MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.CƠ CẤU DƯ NỢ THEO LOẠI HÌNH TÍN DỤNG TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 30
Bảng 2.2.TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 32
Bảng 2.3. TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN THEO KỲ HẠN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 33
Bảng 2.4. MỘT SỐ CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH CƠ BẢN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 34
Bảng2.5: DƯ NỢ TÍN DỤNG THEO ĐỐI TƯỢNG KHÁCH HÀNG 43
Bảng 2.6. CHI TIẾT CÁC NHÓM NỢ TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 44
Bảng 2.7. TỶ TRỌNG NỢ QUÁ HẠN THEO KỲ HẠN TRÊN DƯ NỢ THEO K
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1594 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển Nhà TP.HCM (HDBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ỳ HẠN 48
Bảng 2.8 TRÍCH LẬP DP VÀ TỶ LỆ TRÍCH LẬP DP 50
Biểu đồ 2.1. TĂNG TRƯỞNG DƯ NỢ TẠI HDB HN GĐ 2006-2008. 37
Biểu đồ 2.2. CƠ CẤU DƯ NỢ TẠI HDB HÀ NỘI 2006-2008 38
Biểu đồ 2.3. TỶ TRỌNG DƯ NỢ THEO LOẠI TIỀN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 40
Biểu đồ 2.4. PHÂN LOẠI NỢ THEO KỲ HẠN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 42
Biểu đồ 2.5 NỢ QUÁ HẠN VÀ TỶ LỆ NỢ QUÁ HẠN TRÊN TỔNG DN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 46
Biểu đồ 2.6. NỢ KHÓ ĐÒI VÀ TỶ LỆ NỢ KHÓ ĐÒI TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 49
Biểu đồ 2.7 TỶ LỆ NỢ QUÁ HẠN, NỢ XẤU VÀ TỶ LỆ DPRR TRÊN TỔNG DN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 51
Biểu đồ 2.8 LÃI TREO VÀ TỶ LỆ LÃI TREO TRÊN THU NHẬP TỪ LÃI TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 52
Biều đồ 2.9. HIỆU SUẤT SD VỐN TẠO HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008 53
LỜI MỞ ĐẦU
Thuật ngữ rủi ro tín dụng không hề xa lạ với những người nghiên cứu hoặc làm việc trong lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng, nhưng không phải ai cũng hiểu một cách thấu đáo về rủi ro tín dụng và những ảnh hưởng của nó. Hiện nay tín dụng là một trong những hoạt động chính mang lại phần lớn doanh thu cho các ngân hàng thương mại. Rủi ro tín dụng có thể đưa đến những hậu quả nặng nề cho các ngân hàng thương mại, từ giảm lợi nhuận hoạt động đến phá sản. Mặt khác, với vai trò trung gian tài chính quan trọng của mình trên thị trường tài chính và nền kinh tế, một ngân hàng phá sản có thể kéo theo sự sụp đổ của nhiều ngân hàng khác, từ đó đe doạn sự ổn định của hệ thống ngân hàng và theo đó là cả nền kinh tế. Vì vậy, hạn chế rủi ro tín dụng đã trở thành một vấn đề cấp bách mà tất cả các ngân hàng cần sớm đưa ra những biện pháp thực hiện.
Chi nhánh HDB Hà Nội là một chi nhánh cấp 1 của ngân hàng TMCP phát triển nhà tp HCM với nghiệp vụ tín dụng là một trong những hoạt động chủ chốt. Sau thời gian thực tập tại phòng tín dụng chi nhánh HDB Hà Nội, em nhận thấy rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề cấp bách nhất mà chi nhánh cần phải quan tâm và quyết định chọn đề tài:
Hạn chế rủi ro tín dụng tạo ngân hàng TMCP phát triển nhà thành phố HCM chi nhánh Hà Nội.
Chuyên đề gồm 3 phần chính:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh HDB Hà Nội
Chương III: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh HDB Hà Nội.
CHƯƠNG 1NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại (NHTM)
1.1.1. Khái niệm NHTM
Tất cả các tài liệu nghiên cứu đều khẳng định, ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Có nhiều cách thể hiện khác nhau về các định nghĩa về ngân hàng thương mại, nhưng nhìn chung, các ngân hàng thương mại được định nghĩa thông qua chức năng dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. [Rose P.S. (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản thống kê, trang 4 chương 1].
Theo điều 201, Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán”. Theo Wikipedia, NHTM là những trung gian tài chính, nhận tiền gửi của các hộ gia đình (cá nhân) và cho các doanh nghiệp và cá nhân khác vay, cung cấp các dịch vụ về trao đổi ngoại tệ, chuyển tiền, các dịch vụ liên quan đến thư tín dụng, dịch vụ két an toàn, v.v...
