Tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy: MỤC LỤC
2.3.1 Những kết quả đạt được 53
2.3.2 Yếu kém và nguyên nhân 54
Chương 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG QUỐC TẾ CHI NHÁNH CẦU GIẤY 60
3.1 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng của ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy 60
3.2 Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy 61
3.2.1 Nâng cao chất lượng tín dụng 62
3.2.2 Xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp 64
3.2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng 66
3.2.4 Tăng cường công tác ... Ebook Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy
84 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương Mại Cổ phần Quốc Tế Việt Nam chi nhánh Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm tra giám sát nội bộ 67
3.2.5 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng 68
3.2.6 Tăng cường san sẻ rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng 69
3.2.7 Tăng cường nhận biết dấu hiệu xảy ra rủi ro, sớm phòng ngừa rủi ro và kịp thời xử lý các rủi ro, hạn chế tổn thất xảy ra 71
3.3 Kiến nghị 74
3.3.1 Kiến nghị với chính phủ 74
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Nhà Nước 75
3.3.3 Kiến nghị với ngân hàng Quốc Tế Việt Nam 77
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
VIB : Ngân hàng Quốc Tế Việt Nam
TCKT : Tổ chức kinh tế
QĐ : Quyết định
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ 1: CƠ CẤU TỔ CHỨC TẠI CHI NHÁNH VIB CẦU GIẤY 33
SƠ ĐỒ 2 : QUY TRÌNH CẤP TÍN DỤNG 41
BIỂU ĐỒ 1: TĂNG TRƯỞNG TỔNG TÀI SẢN 35
BIỂU ĐỒ 2 : TĂNG TRƯỞNG VỐN HUY ĐỘNG 36
BIỂU ĐỒ 3: TĂNG HUY ĐỘNG VỐN TỪ DÂN CƯ VÀ CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ 36
BIỂU ĐỒ 4 : TĂNG TRƯỞNG TỔNG DƯ NỢ 38
BIỂU ĐỒ 5 : TĂNG TRƯỞNG THU NHẬP 40
BIỂU ĐỒ 6 : TỶ TRỌNG CHO VAY THEO KÌ HẠN 44
BIỂU ĐỒ 7 : TỶ TRỌNG DƯ NỢ CHO VAY THEO LOẠI TIỀN 46
BIỂU ĐỒ 8 : TĂNG DƯ NỢ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH 47
BẢNG 1 : TỶ TRỌNG VỐN HUY ĐỘNG THEO ĐỐI TƯỢNG 37
BẢNG 2 : TỶ TRỌNG HUY ĐỘNG VỐN THEO KÌ HẠN 38
BẢNG 3 : CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH CỦA CHI NHÁNH 2005 – 2007 39
BẢNG 4: DƯ NỢ TÍN DỤNG THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH HÀNG 43
BẢNG 5 : CHI TIẾT CÁC KHOẢN NỢ CÓ VẤN ĐỀ 48
BẢNG 6 : TỶ TRỌNG NỢ QUÁ HẠN THEO KÌ HẠN SO VỚI DƯ NỢ THEO KÌ HẠN 50
BẢNG 7 :CHI TIẾT NỢ QUÁ HẠN THEO ĐỐI TƯỢNG VAY 51
BẢNG 8 : CÁC CHỈ TIÊU PHẢN ÁNH THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH 51
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng ngày nay được coi là xương sống của nền kinh tế, sự phát triển của nó phản ánh đúng thực trạng kinh tế của mỗi quốc gia. Trong những năm gần đây ngành ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan và khẳng định là một trung gian tài chính quan trọng không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất, đóng vai trò thủ quỹ của toàn xã hội. Với đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, trang thiết bị hiện đại ngân hàng còn là nhà tư vấn, lập kế hoạch tài chính giúp doanh nghiệp.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều các dịch vụ song đem lại doanh thu lớn nhất cho ngân hàng là hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế, là hoạt động đem lại nhiều doanh thu thì cũng đi đôi với nhiều rủi ro, bất kì khoản tín dụng nào của ngân hàng được sử dụng không có hiệu quả thì ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro tín dụng. Nếu không thể kiểm soát được thì rủi ro này còn kéo theo nhiều loại rủi ro khác. Hoạt động của ngân hàng chủ yếu dựa vào lòng tin của khách hàng vì vậy nếu không kiểm soát được rủi ro, một ngân hàng sụp đổ sẽ kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống ngân hàng, lúc này nó sẽ tác động đến mọi hoạt động của nền kinh tế. Chính vì vậy việc đưa ra các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ngày càng trở nên quan trọng và được các ngân hàng đặc biệt quan tâm. Đó là lý do vì sao em lựa chọn đề tài “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quốc TếViệt Nam chi nhánh Cầu Giấy”.
Kết cấu Chuyên Đề gồm 3 chương:
- Chương 1 : Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Chương 2 : Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHTMCP Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy.
- Chương 3 : Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTMCP Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy.
Chương 1
RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
ª Khái niệm: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền và sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Với các hoạt động đa dạng và đặc trưng Ngân hàng có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế. Ngân hàng được coi là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế, là cầu nối giữa các doanh nghiệp và thị trường, là công cụ để Nhà Nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế và đặc biệt là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Các hoạt động chính của ngân hàng :
1.1.1.1 Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là một hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng. Nó đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Vì vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh, nó quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng. Nó quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường. Nó còn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng đối với các ngân hàng khác.
Thực tế nguồn vốn ngân hàng huy động là bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng. Chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho ngân hàng để rồi ngân hàng trả cho họ một khoản thu nhập, đảm bảo an toàn vốn cho họ hay cung cấp các dịch vụ cho họ với chi phí thấp. Qua đó ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích hoạt động kinh tế phát triển.
Để tạo ra lượng vốn đáng kể cho mình, các ngân hàng đã đưa ra rất nhiều hình thức huy động khác nhau như : Huy động bằng hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi và tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Mỗi hình thức huy động nhằm vào đối tượng khách hàng cụ thể.
- Với tiền gửi thanh toán : tiền của doanh nghiệp, cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Lãi suất của khoản tiền này thường rất thấp thay vào đó khách hàng được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí thấp.
- Đối với tiền gửi có kì hạn : Đây thường là các khoản tiền doanh nghiệp và cá nhân sẽ phải chi trả sau một thời gian xác định. Họ gửi tiền vào ngân hàng với mục đích thu lợi nhuận, được hưởng mức lãi suất cao.
- Đối với tiền gửi tiết kiệm : thường nhằm phục vụ khách hàng có mục tiêu đảm bảo an toàn và sinh lời, hình thức huy động này thường rất đa dạng với mức lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
- Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác : chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chéo lẫn nhau và thanh toán hộ.
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu : ngân hàng chỉ huy động theo hình thức này khi thiếu vốn, vốn tự có và vốn huy động không có đủ. Mức lãi suất của hình thức huy động này thường cao. Ngân hàng sẽ căn cứ vào đầu ra để quyết định khối lượng huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương thức huy động.
Bên cạnh những hình thức huy động từ cá nhân và tổ chức kinh tế thì trong các giai đoạn cụ thể để đáp ứng nhu cầu thanh toán khi khả năng huy động bị hạn chế ngân hàng còn có thể đi vay ngân hàng Nhà Nước thông qua hình thức tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn, đi vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng, vay trên thị trường vốn.
Ngoài những hình thức huy động vốn ở trên ngân hàng còn có thể thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ hoạt động ủy thác về dịch vụ xã hội hay huy động được lượng tiền thông qua hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
1.1.1.2 Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng được coi là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Đây là hoạt động chủ yếu của ngân hàng tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm. Hình thức cấp tín dụng của ngân hàng rất đa dạng như cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, bảo lãnh cho khách hàng, mua các tài sản để cho thuê . . .Song tất cả đều có đặc điểm chung :
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay có hiệu quả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị tên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Ngân hàng cũng phân tín dụng ra làm nhiều loại:
Theo thời gian (thời hạn tín dụng) tín dụng được chia làm 3 loại
- Tín dụng ngắn hạn : có thời hạn dưới 1 năm, được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về nguồn vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân.
- Tín dụng trung hạn : thường 1 đến 5 năm, được cấp để mua sắm tài sản cố định, đổi mới kĩ thuật mở rộng sản xuất xây dựng các công trình nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn : có thời hạn trên 5 năm, sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, xây dựng mới, cải tiến mở rộng với quy mô lớn.
Theo đối tượng tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại
- Tín dụng vốn lưu động : được sử dụng để hình thành vốn lưu động, bù đắp thiếu hụt tạm thời cho các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng vốn cố định : sử dụng để hình thành tài sản cố định.
Theo mục đích sử dụng, tín dụng được chia làm 2 loại
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa : cung cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng : cung cấp cho các cá nhân hộ gia đình đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
Theo mức độ đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo : là hình thức cấp tín dụng có tài sản, người bảo lãnh đứng ra bảo đảm cho khoản tín dụng.
- Tín dụng không có đảm bảo : là hình thức không có tài sản, người bảo lãnh đứng ra bảo đảm cho khoản tín dụng.
Theo xuất xứ của tín dụng
- Tín dụng gián tiếp : là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính, ngân hàng thương mại khác.
- Tín dụng trực tiếp : là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền và người cần tiền. Không qua bất kì trung gian tài chính nào.
Ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tín dụng càng đóng vai trò quan trọng. Tín dụng thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, dân cư để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, tăng trưởng kinh tế, đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, tăng tốc độ lưu chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Thông qua tín dụng ngân hàng có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng lưu thông. Mặt khác tín dụng còn thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế trong nước với nước ngoài.
1.1.1.3 Hoạt động đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính là một nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng. Bên cạnh khoản mục tín dụng đầu tư tài chính được xem là hoạt động đem lại lợi nhuận quan trọng thứ hai của ngân hàng. Ngân hàng tham gia hoạt động đầu tư tài chính với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh khoản và đa dạng hóa tài sản, hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Hoạt động đầu tư tài chính của ngân hàng tập trung vào nghiệp vụ đầu tư chứng khoán và tham gia liên doanh liên kết.
Đối với hoạt động đầu tư chứng khoán
Ngân hàng tham gia vào thị trường cũng giống như các tổ chức trung gian tài chính khác. Ngân hàng có thể hoạt động cho mình tức là sử dụng vốn để kinh doanh kiếm lợi nhuận hoặc ngân hàng có thể hoạt động cho người khác để được thanh toán các khoản phí, hoa hồng với tư cách là người môi giới tin cậy.
Trong nghiệp vụ đầu tư chứng khoán ngân hàng thương mại thường đầu tư vào 2 loại chứng khoán có kì hạn dài là trái phiếu chính phủ hay do chính quyền địa phương phát hành và chứng khoán do các doanh nghiệp phát hành.
Chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương phát hành thường lợi nhuận thấp nhưng hầu như không có rủi ro và tính thanh khoản của các chứng khoán này cũng cao. Ngân hàng có thể chuyển đổi thành tiền nhanh chóng khi cần thiết. Còn chứng khoán của doanh nghiệp thường có lợi nhuận cao hơn song mức độ an toàn thấp, rủi ro và biến động lên xuống theo thị trường, tính thanh khoản bị hạn chế vì vậy theo quy định của Nhà Nước các ngân hàng thương mại chỉ được đầu tư vào các chứng khoán doanh nghiệp ở mức độ nhất định để đảm bảo an toàn vốn khi có biến động xảy ra.
