoản cho vay dành cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác.
+ Cho vay các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
+ Cho vay cá nhân, hộ gia đình: bao gồm những khoản cho vay sản xuất hoặc tiêu dùng.
* Căn cứ theo phương thức cho vay
+ Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vốn thường xuyên. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng. Vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dùng vốn, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hay thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo.
+ Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Cho vay theo hạn mức cả kỳ: trong kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Cho vay theo hạn mức cuối kỳ: dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hóa dịch vụ. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp của chứng từ, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động cho khách hàng trong việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
* Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
+ Cho vay không có bảo đảm: Cho vay không có tài sản bảo đảm là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vài uy tín của bản thân khách hàng.
Đối với những khách hàng tốt, có quan hệ gắn bó lâu dài với ngân hàng, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần có một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
+ Cho vay có bảo đảm: Cho vay có bảo đảm là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của bên thứ ba. Lý do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Nhưng biến cố không mong đợi như vậy có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Vì vậy, đối với những khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng thì khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Bảo đảm này là nguồn trả nợ thứ hai khi khách hàng gặp phải rủi ro mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.
* Căn cứ theo hình thức cho vay
+ Cho vay trực tiếp: ngân hàng trực tiếp cấp vốn cho người đi vay, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ cho ngân hàng. Đây là hình thức cho vay phổ biến của các ngân hàng.
+ Cho vay gián tiếp: đây là hình thức ngân hàng cho vay qua các tổ chức trung gian.
Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội, hội, nhóm như Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân… Các tổ chức này thường liên kết các thành viên theo lại với nhau nhằm mục đích phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra bảo lãnh cho các thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bản lẻ sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích.
Cho vay gián tiếp thường áp dụng với thị trường có nhiều món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp này, cho vay gián tiếp có thể tiết kiệm được chi phí cho ngân hàng (phân tích, giám sát, thu nợ…).
1.2. Những vấn đề cơ bản về cho vay cầm cố cổ phiếu
1.2.1. Khái niệm cho vay cầm cố cổ phiếu
Thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển một cách mạnh mẽ và ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, cụ thể trong năm 2007 giá trị trên thị trường chứng khoán đạt 40%GDP. Cùng với việc kết hợp với các tổ chức kinh tế lớn đặc biệt là ngân hàng thương mại, thị trường chứng khoán đã tìm được cho mình một kênh cung cấp vốn lớn và hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng cao của mình. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính, là tổ chức kinh doanh tiền tệ, ngân hàng thương mại luôn trú trọng phát triển các dịch vụ của mình một cách đa dạng và phong phú nhằm tìm kiếm các nguồn tài chính hiệu quả, khi thị trường chứng khoán ra đời ngân hàng thương mại đã nhìn thấy đây là một thị trường tiềm năng có thể đem lại lợi nhuận cao. Hai tổ chức kinh tế này đã kết hợp với nhau một cách tất yếu và trở thành một kênh quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư.
Bên cạnh các hoạt động như bảo lãnh phát hành, thành lập công ty chứng khoán, ngân hàng phát triển thêm một hình thức kinh doanh nữa đó là cho vay đầu tư chứng khoán, hình thức này đang phát triển một cách mạnh mẽ và mang lại khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng. Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán ngày càng ưa chuộng hình thức tín dụng này, họ có thêm vốn để đầu tư và tài sản đảm bảo lại có thể chính là lượng chứng khoán mà họ đã vay ngân hàng để mua. Việc ra đời của hình thức này là một tất yếu phát triển của thị trường, nó là chiếc cầu nối cho việc luân chuyển dòng vốn từ ngân hang sang thị trường chứng khoán và ngược lại, nó cung cấp vốn cho thị trường chứng khoán phát triển và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, hình thức này còn buộc nhà đầu tư phải có kế hoạch chiến lược đầu tư hiệu quả, đầu, lựa chọn những cổ phiếu tốt, qua đó giảm thiểu những rủi ro cho nhà đầu tư và đảm bảo kế hoạch trả nợ đầy đủ, đúng hạn. Mặc dù cho đến hiện tại hình thức kinh doanh này là khá an toàn cho các ngân hàng, tuy nhiên hình thức này luôn chứa đựng những rủi ro cao do vay đòi hỏi các ngân hàng phải có chiến lựợc quả trị rủi ro hợp lý, nhằm giảm thiểu những rủi ro cho ngân hàng. Biện pháp ngăn ngừa rủi ro hữu hiệu nhất mà ngân hàng dùng vẫn là sử dụng các đảm bảo tín dụng. Chỉ trừ một số khách hàng có uy tín cao còn lại hầu hết các khoản tín dụng ngân hàng đều yêu cầu phải có đảm bảo. Tuy nhiên hình thức cho vay đầu tư chứng khoán có khác các hình thức khác một chút đó là tài sản đảm bảo có thể chính là các cổ phiếu, song không phải cổ phiếu nào cũng được là tài sản đảm bảo, chỉ những cổ phiếu có chất lượng tốt rủi ro ít mới được ngân hàng chấp nhận. Cổ phiếu như thế nào là tốt là ít rủi ro điều này phụ thuộc vào trình độ đánh giá của từng ngân hàng, ngoài ra còn phụ thuộc và chiến lược cho vay của ngân hàng đó. Tuy nhiên không thể phủ định rằng cho vay chứng chứng khoán là một hình thức đầy tiềm năng và mang lại những khoản lợi nhuận cao cho ngân hàng. Trong tương lai cùng với việc phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán đây chắc chắn sẽ trở thành một hoạt động tín dụng chính của ngân hàng thương mại.
Vấn đề đầu tiên phải làm rõ đó là khái niệm cho vay cầm cố chứng khoán. Cho vay cầm cố cổ phiếu là một hình thức tín dụng của ngân hàng trong đó người vay sẽ được nhận một khoản vay từ ngân hàng để đầu tư kinh doanh chứng khoán với điều kiện phải có tài sản đảm bảo là các loại cổ phiếu đã được niêm yết hoặc chưa được niêm yết chính thức trên sàn giao dịch. Người vay phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo là cổ phiếu sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết và mức tín dụng mà khách hàng được cấp phụ thuộc vào đánh giá của ngân hàng về tài sản sản đảm bảo và mức độ rủi ro của khoản vay.
Trong khái niệm này có hai đối tượng: Ngân hàng (đối tượng cho vay), khách hàng (đối tượng đi vay). Khách hàng là các cá nhân muốn vay tiền với mục đích dùng vốn vay để đầu tư kinh doanh chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay các ngân hàng chủ yếu cho vay cầm cố các loại cổ phiếu đã được niêm yết trên sàn, vì cổ phiếu dạng này có độ rủi ro thấp hơn và dễ kiểm soát hơn
Cũng giống với các hình thức tín dụng khác, khách hàng muốn được vay vốn của ngân hàng thì điều đầu tiên là khách hàng phải có tài sản đảm bảo, tài sản đảm bảo có thể là cổ phiếu, các giấy tờ có giá, hoặc các loại chứng khoán khác… ngân hàng sẽ thẩm định trước khi cho khách hàng vay, và sẽ giữ tài sản đảm bảo của khách hàng cho đến khi khách hàng hoàn trả đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng. Nếu như đến hạn mà khách hàng không hoàn trả nợ theo hợp đồng tín dụng thì ngân hàng có quyền bán hoặc sở hữu những tài sản đó thay thế cho nghĩa vụ trả nợ của người vay.