Vai trò quan trọng của ngân hàng được hình thành từ các hoạt động phong phú của mình. Các hoạt động của NHTM có thể được phân chia thành một số hoạt động chính sau đây.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội. Vốn huy động bao gồm 2 loại chủ yếu là tiền gửi và nguồn huy động khác, bao gồm chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu [TS Tô Ngoc Hưng, Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh hoạt động ngân hàng].
Tiền gửi là nguồn tài nguyên quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn tiền của NHTM. Ngân hàng huy động tiền gửi thông qua việc cung cấp các loại hình tiền gửi khác nhau.
-Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi trong ngân hàng với mục đích tạo một nguồn tiền sẵn có cho mục đích thanh toán, chi trả thông qua hoạt động ngân hàng, do đó không có thời hạn cụ thể và lãi suất thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Nguồn tiền gửi này cũng có thể được rút ra bất cứ lúc nào, do đó cũng có lãi suất thấp. Tuy nhiên, không giống tiền gửi thanh toán, nguồn tiền gửi này không được dùng để thanh toán.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:Đây là nguồn tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một khoảng thời gian nhất định đã được thỏa thuận ban đầu với mức lãi suất đã thỏa thuận. Nếu người gửi phá vỡ thoản thuận bằng cách rút tiền trước hạn thì ngân hàng sẽ đưa ra hình phạt, cụ thể là lãi suất.
Ngân hàng còn có thể huy động vốn bằng cách phát hành chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn và trái phiếu dài hạn. Hai loại phiếu nợ này được các ngân hàng phát hành theo từng đợt, tùy theo mục đích sử dụng và sự chấp thuận của NHTW hoặc Hội động chứng khoán quốc gia.
1.1.2.2. Hoạt động tín dụng.
Theo Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, TS Tô Ngọc Hưng, tín dụng là việc ngân hàng chuyển nhượng tạm thời một lượng vốn cho khách hàng trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi sau một khoảng thời gian thỏa thuận. Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở lòng tin giữa ngân hàng và khách hàng.
Hoạt động tín dụng về cơ bản được chia ra thành các loại sau:
Theo thời gian, có 3 loại tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: Loại hình tín dụng này bao gồm các khoản vay có kỳ hạn dưới một năm, do đó hạn chế được rủi ro do thời gian thu hồi và quay vòn vốn nhanh.
- Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn thường có thời hạn từ 1 đến 5 năm, dùng cho các mục đích mua sắm tài sản cố định, đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các công trình nhỏ có khả năng thu hồi vốn nhanh.
- TÍn dụng dài hạn: có thời hạn trên 5 năm, được cấp cho các hoạt động xây dựng cơ bản, xây dựng mới, cải tiến mở rộng với quy mô lớn. Loại tín dụng này có thời gian thu hồi vốn lâu, khả năng kiểm soát vốn bị hạn chế và tốc độ quay vòng vốn chậm.
Xét theo mục đích sử dụng, có 2 loại tín dụng:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: được cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành kinh doanh lưu thông hàng hóa.
- Tín dụng tiêu dùng: được cấp phục vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân của các hộ gia đình.
Xét theo đối tượng cấp tín dụng, tín dụng được chia làm 2 loại:
- Tín dụng vốn lưu động: đươc sử dụng để tài trợ cho nguồn vốn lưu động tạm thời bị thiếu hụt của các tổ chức kinh tế.
- Tín dụng vốn cố định: được sử dụng để hình thành tài sản cố định, thường có thời hạn trung và dài.
Tín dụng xét theo xuất xứ được chia làm 2 loại:
- Tín dụng gián tiếp: là hình thức tín dụng thông qua một trung gian tài chính, một ngân hàng thương mại khác.
- Tín dụng trực tiếp: là hình thức mà tín dụng được cấp trực tiếp giữa ngân hàng và người đi vay, không qua một tổ chức trung gian nào khác.
1.1.2.3. Hoạt động đầu tư tài chính.
Ngoài nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng, khoản mục được đánh giá là nguồn quan trọng thứ hai, có liên quan và hỗ trợ, bổ sung cho khả năng sinh lời của các nghiệp vụ cho vay là khoản mục chứng khoán. Ngân hàng tham gia vào thị trường chứng khoán dưới nhiều hình thức, thực hiện hoạt động đầu tư tài chính với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng thanh toán và đa dạng hóa tài sản, hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Các NHTM tiến hành nghiệp vụ đầu tư tài chính dưới 2 hình thức cơ bản: đầu tư chứng khoán và liên doanh liên kết.