Đối với hoạt động liên doanh, liên kết
Đây là hoạt động khi mà các công ty, doanh nghiệp dưới hình thức cổ phần hóa phát hành cổ phiếu để kêu gọi vốn góp. Lúc này ngân hàng đứng ra mua cổ phiếu cho chính mình với tư cách là một thành viên góp vốn. Khi đó ngân hàng sẽ cử người tham gia vào ban quản trị của doanh nghiệp. Ngoài việc thu được cổ tức từ hoạt động đầu tư ngân hàng còn nắm rõ được hoạt động của doanh nghiệp từ bên trong, hiểu rõ tình hình doanh nghiệp thuận lợi cho hoạt động cấp tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp đảm bảo an toàn tín dụng, giảm thiểu rủi ro.
1.1.1.4 Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của ngân hàng thương mại
Dịch vụ thanh toán
Là một trong những dịch vụ ngày càng được ngân hàng chú trọng phát triển cả về quy mô, số lượng và chất lượng. Thông qua hệ thống thanh toán của ngân hàng khách hàng đã có thêm một một phương tiện giao dịch nhanh gọn và an toàn. Ngân hàng đã không ngừng và cải tiến đưa ra ngày càng nhiều hình thức thanh toán thuận tiện cho khách hàng như séc, thư tín dụng, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi và thanh toán qua thẻ. . .
- Séc là tờ lệnh trả tiền vô điều kiện của chủ tài khoản ký phát, ra lệnh cho ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người được chỉ thị có tên ghi trên séc hoặc người cầm séc.
- Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi phải có đủ tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ký.
- Ủy nhiệm thu : là giấy đòi tiền do người thụ hưởng lập gửi cho ngân hàng để nhờ ngân hàng thu hộ tiền hàng hóa dịch vụ đã cung ứng.
- Ủy nhiệm chi : là lệnh chi tiền của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích tiền từ tài khoản của mình chi trả cho người thụ hưởng.
- Thẻ thanh toán : là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng phát hành phục vụ cho khách hàng chủ yếu trong lĩnh vực thanh toán phi mậu dịch. Khách hàng có thể thanh toán qua thẻ, rút tiền tại máy, giao dịch . . .
Không chỉ dừng lại ở những dịch vụ thanh toán trong nước, ngày nay ngân hàng đã mở rộng liên kết với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước ngoài của khách hàng. Các dịch vụ được ngân hàng cung cấp cũng đầy đủ và đa dạng đáp ứng mọi đối tượng khách hàng. Các phương tiện thanh toán cũng bao gồm thương phiếu, séc, thẻ thanh toán và phương thức thanh toán chủ yếu thông qua thanh toán tín dụng chứng từ, nhờ thu, mở tài khoản và phương thức chuyển tiền . . .
Dịch vụ ngân quỹ
Dịch vụ ngân quỹ của ngân hàng bao gồm dịch vụ thu tiền và dịch vụ phát tiền. Dịch vụ này đảm bảo tính thanh khoản và sự lưu thông tiền trong ngân quỹ của ngân hàng.
Dịch vụ thu tiền được thực hiện trên cơ sở khách hàng nộp tiền vào ngân hàng, thông thường là khách hàng đến gửi tiền, trả nợ tiền vay, lãi vay hoặc nộp tiền nhờ ngân hàng thanh toán. . .
Dịch vụ phát tiền tương ứng với việc lĩnh tiền của khách hàng. Thông thường khách hàng đến lĩnh tiền trong trường hợp rút vốn tiền gửi, lĩnh lãi tiền gửi, nhận tiền vay, rút tiền mặt chi tiêu. . .
1.1.1.5 Hoạt động khác của ngân hàng
Bên cạnh những hoạt động chính như huy động vốn và tín dụng thì ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ khác đi kèm nhằm đa dạng hóa các hoạt động của mình và đáp ứng được mọi yêu cầu cần thiết của khách hàng. Có rất nhiều dịch vụ được ngân hàng cung cấp như :
- Dịch vụ ủy thác : là dịch vụ quản lý tài sản được thực hiện dưới nhiều hình thức và cách sắp xếp khác nhau. Dịch vụ ủy thác có thể được chia thành 3 lĩnh vực chính : việc ấn định tài sản, việc điều hành dịch vụ ủy thác, giám hộ tài sản và hoạt động của các cơ quan đại diện.
- Dịch vụ tư vấn : là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu. Qua đó họ xây dựng được những phương án kinh doanh tối ưu, có những quyết định đúng, kịp thời trong đầu tư, sản xuất từ đó giảm thiểu được rủi ro và đạt được lợi nhuận tối đa.
- Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản ký gửi, nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường chứng khoán đây là những hoạt động phức tạp và đòi hỏi cần chuyên sâu vì vậy các ngân hàng thường thành lập các công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực này.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, nó chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất.
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La Tinh có nghĩa là sự tín nhiệm lẫn nhau hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo ngôn ngữ Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo Mác tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo Luật các tổ chức tín dụng Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam điều 49 ghi : “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng Nhà Nước.”
Như vậy tín dụng ngân hàng là quan hệ kinh tế giữa người đi vay và ngân hàng trong đó ngân hàng nhượng quyền sử dụng vốn cho người đi vay trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi sau một thời gian nhất định.
Các hình thức cấp tín dụng truyền thống được ngân hàng cung cấp:
1.1.2.1 Hoạt động chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người thụ lệnh khi giấy nợ đến hạn.
Thương phiếu là giấy tờ có giá, là chứng chỉ công nhận quyền hạn về tài sản nhất định cho người chủ sở hữu hợp pháp thương phiếu. Có khả năng chuyển nhượng dễ dàng, có tính đảm bảo cao khả năng thanh toán của thương phiếu tương đối chắc chắn.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và hoa hồng phí.
Số tiền ngân hàng trả chi khách hàng :
T = M – [{ M×i×t} + H1+H2]
Trong đó M : mệnh giá của thương phiếu
i : Lãi suất chết khấu
t : Thời hạn chiết khấu
H1 : Hoa hồng phí phụ thuộc theo thời gian
H2 : Hoa hồng cố định
Ngân hàng chỉ chấp nhận chiết khấu các thương phiếu :
- Còn thời hạn thanh toán theo quy định của ngân hàng Nhà Nước.
- Phải hợp lệ về mặt hình thức và nội dung.
- Đối với hối phiếu phải có chữ ký chấp nhận của người thụ tạo.
- Khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức ký hậu.
Đến thời hạn thanh toán thương phiếu ngân hàng sẽ tiến hành thu nợ của người có trách nhiệm thanh toán thương phiếu. Nếu người nay không thanh toán ngân hàng sẽ có 2 cách để xử lý :
- Thu hồi tiền từ người xin chiết khấu, trả lại thương phiếu cho họ đòi nợ.
- Tiến hành thủ tục tố tụng để truy đòi số nợ.
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu cũng có nhiều ưu điểm:
- Chiết khấu là nghiệp vụ ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ là khá chắc chắn.
- Là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng.
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu thường ngắn dưới 90 ngày và ngân hàng có thể dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu ở ngân hàng Trung Ương.
- Tiền của khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng bởi vậy nó tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng.
Bên cạnh đó ngân hàng vẫn có thể gặp rủi ro trong nghiệp vụ chiết khấu khi:
- Ngân hàng chiết khấu các thương phiếu giả mạo.
- Người chịu trách nhiệm thanh toán mất khả năng thanh toán trước khi thương phiếu đến hạn thanh toán.
1.1.2.2 Hoạt động cho vay
Đây được coi là hoạt động mạnh nhất, đa dạng nhất trong các nghiệp vụ tín dụng được ngân hàng cung cấp. Với nhiều hình thức cho vay đa dạng phù hợp với mọi đối tượng khách hàng.
Cho vay thấu chi
Thấu chi là loại tín dụng mà qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Hạn mức này được gọi là hạn mức thấu chi.
Trong quá trình hoạt động khách hàng có thể ký séc, lập ủy nhiệm chi. . . vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (vẫn trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số tiền lãi mà khách hàng phải trả :
= lãi suất thấu chi × thời gian thầu chi × số tiền thấu chi
Ưu điểm của hình thức này
- Đây là hình thức vay tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, chủ động, nhanh và kịp thời.
- Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt thủ tục đơn giản không gây phiền hà nhiều cho khách hàng.
Bên cạnh đó nhược điểm của hình thức cấp tín dụng này :
- Ngân hàng luôn phải dự trữ vốn sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của khách hàng khi họ còn hạn mức.
- Đây là hình thức cấp tín dụng không có đảm bảo, ngân hàng cũng không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng vì vậy rủi ro tín dụng đối với khoản vay là rất lớn.
Vì vậy ngân hàng chỉ cấp tín dụng theo hình thức này với những khách hàng quen thuộc, có uy tín và ngân hàng có ý muốn giúp đỡ.
Cho vay trực tiếp từng lần
Là hình thức cho vay tương đối phổ biến đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên, khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất thì mới vay vốn ngân hàng.
Mỗi lần vay khách hàng phải trình ngân hàng phương án sử dụng vốn, ngân hàng sẽ xem xét có quyết định cho vay hay không. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất cho hình thức tín dụng này có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, tuy nhiên mỗi lần xin vay khách hàng phải làm đơn và trình phương án vay vì vậy ngân hàng dễ dàng có thể kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay của khách và hạn chế rủi ro cho khoản tín dụng.
Cho vay theo hạn mức
Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện với những khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh, tốc độ luân chuyển vốn tín dụng nhanh.
Ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng, khi khách hàng có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo tính chủ động trong quản lý ngân quỹ của khách hàng. Tuy nhiên ngân hàng khó có thể kiểm soát được hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút. Vì vậy hình thức cấp tín dụng này chỉ cấp cho các khách hàng có tín nhiệm với ngân hàng trong quan hệ tín dụng, vay vốn và trả nợ sòng phẳng.
Cho vay luân chuyển
Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Người vay cam kết mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi trả thanh toán cho nhà cung cấp và lúc này các khoản phải thu, hàng hóa trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. Hình thức cho vay này rất thuận tiện cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn.
Rủi ro chỉ đến với ngân hàng khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ và khi đó kéo theo khó khăn trong việc thu hồi vốn của ngân hàng.
Cho vay trả góp
Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Đây là hình thức tín dụng tài trợ nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa. Thường áp dụng đối với khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho tài sản cố định, cho hàng hóa lâu bền.
Cho vay trả góp thường có rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng chính hàng hóa mua trả góp đó. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Rủi ro cao nên lãi suất cho vay trả góp thường là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay gián tiếp
Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay thông qua các nhóm sản xuất, hội Nông dân, hội Cự chiến binh, hội Phụ nữ, . . . Tổ chức trung gian này đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn hoặc bảo lãnh cho các thành viên. Điều này thuận tiện cho những người vay khi họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
Ngân hàng có thể nhờ các tổ chức trung gian này thực hiện vài khâu trong quá trình cho vay như thu nợ hay phát tiền . . . Cho vay qua trung gian tài chính thường áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ. Cho vay qua trung gian nhằm giảm bớt rủi ro, chi phí cho ngân hàng. Tuy nhiên nó cũng bộc lộ nhiều yếu điểm như nhiều trung gian đã lợi dụng vị thế của mình để tăng lãi suất cho vay, giữ tiền của các thành viên khác sử dụng cho mục đích của mình.
1.1.2.3 Hoạt động cho thuê tài chính
Là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản về cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho ngân hàng phải thu gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Theo phương thức này người thuê được sử dụng tài sản mà mình cần trên cơ sở đi thuê, không phải bỏ vốn mua mà chỉ phải chi tiền thuê tài sản hàng kì cho ngân hàng.