Khi khách hàng đã có đầy đủ các điều kiên để được cấp tín dụng, khách hàng sẽ được cấp tín dụng từ ngân hàng, mức tín dụng này phụ thuộc vào sự đánh giá của ngân hàng về khoản vay, khoản vay có độ rủi ro càng cao thì mức tín dụng được cấp càng thấp và ngược lại, độ rủi ro càng thấp thì mức tín dụng được cấp càng cao. Tuy nhiên mức tín dụng không thể bằng 100% giá trị tài sản đảm bảo. Do đây là một hình thức có độ rủi ro cao nên ở Việt Nam hiệm nay thông thường các ngân hàng chỉ cho vay với hạn mức tối đa là 70%. Khách hàng phải cam kết sử dụng khoản vay đúng mục đích đó là đầu tư chứng khoán và điều này sẽ được ngân hàng giám sát thông qua các công ty chứng khoán, nhằm hạn chế rủi ro về việc về việc sử dụng vốn của khách hàng.
1.2.2. Nội dung của hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu
* Đối tượng cho vay
Là các cá nhân người Viêt Nam có đủ năng lực công dân, có tài sản đủ các tiêu chuẩn được ngân hàng chấp nhận là tài sản đảm bảo đó là các cổ phiếu được niêm yết tại trung tâm (sở) giao dịch chứng khoán và lưu kí tại các trung tâm lưu ký. Các cổ phiếu này phải là tài sản sở hữu hợp pháp của khách hàng và chưa được cầm cố tại bất kì một tổ chức tín dụng nào.
* Thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian xác định kể từ khi ngân hàng bắt đầu cho vay cho đến khi ngân hàng thu hồi được hết nợ. Khi cho vay ngân hàng quy đinh rõ thời hạn cho vay và điều này phải được ghi rõ trong hợp đồng tín dụng.việc quy định thời hạn cho vay là rất quan trọng vì đây là căn cứ để ngân hàng đưa ra lãi xuất, đảm bảo việc hoàn trả đúng hạn và sử dụng hiệu quả các khoản nợ của khách hàng. Khách hàng hoàn toàn có thể hoàn trả khoản vay trước thời hạn. Nếu như khách hàng vay quá hạn và muốn ra hạn vay thì đây là căn cứ để ngân hàng đưa ra các hình thức phạt đối với khoản vay quá hạn đó. Thời hạn vay được căn cứ vào thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Tùy vào mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và uy tín của tổ chức phát hành, các ngân hàng xác định mức cho vay khác nhau nhưng ở Việt Nam hiện nay thời hạn vay thường không quá 12 tháng, điều này để hạn chế rủi ro cho các khoản vay.
* Lãi xuất cho vay
Lãi suất cho vay của nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu bao giờ cũng cao hơn so với các nghiệp vụ cho vay thông thường khác vì mức độ rủi ro của hoạt động này thường cao hơn. Lãi xuất cho vay cầm cố cổ phiếu được xác định dựa vào lãi xuất cơ bản cộng với mức lợi nhuận cận biên và phần bù rủi ro. Nhưng vì rủi ro nên phần bù rủi ro thường cao hơn vì lãi xuất cho vay cầm cố cổ phiếu thường lớn hơn.
* Mức cho vay
Sau khi xem xét các điều kiện về đối tượng vay, tài sản đảm bảo, năng lực tài chính, giá trị cổ phiếu mà khách hàng định đầu tư… ngân hàng sẽ đưa ra mức cho vay đối với khách hàng. Mức cho vay dựa trên các yếu tố:
Nhu cầu vay vốn của khách hàng
Tỷ lệ cho vay tối đa so với giá trị tài sản đảm bảo theo quy định của ngân hàng nhà nước
Thị giá của cổ phiếu mà khách hàng đầu tư và mức độ rủi ro của cổ phiếu đó
Khả năng nguồn vốn của khách hàng
Khả năng trả nợ của khách hàng
Giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với một khách hàng. Trong thời hạn vay mức cho vay có thể được xác định lại tuỳ theo giá cổ phiếu
* Giá xử lý
Là mức giá dùng làm căn cứ để xác định thời điểm xử lý tài sản đảm bảo. Theo đó, khi mức giá cổ phiếu giảm xuống bằng hoặc dưới mức giá xử ký này thì ngân hàng cho vay có quyền được xử lý tài sản đảm bảo theo những quy đinh ghi trong hợp đồng tín dụng. mức giá này do ngân hàng đặt ra dựa trên những phân tích về cổ phiếu và thị trường chứng khoán, nhằm phòng ngừa rủi ro cho ngân hàng khi giá cổ phiếu khách hàng đầu tư giảm xuống quá thấp.
* Phương thức trả nợ và giải ngân
Khách hàng có thể lựa chọn phương thức trả nợ trả lãi hàng tháng và vốn trả vào cuối kì hoặc là trả cả gốc và lãi vào cuối kì. Và ngân hàng có thể giải ngân cho khách hàng bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, trong trường hợp ngân hàng hợp tác với một công ty chứng khoán để thực hiện nghiệp vụ này thì phương thức giả ngân sẽ là chuyển khoản vào thẳng tài khoản đầu tư chứng khoán của khách hàng. Giải ngân có thể một lần hoặc nhiều lần trong kì hạn nợ.
* Làm thủ tục phong toả, giải toả cổ phiếu tại công ty phát hành, trung tâm lưu ký chứng khoán
Ngay sau khi việc ký kết hợp đồng cho vay được hoàn tất, ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện phong toả cổ phiếu cầm cố của khách hàng nhằm ngăn chặn các hành vi giao dịch trên cổ phiếu đó từ phía khách hàng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ngân hàng, và khi khách hàng đã thực hiện việc trả nợ đầy đủ cả gốc lần lãi cho ngân hàng thì ngân hàng thực hiện giải toả cổ phiếu cầm cố. Ngân hàng thực hiện việc phong toả và giải toả cổ phiếu bằng cách gửi giấy đề nghị phong toả và giải toả lên tổ chức có thẩm quyền lưu giữ các loại cổ phiếu.
Đối với những cổ phiếu chưa được niêm yêt trên sàn giao dịch chứng khoán, ngân hàng sẽ gửi giấy đề nghị phong toả, giải toả cổ phiếu trực tiếp lên tổ chức phát hành để ngăn chặn việc mua bán, biếu tặng, cầm cố, và các hình thức giao dịch khác liên quan đến cổ phiếu cầm cố dưới mọi hình thức.