- Nghiệp vụ đầu tư chứng khoán: Thị trường chứng khoán có rất nhiều chủ thể tham gia, trong đó NHTM với vai trò trung gian tài chính hoặc chủ thể phát hành đóng vai trò hết sức quan trọng. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện nghiệp vụ đầu tư chứng khoán với tư cách là một nhà đầu tư chuyên nghiệp, mua đi bán lại các chứng khoán để kiếm lời.
NHTM thường đầu tư vào 2 loại chứng khoán chủ yếu có kỳ hạn dài là chứng khoán do chính phủ hay chính quyền địa phương phát hành và chứng khoán do các công ty, xí nghiệp phát hành. Chứng khoán do Nhà nước phát hành có lợi nhuận thấp, song hầu như không có rủi ro do Nhà nước luôn có nguồn đảm bảo khả năng thanh toán lớn nhất là thuế và quyền lực phát hành tiền. Trong khi đó, chứng khoán công ty cho lợi nhuận cao hơn nhưng độ an toàn thấp hơn. Các ngân hàng thường giữ chứng khoán công ty để hưởng thu nhập hàng năm.
- Liên kết liên doanh: Trên thị trường tài chính, các ngân hàng còn thực hiện các mục tiêu chung của mình thông qua hình thức liên doanh liên kết vốn với các xí nghiệp, công ty. Với tư cách là thành viên hùn vốn, NHTM có thể đứng ra mua cổ phiếu cho mình, từ đó trở thành thành viên sáng lập hay góp vốn kinh doanh, đồng thời có thể cử người vào ban quản trị công ty.
1.1.2.4. Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ.
Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các ngân hàng luôn cố gắng mở rộng và ngày càng chú trọng và các dịch vụ tiện ích nhằm thu hút khách hàng. Trong đó, dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là những lĩnh vực dịch vụ ngày càng được các ngân hàng chú trọng cả về quy mô và số lượng, chất lượng.
Dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp nhanh gọn và an toàn. Ngân hàng đã không ngừng cải tiến và ngày càng đưa ra nhiều hình thức thanh toán thuận tiện cho khách hàng như séc, thư tín dụng, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán qua thẻ,…
Không chỉ ngừng lại ở việc cung cấp dịch vụ trong nước, ngày nay ngân hàng đã mở rộng liên kết với các ngân hàng nước ngoài để đáp ứng nhu cầu thanh toán nước ngoài của khách hàng với các phương tiện thanh toán đa dạng và tiện lợi.
Dịch vụ ngân quỹ cũng đang được các ngân hàng chú trọng phát triển. Dịch vụ ngân quỹ của ngân hàng bao gồm dịch vụ thu tiền và phát tiền, nhằm đảm bảo tính thanh khoản và lưu thông tiền trong ngân quỹ của ngân hàng. Dịch vụ thu tiền thực hiện trên cơ sở khách hàng nộp tiền vào ngân hàng, thông thường là khách hàng gửi tiền, trả nợ tiền vay, lãi vay hoặc nộp tiền nhờ thanh toán. Dịch vụ phát tiền ứng với việc lĩnh tiền của khách hàng, thường là các trường hợp rút vốn tiền gửi, lĩnh lãi tiền gửi, nhận tiền vay,…
1.1.2.5. Các hoạt động khác.
Bên cạnh các hoạt động chính, ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng một số dịch vụ khác đi kèm nhằm làm đa dạng hóa các hoạt động của mình và đáp ứng được mọt yêu cầu cần thiết của khách hàng. Một số dịch vụ được ngân hàng cung cấp như:
- Dịch vụ ủy thác: là dịch vụ quản lý tài sản được thực hiện dưới nhiều hình thức và cách sắp xếp khác nhau. Dịch vụ ủy thác có thể được chia làm 3 lĩnh vực chính: việc ấn định tài sản, điều hành dịch vụ ủy thác, giám hộ tài sản và hoạt động của các cơ quan đại diện.
- Dịch vụ tư vấn: là việc ngân hàng dựa vào kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà tư vấn cho khách hàng những lời khuyên tốt nhất, những hiểu biết sâu sắc nhất về các lĩnh vực mà khách hàng yêu cầu.
- Dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo quản lý gửi, nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường chứng khoán: đây là những hoạt động phức tạp và đòi hỏi chuyên môn, vì vậy các ngân hàng thường lập các công ty con hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực này đảm trách.
1.1.3. Hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động quan trọng hàng đầu của các ngân hàng để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. [Rose P.S. (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội]
Theo luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 có ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng Nhà nước.”
Các hình thức cấp tín dụng truyền thống mà ngân hàng cung cấp bao gồm:
1.1.3.1. Hoạt động chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu là công cụ của tín dụng thương mại, là một giấy nợ phát sinh trong quan hệ thương mại, dùng để xác nhận cho người cầm nó một trái quyền ngắn hạn về tiền đối với người thụ lệnh khi giấy nợ đến hạn. Thương phiếu có khả năng chuyển nhượng dễ dàng, có tính đảm bảo cao và khả năng thanh toán tương đối chắc chắn.