Đối với ngân hàng cũng giống như một khoản cho vay thông thường ngân hàng xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau một thời hạn nhất định. Khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì. Ngân hàng cũng đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả, không trả tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên thuê có nhiều điểm khác so với vay. Tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng.
Tài trợ vốn dưới hình thức tín dụng cho thuê tài chính đối với bên thuê mặc dù giá thường đắt hơn song có nhiều điểm thuận lợi:
- Nó cho phép bên thuê được nhận một khoản tài trợ là 100% các khoản đầu tư và tiết kiệm được việc sử dụng vốn tự có của mình.
- Nó không đè nặng lên bảng tổng kết tài sản và nó cho phép duy trì hay ít ra không làm nặng thêm năng lực đi vay.
- Nhờ việc đi thuê doanh nghiệp có khả năng đổi mới thường xuyên hơn về tài sản, tránh lạc hậu, thỏa mãn các cơ hội kinh doanh.
Đối với ngân hàng cũng cần cân nhắc và hết sức cẩn trọng nếu không sẽ bị lạm dụng thái quá từ bên thuê. Do thuê tài chính thường không có tài sản đảm bảo vì vậy các doanh nghiệp khi rơi vào tình cảnh nợ nần đã bão hòa về tín dụng, khả năng tự tài trợ yếu kém, họ mới tìm đến ngân hàng tìm đến sự tài trợ theo hình thức thuê tài chính. Ngân hàng phải có trách nhiệm cung cấp đúng các tài sản mà khách hàng cần và đảm bảo về chất lượng tài sản đó. Nó thường là các tài sản đặc chủng, khó bán, nếu khách hàng không thuê nữa ngân hàng khó có thể thu hồi được chi phí. Đây là tài sản đi thuê do đó nhiều doanh nghiệp sử dụng không giữ gìn và bảo tu cẩn thận làm hư hỏng tài sản của ngân hàng vì vậy để giảm thiểu rủi ro trong bất cứ trường hợp nào ngân hàng cũng cần giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê, thường xuyên kiểm tra và ngân hàng có quyền thu hồi nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng.
1.1.2.4 Hoạt động bảo lãnh
Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh, mà chỉ phải xuất tiền khi khách hàng không thực hiện được cam kết. Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng và khi ngân hàng đứng ra trả nợ thay cho khách hàng thì khoản chi trả này được xếp vào tài sản xấu trong nội bảng cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi ngân hàng phân tích khách hàng như khi cho vay.
Bảo lãnh ngân hàng là một mối liên kết trách nhiệm về tài chính giúp san sẻ rủi ro cho khách hàng. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra.
Ngân hàng cố tìm kiếm các khoản thu từ hoạt động bảo lãnh nhằm bù đắp chi phí. Phí bảo lãnh được tính trên tỷ lệ phần trăm số tiền bảo lãnh, ngoài phí ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ, tạo nguồn tiền thanh toán cho ngân hàng với mức lãi suất thấp.
Có rất nhiều các hình thức bảo lãnh được ngân hàng cung cấp nhưng chủ yếu bao gồm :
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu : Là cam kết của ngân hàng với chủ đầu tư về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu có vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : là cam kết của ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước : là cam kết của ngân hàng sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không hoàn trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay : là cam kết của ngân hàng đối với người cho vay về việc trả gốc và lãi thay nếu khách hàng của ngân hàng không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán : là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ . . .
1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Các loại rủi ro của ngân hàng thương mại
Là một tổ chức trung gian tài chính hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có nhiều biến động vì vậy bất kì một tác động nào của nền ._.kinh tế cũng gây ra những ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng. Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến vì vậy nhận biết và hạn chế rủi ro luôn được ngân hàng nghiên cứu tìm giải pháp. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động của ngân hàng :
1.2.1.1 Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng phát sinh khi mà ngân hàng không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc việc thanh toán nợ gốc và lãi không đúng kì hạn. Rủi ro tín dụng là kết quả của việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng và ngân hàng nhận được các giấy nhận nợ do con nợ phát hành với cam kết sẽ thanh toán cả gốc và lãi đầy đủ đúng hạn cho ngân hàng. Nếu tất cả các khoản đầu tư của ngân hàng được thanh toán đầy đủ cả lãi và gốc đúng hạn thì ngân hàng không chịu bất kì rủi ro tín dụng nào.
1.2.1.2 Rủi ro lãi suất
Là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi lãi suất thay đổi ngoài dự kiến. Lãi suất ngân hàng thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Nếu ngân hàng duy trì cơ cấu tài sản có và tài sản nợ với những kì hạn không cân xứng với nhau thì phải chịu những rủi ro về lãi suất khi thị trường có biến động bất lợi. Ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro lãi suất bằng cách làm cho kì hạn của tài sản có và tài sản nợ cân xứng với nhau. Tuy nhiên nó cũng ảnh hưởng tới chức năng tích cực chuyển hóa tài sản của ngân hàng, một mặt giảm được rủi ro lãi suất mặt khác cũng làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng. Vì vậy đây chỉ là giải pháp tương đối chứ chưa phải là giải pháp hoàn hảo.
1.2.1.3 Rủi ro thanh khoản
Là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Nó xảy ra khi những người gửi tiền đồng thời có nhu cầu rút tiền gửi ở ngân hàng ngay lập tức. Lúc này ngân hàng phải đi vay bổ sung để có nguồn thanh toán hoặc phải bán tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng. Ngân hàng có thể hạn chế rủi ro thanh khoản bằng cách dự trữ nhiều tiền và các tài sản có tính thanh khoản cao tại ngân quỹ. Song giải pháp này cũng có nhược điểm là nó ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của ngân hàng vì những tài sản có tính thanh khoản cao thường mang lại thu nhập ít và chi phí vốn mà ngân hàng bỏ ra cho các tài sản này là lớn. Do đó ngân hàng chỉ duy trì một lượng tiền mặt và tài sản ở mức tối ưu đủ đáp ứng các nhu cầu thanh toán thường xuyên và biến động nhẹ.
1.2.1.4 Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động, sự thay đổi này đôi khi tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dễ dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Để phòng ngừa rủi ro hối đoái ngân hàng phải làm cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ trong bảng cân đối tài sản.
1.2.1.5 Rủi ro khác
Bên cạnh những rủi ro thường gặp trong hoạt động của ngân hàng như đã nêu ở trên thì hoạt động của ngân hàng vẫn còn chứa đựng rất nhiều các loại rủi ro khác như rủi ro hoạt động ngoại bảng, rủi ro công nghệ, rủi ro hoạt động và rủi ro quốc gia. . . Tuy không thường xuyên và gây nhiều ảnh hưởng như các rủi ro thường gặp song nó cũng có tác động tới hoạt động của ngân hàng và đôi khi là tác nhân gián tiếp gây ra các rủi ro thường gặp.
Rủi ro hoạt động ngoại bảng là một rủi ro mà các ngân hàng ngày nay thường đối mặt vì với xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các ngân hàng đang mở rộng các nghiệp vụ ngoại bảng, là hoạt động không thuộc bảng cân đối, ngân hàng thu được phí trong khi không cần sử dụng đến vốn kinh doanh nên nó khuyến khích các ngân hàng. Tuy nhiên nó ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối. Hoạt động này có thể bổ sung tài sản có hoặc tài sản nợ cho ngân hàng nếu khách hàng không thực hiện đúng yêu cầu của đối tác và lúc này ngân hàng phải cấp tín dụng không mong muốn cho khách hàng, nó gián tiếp ảnh hưởng tới rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển không tạo ra được khoản tiết kiệm chi phí như đã dự tính khi mở rộng quy mô hoạt động. Rủi ro công nghệ có thể gây ra hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống và cũng là nguyên nhân tiềm ẩn cho sự phá sản của ngân hàng trong tương lai.
Rủi ro hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với rủi ro công nghệ và có thể phát sinh bất cứ khi nào nếu hệ thống công nghệ bị trục trặc hoặc hệ thống hỗ trợ bên ngoài ngừng hoạt động.
Rủi ro quốc gia xảy ra khi ngân hàng cấp tín dụng cho các công ty nước ngoài có trụ sở ở nước ngoài. Rủi ro quốc gia còn nguy hiểm hơn rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải. Rủi ro này không chỉ xảy ra khi khách hàng không đủ khả năng trả nợ mà nó còn xảy ngay cả khi khách hàng đủ khả năng trả nợ song chính phủ nước đó cấm hoặc hạn chế các doanh nghiệp trong việc thanh toán cho nước ngoài vì lý do dự trữ ngoại hối hạn hẹp hoặc lý do chính trị.
Ngoài những rủi ro chủ quan trong hoạt động ngân hàng còn cần kể đến các rủi ro khách quan như rủi ro xảy ra cướp ngân hàng, hỏa hoạn, lũ lụt thiên tai. . . tất cả đều gây ảnh hưởng cho hoạt động của ngân hàng.
1.2.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.2.1 Bản chất của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động của ngân hàng thương mại, là rủi ro gắn liền với hoạt động quan trọng nhất có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại. Có rất nhiều khái niệm về rủi ro tín dụng như đó là khả năng khách hàng nhận khoản tín dụng song không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng gây tổn thất cho ngân hàng. Hay rủi ro tín dụng phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ hợp đồng đối với ngân hàng, bao gồm cả việc không thực hiện thanh toán nợ cho dù đó là nợ gốc hay nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi là khách quan. Ngân hàng chỉ có thể kiểm soát đề phòng, hạn chế làm giảm thiệt hại do nó gây ra chứ không thể loại trừ vì vậy rủi ro tín dụng được coi là bạn đường trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Hạn chế và kiểm soát rủi ro tín dụng luôn được ngân hàng quan tâm. Hầu hết các ngân hàng khi thực hiện hoạt động tài trợ, đã cố gắng phân tích các yếu tố người vay sao cho độ an toàn là cao nhất và chỉ cấp tín dụng khi thấy đủ tiêu chuẩn. Nhưng trên thực tế không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra, khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân hoặc cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích đúng. Vì vậy ngân hàng luôn tìm cách chấp nhận rủi ro ở mức phù hợp.
1.2.2.2 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Tới hoạt động của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng
Nguồn vốn của ngân hàng chủ yếu được huy động từ các tổ chức, dân cư trong nền kinh tế. Nguồn vốn nay được sử dụng chính là tài trợ cho hoạt động tín dụng. Khi rủi ro xảy ra nó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn của ngân hàng. Lúc này ngân hàng sẽ phải bù tiền ra để trả cho các khoản tiền huy động khi đến hạn. Đến một giới hạn nào đó ngân hàng sẽ thiếu hụt không còn đủ để thanh toán vì vậy rủi ro tín dụng làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Tín dụng là hoạt động tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận của hoạt động này được tính bằng chênh lệch giữa thu nhập cho vay và chi phí huy động. Khi rủi ro xảy ra ngân hàng sẽ không thu được lãi vay bên cạnh đó khi phát sinh các khoản nợ xấu, nợ khó đòi ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro và nguồn của quỹ này được lấy từ lợi nhuận sau thuế. Vì vậy rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp làm giảm doanh thu, kéo theo giảm lợi nhuận của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín, giảm khả năng huy động vốn của ngân hàng
Là trung gian tài chính vốn được huy động chủ yếu từ nền kinh tế, vì vậy uy tín của ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Khách hàng đem tiền của mình tới gửi tại ngân hàng không đòi hỏi tài sản đảm bảo từ ngân hàng mà chủ yếu dựa trên lòng tin vào uy tín của ngân hàng. Vì vậy một ngân hàng muốn huy động được nhiều vốn hơn thì cần tạo sự tín nhiệm của khách hàng nhiều hơn nữa. Nếu một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ quá lớn, vốn tự có nhỏ sẽ gây sự nghi ngờ mất lòng tin của khách hàng. Và khi rủi ro tín dụng xảy ra hình ảnh ngân hàng sẽ bị giảm sút không một cá nhân, tổ chức nào muốn gửi tiền của mình tại ngân hàng. Họ không cảm thấy an toàn cho nguồn vốn của họ và lúc này kéo theo nhiều rủi ro không mong muốn đến với ngân hàng. Do đó trong hoạt động của mình ngân hàng cần xây dựng một hình ảnh, uy tín tốt.