Đối với cổ phiếu đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán, thì việc lưu giữ chứng khoán được thực hiện bởi trung tâm lưu kí chứng khoán, ngân hàng sẽ gửi giấy đề nghị phong toả, giải toả lên trung tâm lưu ký chứng khoán để đình chỉ cũng như giải phóng việc thực hiện các giao dịch trên số cổ phiếu cầm cố này.
1.3. Rủi ro và hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
1.3.1. Khái niệm rủi ro cho vay cầm cố cổ phiếu
Rủi ro cho vay đầu tư chứng khoán là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi, hoặc trong trường hợp giá cổ phiếu giảm nên người vay không trả cho dù họ có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là yếu tố luôn tồn tại trong bất kì hoạt động tín dụng nào, do ngân hàng không thể lường trước tất cả các rủi ro có thể xảy ra hoặc không thể đưa ra biện pháp phòng ngừa triệt để, đặc biệt trong hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu thì rủi ro không những luôn tồn tài mà còn rất lớn vì tài sản đảm bảo trong cho vay cầm cố cổ phiếu là chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, giấy tờ có giá) đây là những tài sản có độ rủi ro cao, nhất là cổ phiếu do vậy nếu như không có nguyên tắc phòng ngừa rủi ro phù hợp thì nguy cơ mất vốn của ngân hàng là rất lớn
Ta có thể lấy một ví dụ để thấy được mức độ rủi ro của hạt động này. Đó là: có 100 triệu trong tay, nhà đầu tư mua một lượng cổ phiếu có giá trị 100 triệu đồng. Đem lượng cổ phiếu này cầm cố tại ngân hàng, vay thêm được 60 triệu tiền mặt (thông thường ngân hàng chỉ cho vay tối đa 60% giá trị cổ phiếu tại thời điểm giao dịch, hoặc theo mệnh giá). 60 triệu này tiếp tục được đầu tư vào một lượng cổ phiếu mới có giá trị tương ứng. Lượng cổ phiếu mới lại tiếp tục được cầm cố để vay thêm khoảng 36 triệu đồng. Đến vòng cầm cố thứ 3, có thêm gần 22 triệu tiền mặt để rót tiếp vào một loại cổ phiếu nào đó. Qua 3 vòng chỉ với 1 phần vốn ban đầu, nhà đầu đã sở hữu được gần 220 triệu giá trị cổ phiếu, thay vì 100 triệu đồng tiền mặt. Với 220 triệu giá trị cổ phiếu trong tay, giá cổ phiếu lên, nhà đầu tư thu được lãi siêu lợi mà năng lực của 100 triệu đồng tiền mặt khó có thể làm được khi rót nguyên vẹn vào các kênh đầu tư khác. Ngược lại, giá cổ phiếu rớt, ngoài mức giá bị mất, nhà đầu tư phải đội thêm lãi vay ngân hàng; 100 triệu đồng ban đầu có thể lỗ nặng, khả năng trả nợ bị đe dọa. Do vậy nhà đầu tư có thể phải chịu 3 lần rủi ro nếu như cả 3 loại cổ phiếu cùng giảm giá và tất nhiên ngân hàng cũng phải gián tiếp chịu rủi ro cho nhà đầu tư nếu như nhà đầu tư không đủ khả năng thanh toán.
1.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
Cho vay cầm cố cổ phiếu cũng là một hoạt động tín dụng do đó rủi ro của nó cũng mang những rủi ro chung của rủi ro tín dụng và cũng chứa đựng những rủi ro riêng đặc trưng. Các rủi ro đó là:
* Nguyên nhân bất khả kháng:
đây là nguyên nhân khách quan tác động tới người vay, khiến người v._.ay mất khả năng thanh toán, những nguyên nhân mang tính vĩ mô như là các quyết định của chính phủ, bộ tài chính…tác động tới giá cổ phiếu mà nhà đầu tư đem đi cầm cố hoặc là sự suy thoái về kinh tế, các thảm hoạ tự nhiên, chiến tranh tác động tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà nhà đầu tư không thể tính toán trước được khiến cho giá cổ phiếu xụt giảm dẫn đến tổn thất cho nhà đầu tư. Khi những tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm, nhà đầu tư có thể không trả được một phần hoặc toàn bộ cả gốc và lãi cho ngân hàng.
* Nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay
Nguyên nhân này là do trình độ yếu kém của người vay trong việc phân tích dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai. Họ kì vọng giá cổ phiếu mà họ đầu tư sẽ tăng và họ sẽ thu được lợi nhuận trong khi trên thực tế phán đoán đó của họ là sai. Đây là những nguyên nhân hoàn toàn thuộc về nhà đầu tư do không đủ kiến thức cũng như kinh nghiệm phân tích dẫn đến rủi ro.
Nguyên nhân này thường là nguyên nhân phổ biến dẫn đến rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu vì vay tiền để cầm cố cổ phiếu là cá nhân mà nhà đầu tư tư các nhân thường có năng lực thấp trong việc phân tích giá cổ phiếu, cũng không có chiến lược đầu tư rõ ràng và đúng đắn dẫn đến rủi ro lớn cho chính nhà đầu tư và cả ngân hàng cho vay. Nhà đầu tư cá nhân lại hạn chế về khả năng trả nợ khi khoản nợ đó lớn do vay nguyên nhân này cần được các ngân hàng xem xét kĩ trước khi ra quyết định cấp tín dụng.
* Nguyên nhân thuộc về ngân hàng
Nguyên nhân này là do chính sách cầm cố cổ phiếu của ngân hàng không tốt: các ngân hàng có chính sách cầm cố cổ phiếu của riêng mình. Mỗi ngân hàng có một danh mục cổ phiếu đươc phép cầm cố khác nhau và tỷ lệ cho vay so với thị giá cổ phiếu cũng khác nhau… do đó chính sách cho vay cầm cố cổ phiếu của ngân hàng cũng khác nhau. nếu chính sách này không tốt sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng cao và ngược lại ngân hàng có chính sách tôt sẽ hạn chế được rủi ro.