Chiết khấu thương phiếu là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn của ngân hàng, trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu những thương phiếu chưa đến hạn thanh toán cho ngân hàng để nhận về một khoản tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức và phí hoa hồng.[ TS. Tô Ngọc Hưng, Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê].
Số tiền ngân hàng trả cho khách hàng được tính như sau:
T =M – [M*i*t + H1 +H2 ]
Trong đó: M: Mệnh giá của thương phiếu
I : Lãi suất chiết khấu
T: Thời hạn chiết khấu
H1: Hoa hồng phí phụ thuộc theo thời gian
H2: Hoa hồng cố định
Ngân hàng đưa ra một số điều kiện đối với thương phiếu như còn thời hạn thanh toán theo qui định của ngân hàng Nhà nước, hợp lệ về mặt hình thức và nội dung, khách hàng phải chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng dưới hình thức kí hậu.
Nghiệp vụ chiết khấu thương phiếu có nhiều ưu điểm:
- Nghiệp vụ chiết khấu ít rủi ro, khả năng thu hồi nợ khá chắc chắn vì đã có thương phiếu đảm bảo.
- Là hình thức tín dụng khá đơn giản, ít phiền phức đối với ngân hàng
- Chiết khấu không làm đóng băng vốn của ngân hàng vì thời hạn chiết khấu thường ngắn, dưới 90 ngày và ngân hàng có thể dễ dàng xin tái chiết khấu thương phiếu ở ngân hàng Trung ương.
- Tiền của khách hàng khi chiết khấu thường được chuyển vào tài khoản tiền gửi của khách hàng bởi vậy nó tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng.
1.1.3.2. Hoạt động cho vay
Theo Rose P.S, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB tài chính, “cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của các ngân hàng, để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và cơ quan chính phủ”. Ngân hàng cung cấp nhiều hình thức cho vay đa dạng, phù hợp với mọi đối tượng khách hàng.
- Cho vay thấu chi. Theo qui chế cho vay 1627 do NHNN Việt Nam ban hành, cho vay theo hạn mức thấu chi là “việc cho vay mà tổ chức tín dụng thỏa thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.”
Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Số tiền lãi mà khách hàng phải trả =lãi suất thấu chi*thời gian thấu chi*số tiền
Đây là hình thức vay tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, chủ động và kịp thời, đồng thời có thủ tục đơn giản, linh hoạt không gây phiền hà nhiều cho khách hàng.
Tuy nhiên, hình thức vay này không có đảm bảo và ngân hàng không kiểm soát được mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng, vì vậy hình thức này chỉ được áp dụng cho những khách hàng quen thuộc và có uy tín.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến đối với các khách hàng không có nhu cầu vay vốn thường xuyên.
Mỗi lần vay, khách hàng và ngân hàng phải làm những thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Nghiệp vụ này tương đối đơn giản và ngân hàng có thể dễ dàng kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay và hạn chế rủi ro do khách hàng phải làm đơn và trình phương án vay.
- Cho vay theo hạn mức: Với hình thức này, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín dụng có thể được tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ và là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Đây là hình thức cho vay thuận tiện với những khách hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh và tốc độ lưu chuyển vốn tín dụng nhanh.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa, ngân hàng cho vay khi doanh nghiệp thiếu vốn khi mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Ngân hàng sẽ yêu cầu doanh nghiệp cam kết sử dụng mọi khoản thu bán hàng để trả nợ trước khi thanh toán cho nhà cung cấp và các khoản phải thu cùng hàng hóa trong kho đều trở thành tài sản đảm bảo cho khoản vay.
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong thời hạn thỏa thuận. Hình thức này nhằm tài trợ khuyến khích tiêu thụ hàng hóa và áp dụng tài trợ cho tài sản cố định và các hàng hóa lâu bền.
- Cho vay gián tiếp: Là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay thông qua các nhóm sản xuất, hợp tác xã,… Các tổ chức trung gian này đứng ra tín chấp cho các thành viên vay vốn hoặc bảo lãnh cho các thành viên, điều này tạo thuận tiện cho những người vay khi họ không có hoặc không đủ tài sản thế chấp.
1.1.3.3. Hoạt động cho thuê tài chính
Cho thuê tài chính thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn, trong đó ngân hàng mua tài sản và cho khách hàng thuê với thời hạn nhất định, sao cho ngân hàng phải thu được gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng thêm một khoản lãi. Theo phương thức này, người thuê được sử dụng tài sản mà mình cần trên cơ sở đi thuê, giúp công ty giảm bớt được chi phí mua mà thay vào đó là chi tiền thuê tài sản hàng kỳ cho ngân hàng.