- Rủi ro tín dụng dẫn đến phá sản ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng ở mức độ nhẹ sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và nếu không kiểm soát được thì hậu quả cuối cùng là sự phá sản của ngân hàng. Khi rủi ro liên tiếp xảy ra ngân hàng không còn kiểm soát được, các khoản tiền lấy ra bù đắp dần làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng, làm giảm dần vốn chủ sở hữu, giảm uy tín của ngân hàng các nguồn huy động bị hạn chế mọi hoạt động của ngân hàng bị ảnh hưởng. Ngân hàng lúc này đứng trước nguy cơ phá sản gây hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng cho hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Tới toàn bộ nền kinh tế
Là một trung gian tài chính, một kênh dẫn vốn cho toàn bộ nền kinh tế. Ngân hàng là chủ thể chính đáp ứng mọi nhu cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh, giúp vòng quay vốn trên thị trường diễn ra nhanh hơn, có vai trò dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giúp các doanh nghiệp kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ hoạt động của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng còn là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường, ngân hàng giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường, từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh giữa một nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay. Sự trợ giúp của ngân hàng tới mọi hoạt động của nền kinh tế là rất lớn vì vậy khi ngân hàng gặp rủi ro hay phá sản kéo theo tác động xấu tới tình hình sản xuất của các doanh nghiệp. Nó sẽ làm nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm nền kinh tế rơi vào biến động.
Tới khách hàng
Nếu rủi ro xảy ra gây ảnh hưởng tới ngân hàng thì cũng gây ảnh hưởng trực tiếp tới khách hàng những chủ nhân thực sự của nguồn vốn ngân hàng. Lúc này khách hàng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, mất nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mất quyền được sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp.
Khách hàng là những người trực tiếp gửi tiền vào ngân hàng, những người vay vốn, những người đang sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Họ tin tưởng vào uy tín của ngân hàng, họ gửi tiền không đòi hỏi vật thế chấp, họ tin tưởng cung cấp thông tin dự án nhờ ngân hàng tài trợ, họ thế chấp tài sản, họ sử dụng các dịch vụ tiện ích của ngân hàng và khi rủi ro xảy ra họ là người thiệt hại nhiều nhất. Vì vậy sự sụp đổ của bất kì một ngân hàng nào cũng gây hoang mang mất lòng tin của khách hàng đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng.
1.2.2.3 Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
Nguyên nhân chủ quan thuộc về ngân hàng
- Chính sách và quy trình tín dụng của ngân hàng còn nhiều hạn chế, chưa chặt chẽ.
Hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại chưa đưa ra một chính sách và quy trình tín dụng chung áp dụng cho toàn hệ thống, dẫn đến chưa có quy trình quản trị rủi ro tín dụng một cách hữu hiệu. Chưa chú trọng đến khâu phân tích khách hàng ban đầu. Xếp loại rủi ro tín dụng để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ chưa thực sự chính xác. Đối với cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân, hộ gia đình quyết định cho vay của ngân hàng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và tài sản đảm bảo chưa áp dụng công cụ chấm điểm tín dụng.
- Ngân hàng còn chưa chấp hành nghiêm túc chế độ tín dụng và điều kiện cấp tín dụng.
Đôi khi ngân hàng qua theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nên coi nhẹ chỉ tiêu đảm bảo an toàn dẫn đến tỷ lệ nợ xấu cao, cho vay vượt mức cho phép theo quy định của ngân hàng Nhà Nước dẫn đến làm giảm khả năng thanh khoản, giảm vốn chủ sở hữu của ngân hàng. Đối với các khách hàng tiềm năng, khách hàng trung thành ngân hàng cố gắng tạo mọi điều kiện đôi khi gạt bỏ những rào cản, bỏ qua những bước thẩm định tạo thuận lợi giữ khách hàng ở lại vay vốn tại ngân hàng. Vì vậy đôi khi ngân hàng đã tự đẩy mình đối mặt với rủi ro tín dụng.
- Thiếu thông tin về khách hàng, thông tin tín dụng tin cậy, kịp thời, chính xác trước khi ra quyết định cấp tín dụng.
Hiện nay các ngân hàng vẫn chưa xây dựng được kênh thông tin riêng về khách hàng một cách đầy đủ, chưa có kênh kiểm tra chéo thông tin. Ngân hàng chỉ có thể thẩm định thông tin của khách hàng từ hệ thống thông tin tín dụng (CIC) của ngân hàng Nhà Nước và chủ yếu thông tin vẫn do khách hàng tự cung cấp. Vì vậy việc phân tích tín dụng vẫn còn hạn chế và chưa thực sự chính xác. Do thông tin không đầy đủ số liệu có thể đã bị chỉnh sửa vì vậy việc phân tích trên những con số không chính xác sẽ cho kết quả không chính xác, ảnh hưởng tới việc ra quyết định, dẫn đến rủi ro tín dụng ngày càng tăng.
- Các hình thức cấp tín dụng chưa đa dạng, hạn mức tín dụng cho khách hàng còn hạn chế, thời hạn tín dụng chưa phù hợp, tình trạng đảo nợ và giãn nợ sử dụng không đúng mục đích.
Các ngân hàng vẫn chưa thực sự đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng của mình, vẫn chỉ chú trọng vào các sản phẩm truyền thống. Hạn mức tín dụng cho khách hàng vẫn còn nhỏ chưa linh động. Với các khoản vay ngân hàng đều mong muốn thu được nợ một cách nhanh nhất và doanh thu thu được là lớn nhất. Tăng nhanh khả năng quay vòng vốn của ngân hàng làm giảm chi phí huy động, dẫn đến thời hạn tín dụng chưa phù hợp tạo sức ép cho người vay. Bên cạnh đó vẫn còn tình trạng đảo nợ, giãn nợ, đưa ra những khoản vay mới để trả nợ cũ nhằm mục đích giảm tỷ lệ nợ quá hạn. Điều này làm sai lệch chỉ tiêu về nợ quá hạn, đôi khi ngân hàng sẽ đánh giá sai về hoạt động của mình và không đánh giá hết được mức rủi ro mà ngân hàng đang đối mặt.
- Năng lực, phẩm chất cán bộ tín dụng cũng là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
Chất lượng cán bộ tín dụng yếu kém không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá sai khách hàng thậm chí cố tình làm sai là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Nhân viên tín dụng phải là những người có trình độ và vốn kiến thức xã hội tốt, phải am hiểu nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực và đặc biệt để cho vay tốt họ phải am hiểu khách hàng của mình, am hiểu lĩnh vực và môi trường kinh doanh của khách hàng. Khi nhân viên tín dụng chưa đủ trình độ thì việc đưa ra những quyết định sai lầm là không thể tránh khỏi. Bên cạnh đó cũng tồn tại những cán bộ tín dụng thiếu phẩm chất, dễ bị cám dỗ, sẵn sàng tiếp tay cho khách hàng rút ruột của ngân hàng vì vậy nhân viên ngân hàng phải là những người có trình độ, có đạo đức nghề nghiệp mới có thể làm giảm và hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
Nguyên nhân khách quan
- Từ phía người vay :
Có rất nhiều nguyên nhân cố ý hoặc không cố ý từ phía người vay gây ra rủi ro cho ngân hàng. Cũng có nguyên nhân do trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, sự yếu kém trong quản lý, rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm không lượng sức mình với mục đích thu được lợi nhuận cao. Một số khác ngay từ khi bắt đầu vay vốn ngân hàng họ đã có ý định lừa gạt. Để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để đối phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc cán bộ tín dụng. Nhiều khách hàng sau khi được vay vốn đã dùng vốn không đúng mục đích như đã trình bày trong phương án xin vay. Việc chây ì khi đến hạn trả nợ mà không chịu trả hay cố tình vay vốn để đảo nợ cũng là những nguyên nhân dẫn đến khách hàng không trả được nợ đúng hạn và đầy đủ cho ngân hàng, gây rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Do môi trường pháp lý, môi trường chính trị
Trong nền kinh tế khi mà tình hình chính trị không ổn định, Nhà Nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế sẽ gây ra những biến động không đúng theo quy luật kinh tế học và không thể lường trước được những hậu quả, tổn thất mà doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung phải gánh chịu. Bên cạnh đó một môi trường pháp lý thiếu chặt chẽ, có nhiều thay đổi đột ngột cũng gây những tổn thất ngoài dự đoán cho doanh nghiệp. Nó sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng thanh toán các món nợ của doanh nghiệp và lúc này gián tiếp gây ra rủi ro cho ngân hàng khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này.
Hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ bản thân ngân hàng đã chứa đựng nhiều rủi ro hơn các lĩnh vực kinh doanh khác vì vậy ngân hàng cần hoạt động trong một môi trường kinh doanh lành mạnh và hành lang pháp lý chặt chẽ, nhằm giảm thiểu rủi ro và thuận lợi trong việc thu hồi nợ.
- Do môi trường kinh tế
Các yếu tố kinh tế như chu kỳ kinh tế, lãi suất thị trường, tỷ giá, lạm phát, thất nghiệp . . . cũng tác động gián tiếp gây nên rủi ro tín dụng. Khi nền kinh tế hưng thịnh mọi hoạt động kinh tế đều diễn ra tích cực, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra tốt, nguồn tài trợ đảm bảo trả nợ đầy đủ và đúng hạn vì vậy rủi ro tín dụng của các ngân hàng được hạn chế. Nhưng khi nền kinh tế rơi vào suy thoái, khủng hoảng, cả sản xuất và tiêu dùng đều giảm sút. Doanh thu của các doanh nghiệp lúc này đều giảm, lợi nhuận bị ảnh hưởng và gián tiếp ảnh hưởng tới nguồn trả nợ cho ngân hàng. Lúc này rủi ro tín dụng xảy đến với ngân hàng là rất lớn.
- Do môi trường xã hội
Phong tục tập quán thói quen tiêu dùng, trình độ văn hóa của khách hàng cũng gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Khi các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, họ đề xuất phương án, ngân hàng thẩm định phương án của họ nếu khả thi sẽ ra quyết định cho vay. Tuy nhiên tính khả thi của phương án kinh doanh còn chịu ảnh hưởng lớn của phong tục tập quán thói quen tiêu dùng và thị trường mà sản phẩm nhằm tới. Các yếu tố này có thể thay đổi bất thường, các yếu tố này đôi khi làm sai lệch các tính toán và khi thực hiện dự án lợi nhuận thu được sẽ không như dự tính. Việc thực hiện dự án không như kế hoạch điều này ảnh hưởng tới khả năng trả nợ vay cho ngân hàng. Đẩy ngân hàng đối mặt với rủi ro tín dụng.
Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân khác đó là những nguyên nhân bất khả kháng, ngân hàng không thể kiểm soát và dự tính được như thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh. . . nó cũng là những nguyên nhân gây mất khả năng thanh toán của người vay làm tăng nợ xấu cho ngân hàng.