Một nguyên nhân nữa là thuộc về trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Nếu như nhân viên tín dụng có trình độ thấp trong việc đánh cũng như phòng ngừa rủi ro hoặc cố tình vi phạm những quy định của ngân hàng trong việc phòng ngừa rủi ro thì cũng dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
Đây là các căn cứ thực tế để đánh giá mức độ rủi ro của một ngân hàng trong việc thực hiện hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu, dựa trên các chỉ số cụ thể ta có thể đưa ra được các biện pháp hạn chế cũng như kiểm soát rủi ro ở mức độ cho phép. Các chỉ tiêu đó là:
* Tỷ lệ nợ quá hạn từ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được toàn bộ hoặc một phần khi đến hạn thoả thuận ghi trong hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn là số tuyệt đối cho biết chính xác dư nợ quá hạn của nghiệp vụ cho vay cầm cố cổ phiếu của ngân hàng là bao nhiêu. Tuy nhiên nếu chỉ dùng chỉ tiêu này thì chưa đánh giá được hết về nợ quá hạn mà cần dùng thêm cả chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn từ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay. Đây là chỉ số mang tính tương đối nhưng nó rất qua trong vì nó phản ánh mức độ rủi ro của dư nợ quá hạn từ hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu so với tổng dư nợ cho vay. Ta có công thức sau:
Tỷ lệ cho vay cầm cố cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trong kì
cổ phiếu quá hạn trên = x 100%
tổng dư nợ trong kỳ tổn dư nợ cho vay trong kì
Ngoài ra ta có thể sử dụng một chỉ tiêu khác cụ thể hơn đó là tỷ lệ quá hạn từ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán. Ta có công thức thức sau:
tỷ lệ cho vay cầm cố cho vay cầm cố cổ phiếu
cổ phiếu quá hạn trên tổng quá hạn trong kỳ
dư nợ cho vay đầu tư = x 100%
chứng khoán trong kỳ dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán trong kỳ
Để chi tiết hơn nữa và đánh giá chính xác hơn nữa tình hình rủi ro của nghiệp vụ này ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ lệ cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trên dự nợ cho vay cầm cố cổ phiếu:
Tỷ lệ cho vay cho vay cầm cố cổ phiếu quá hạn trong kỳ
cầm cố cổ phiếu = x 100%
quá hạn trong kỳ dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu trong kỳ
Sự tăng giảm của tỷ lệ này cho biết mức độ rủi ro của nghiệp vụ này đang tố lên hay xấu đi.
* Dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu trên tổng dư nợ
là tỷ lệ dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu so với tổng dư nợ của tất cả các nghiệp cho vay, nó phản ánh mức độ cho vay cầm cố cổ phiếu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng dư nợ cho vay của ngân hang. Dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu càng cao thì mức độ rủi ro càng cao vì dư nợ quá hạn cho vay cầm cố cổ phiếu càng cao và độ tín nhiệm của khách hang cũng giảm đi nếu tỷ lệ cho vay cam cố cổ phiếu cũng giảm đi.
* Tỷ lệ cho vay trên thị giá
Đây là một chỉ tiêu quan trọng mà ngân hang phải tính toán kỹ cho phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro của mình. chỉ tiêu này phản ánh mức cho vay tối đa mà nhà đầu tư có thể vay so với thị giá cổ phiếu được cầm cố. Tỷ lệ này càng cao, khả năng mất vốn của ngân hàng càng lớn, mức độ rủi càng cao. thị trường chứng khoán là một lĩnh vực có độ rủi ro cao, giá cổ phiếu có thể mất vài chục phần trăm chỉ trong một tuần giao dịch. Mặt khác gí cổ phiếu trên thị trường lại không phản ánh đúng giá trị thực của cổ phiếu nếu như cổ phiếu được đánh giá vượt quá rất nhiều so với giá trị thực của nó thì khả năng xụt giảm mạnh thị giá cổ phiếu là rất cao, và khả năng hồi phục và tăng giá so với mức giá cũ là rất thấp. Trường hợp này hầu hết các ngân hang bị mất vốn vì nhà đầu tư sẽ không trả lại tiền vay cho ngân hàng.
* Sự đa dạng của danh mục cổ phiếu cầm cố
Các danh mục khác nhau đối với từng ngân hang khác nhau. Nếu danh mục cổ phiếu nhận cầm cố càng đa dạng thì mức độ rủi ro của toàn toàn danh mục càng thấp vì rủi ro đối với cổ phiếu này có thể được bù đắp bởi lợi nhuận từ việc cho vay cầm cố cổ phiếu khác. Các cổ phiếu trong danh mục càng ít rủi ro và tăng trưởng cao thì mức độ rủi ro của danh mục cũng giảm.
* Một số tiêu chí khác
Đó là chỉ tiêu mang tính vĩ mô như: tỷ lệ làm phát trong quý hoặc trong năm, mức độ tăng trưởng kinh tế, mức độ tăng trưởng của thị trường chứng khoán, tình hình kinh tế thế giới…Hoặc những chỉ tiêu trong một lĩnh vực cụ thể có cổ phiếu nằm trong danh mục nhận cầm cố của ngân hàng như mức độ tăng trưởng của ngành cũng như của doanh nghiệp, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp…Những chỉ tiêu này cần được đánh giá cụ thể trước khi lập danh mục cổ phiếu của tổ chức tín dụng cho vay cầm cố cổ phiếu.
1.3.4 Hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
1.3.4.1. Sự cần thiết của hạn chế rủi ro trong cho vay cầm cố cổ phiếu
cho vay cầm cố cổ phiếu cũng là một hoạt động tín dụng của ngân hàng có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng của nó đến từng ngân hàng cũng như toàn hệ thống ngân hàng là rất lớn.. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi thị trường chứng khoán phát triển khá nóng nhu cầu vay vốn của các nhà đầu tư là rất lớn thì cho vay cầm cố cổ phiếu càng trở thành một hoạt động được ưa chuộng và có tốc độ tăng trưởng nhanh. điều này đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng cần phải có các biện pháp phòng ngừa rủi ro một cách hợp lý sao cho vừa giảm thiểu được rủi ro và vừa gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng vì đây là một hoạt động đem lại lợi nhuận cao hơn hẳn so với các hoạt động tín dụng khác, tốc độ quay vòng vốn nhanh, thòi gian cho vay lại ngắn. đây là các ưu điểm vượt trội của hình thức tín dụng này.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG RỦI RO TRONG CHO VAY CẦM CỐ CỔ PHIẾU TẠI NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG No&PTNT HÀ NỘI
2.1. Khái quát về ngân hàng No&PTNT Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Được thành lập theo quyết định 51 – QĐ/NH/QĐ ngày 27/6/1988 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam (nay là thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) Chi Nhánh Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Thành phố Hà Nội (nay là NHNo&PTNN Hà Nội) trên cơ sở 28 cán bộ cùng 21 Công ty, xí nghiệp thuộc lĩnh vực Nông, Lâm, Ngư nghiệp được điều động từ Ngân hàng Công – Nông – Thương thành phố Hà Nội và 12 Chi nhánh Ngân hàng Phát triển nông nghiệp huyện đã hội tụ về tụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Với 1.182 lao động, 18 tỷ nguồn vốn, chủ yếu là tiền gửi Ngân sách huyện và 16 tỷ dư nợ mà hầu hết là nợ cho vay các xí nghiệp Quốc doanh, các hợp tác xã đã thành nợ tồn đọng. Cơ sở vật chất không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Ngân hàng Phát triển nông nghiệp Hà Nội sớm phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các Ngân hàng có bề dày hoạt động kinh doanh và có nhiều lợi thế hơn hẳn. Không những thế ngân hàng còn luôn trong tình trạng thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Những năm đầu, sự hỗ trợ nguồn vốn của Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Trung ương cũng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vay vốn của Liên hiệp các Công ty Lương thực Hà Nội để mua gạo cho nhân dân nội thành, một phần nhu cầu tiền mặt chi lương cho các doanh nghiệp.