Cho thuê tài chính có những điểm giống và điểm khác với cho vay truyền thống. Trước hết, ngân hàng xuất tiền với kỳ vọng thu về cả gốc và lãi sau một thời hạn nhất định, cũng như phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không hiệu quả, không trả tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, với hình thức này, tài sản cho thuê vẫn thuộc sở hữu của ngân hàng, do đó ngân hàng có quyền thu hồi nếu việc sử dụng không đúng mục đích. Cho thuê tài chính cũng không có tài sản đảm bảo, đồng thời có những tài sản cho thuê đặc thù đòi hỏi chi phí cao nên rủi ro đối với ngân hàng là khá cao.
1.1.3.4. Hoạt động bảo lãnh
Theo PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Đại học KTQD, “bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết.”
Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín, trong đó ngân hàng chỉ phải xuất tiền khi khách hàng không thực hiện được cam kết. Bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng và khi ngân hàng đứng ra trả nợ thay cho khách hàng, khoản chi trả này được chuyển vào nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như một khoản vay truyền thống và ngân hàng cần phải phân tích khách hàng như khi thực hiện các khoản vay khác.
Bảo lãnh được thực hiện dưới nhiều hình thức, nhưng chủ yếu bao gồm:
- Bảo lãnh bảo đảm tham gia dự thầu: ngân hàng cam kết với chủ đầu tư về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: ngân hàng cam kết về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả tiền ứng trước: ngân hàng cam kết của ngân hàng sẽ trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không hoàn trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay: ngân hàng cam kết với người cho vay về việc hoàn trả gốc và lãi thay nếu khách hàng của ngân hàng không trả được.
- Bảo lãnh bảo đảm thanh toán: ngân hàng cam kết với việc sẽ thanh toán tiền theo hợp đồng thanh toán cho người thụ hường nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
1.2. Rủi ro tín dụng (RRTD) của NHTM
1.2.1. Các loại rủi ro trong hoạt động của NHTM
Rủi ro của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có bản chất chung, đó là khả năng gây ra tổn thất cho ngân hàng. Về cơ bản, hoạt động ngân hàng thương mại thường phải đối mặt với những rủi ro sau:
- Rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến gắn với những thay đổi của lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kì hạn các hợp đồng kì hạn. [PGS.TS Phan Thị Thu Hà, Giáo trình NHTM, NXB Đại học KTQD]
Rủi ro lãi suất xảy ra chủ yếu do 3 nguyên nhân: sự không phù hợp về kỳ hạn của nguồn và tài sản, sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng và nguyên nhân ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng.
- Rủi ro tín dụng.
Rủi ro tín dụng là rủi ro thường gặp nhất trong hoạt động của ngân hàng thương mại, là rủi ro gắn liền với hoạt động quan trọng nhất có quy mô lớn nhất của NHTM. Rủi ro tín dụng phát sinh khi một bên đối tác không thực hiện nghĩa vụ tài chính hoặc nghĩa vụ hợp đồng với ngân hàng, bao gồm cả việc không thanh toán nợ gốc và nợ lãi khi khoản nợ đến hạn. [Theo Wikipedia]
Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong hoạt động của NHTM và được coi như là bạn đường trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Các ngân hàng chỉ có thể kiểm soát đề phòng, hạn chế làm giảm thiệt hại do nó gây ra chứ không thể hoàn toàn tránh khỏi RRTD.
- Rủi ro ngoại hối
Rủi ro ngoại hối là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thu nhập tạm thời. Tuy nhiên, có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
- Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoại dự kiến cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc có thể làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
- Rủi ro khác.
Các loại rủi ro khác có thể bao gồm rủi ro về mặt pháp lý, rủi ro biến động môi trường kinh doanh, khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong chứng từ, hỏa hoạn, lỗi công nghệ,…
1.2.2. Rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.2.1. Khái niệm RRTD
Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với NH, gây tổn thất cho NH, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả nợ gốc và nợ lãi cho NH. [PGS.TS Phan Thị Thu Hà , thongtinphapluatdansu.wordpress.com ] Theo Quyết định 493/2005/ QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN thì rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Nhìn chung, hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chủ yếu của NHTM nên rủi ro tín dụng là loại rủi ro chiếm tỷ lệ lớn, thường xuyên xảy ra và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng là rủi ro phức tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất, nó đòi hỏi nhân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu mới có thể hạn chế, ngăn ngừa bớt rủi ro, giảm tối thiểu những thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.2.2. Ảnh hưởng của RRTD
Khi rủi ro xảy ra, ngân hàng sẽ phải gánh chịu một khoản tổn thất trong lợi nhuận đạt được, thậm chí có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Không dừng lại đó, tác động dây chuyền trong hệ thống ngân hàng có thể dẫn đến những ảnh hưởng xấu đối với hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế.