1.2.2.4 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng có thể cụ thể hóa thành một số chỉ tiêu để phản ánh và nhận biết rủi ro tín dụng được sớm hơn.
Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn.
Chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của một ngân hàng. Thông thường chỉ số này ở mức dưới 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng là bình thường. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 5% thì chất lượng tín dụng của ngân hàng tại thời điểm đó kém và rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp phải là cao.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn / tổng dư nợ × 100%
Chỉ tiêu nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kì gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ chiền miên, phá sản. . .
Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, hi vọng thu lại tiền của ngân hàng lúc này trở nên mong manh. Ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu hơn để giải quyết tình trạng này. Tỷ lệ này càng lớn thì rủi ro xảy đến với ngân hàng càng cao.
Tỷ lệ nợ khó đòi = nợ khó đòi / tổng dư nợ × 100%
Chỉ tiêu trích dự phòng rủi ro tín dụng
Tỷ lệ trích dự phòng là tỷ lệ áp dụng cho từng đối tượng và từng loại tài sản. Tài sản nào ít rủi ro thì tỷ lệ trích lập dự phòng thấp có 5 loại đối tượng cần trích dự phòng cụ thể theo Quyết định 493 của ngân hàng Nhà Nước nợ nhóm 1 trích lập 0%, nợ nhóm 2 trích lập 5%, nhóm 3 trích lập 20%, nhóm 4 trích lập 50%, nhóm 5 trích lập 100% và trích lập dự phòng chung cho các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 là 0.75%. Lượng trích dự phòng phản ánh chi phí vốn mà ngân hàng phải bỏ ra vì lượng trích dự phòng này ngân hàng phải dự trữ, nó không được sử dụng để quay vòng vốn. Lượng trích dự phòng càng cao thì chi phí vốn ngân hàng bỏ ra càng lớn. Điều này là điều các ngân hàng không mong muốn.
Tỷ lệ trích dự phòng = trị giá trích dự phòng /tổng dư nợ ×100%
Hiệu suất sử dụng vốn
Thể hiện khả năng sử dụng tối ưu nguồn vốn mà ngân hàng huy động được. Hiệu suất này càng cao cho thấy ngân hàng đã quay vòng vốn nhanh song kéo theo ngân hàng cũng phải đối mặt với rủi ro tiềm ẩn lớn.
Hiệu suất sử dụng vốn = tổng dư nợ /tổng nguồn vốn huy động ×100%
Lãi treo và tỷ lệ lãi treo
Lãi treo là các khoản lãi mà khách hàng khi đến hạn trả lãi không trả được hoặc không trả đủ. Lãi treo làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Tỷ lệ lãi treo = lãi treo phát sinh /tổng thu nhập × 100%
Tỷ lệ này càng lớn thể hiện trong kì ngân hàng bị giảm thu nhập nhiều vì vậy đối với hoạt động ngân hàng tỷ lệ này càng thấp càng tốt.
Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh những chỉ tiêu truyền thống trên ngân hàng còn đánh giá rủi ro tín dụng thông qua một số chỉ tiêu như tính đa dạng hóa của tài sản, tình hình tài chính phương án vay của khách hàng, hay ngày nay các ngân hàng còn thường dùng mô hình xếp hạng tín dụng người vay, đánh giá qua tài sản đảm bảo, quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng để đánh giá thêm trước khi cấp tín dụng.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.3.1 Nhân tố chủ quan thuộc về ngân hàng
1.3.1.1 Chính sách tín dụng và quy trình cấp tín dụng
Chính sách tín dụng
Mỗi ngân hàng thương mại đều xây dựng cho mình những chính sách tín dụng riêng. Song một chính sách tín dụng tốt phải thể hiện được chiến lược cho vay của ngân hàng trong giai đoạn cụ thể là cơ sở để hình thành nên thủ tục cho vay. Chính sách tín dụng phải vạch ra cho cán bộ tín dụng phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng làm căn cứ để xem xét nhu cầu vay vốn của khách hàng. Tuy nhiên chính sách tín dụng cũng không nên quy định quá chặt chẽ sẽ bóp nghẹt tính sáng tạo của cán bộ tín dụng. Chính sách tín dụng cho phép cán bộ tín dụng quyết định các khoản tín dụng an toàn và hiệu quả.
Một chính sách tín dụng tốt sẽ là công cụ quan trọng để đào tạo các cán bộ chưa có kinh nghiệm và là cơ sở để đánh giá chất lượng thực hiện công việc của cán bộ tín dụng. Chính sách tín dụng giúp hỗ trợ đội ngũ nhân viên tín dụng chuyên nghiệp hơn vì vậy một chính sách tín dụng tốt có thể giúp hạn chế rủi ro tín dụng đối với ngân hàng.
Quy trình cấp tín dụng
Khác với chính sách tín dụng quy trình cấp tín dụng là hướng dẫn cụ thể cho từng bước công việc và cách thức xử lý trong từng trường hợp cụ thể khác nhau. Quy trình tín dụng là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản ánh nguyên tắc tín dụng, phương pháp tín dụng, trình tự giải quyết các công việc thủ tục hành chính, thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động cấp tín dụng.
Một quy trình tín dụng gồm 4 khâu cơ bản theo trình tự :
- Thiết lập hồ sơ tín dụng
- Phân tích tín dụng
- Quyết định cấp tín dụng
- Giám sát và quản lý tín dụng
Áp dụng một quy trình tín dụng chặt chẽ được thuân thủ nghiêm ngặt sẽ giúp ngân hàng ra các quyết định cấp tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian chi phí và đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh của ngân hàng, giảm thiểu rủi ro không mong muốn.
1.3.1.2 Cách thức quản lý tín dụng
Trong từng thời kì, từng giai đoạn ngân hàng tập trung vào hình thức tín dụng nào cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh tình hình kinh tế thời kì đó. Trước và sau khi cấp tín dụng ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức kiểm tra giám sát khoản tín dụng như thế nào, cách thức xử lý đối với các khoản vay một cách linh hoạt đúng đắn ảnh hưởng rất nhiều tới hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra với ngân hàng. Trong trường hợp người vay gặp khó khăn về tài chính tạm thời song vẫn có khả năng và điều kiện trả nợ ngân hàng có thể hỗ trợ khách hàng bằng cách cấp tín dụng thêm, gia hạn nợ hoặc giảm lãi . . . Song đối với những khoản cho vay khách hàng không có khả năng trả nợ, có ý định lừa đảo ngân hàng, ngân hàng cần phong tỏa, bán tài sản thế chấp, thu hồi nợ càng nhanh càng tốt. Trong thời kì kinh tế có nhiều biến động hình thức cho vay của ngân hàng cũng cần thay đổi, trong thời kì này ngân hàng cần chú trọng vào cho vay ngắn hạn để giảm thiểu được những rủi ro không lường trước được đối với khách hàng cũng như đối với ngân hàng.
Với hình thức quản lý cho vay linh hoạt, thích ứng theo từng thời kì và có hình thức quản lý khoản cấp tín dụng chặt chẽ sẽ giúp cho ngân hàng hạn chế được rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó đa dạng các hoạt động tín dụng là một nhân tố giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Ngân hàng không nên tập trung cấp tín dụng vào một đối tượng khách hàng, một ngành nghề, một thị trường mà cần đa dạng hóa, cung cấp nhiều hình thức tín dụng phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng. Nó tránh hiện tượng bỏ trứng vào cùng một giỏ. Nếu một ngành nghề, một đối tượng khách hàng hay một thị trường gặp biến động nó cũng không gây ảnh hưởng lớn, rủi ro đến hoạt động của ngân hàng.
1.3.1.3 Chất lượng đội ngũ cán bộ
Là nhân tố con người nhân tố quan trọng trong bất kì hoạt động nào. Một hệ thống ngân hàng khi đã có một quy trình cấp tín dụng chặt chẽ song độ ngũ cán bộ không có chuyên môn nghiệp vụ, không nhạy bén chỉ dập khuôn máy móc, không biết nắm bắt tình hình, cập nhật thông tin thì chất lượng quy trình cấp tín dụng sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Vì vậy chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng.
1.3.1.4 Hệ thống thông tin nội bộ và cách thu thập thông tin từ bên ngoài
Ngày nay khi mà công nghệ thông tin ngày càng phát triển thông tin không những được phổ biến rộng rãi mà ngân hàng còn có thể thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Bên cạnh hệ thống thông tin nội bộ về khách hàng của ngân hàng thì ngân hàng Nhà Nước đã xây dựng trung tâm thông tin tín dụng liên ngân hàng. Nó nhằm cung cấp thông tin chéo nhau giữa các ngân hàng về tình hình tín dụng của khách hàng trên toàn hệ thống liên ngân hàng. Đây là một kênh thông tin giúp các ngân hàng có thể kiểm tra đánh giá khách hàng đầy đủ hơn nhằm đưa ra các quyết định cấp tín dụng đúng về hạn mức cho vay, thời hạn tín dụng, cách thu hồi nợ nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Kênh thông tin này cũng giúp các ngân hàng có thông tin chính xác hơn về các khách hàng lần đầu đến với ngân hàng. Nó khắc phục được nhược điểm của hệ thống thông tin nội bộ chỉ có các dữ kiện về các khách hàng quen thuộc đã từng giao dịch với ngân hàng.
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Môi trường kinh tế, chính trị
Với một nền chính trị ổn định. Nền kinh tế phát bền vững là cơ sở để các doanh nghiệp nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng có điều kiện ổn định hoạt động. Các ngân hàng có điều kiện phát huy hết khả năng của mình, xây dựng nền kinh tế ngày càng tăng trưởng bền vững. Một xã hội ngày càng ổn định dân trí ngày càng cao, đội ngũ nhân viên với trình độ ngày càng lành nghề, trình độ quản lý và hiểu biết của khách hàng ngày càng chặt chẽ, kéo theo hoạt động ngân hàng ít chịu ảnh hưởng từ bên ngoài vì vậy rủi ro không mong muốn sẽ được hạn chế.
1.3.2.2 Hành lang pháp lý và các chính sách của Nhà Nước
Với hệ thống pháp luật và chính sách quy định chặt chẽ là cơ sở để các doanh nghiệp và ngân hàng hoạt động, phát triển theo đúng quy định. Đặc biệt ngày nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển hoạt động của các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi trong nước mà còn tham gia kinh doanh với đối tác nước ngoài, không chỉ kinh doanh các ngành nghề đơn giản như trước đây mà để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhiều ngành nghề mới đã ra đời vì vậy chính sách và các quy định của Nhà Nước càng đòi hỏi phải chặt chẽ và mở rộng hơn nữa, đi sâu vào từng ngành nghề, từng lĩnh vực, đưa ra nhưng tiêu chuẩn, điều kiện và quy định cách thức hoạt động. Nó không những giúp các doanh nghiệp có định hướng đúng, tuân thủ pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh mà nó còn quy định trách nhiệm của doanh nghiệp với Nhà Nước, với các đối tác của doanh nghiệp. Khi có một hành lang pháp lý chặt chẽ hoạt động của các doanh nghiệp sẽ bị kiểm soát bởi cơ quan chủ quản do đó hạn chế các doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và sai lệch vì vậy khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp này ngân hàng trách được các rủi ro từ phía khách hàng với ý định lừa đảo ngân hàng.
Có thể coi hành lang pháp lý và các chính sách quản lý, giám sát chặt chẽ là rào cản đầu tiên hạn chế những sai phạm xảy ra, gây hậu quả không mong muốn giúp ngân hàng và các doanh nghiệp hạn chế các rủi ro trong hoạt động của mình.