Nhận rõ tránh nhiệm của mình trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, mà trọng tâm là phát triển kinh tế nông nghiệp, góp phần đổi mới Nông thôn ngoại thành Hà Nội. Ngân hàng đã thực hiện những quyết sách táo bạo, đổi mới nhận thức, kiên quyết khắc phục yếu điểm nhất là thiếu vốn, thiếu tiền mặt. Nhờ vậy từ năm 1990 trở đi NHNo Hà Nội đã có đủ nguồn vốn và tiền mặt thỏa mãn cơ bản các nhu cầu tín dụng và tiền mặt cho khách hàng.
Thực hiện chủ trương cho vay hộ sản xuất theo quyết định 499A của Tổng Giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam, NHNo&PTNT Hà Nội đã phối hợp Hội Nông dân, Hội liên hiệp Phụ nữ Thành phố đã đẩy mạnh cho vay các sản phẩm Nông nghiệp. Nhờ vậy thu nhập và đời sống nông dân ngoại thành đã được cải thiện đáng kể, tỷ lệ hộ khá và giàu tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống đáng kể.
Tháng 9 năm 1991, 7 Ngân hàng huyện thị: Mê Linh, Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Ba Vì, Phúc Thọ, thị xã Sơn Tây được bàn giao về Vĩnh Phú và Hà Tây.
Tiếp theo đó thực hiện mô hình hai cấp từ tháng 10/1995 NHNo&PTNT Hà Nội đã bàn giao 5 Ngân hàng Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm về NHNo&PTNT Việt Nam. NHNo&PTNT Hà Nội lại đứng trước một thử thách mới đó là mang tên Ngân hàng nông nghiệp nhưng lại phục vụ các thành phần kinh tế không mang dánh dấp của sản xuất nông nghiệp giữa nội đô Thành phố Hà Nội.
Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, NHNo&PTNT Hà Nội đã chủ động mở rộng màng lưới để huy động vốn và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn nội thành.
Năm 1994 thành lập Ngân hàng Khu vực Chợ Hôm (nay là Hai Bà Trưng).
Năm 1995 thành lập Ngân hàng Khu vực Đồng Xuân (nay là Hoàn Kiếm).
Năm 1996 thành lập các Ngân hàng Quận Tây Hồ, Ba Đình, Thanh Xuân
Năm 1997 thành lập Ngân hàng Quận Cầu Giấy.
Năm 2000 thành lập Ngân hàng Quận Đống Đa và Khu vực Tam Trinh
Năm 2001 thành lập 10 Phòng giao dịch.
Năm 2002 thành lập 2 Ngân hàng Chương Dương và Tràng Tiền Plaza và 11 Phòng giao dịch.
Năm 2003 thành lập 3 chi nhánh: - Chi nhánh chợ Hôm
Chi nhánh Hàng Đào
Chi nhánh Nghĩa Đô
Tháng 12/2004, bàn giao chi nhánh Chương Dương về Long Biên và chi nhánh Tây Hồ về Quảng An.
Năm 2005 thành lập chi nhánh Trần Duy Hưng.
Năm 2006 bàn giao chi nhánh NHNo Cầu Giấy về trực thuộc NHNo&PTNT Việt Nam
Đến tháng 12/2007, NHNo&PTNT Hà Nội có 11 chi nhánh cấp 2 và 23 phòng giao dịch.
2.1.2. Mô hình tổ chức
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức của ngân hàng No&PTNT Hà Nội
* Giám đốc.
* Các Phó giám đốc
* Trưởng phòng Kế toán – Ngân quỹ.
* Các phòng (tổ) nghiệp vụ gồm:
Phòng Nguồn vốn và Kế hoạch tổng hợp.
Phòng Tín dụng
Phòng Thẩm định.Phòng Kế toán – Ngân quỹ
Phòng Kinh doanh ngoại tệ và Thanh toán Quốc tế
Phòng Vi tính.Phòng Hành chính, phòng Tổ chức cán bộ - Đào tạo
Tổ Kiểm tra kiểm toán nội bộ
Tổ nghiệp vụ thẻ
Tổ tiếp thị.
Chi nhánh Ngân hàng Ngân hàng Nông nghiệp cấp 2 bao gồm: Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hai Bà Trưng, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hoàn Kiếm, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Ba Đình, chi nhánh NHNo&PTNT Quận Đống Đa, chi nhánh NHNo&PTNT Tam Trinh, chi nhánh NHNo&PTNT Tràng Tiền, chi nhánh NHNo&PTNT Khu vực Hàng Đào, chi nhánh NHNo&PTNT chợ Hôm, chi nhánh NHNo&PTNT Nghĩa Đô, chi nhánh NHNo&PTNT Trần Duy Hưng,
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh cấp 2 trực thuộc ngân hàng No&PTNT Hà Nội
* Giám đốc
* Phó giám đốc
* Các phòng chuyên môn nghiệp vụ: Phòng tín dụng, phòng Kế toán – Ngân Quỹ, phòng hành chính nhân sự, tổ thẩm định, Phòng giao dịch.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội
Giám
Đốc
Phó
Giám
Đốc
Chi nhánh cấp 2
Tổ nghiệp vụ thẻ
Tổ KTKT nội bộ
Phòng TCCB - ĐT
Phòng Hành chính
Phòng Vi tính
Phòng KDNT&TTQT
Phòng Thẩm định
Phòng Tín dụng
Phòng
Nguồn vốn – Kế hoạch
Phòng Kế toán – Ngân quỹ
Tổ
tiếp thị
Phòng giao dịch
2.1.3. tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng No&PTNT Hà Nội
Trong những năm qua, đặc biệt là năm 2007 – năm thứ 2 thực hiện đề án phát triển hoạt động kinh doanh giai đoạn 2006 – 2010 của chi nhánh NHNo Hà Nội nói riêng và hệ thống NHNo trên địa bàn thủ đô nói chung. Ngân hàng nông nghiệp Hà Nội đã đạt được những kết quả khả quan, góp phần và sự nghiệp CNH – HĐH của cả nước.
* Huy động vốn
Tổng nguồn vốn huy động trong năm 2007 đạt 15.468 tỷ VNĐ, tăng 2.623 tỷ VNĐ so với 2006, đạt 112% kế hoạch trung ương giao. Trong đó, nguồn nội tệ đạt 14.269 tỷ, nguồn ngoại tệ 1.172 tỷ VNĐ. Tiền gửi dân cư đạt 3.541 tỷ, chiếm 23 % tổng nguồn vốn. Dưới đây là số liệu chi tiết:
Bảng số 2.1. Kết quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005-2007
Đơn vị: tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
Năm 2005
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1. Tiền gửi của KBNN, TCTD trong nước
3.637
31,4%
4.359
34%
6.123
39,6%
2. Tiền gửi của khách hàng:
7.666
61,6%
7.718
60,1%
8.595
55,6%
-Tiền gửi không kỳ hạn
2.934
38,3%
3.256
42,2%
3.520
40,9%
-Tiền gửi có kỳ hạn
4.732
61,7%
4.462
57,8%
5.075
59,1%
3. Giấy tờ có giá
298
2,5%
768
5,9%
750
4,8%
Tổng
11.601
12.845
15.468
(Nguồn: Báo cáo về kết quả huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà Nội)
Đạt được kết quả trên là do NHNo Hà Nội đã thực hiện áp dụng hình thức huy động vốn với nhiều sản phẩm đối với khách hàng gửi tiền như: huy động tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm khuyến mại đối với khách hàng có số dư tiền gửi lớn, tiết kiệm dự thưởng… Ngân hàng thực hiện nhiều hình thức trả lãi phù hợp lãi suất và mặt bằng chung của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Đặc biệt, ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động vốn nội, ngoại tệ linh hoạt, kịp thời đã góp phần nâng cao chất lượng, số lượng huy động vốn từ các thành phần kinh tế và dân cư. Không những thế, phong cách giao dịch được thay đổi ngày một tốt hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong giao dịch với khách hàng.