Ảnh hưởng của RRTD tới hoạt động của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Nền tảng của hoạt động ngân hàng là dùng nguồn vốn huy động được từ các tổ chức, dân cư trong nền kinh tế để tài trợ cho các hoạt động của mình, trong đó cấp tín dụng là một hoạt động chủ yếu. Do đó, khi rủi ro xảy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, nó ảnh hưởng trực tiếp tới nguồn vốn của ngân hàng. Lúc này, ngân hàng sẽ phải bủ tiền ra để trả cho các khoản huy động đã đến hạn, cũng như thu hẹp một số hoạt động khác do khó khăn về nguồn vốn. Đến một giới hạn nào đó, khi ngân hàng không còn đủ khả năng bù đắp cho những thiếu hụt đó thì ngân hàng sẽ đổ vỡ và phá sản. Như vậy, rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng, làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Tín dụng là một hoạt động đóng góp phần lớn vào lợi nhuận của ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra tức là ngân hàng đã không thể thu được lãi của các khoản vay để làm tăng thu nhập cho ngân hàng. Hơn nữa, khi phát sinh các khoản nợ quá hạn, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro từ lợi nhuận sau thuế, phải tốn thời gian và chi phí cho việc thu hồi nợ. Do đó, rủi ro tín dụng ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng.
Là một trung gian tài chính, một trong những chức năng tài chính cơ bản của ngân hàng là huy động vốn trong dân cư và các tổ chức kinh tế để chuyển đến những đối tượng có nhu cầu sử dụng, góp phần lưu thông vốn trong nền kinh tế. Một ngân hàng muốn huy động được nhiều vốn trong nền kinh tế thì cần tạo được sự tín nhiệm của khách hàng. Ngân hàng với nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng cao sẽ đặt ra câu hỏi về năng lực và hiệu quả hoạt động của ngân hàng, cũng như sự an toàn của đồng vốn huy động. Khi đó, các cá nhân, tổ chức sẽ không còn muốn gửi tiền của mình ở ngân hàng đó nữa do lo ngại cho sự an toàn của đồng vốn của mình, điều này sẽ kéo theo nhiều rủi ro không mong muốn khác cho ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến phá sản ngân hàng.
Khi rủi ro tín dụng ở mức độ nhẹ sẽ làm giảm lợi nhuận của ngân hàng, nghiêm trọng hơn, RRTD ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và khi vấn đề không được giải quyết nhanh chóng, ngân hàng có thể đi đến phá sản. Khi RRTD xảy ra liên tiếp khiến ngân hàng không kiểm soát được, các khoản tiền bù đắp sẽ làm giảm tính thanh khoản của ngân hàng, làm giảm dần vốn sở hữu. Trong khi đó, uy tín của ngân hàng giảm sút có thể dẫn tới tình trạng rút tiền ồ ạt, gây ra rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Một ngân hàng mất tính thanh khoản sẽ phải đối mặt với nguy cơ phá sản rất lớn, và kéo theo đó là đe dọa sự ổn định của hệ thống ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.
RRTD ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế.
Ngân hàng là một định chế tài chính quan trọng trong nền kinh tế, đóng góp một phần lớn trong GDP của đất nước. Mặt khác, Chính phủ và NHNN thông qua hệ thống NHTM để thực hiện các chính sách tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ổn định nền kinh tế đất nước. Do vậy một sự sụp đổ trong hệ thống ngân hàng sẽ kéo theo những hệ quả xấu đối với các ngành khác và toàn nền kinh tế.
Khi một ngân hàng gặp khó khăn, nó có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế, gây nên các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Hoạt động tín dụng của ngân hàng dựa trên cơ sở huy động các nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư và của nền kinh tế và sau đó dùng nguồn tiền này để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động vốn nhằm thu lợi nhuận. Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng, khi đó làm người gửi tiền mất lòng tin và họ sẽ đồng loạt rút tiền gửi. Vì vậy ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn, gây mất ổn định trong toàn hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính của quốc gia đó. Nếu một ngân hàng sụp đổ thì khi đó thiếu đi một phần vốn cung cấp cho các doanh nghiệp, cá nhân vay, vì vậy một phần làm nền kinh tế chậm lại. Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi vốn để tiếp tục cho vay. Do đó, RRTD làm giảm khả năng quay vòng vốn của nền kinh tế, giảm khả năng cung cấp vốn và tốc độ lưu chuyển vốn trong nền kinh tế.
RRTD ảnh hưởng tới khách hàng.
Rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới khách hàng, khi mà họ phải đối mặt với nguy cơ mất vốn, mất nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay mất quyền sử dụng những dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Khách hàng của ngân hàng là những đối tượng hết sức đa dạng trong nền kinh tế, từ hộ gia đình, người hưu trí, tổ chức xã hội hay các tổ chức kinh tế. Cho dù là đối tượng khách hàng nào và bất kể loại hình sản phẩm, dịch vụ nào của ngân hàng mà họ đang sử dụng, RRTD xảy đến cho ngân hàng cũng có những ảnh hưởng nhất định đến các đối tượng khách hàng này.
1.2.2.3. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng.
- Chính sách và quy trình tín dụng của ngân hàng còn hạn chế, thiếu chặt chẽ.
Hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại chưa đưa ra một chính sách và quy trình tín dụng chung áp dụng cho toàn hệ thống, do đó dẫn đến chưa có quy trình quản trị rủi ro tín dụng theo qui chuẩn và hữu hiệu. Các ngân hàng chưa trú trọng đến khâu phân tích khách hang ban đầu, dẫn đến công tác xếp loại để tính toán điều kiện và khả năng trả nợ của khách hàng không thật sự chính xác. Bên cạnh đó, việc ngân hàng cho vay dựa trên cảm tính và các mối quan hệ trong trường hợp một số món vay nhỏ cũng là nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Thông tin về khách hàng, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và nền kinh tế không đáng tin cậy, kịp thời và chính xác.
Thông tin là một yếu tố quyết định thành bại trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Ngân hàng có hệ thống thông tin không hiệu quả sẽ không thể nắm bắt kịp thời trạng thái kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng, hay những diễn biến trong nền kinh tế có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng. Như vậy, thiếu thông tin khiến ngân hàng khó có thể xác định một cách chính xác những khách hàng có khả năng tài chính tốt và phương án kinh doanh kinh doanh hiệu quả để cho vay, dẫn đến rủi ro tăng cao khi mà ngân hàng chọn lựa những đối tượng cho vay không đáng tin cậy để thiết lập quan hệ.
Hiện nay hệ thống thông tin của từng ngân hàng hay cả hệ thống đều chưa phát triển. Thông tin của ngân hàng chủ yếu đến từ hệ thống thong tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước và từ phía khách hàng. Những thông tin này không đủ để trợ giúp bộ phận tín dụng đưa ra những quyết định đúng đắn kho quyết định cho vay, dẫn đến rủi ro tín dụng xảy._. ra.
- Các hình thức cấp tín dụng chưa đa dạng, thời hạn tín dụng không thích hợp, tình trạng đáo nợ và giãn nợ không đúng mục đích chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Các ngân hàng có thể có truyền thống và có lợi thế trong một số loại hình cho vay nhất định hay một số nhóm khách hàng nhất định và tập trung phát triển những loại hình cho vay này mà không mở rộng hoạt động cho vay khác. Điều này sẽ tăng nguy cơ của rủi ro tín dụng khi mà nền kinh tế biến động, ảnh hưởng đến một nhóm khách hàng truyền thống của ngân hàng.
Tình trạng đáo nợ và giãn nợ không được kiểm soát sát sao có nguy cơ dẫn đến rủi ro tín dụng rất cao. Những khách hàng phải tiến hành đảo nợ hay giãn nợ thường đã có những vấn đề về tài chính hay hoạt động kinh doanh, nếu những vấn đề đó không được sớm giải quyết thì ngân hàng sẽ phải chịu thiệt hại khi khách hàng mất khả năng thanh toán hay trả nợ.
- Năng lực, phẩm chất của cán bộ tín dụng là một nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro tín dụng.
Chất lượng cán bộ tín dụng yếu kém không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá sai khách hàng, thậm chí cố tính làm sai là một trong những nguyên nhân của rủi ro tín dụng. Cán bộ tín dụng cần có trình độ chuyên môn cao, đồng thời có hiểu biết rộng về các ngành nghề kinh tế cũng như theo kịp diễn biến của thị trường mới có thể đưa ra những quyết định cho vay chính xác. Bên cạnh đó, hiện tượng cán bộ tín dụng cố tình làm sai quy chế, hoặc móc ngoặc với những khách hàng không đủ tiêu chuẩn cũng làm tăng nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân khách quan.
- Từ phía khách hàng.