1.3.2.3 Trình độ quản lý và phương án kinh doanh của người vay
Với những phương án kinh doanh tốt, các chỉ tiêu tính toán đúng, dự án được đánh giá là khả thi, có ý tưởng là một trong những điều kiện đầu tiên để khách hàng có thể vay vốn tại ngân hàng. Song để vốn vay thực sự được sử dụng hiệu quả nó còn phụ thuộc vào trình độ quản lý của người vay. Đây là một yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng. Bởi yếu tố quản lý vốn được xem là chìa khóa thành công gi._.cạnh đó điều kiện giám sát của ngân hàng đối với đối tượng khách hàng này cũng tốt hơn độ an toàn tín dụng cao hơn, giảm thiểu rủi ro tín dụng cho chi nhánh.
Bên cạnh việc đa dạng hóa khách hàng chi nhánh cũng cần nâng cao chất lượng phân tích khách hàng. Khi khách hàng đến vay vốn ngân hàng phải sàng lọc, chủ động thu thập thông tin về khách hàng, phân tích nhận định và đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, khả năng trả nợ của khách hang . . . Sau khi thẩm định ngân hàng mới đưa ra quyết định cấp tín dụng hay không. Điều này làm giảm thiệt hại rủi ro trong hoạt động tín dụng của chi nhánh.
Chi nhánh đã xây dựng nhiều tiêu thức để phân loại khách hàng từ đó có thể lượng hóa mức độ rủi ro tín dụng. Mô hình chấm điểm tín dụng của chi nhánh :
- Đối với khách hàng cá nhân ngân hàng căn cứ vào các chỉ tiêu
Độ tuổi của khách hàng, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thời gian công tác, tình trạng cư trú, cơ cấu gia đình, số người ăn theo, thu nhập của gia đình, có phải là khách hàng truyền thống hay không . . . Qua đó ngân hàng tính điểm, phân loại rủi ro từ đó đưa ra hạn mức tín dụng cho vay phù hợp.
- Đối với khách hàng là TCKT
Ngân hàng đánh giá trên một số chỉ tiêu như:
+ Ngành nghề lĩnh vực doanh nghiệp đó hoạt động.
+ Quy mô doanh nghiệp là lớn, trung bình hay nhỏ, quy mô được xác định trên 4 tiêu chí : vốn kinh doanh, số lượng lao động, doanh thu thuần, giá trị nộp ngân sách.
+ Chấm điểm các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp . . .
Qua đó tổng hợp lại và đưa ra số điểm tín dụng của doanh nghiệp.
Trong quá trình áp dụng vào thực tế công việc cho thấy mô hình vẫn còn nhiều nhược điểm chưa đánh giá được một cách hiệu quả vì vậy cần được cải tiến và hoàn thiện hơn.
Một biện pháp quan trọng để thu hút khách hàng đã được chi nhánh thực hiện đó là từng bước trang bị cơ sở vật chất hiện đại, trụ sở làm việc luôn khang trang, thái độ phục vụ lịch sự, chất lượng phục vụ luôn được đảm bảo. Đây là điều kiện thể hiện sức mạnh, sự cạnh tranh giúp ngân hàng lôi cuốn, thu hút khách hàng.
3.2.3 Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Hệ thống thông tin tín dụng góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay để đối phó với tình trạng gia tăng nợ quá hạn của khách hàng, các ngân hàng rất cần có một hệ thống thông tin tín dụng đảm bảo cung cấp cho ngân hàng các thông tin về người vay một cách nhanh nhất, chính xác nhất, kịp thời giúp ngân hàng nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. Nhận thấy vai trò quan trọng đó chi nhánh đã :
- Củng cố hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của chi nhánh mình. Thực hiện nghiêm túc quy chế hoạt động thông tin tín dụng do ngân hàng Nhà Nước quy định theo quyết định 1117/2004/QĐ-NHNN nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của tổ chức này theo hướng hiệu quả, an toàn và bền vững.
- Trước khi cấp tín dụng cho khách hàng cán bộ tín dụng phải kiểm tra thông tin từ trung tâm CIC của ngân hàng Nhà Nước đây được coi là một khâu bắt buộc trong quy trình tín dụng của chi nhánh.
- Bên cạnh đó ngân hàng cũng đã xây dựng một hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro cho chính mình. Chi nhánh đã không ngừng đổi mới hiện đại hóa hệ thống thu thập và xử lý thông tin khách hàng. Từ nhiều nguồn khác nhau, chi nhánh thu thập và sàng lọc nhằm tạo ra cơ sở dự liệu cho mình, cung cấp cho ban lãnh đạo giúp họ đưa ra những quyết định chính xác kịp thời.
+ Đối với thông tin về khách hàng : phần lớn là thông qua các báo cáo tài chính do khách hàng lập, ít qua kiểm toán nên đây chỉ là thông tin một chiều, tính trung thực không cao, không đáng tin cậy. Vì vậy để có nguồn thông tin chính xác cán bộ tín dụng cần thu thập thêm từ đối tác của khách hàng, từ các ngân hàng mà khách hàng đã từng giao dịch, từ cơ quan quản lý của khách hàng, từ trung tâm tín dụng CIC của ngân hàng Nhà Nước. . .
+ Đối với các thông tin về thị trường : để dự báo những rủi ro tiềm ẩn cho khoản tín dụng chuẩn bị cấp, bên cạnh thông tin về tình hình khách hàng chi nhánh cũng cần quan tâm đến thị trường, sản phẩm mà khách hàng đưa ra. Để đánh giá được các thông tin này chi nhánh cần quan tâm vào tình hình cung cầu của thị trường, tình hình giá cả, khả năng cạnh tranh và tình hình đối thủ, nhà cung cấp của khách hàng . . . để có được những đánh giá đầy đủ và chính xác.
3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra giám sát nội bộ
Kiểm tra giám sát nội bộ là hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại. Mục đích của hoạt động này là đứng ngoài quy trình tín dụng, phát hiện những chỗ thiếu sót của cán bộ tín dụng và các bộ phận có liên quan khi thực hiện các nghiệp vụ, báo cáo cho lãnh đạo chi nhánh để xử lý kịp thời. Công tác kiểm tra giúp chi nhánh giám sát được việc làm của cán bộ lãnh đạo và cán bộ tín dụng tạo ra động lực giúp họ tuân thủ quy định một cách đầy đủ, nghiêm túc các quy trình tín dụng, quy chế nghề nghiệp đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả và đúng pháp luật.
Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát giúp chi nhánh nắm được thực trạng kinh doanh của mình từ đó có biện pháp củng cố nâng cao chất lượng hoạt động đặc biệt là hoạt động tín dụng, kịp thời xử lý không để mất vốn, nợ xấu, nợ đọng quá nhiều, đáp ứng các mục tiêu đề ra.
Để thực hiện tốt chức năng, vai trò của hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ chi nhánh cần thực hiện kiểm tra kiểm soát một cách toàn diện trên tất cả các mặt hoạt động của ngân hàng. Kiểm tra cần thắt chặt để tạo ra một môi trường làm việc kỷ luật, hiệu quả làm việc là cơ sở để phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng.
3.2.5 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Để một khoản tín dụng có chất lượng tốt thì yếu tố đầu tiên thuộc về cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng, là người phân tích, thẩm định đề xuất giúp các nhà lãnh đạo ra quyết định có nên cho vay hay không. Do đó trình độ cán bộ tín dụng có tính chất quyết định đến chất lượng tín dụng của chi nhánh. Xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, trực giác nhảy bén, sắc xảo, có đạo đức nghề nghiệp là yếu tố quan trọng góp phần đáng kể trong việc hạn chế rủi ro tín dụng cho chi nhánh. Nhận thức được tầm quan trọng chi nhánh ngân hàng Quốc Tế Cầu Giấy đã xây dựng một chiến lược quản lý và đào tạo nhân lực một cách hiệu quả và hợp lý :
- Luôn khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có quỹ phát triển tài trợ cho cán bộ đi tu nghiệp ở nước ngoài sau đó về phục vụ cho ngân hàng.
- Thường xuyên mở các lớp tập huấn thường kì cho cán bộ nhân viên nhằm cập nhật các kiến thức mới, thường xuyên tiến hành các buổi trao đổi kinh nghiệm thực tế công việc giữa cán bộ và các chuyên gia kinh tế, các chuyên gia pháp lý để giúp cán bộ tích lũy và có thêm hiểu biết.
- Nhận thức vai trò quan trọng của nhân tố con người trong hoạt động tín dụng do đó để phòng ngừa rủi ro chi nhánh đã thực hiện ngay từ khâu tuyển dụng cán bộ. Quá trình thi tuyển được tiến hành chặt chẽ đáp ứng được các tiêu chuẩn như cán bộ mới phải là những người được đào tạo căn bản, có khả năng ngoại ngữ, tin học đáp ứng được chuyên môn nghiệp vụ của ngân hàng, có kiến thức xã hội, khả năng giao tiếp và phẩm chất đạo đức tốt.
- Ngoài ra chi nhánh cũng xây dựng một chính sách khen thưởng, kỷ luật hợp lý. Đối với những cán bộ tích cực, có tăng trưởng dư nợ đều đặn, các khoản cho vay có chất lượng đảm bảo, làm việc nhiệt tình hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. . .thì chi nhánh đã có chính sách khen thưởng kịp thời. Đối với những cán bộ có phẩm chất kém, có hành vi không trung thực, trình độ chuyên môn yếu chi nhánh đã nhắc nhở, phê bình để họ sửa chữa, học hỏi thêm.
- Bên cạnh việc chuẩn hóa đội ngũ cán bộ chi nhánh cũng đã có những chính sách đãi ngộ hợp lý, công bằng, thưởng phạt phân minh có thế mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ tín dụng, hạn chế rủi ro đạo đức, gắn chặt quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cán bộ trong công việc của mình.
3.2.6 Tăng cường san sẻ rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng
3.2.6.1 Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ tín dụng
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện công nghệ thông tin đang đổi mới không ngừng, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm ngày càng cao và đa dạng. Hệ thống ngân hàng muốn tồn tại phát triển phải biết tự cải tiến, đa dạng trong hoạt động kinh doanh của mình sao cho đáp ứng kịp với nhu cầu của khách hàng. Việc đa dạng hóa sản phẩm ngân hàng nói chung và đa dạng hóa sản phẩm tín dụng nói riêng không chỉ tạo vị thế cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng san sẻ rủi ro trong hoạt động. Các khoản tín dụng lúc này được đầu tư vào nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau giúp ngân hàng chủ động hơn trong quản lý rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro biến động kinh tế, thị trường của một lĩnh vực nào đó. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, các ngân hàng phải nỗ lực tạo ra các sản phẩm mới nhằm đa dạng hóa danh mục các sản phẩm của mình, giúp phân tán và giảm thiểu rủi ro.
Hiện nay các sản phẩm tín dụng của chi nhánh khá đa dạng, đáp ứng phần nào nhu cầu phong phú của khách hàng. Hình thức cấp tín dụng chủ yếu là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức . . . và để đáp ứng hơn nữa nhu cầu vay vốn của khách hàng chi nhánh đã mở và đang rộng hơn các hình thức cấp tín dụng khác như : cho vay đồng tài trợ, cho vay hợp vốn tăng cường hoạt động bảo lãnh, trú trọng phát triển hình thức cho vay chiết khấu bộ chứng từ có giá. Đây là hình thức tín dụng sẽ được phát triển nhiều trong tương lai. Chi nhánh có thể thu lãi nhanh mà mức độ an toàn vẫn được đảm bảo.