* Hoạt động tín dụng
Song song với huy động vốn là hoạt động tín dụng, đây cũng là hoạt động chính của bất kỳ ngân hàng thương mại nào và cũng là hoạt động chính mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Bảng số 2.2. Kết quả hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005-2007
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Tổng dư nợ
2.467
2.457
3.462
- Dư nợ ngắn hạn
1.527
1.336
2.025
+ Nội tệ
914
1.093
1.508
+ Ngoại tệ
613
243
517
-Dư nợ trung hạn
305
433
492
+ Nội tệ
262
350
417
+ Ngoại tệ
43
83
75
-Dư nợ dài hạn
635
688
945
+ Nội tệ
573
601
734
+ Ngoại tệ
62
87
211
(Nguồn: Báo cáo về hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Hà Nội )
Tổng dư nợ đạt 3.462 tỷ, tăng trên 1.005 tỷ so với năm 2006. Dư nợ ngắn hạn: 2.025 tỷ chiếm 58,6%. Dư nợ trung dài hạn: 1.437 tỷ chiếm 41,4% tổng dư nợ.
Vốn tín dụng đã tập trung cho các thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời từng bước chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tỷ lệ đầu tư cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 74,6%, tăng 7,6% so năm 2006 và doanh nghiệp nhà nước chiếm 25,4%. Bên cạnh đó chi nhánh triển khai cho vay đồng tài trợ các dự án lớn với số vốn hàng trăm tỷ đồng.
Năm 2007, chi nhánh đã tiếp tục quan tâm đến chất lượng tín dụng, từng bước lành mạnh hóa công tác tín dụng nhăm ổn định và phát triển. Do vậy công tác thẩm định dự án, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Ngân hàng đẩy mạnh thu nợ đã xử lý rủi ro, nợ xấu, kiên quyết phân loại nợ theo Quyết định 493 và thực hiện trích rủi ro triệt để. Do vậy, tỷ lệ thu lãi đạt trên 98%, nợ xấu chỉ còn dưới 1%. Nhìn chung, các doanh nghiệp đầu tư đã phát huy hiệu quả đồng vốn đảm bảo trả nợ tốt cho ngân hàng.
* Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế
Hiện nay, Việt Nam đã ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vì vậy mà hoạt động kinh doanh đối ngoại ngày càng được củng cố và nâng cao vị thế. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế không phải là một thế mạnh của NHNo Hà Nội, tuy nhiên trong những năm gần đây đã phát triển hơn rất nhiều.
Bảng số 2.3. Kết quả thanh toán quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội giai đoạn 2005 – 2007
Đơn vị: triệu USD
Năm
Chỉ tiêu giá trị
2005
2006
2007
A
Nhập khẩu
179,6
124,7
293,3
1
L/C
107,2
62,4
140,4
2
Nhờ thu
16,9
19,2
28,2
3
Chuyển tiền
55,5
43,1
70,7
B
Xuất khẩu
14,9
20,2
52,4
1
L/C
1,3
1,8
2,5
2
Nhờ thu
1,5
4,3
7,1
3
Chuyển tiền
12,1
14,1
42,8
(Nguồn: Báo cáo hoạt động thanh toán quốc tế NHNo&PTNT Hà Nội 2005-2007)
Bảng số 2.4. Kết quả kinh doanh ngoại tệ năm 2007
Triệu USD
Triệu JPY
Triệu EUR
Mua
184,73
953,4
11,63
Bán
184,78
956,5
11,45
Lãi kinh doanh ngoại tệ
2,028 tỷ VND
1,983 tỷ VND
3,644 tỷ VND
(Nguồn: Kết quả kinh doanh ngoại tệ năm 2007 của Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội)
Trong năm, NHNo Hà Nội đã mở hàng nghìn L/C nhập khẩu với giá trị hàng trăm triệu USD, hàng chục triệu EUR và các loại ngoại tệ khác tăng 74% so với năm 2006, đồng thời mở rộng phục vụ các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu với kim ngạch hàng chục triệu USD tăng 160% so với năm 2006. Ngân hàng đã chủ động khai thác được các loại ngoại tệ mạnh như USD, EUR, JPY… được gần 185 triệu USD, trên 950 triệu JPY, gần 12 triệu EUR để phục vụ cho khách hàng. Đồng thời, Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh toán biên mậu như: chuyển tiền (thương mại và phi thương mại), thanh toán bằng hối phiếu, thanh toán bằng chứng từ chuyên dùng biên mậu, thanh toán bằng thư ủy thác, thanh toán bằng thư tín dụng bằng đồng bản tệ doanh số đạt trên 45 triệu CNY tăng 50% so năm 2006.
Dịch vụ ngoại hối ngày càng ổn định và phát huy hiệu quả như: chuyển tiền kiều hối, chuyển tiền nhanh Western Union, thanh toán séc thẻ, thu đổi ngoại tệ mặt, đại lý thu đổi ngoại tệ. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã đạt gần 5 triệu USD, Western Union đạt gần 3 triệu USD. Thanh toán thẻ và séc du lịch đạt gần 200 ngàn USD… Dịch vụ thu đổi ngoại tệ với 30 đại lý thu đổi ngoại tệ mặt với doanh số gần 17 triệu USD (Quy đổi các loại ngoại tệ ) tương đương tới trên 270 tỷ VNĐ. Ngoài ra, chi nhánh đang thực hiện thu đổi nhiều loại ngoại tệ khác như GBP, CHF, CAD, HKD, JYP, AUD, SGD, BATH, CNY nhưng số lượng còn hạn chế.
* Phát triển dịch vụ ngân hàng
52 đơn vị kinh doanh, trả lương hưu trí 11 phường và nhiều cá nhân Đến nay Chi nhánh đã triển khai nhiều hình thức dịch vụ: Chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ. Thanh toán thẻ ACB, Master Card, Visa Card, American Express, thanh toán séc du lịch…
Đến hết năm 2007 có trên 60.000 tài khoản cá nhân có số dư trên 150 tỷ VNĐ, trong đó có 51.600 thẻ ghi nợ với số dư gần 100 tỷ đồng, doanh số hoạt động trên 50 tỷ với trên 350.000 món. Việc phát hành thẻ ghi nợ thực sự đem lại tiện lợi đối với nhân dân và hiệu quả kinh doanh cho NHNo Hà Nội. Ngoài ra, đã phát hành 380 thẻ tín dụng nội địa. Cụ thể, chi nhánh đã triển khai ký hợp đồng chi lương qua tài khoản cho 146 đơn vị: Trong đó có 94 đơn vị hành … với tổng số thẻ đã phát hành đạt 51.644 thẻ, tăng 14.810 thẻ so 2006.
2.2. Thực trạng hoạt động cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội
2.2.1. Điều kiện áp dụng:
Khách hàng vay là các khách hàng của Công ty Chứng khoán ( Những công ty Chứng khoán có hợp đồng hợp tác kinh doanh với chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Hà Nội).
Việc mua bán chứng khoán phải được thực hiện qua Công ty Chứng khoán đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với Ngân hàng No&PTNT Hà Nội.
Khách hàng phải uỷ quyền toàn cho Ngân hàng No&PTNT Hà Nội được quyền bán chứng khoán đã cầm cố cho Ngân hàng khi thị giá chứng khoán bị sụt giảm từ 25% trở lên so với giá tại thời điểm Ngân hàng cho vay, hoặc khách hàng có thể nộp tiền trả phần nợ trước hạn, kỹ quỹ thêm bằng tiền mặt, cầm cố thêm cổ phiếu, các tài sản bảo đảm khác theo quy định để khắc phục những tình trạng trên, chậm nhất trong vòng 24 giờ kể từ ngày xảy ra sự kiện sụt giảm.
Chỉ kinh doanh các loại cổ phiếu đã được niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán HOSE hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Thời hạn cho vay: Cho vay ngắn hạn có thời hạn cho vay tối đa đến 12 tháng.
Lãi suất cho vay: Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng No&PTNT Hà Nội và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của Tổng giám đốc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Hiện nay áp dụng mức lãi suất là 1,08%/tháng
Phí trung gian trả cho công ty chứng khoán đại diện cho ngân hàng làm các thủ tục vay vốn cho khách hàng thường là 6%/tiền lãi/tháng
Mức cho vay: Tối đa không được vượt quá 50% thị giá.
Phương thức trả nợ vay:
+ Theo phương thức từng lần: Trả lãi và gốc cuối kỳ.
+ Theo hạn mức: Trả lãi hàng tháng, trả gốc theo từng giấy nhận nợ.
Đảm bảo tiền vay:
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là cầm cố các loại chứng khoán đã niêm yết nhưng mức cho vay không được vượt quá 50% tổng giá trị nhận cầm cố.
+ Cầm cố các loại chứng khoán đã được niêm yết nhưng mức cho vay không được vượt quá 50% tổng giá trị nhận cầm cố.
2.2.2. Quy trình cho vay cầm cố cổ phiếu tại ngân hàng No&PTNT Hà Nội
* Bước 1: Đề nghị vay.
Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, Cán bộ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN hướng dẫn khách hàng lập Đề nghị vay vốn theo mẫu và chuyển cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN lấy xác nhận số dư chứng khoán trên giấy đề nghị vay vốn của ngân hàng.
* Bước 2: Kiểm tra, xác nhận và lập hồ sơ.
Kiểm tra tên, CMTND, số tài khoản và chữ ký của khách hàng.
Xác nhận số dư chứng khoán trên Đề nghị vay vốn của khách hàng.
Lập và giao cho khách hàng ký Hợp đồng bảo đảm (3 bản) và Hợp đồng tín dụng (3 bản).
Ký Hợp đồng bảo đảm (3 bản) với tư cách là bên thứ ba quản lý tài sản.
* Bước 3: Duyệt hồ sơ và ký Hợp đồng bảo đảm.
Sau khi CÔNG TY CHỨNG KHOÁN kiểm tra và xác nhận sẽ gửi cho NGÂN HÀNG qua fax (hoặc bản gốc) các giấy tờ sau:
+ Giấy đề nghị vay vốn (đã có xác nhận của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN).
+ Giấy đề nghị phong toả (đã có xác nhận của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN).
+ Giấy nhận nợ (nếu khách hàng có nhu cầu nhận nợ ngay)
NGÂN HÀNG căn cứ vào các hồ sơ bản fax để phê duyệt cho vay và gửi lại cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN qua fax để làm cơ sở giải ngân cho khách hàng.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN tập hợp hồ sơ của khách hàng chuyển sang NGÂN HÀNG duyệt lên bản gốc.
NGÂN HÀNG ký Hợp đồng cầm cố (3 bản), Hợp đồng tín dụng (3 bản) và gửi lại cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 02 bản Hợp đồng bảo đảm và Hợp đồng tín dụng, cùng bản gốc Giấy đề nghị phong tỏa TSCC (CÔNG TY CHỨNG KHOÁN giữ 01 bản, khách hàng giữ 01 bản).
* Bước 4: Phong tỏa tài sản cầm cố.
Căn cứ Giấy đề nghị phong tỏa và Hợp đồng bảo đảm, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển khoản số chứng khoán trên tài khoản giao dịch của khách hàng sang tài khoản cầm cố.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN thông báo với NGÂN HÀNG xác nhận đã phong tỏa TSCC.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN gửi hồ sơ cầm cố chứng khoán đến TTGDCK để hoàn tất thủ tục theo quy định.
* Bước 5: Rút tiền vay.
Khi có nhu cầu sử dụng tiền vay, khách hàng sẽ lập Giấy nhận nợ (3 liên) đề nghị rút tiền vay trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được duyệt. CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển Giấy nhận nợ của khách hàng sang NGÂN HÀNG phê duyệt rút tiền và chuyển ngay vào tài khoản vãng lai của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN mở tại NGÂN HÀNG. Tất cả các hồ sơ hợp lệ chuyển tới NGÂN HÀNG trước 15h sẽ được giải quyết trong ngày; các hồ sơ chuyển đến NGÂN HÀNG sau thời gian nói trên sẽ được giải quyết vào ngày làm việc tiếp theo.
Sau khi tiền được chuyển vào tài khoản của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển khoản số tiền ghi trong Giấy nhận nợ từ tài khoản mở tại NGÂN HÀNG vào tài khoản giao dịch của khách hàng.
NGÂN HÀNG và CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ theo dõi việc rút tiền vay trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được duyệt.
* Bước 6: Quản lý nợ vay.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN và NGÂN HÀNG sẽ thường xuyên theo dõi diễn biến giá giao dịch trên thị trường của TSCC.
NGÂN HÀNG cùng CÔNG TY CHỨNG KHOÁN theo dõi việc trả nợ của khách hàng và phối hợp với nhau để đôn đốc thu nợ khách hàng. Mười lăm (15) ngày theo dương lịch trước ngày đáo hạn của giấy nhận nợ, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN gửi Thông báo nhắc nợ cho khách hàng.