3.2.6.2 Tăng tỷ trọng tài sản bảo đảm trong khi cho vay
Áp dụng điều kiện đảm bảo tín dụng là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên phải nhận thức rõ tài sản đảm bảo tín dụng không phải là nguồn trả nợ chính. Nó chỉ giúp ngân hàng san sẻ rủi ro tín dụng khi khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Bảo đảm tín dụng được thực hiện thông qua nhiều hình thức :
Bảo lãnh
Hoạt động bảo lãnh giúp ngân hàng giảm bớt thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng khi họ đã được bảo lãnh bởi một doanh nghiệp có uy tín hay một tổ chức tín dụng khác. Khi rủi ro phát sinh thì người bảo lãnh có trách nhiệm trả nợ thay cho khách hàng. Đây là hoạt động phát triển trong kinh doanh tiền tệ, thực hiện bảo lãnh sẽ tạo thêm khả năng cho khách hàng trong các giao dịch vay nợ tăng cường sự ổn định, giảm thiểu rủi ro trong quan hệ vay mượn của ngân hàng.
Thế chấp
Khi khách hàng đem tài sản của mình đến thế chấp tại ngân hàng thì tài sản đó phải đảm bảo đủ các điều kiện
- Có đầy đủ giấy tờ chứng minh tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng, không thuộc loại pháp luật cấm trao đổi, không phải là tài sản đang thế chấp ở một tổ chức tín dụng khác.
- Tài sản phải có giá trị khi phát mại, ngân hàng luôn quan tâm đến giá trị còn lại của tài sản khi khoản vay kết thúc.
Đối với các tài sản thế chấp khách hàng không phải chuyển quyền sử dụng tài sản sang cho ngân hàng khi vay vốn nên đối với các tài sản này cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc quản lý và sử dụng tài sản thế chấp của khách hàng, đánh giá lại giá trị của tài sản và có biện pháp xử lý kịp thời khi có pháp sinh xảy ra. Thường thì ngân hàng nên yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm tài sản thế chấp hình thành vốn vay nhằm hạn chế các rủi ro cho ngân hàng.
Cầm cố
Đối với tài sản cầm cố khách hàng phải chuyển giao giấy tờ sở hữu tài sản trong suốt thời gian vay cho ngân hàng nắm giữ. Nếu đến hạn khách hàng trả đủ nợ cho ngân hàng, ngân hàng sẽ trả lại khách hàng giấy tờ và tài sản khách hàng đem cầm cố. Nếu đến hạn khách hàng không trả đủ nợ gốc hoặc lãi ngân hàng sẽ lấy tài sản bảo đảm ra xử lý theo quy định.
3.2.6.3 Tham gia bảo hiểm tín dụng
Đây cũng là một biện pháp san sẻ rủi ro tín dụng đối với hoạt động của ngân hàng. Bảo hiểm tín dụng là bảo hiểm số vốn mà ngân hàng cấp cho khách hàng hoặc bảo hiểm cho tài sản mà khách hàng thế chấp cho ngân hàng. Hoạt động bảo hiểm tín dụng được thực hiện thông qua nhiều hình thức :
- Bảo hiểm tín dụng gián tiếp : ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải trực tiếp bỏ tiền ra để mua bảo hiểm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Khi đó khách hàng đã gián tiếp bảo hiểm cho vốn vay của ngân hàng. Khi khách hàng gặp khó khăn công ty bảo hiểm có trách nhiệm giúp đỡ khách hàng thanh toán nợ cho ngân hàng.
- Bảo hiểm bằng cách trích lập quỹ dự phòng : đây là hình thức được ngân hàng thực hiện thường xuyên, hàng năm trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng thường trích ra một phần lợi nhuận để hình thành quỹ dự phòng bù đắp rủi ro không thu hồi được. Quỹ này được trích theo một tỷ lệ nhất định và được sử dụng với mục đích bù đắp thiệt hại và tránh hiện tượng làm giảm vốn tự có của ngân hàng.
- Bảo hiểm trực tiếp : lúc này khi cấp tín dụng ngân hàng phải trực tiếp bỏ một khoản tiền để mua bảo hiểm và khoản tiền này sẽ được tính vào chi phí vốn vay của ngân hàng được khách hàng chia sẻ. Hình thức bảo hiểm này chỉ được áp dụng với các khoản tín dụng có giá trị lớn, thời gian dài.
3.2.7 Tăng cường nhận biết dấu hiệu xảy ra rủi ro, sớm phòng ngừa rủi ro và kịp thời xử lý các rủi ro, hạn chế tổn thất xảy ra
Với mục đích cố gắng ngăn chặn những rủi ro trong hoạt động tín dụng, ban quản lý ngân hàng hiểu rằng phải cố gắng nhận biết các dấu hiệu xảy ra rủi ro càng sớm càng tốt để có biện pháp phòng ngừa và xử lý vì vậy Ngân hàng Quốc Tế đã xây dựng một số cơ sở để phân loại dấu hiệu xảy ra rủi ro tín dụng.
Nhóm 1: Các khoản cấp tín dụng có chất lượng cao
- Được cấp cho các khách hàng có tiềm lực mạnh, triển vọng phát triển, có thiện trí trả nợ tốt. Khách hàng và ngân hàng có quan hệ tín dụng tốt và bền vững.
- Luồng tiền mặt của khách hàng luôn lớn hơn các khoản công nợ.
- Khách hàng có đủ tài sản đảm bảo cần thiết cho khoản vay.
Nhóm 2: Các khoản cấp tín dụng có chất lượng tốt
- Khách hàng có thể bị hạn chế về các nguồn tài trợ nhưng vẫn đủ tiêu chuẩn, điều kiện được phép cấp tín dụng của ngân hàng.
- Luôn thực hiện tốt các nghĩa vụ trả nợ, trả lãi đúng hạn.
- Có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay.
Nhóm 3: Các khoản cấp tín dụng đạt yêu cầu
- Khách hàng chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tài sản bảo đảm, nhưng tất các các tài sản bảo đảm của khách hàng có thể chuyển đổi để thanh toán đầy đủ các nghĩa vụ tài chính qua thanh lý.
- Dòng tiền thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính đủ để đáp ứng nhu cầu hoàn trả các nghĩa vụ tài chính đã xác định rõ, mặc dù có dấu hiệu cho thấy phải trông chờ vào nguồn thu nhập khác trong các trường hợp khẩn cấp.
- Dư nợ lớn hơn so với giá trị thuần của nguồn vay vốn.
Nhóm 4 : Các khoản tín dụng cần theo dõi
- Đó là các khách hàng xuất hiện một số khoản tín dụng quá hạn trả nợ gốc hoặc lãi từ 10 đến 30 ngày, trả nợ vay không đúng kì hạn hoặc thất thường. Có sự sửa đổi thời hạn trả nợ, xin gia hạn tín dụng.
- Có dấu hiệu gặp khó khăn trong ngành sản xuất kinh doanh mà khách hàng đang tham gia. Có dấu hiệu tài chính không tốt như thất thoát, thua lỗ trong kinh doanh, tài khoản phải thu hay hàng tồn kho tăng không bình thường.
- Khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính với ngân hàng phụ thuộc vào khả năng thanh khoản của tài sản bảo đảm. Tài sản đảm bảo chưa đủ cho khoản vay.
- Thiếu các thông tin tài chính, thiếu báo cáo lưu chuyển tiền tệ hay dự báo luồng tiền.
Nhóm 5 : Các khoản tín dụng kém chất lượng
- Đây là nhóm khách hàng có các khoản vay quá hạn trả gốc và lãi từ 1 đến 3 tháng, có hệ số đảo nợ.
- Mặc dù chưa thể dự đoán chính xác các thất thoát từ những khoản tín dụng này nhưng những yếu kém phát sinh của khách hàng được ngân hàng nhận định là khó có khả năng khắc phục. Xu hướng tài chính của khách hàng ngày càng xấu đi.
- Tài sản đảm bảo của khách hàng không đủ cho khoản vay.
Nhóm 6 : Các khoản cấp tín dụng khó đòi
- Khách hàng đã quá hạn trả nợ gốc và lãi trên 3 tháng.
- Khoản tín dụng mà ngân hàng cấp có thể bị thất thoát lãi thậm chí mất một phần nợ gốc và hi vọng thu hồi nợ của ngân hàng chỉ thông qua xử lý tài sản bảo đảm.
- Tài sản bảo đảm không đủ cho khoản vay.
Nhóm 7 : Các khoản cấp tín dụng mất vốn
- Khách hàng hoàn toàn không có khả năng trả được nợ.
- Việc thu hồi vốn của ngân hàng chỉ có thể thực hiện thông qua xử lý tài sản bảo đảm bằng các vụ kiện pháp lý ra tòa, song khả năng thu hồi là rất ít.
Khi xuất hiện một trong các dấu hiệu trên đối với các khoản tín dụng chi nhánh đã đưa ra một số biện pháp khắc phục và xử lý :
Biện pháp khắc phục
- Yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo cho các khoản vay nhưng không gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xác định phương án cơ cấu nợ. Ngân hàng chỉ tiếp tục duy trì qua hệ tín dụng với khách hàng khi khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả gốc và lãi của mình từ các dòng tiền thường xuyên. Và khi đó khoản nợ sẽ được giám sát chặt chẽ. Ngân hàng sẽ gia hạn nợ cho khách hàng, giãn nợ nhằm giảm gánh nặng nợ nần tạo điều kiện giúp khách hàng nhanh chóng ổn định và phục hồi.
- Trong trường hợp khách hàng không có khả năng phục hồi, ngân hàng tiến hành thu nợ nhằm thu hồi được càng nhiều vốn càng tốt hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại và chi phí phát sinh.
Biện pháp xử lý
Khi các khoản vay của khách hàng bị đánh giá là chất lượng kém, khó có khả năng thu hồi, ngân hàng đã tiến hành các biện pháp khắc phục song không hiệu quả thì ngân hàng cần đưa ra các biện pháp xử lý như :
- Khuyến khích khách hàng trả nợ sớm. Miễn giảm lãi suất cho khách hàng có thiện ý trả nợ.
- Phát mại tài sản bảo đảm cho khoản vay.
- Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện trả nợ thay đối với các khoản tín dụng có bảo lãnh của bên thứ 3.
- Thực hiện khởi kiện nếu cần thiết.
- Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro đối với các khoản nợ xấu ngân hàng tiến hành xóa nợ sau khi đã sử dụng hết các biện pháp để thu hồi nhưng không được hoặc không đủ. Những khoản xóa nợ sau khi được bù đắp bằng quỹ dự phòng được chuyển ra ngoài bảng cân đối để theo dõi và tận thu.
3.3 Kiến nghị
3.3.1 Kiến nghị với chính phủ
Với tư cách là người điều tiết vĩ mô cho nền kinh tế chính phủ cần có những chính sách đồng bộ nhất quán và có định hướng lâu dài nhằm tạo ra một môi trường kinh tế ổn định và phát triển. Một số kiến nghị đưa ra nhằm giúp hệ thống ngân hàng thương mại hạn chế rủi ro tín dụng :
Hoàn thiện môi trường pháp lý
Hiện nay hệ thống pháp luật của nước ta chưa hoàn chỉnh và đồng bộ cả về luật Doanh nghiệp, Luật ngân hàng . . . Do đó để đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư, cho người sử dụng vốn, cho các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh của mình, Nhà nước cần có biện pháp hoàn thiện sửa đổi ban hành các văn bản dưới luật, tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ, an toàn giúp cho hoạt động của các tổ chức trong nền kinh tế được thuận lợi, hiệu quả, phù hợp với xu hướng hội nhập.