Khi khách hàng được yêu cầu bổ sung tài sản cầm cố, chuyển sang bước 7.
Khi khách hàng có nhu cầu hay được yêu cầu thay thế, đổi tài sản cầm cố, chuyển sang bước 10.
Khi khách hàng có nhu cầu thu nợ trước hạn chuyển sang bước 8
Khi khách hàng muốn gia hạn nợ, chuyển sang bước 9.
Khi khách hàng muốn bán chứng khoán để thanh toán nợ, chuyển sang bước 11.
* Bước 7: Bổ sung tài sản cầm cố:
Căn cứ vào giá đóng cửa của các chứng khoán niêm yết, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN phối hợp với NGÂN HÀNG tính toán và lập thông báo bổ sung tài sản cầm cố nếu thị giá của tài sản cầm cố bị giảm đến 25% thị giá của tài sản cầm cố tại thời điểm giải ngân. Trong vòng 03 ngày làm việc khách hàng phải bổ sung tài sản cầm cố.
Căn cứ vào Giấy đề nghị bổ sung tài sản cầm cố, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN phong tỏa tài sản cầm cố bổ sung theo quy định.
Khách hàng bổ sung không đủ hoặc không bổ sung thì xử lý theo quy định của Hợp đồng đảm bảo
* Bước 8: Thu hồi tiền gốc và lãi vay và phí.
Khách hàng khi có nhu cầu trả nợ trước hạn hoặc đến hạn sẽ ký giấy trả nợ vay.
NGÂN HÀNG tính toán và thông báo số tiền nợ gốc, lãi tiền vay và các nghĩa vụ khác theo hợp đồng tín dụng để khách hàng trả nợ.
Sau khi kiểm tra lại, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ trích tiền từ tài khoản giao dịch của khách hàng theo thông báo và chuyển trả nợ ngay cho NGÂN HÀNG.
Trong trường hợp số dư trên tài khoản tiền gửi vãng lai của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN mở tại NGÂN HÀNG (nguồn phát sinh do khách hàng rút tiền vay trong ngày) có đủ số dư để trả nợ, thì CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ thông báo bằng văn bản (hình thức Bảng kê) để NGÂN HÀNG được chủ động trích thu hồi số tiền tương ứng với các khoản nợ của khách hàng phát sinh hoàn trả trong ngày.
Nếu số tiền thu nợ của khách hàng vượt quá số dư hiện có trên tài khoản tiền
gửi vãng lai của CÔNG TY CHỨNG KHOÁN mở tại NGÂN HÀNG tại thời điểm tương ứng, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển tiền để đủ số tiền trả nợ.
* Bước 9: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Khách hàng có nhu cầu cơ cấu lại thời hạn trả nợ (Điều chỉnh kỳ hạn nợ và/hoặc gia hạn nợ) phải làm Đơn xin cơ cấu lại thời hạn trả nợ theo mẫu và gửi cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN trước ngày đáo hạn khoản vay tối thiểu là 15 ngày theo dương lịch.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển Đơn của khách hàng sang NGÂN HÀNG để xem xét chấp thuận.
Nếu Đơn của khách hàng được chấp thuận, NGÂN HÀNG và CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ tiếp tục theo dõi và quản lý nợ trong thời hạn được phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Trong trường hợp được cơ cấu lại thời hạn trả nợ, khách hàng phải trả đủ toàn bộ phí quản lý tín dụng phát sinh của hợp đồng tín dụng và lãi tiền vay phát sinh đến trước khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Tiền lãi vay kể từ khi cơ cấu lại thời hạn trả nợ bằng lãi suất vay trong hạn nhân (X) tỷ lệ phạt theo qui định của NGÂN HÀNG nhân (X) số tiền gốc vay được cơ cấu lại thời hạn trả nợ.
Trường hợp đơn của khách hàng không được NGÂN HÀNG chấp thuận thì CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ lập tức thông báo ngay để khách hàng kịp thu xếp nguồn tiền để trả nợ vay hoặc tiến hành xử lý TSCC theo quy định nếu khách hàng không hoặc chỉ trả một phần nợ vay đúng hạn. Nợ vay đáo hạn hoặc không được chấp nhận cơ cấu lại thời hạn trả nợ phải chuyển nợ quá hạn và áp dụng tỷ lệ phạt theo qui định.
* Bước 10: Thay thế, đổi tài sản cầm cố.
Nếu có nhu cầu đổi, thay thế TSCC khách hàng làm Đơn đề nghị thay thế TSCC theo mẫu và chuyển cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN kiểm tra và xác nhận số dư, tiêu chuẩn điều kiện của chứng khoán niêm yết mà khách hàng sử dụng để đổi/ thay thế theo đúng quy định.
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN chuyển Đơn xin thay thế TSCC để NGÂN HÀNG xem xét và chấp thuận.
Căn cứ Đơn xin thay thế TSCC đã được sự chấp thuận của NGÂN HÀNG, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN làm các thủ tục cần thiết với TTGDCK để giải tỏa số chứng khoán đang cầm cố và phong tỏa các chứng khoán khách hàng được phép sử dụng đổi /thay thế.
* Bước 11: Xử lý tài sản cầm cố.
Các trường hợp xử lý TSCC được quy định cụ thể trong Hợp đồng tín dụng.
Khi NGÂN HÀNG có yêu cầu xử lý TSCC bằng văn bản gửi CÔNG TY CHỨNG KHOÁN thì CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ thực hiện bán số chứng khoán đang cầm cố của khách hàng để thu hồi nợ cho NGÂN HÀNG.
Trường hợp khách hàng chủ động yêu cầu bán TSCC để thanh toán nợ trước hạn.
+ Khách hàng lập “Yêu cầu bán TSCC” để trả nợ theo mẫu và gửi cho CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
+ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN kiểm tra hồ sơ tín dụng và gửi yêu cầu qua fax cho NGÂN HÀNG để xem xét.
+ Khi được NGÂN HÀNG chấp thuận, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ cho phép khách hàng đặt lệnh bán ngay trong phiên giao dịch gần nhất.
+ Ngay sau phiên giao dịch, nếu lệnh bán được khớp, CÔNG TY CHỨNG KHOÁN sẽ hoàn tất hồ sơ gửi TTGDCK trước 15h cùng ngày để giải toả số chứng khoán thực bán được theo kết quả khớp lệnh trong phiên.
+ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN phong toả và quản lý ngay toàn bộ số tiền bán chứng khoán được khớp lệnh, sau khi trừ phí giao dịch của khách hàng, số tiền còn lại phải ưu tiên sử dụng trước hết cho mục đích trả nợ theo hợp đồng cho NGÂN HÀNG.
+ Đối với chứng khoán cầm cố được phép bán mà chưa bán được hoặc chưa bán hết ngay trong phiên giao dịch, nếu khách hàng không có yêu cầu nào khác (trả nợ vay để giải tỏa), thì số chứng khoán này vẫn tiếp tục được bán cho đến khi bán hết hoặc hợp đồng đáo hạn.
+ CÔNG TY CHỨN._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33114.doc