Trong quá trình điều chỉnh cơ chế chính sách chính phủ cần có những bước đệm hoặc biện pháp tháo gỡ những khó khăn xuất hiện do sự thay đổi trong cơ chế giúp các doanh nghiệp dễ dàng thích nghi hơn.
Tăng cường quản lý các doanh nghiệp
Chính phủ cần xem xét kĩ trước khi cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép.
Yêu cầu các doanh nghiệp phải kiểm toán các báo cáo tài chính định kì, là cơ sở để đánh giá tình hình, chất lượng, doanh số hoạt động của doanh nghiệp. Giúp ngân hàng thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp khi đến vay chính xác hơn, đảm bảo an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đây cũng là tiêu chuẩn giúp các doanh nghiệp nước ta có điều kiện thích ứng trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Xây dựng thị trường vốn hoạt động một cách hiệu quả.
Hạn chế tình trạng thiếu kênh lưu chuyển vốn trong nền kinh tế, nhà nước đã xây dựng thị trường chứng khoán nhằm giúp các doanh nghiệp có cơ hội huy động vốn tốt hơn tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng quy mô và chất lượng. Đây là một phương án tốt nó giúp hạn chế sự quá tải trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Những ưu thế mà thị trường chứng khoán mang lại là cơ sở để chính phủ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nó đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ để thị trường này hoạt động có hiệu quả hơn nữa.
Ban hành chính sách chế tài về tài sản bảo đảm
Đối với các ngân hàng thương mại bảo đảm tiền vay đóng vai trò quan trọng, nó là phao cứu sinh cho các ngân hàng khi khoản vay không có khả năng thu hồi được. Tuy nhiên hiện nay các chính sách về bảo đảm tiền vay được chính phủ ban hành vẫn còn nhiều bất cập. Việc đăng kí giao dịch bảo đảm tài sản tại cục đăng kí giao dịch bảo đảm đối với bất động sản và đăng kí tại phòng tài nguyên môi trường vẫn còn gặp không ít khó khăn do thiếu chế tài quy định rõ ràng và thiếu sự chỉ đạo sát sao nên chưa có sự thống nhất.
Vì vậy kiến nghị chính phủ cần có các chế tài, các văn bản cụ thể hướng dẫn để các chính sách đã ban hành được thực thi một cách thống nhất, hợp lý tại một cơ quan chức năng của nhà nước tránh sự chồng chéo.
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng Nhà Nước
Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng
Sự hình thành và phát triển của hệ thống thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước trong những năm qua là một sự phát triển tất yếu và đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của hoạt động tín dụng trong nền kinh tế. Hệ thống thông tin tín dụng này đã góp phần giảm sự không cân xứng về thông tin giữa khách hàng và tổ chức tín dụng. Nó cho phép các tổ chức tín dụng có thể đánh giá khách hàng chính xác hơn, cải thiện chất lượng cấp tín dụng, dễ dàng ra quyết định và giảm thiểu chi phí tín dụng, tăng khối lượng giao dịch tín dụng góp phần phát triển kinh tế. Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà Nước trong thời gian qua đã hỗ trợ đáng kể cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên do mới ở giai đoạn đầu mới đưa vào ứng dụng nên vẫn còn nhiều khó khăn, chất lượng thông tin của trung tâm chưa đầy đủ, chưa đảm bảo nhanh nhạy, chính xác và kịp thời. Vì vậy ngân hàng Nhà Nước cần có sự phối hợp hơn nữa với các ngân hàng thương mại để có biện pháp thu thập đầy đủ thông tin hơn, chính xác hơn và chất lượng hơn.
- Ngân hàng Nhà Nước cần yêu cầu ngân hàng thương mại hợp tác, báo cáo đầy đủ về chất lượng tín dụng và tình hình tài chính của khách hàng cho trung tâm thông tin tín dụng.
- Cần trang bị cho trung tâm những thiết bị mới, hiện đại đáp ứng được nhu cầu của công việc như thu thập, xử lý, phân tích thông tin một cách nhanh chóng và chính xác.
- Cần đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên tại trung tâm về mặt nghiệp vụ và trú trọng cả tin học, ngoại ngữ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà Nước kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại trên cơ sơ thực hiện đúng pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình thực tiễn của ngân hàng.
Công tác thanh tra, kiểm tra của ngân hàng Nhà Nước đối với các ngân hàng thương mại phải được tiến hành một cách thường xuyên với mục tiêu phát hiện kịp thời những sai phạm, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật của các ngân hàng thương mại. Trên thực tế ngân hàng Nhà Nước mới chỉ kiểm tra giám sát các ngân hàng sau khi rủi ro đã xảy ra, chưa thực hiện công tác phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời. Vì vậy ngân hàng Nhà Nước cần xây dựng một số quy định nhằm tăng cường hơn nữa vai trò kiểm tra, kiểm soát của mình đối với các ngân hàng thương mại giúp các ngân hàng thương mại tự chấn chỉnh hoạt động của mình.
Hoàn thiện văn bản, quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng
Việc trích lập, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại được ngân hàng Nhà Nước quy định theo Quyết định 439/2005/QĐ- NHNN và Quyết định bổ sung, sửa đổi QĐ 493 là QĐ 18/2007/QĐ-NHNN theo các Quyết định này việc trích lập được chia làm 5 nhóm và mỗi nhóm được trích lập với tỷ lệ tương ứng. Song việc phân loại nợ vào các nhóm chưa thực sự phù hợp với thực tế, quá cứng nhắc và kém linh hoạt vì vậy gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc trích lập và sử dụng dự phòng. Khiến cho tình trạng đảo nợ, giãn nợ của các ngân hàng được sử dụng không đúng mục đích. Do đó ngân hàng Nhà Nước cần đưa ra các quy chế về trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chặt chẽ và linh hoạt hơn.
Yêu cầu các ngân hàng thương mại tham gia bảo hiểm tín dụng
Đây là biện pháp hết sức quan trọng nhằm giàn trải rủi ro tín dụng cho hoạt động của ngân hàng. Bảo hiểm có lợi về mặt kinh tế cho mọi người, mọi tổ chức nó chia sẻ mất mát thiệt hại về tài sản và bảo hiểm ngày nay đang đi sâu vào đời sống kinh tế và xã hội. Bảo hiểm tín dụng tuy vẫn còn khá mới lạ, song nó giúp cho các ngân hàng khi phát sinh rủi ro không còn phải dùng các biện pháp phi kinh tế để ngăn chặn như không cho các tổ chức cá nhân rút tiền, phát hành thêm tiền để bù đắp. . . mà lúc này các công ty bảo hiểm sẽ hỗ trợ các ngân hàng giải quyết các khó khăn trước mắt, hạn chế ảnh hưởng đến nền kinh tế. Vì vậy ngày nay tham gia bảo hiểm tín dụng là một biện pháp giúp ngân hàng đề phòng rủi ro không lường trước được.
3.3.3 Kiến nghị với ngân hàng Quốc Tế Việt Nam
Để đáp ứng nhu cầu hội nhập và tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng so với các ngân hàng khác thì việc cải tiến và tự hoàn thiện cơ cấu, quy trình trong hoạt động của mình là một biện pháp cần thiết.
- Ngân hàng cần xây dựng hoàn thiện chính sách tín dụng phù hợp với từng thời kì, quy trình tín dụng nhanh gọn chặt chẽ, cơ sở vật chất hiện đại, chất lượng phục vụ được đảm bảo.
- Tăng cường năng lực tài chính của ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu thể hiện năng lực tài chính của ngân hàng, nó khẳng định sức mạnh và quy mô hoạt động của ngân hàng, tăng vốn điều lệ của ngân hàng là tăng thêm uy tín giữa ngân hàng với khách hàng, tăng khả năng huy động vốn, tăng mục tiêu mở rộng tín dụng và tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Với nền kinh tế như Việt Nam như hiện nay việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng trong nước còn đóng vai trò quan trọng và cần thiết là cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, rút ngắn khoảng cách giữa khả năng tài chính của các ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài.
- Nâng cao hiệu quả của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng
Trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng của ngân hàng phải thường xuyên cung cấp thông tin cho các chi nhánh về khách hàng và những phân tích của mình một cách nhanh nhất, chính xác và kịp thời.
Ngân hàng cần có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất hơn trong việc phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng giữa các phòng ban, chi nhánh với hội sở.
Thiết lập và cung cấp cho toàn hệ thống một cơ sở dữ liệu về khách hàng, về ngành kinh tế, các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án đặc thù để các chi nhánh có thể tiếp cận dễ dàng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thẩm định trước khi cấp tín dụng.
- Thường xuyên tổ chức các đoàn kiểm tra chéo giữa các chi nhánh để kiểm tra hoạt động nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng nói riêng và học hỏi kinh nghiệm nói chung.
- Nâng cao hơn nữa đội ngũ cán bộ, thường xuyên mở lớp đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định và cán bộ kiểm soát nội bộ, đặc biệt về vốn kiến thức pháp luật và các chính sách mới.
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng Quốc Tế nói riêng đã có nhiều thành quả trong hoạt động đặc biệt trong việc thu hồi và xử lý nợ tồn đọng, hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn. Để có được thành quả như vừa qua, ngân hàng Quốc Tế đã đưa ra nhiều giải pháp ngăn ngừa, hạn chế rủi ro đúng và phù hợp với từng giai đoạn. Nhưng bên cạnh đó rủi ro tín dụng vẫn xảy ra vì nó được coi là bạn đường của hoạt động ngân hàng. Vì vậy việc nghiên cứu các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng luôn là đề tài vừa có tính cấp thiết vừa có tính lâu dài. Đặc biệt trong môi trường cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay thì vấn đề này càng được các ngân hàng quan tâm hơn.
Trong phạm vi bài nghiên cứu của mình em đã đề đạt một số kiến nghị đóng góp trong tổng thể các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Quốc Tế nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung. Hi vọng rằng trên cơ sơ những biện pháp đã thực hiện cùng những định hướng, giải pháp mới ngân hàng Quốc Tế sẽ có nhiều bước tiến tích cực trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là một vấn đề phức tạp và đa dạng với trình độ nghiên cứu còn hạn chế không tránh khỏi nhiều thiếu sót, em mong muốn được thầy cô và các anh chị cán bộ ngân hàng Quốc Tế đóng góp ý kiến để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn PGS. TS Vũ Duy Hào, cùng các anh chị cán bộ lãnh đạo ngân hàng Quốc Tế chi nhánh Cầu Giấy, những người đã tận tình chỉ bảo, tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ em hoàn thành tốt chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình ngân hàng thương mại – PGS.TS Phan Thị Thu Hà
2. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng – TS Tô Ngọc Hưng
3. Tín dụng và thẩm định tín dụng ngân hàng – TS Nguyễn Minh Kiều
4. Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PGS.TS Nguyễn Văn Tiến
5. Nghiệp vụ ngân hàng – TS Nguyễn Minh Kiều
6. Báo cáo thường niên Ngân Hàng Quốc Tế năm 2005 – 2007
7. Quy chế về nghiệp vụ cho vay – tài liệu nội bộ của ngân hàng Quốc Tế
8. Luật Ngân Hàng
9. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
10. Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
11. Quyết định 457/2005/QĐ- NHNN quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
12. Quyết định 03/2007/QĐ- NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
13. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S.Mishkin
14. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter Rose
15. Website www.vib.com.vn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10770.doc