Có rất nhiều nguyên nhân khiến khách hàng không trả nợ cho ngân hàng đầy đủ và đúng hạn, cố tình hoặc vô tình. Có những khách hàng không trả nợ đúng hạn do trình độ kinh doanh yếu kém, kinh doanh không hiệu quả hoặc do diễn biến bất lợi trong nền kinh tế. Có những khách hàng ngay từ đầu đã có ý lừa gạt,chiếm dụng vốn của ngân hàng hay sử dụng sai mục đích. Có những khách hàng chây ỳ không chịu trả nợ khi đến hạn. Tất cả những nguyên nhân trên đều trực tiếp dẫn đến rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Môi trường kinh tế trong nước và thế giới
Các yếu tố kinh tế như chu kỳ kinh tế, lãi suất thị trường, tỷ giá, tỷ lệ thất nghiệp, lam phát,… có ảnh hưởng gián tiếp đến rủi ro tín dụng. Trong điều kiện môi trường kinh doanh không thuận lợi như thời kỳ khủng hoảng, lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động thất thường hay thời kỳ suy thoái, thất nghiệp tăng cao, người tiêu dung cắt giảm chi tiêu, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp không được thuận lợi, do đó khả năng trả nợ bị suy giảm. Những tác động của môi trường kinh tế có thể ảnh hưởng tới toàn bộ các khách hàng hoặc từng nhóm khách hàng khác nhau.
- Môi trường xã hội.
Phong tục tập quán, thói quen tiêu dung, trình độ văn hóa của khách hàng vay vốn và của người tiêu dùng cũng là một nguyên nhân gây nên rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Tính khả thi của phương án vay mà khách hàng đề xuất chịu ảnh hưởng lớn của phong tục tập quán cũng như thói quen tiêu dùng mà phương án kinh doanh hướng tới. Các yếu tố này có thể thay đổi thất thường, làm sai lệch các tính toán của doanh nghiệp và ngân hàng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh và khả năng thu hồi vốn của khách hàng cũng như ngân hàng.
- Môi trường pháp lí, chính trị.
Trong nền kinh tế mà tình hình chính trị không ổn định, nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của nền kinh tế sẽ gây ra những biến động không đúng theo quy luật kinh tế và những hậu quả không thể lường trước được. Những tổn thất mà nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng phải gánh chịu sẽ mang lại rủi ro cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Một nền kinh tế mở với những quy định thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng và các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung.
1.2.2.4. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng có thể cụ thể hóa thành một số chỉ tiêu để phản ánh và nhận biết rủi ro tín dụng được sớm hơn.
- Đánh giá RRTD thông qua việc phân loại các nhóm nợ.
Theo điều 6, quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ban hành về quy định phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng tín dụng, và khoản 3, điều 1 quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung, các khoản nợ của tổ chức tín dụng phải được phân loại theo 5 nhóm như sau:
a) Nhóm 1( Nợ đủ tiêu chuẩn): bao gồm những khoản nợ trong hạn được đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng hạn; các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và các khoản nợ khác theo quy định.
b) Nhóm 2 ( Nợ cần chú ý) : bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày; các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu được đánh giá là có khả năng thu hồi cả gốc và lãi; và các khoản nợ khác được phân vào nhóm 2 theo quy định.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại theo thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định; và các khoản nợ khác được phân vào nhóm 3 theo quy định.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ): bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại theo thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 và các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định.
e) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn): bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn trên 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 3 trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lí; và các khoản nợ được phân vào nhóm 5 theo quy định.
Như vậy, quyết định 18 được ban hành đã bổ sung, sửa đổi làm rõ hơn các quy định phân loại nợ của quyết định 493. Theo đó, nợ quá hạn dưới 90 ngày được phân chia vào cả nhóm 1 và nhóm 2, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ có thể được phân vào cả nhóm 2 và nhóm 3 thay vì chỉ xếp vào nhóm 2 như quyết định 493. Tương tự, nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 90 ngày được xếp vào nhóm nợ cao hơn so với quyết định 493. Như vậy. quyết định 18 đã thắt chặt quy định về việc phân loại các nhóm nợ, đặc biệt đối với nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Quyết định 18 cũng hướng dẫn chi tiết hơn việc xếp hạng nợ đối với các khoản nợ cơ cấu lại lần thứ 2 và thứ 3.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn
Theo khoản 5, điều 2 quyết định 493 của ngân hàng Nhà nước ban hành: nợ quá hạn là các khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn so với thời hạn trên hợp đồng tín dụng. Khi một khoản nợ không trả được vào kỳ hạn, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn= Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ *100%
Chỉ tiêu này thường được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thông thường, khi tỷ lệ nợ quá hạn ở mức dưới 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng được coi là bình thường. Tỷ lệ này lên tới trên 5% đồng nghĩa với dự đoán hoạt động kinh doanh của ngân hàng đang yếu kém, thu nhập bị ảnh hưởng và có khả năng gặp rủi ro tín dụng cao.
- Chỉ tiêu nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi
Nợ xấu, hay còn gọi là nợ khó đòi, là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 theo quy định tại quyết định 493 và quyết định sửa đổi bổ sung số 18. Nhìn chung, nợ khó đòi là các khoản nợ quá hạn kèm theo một số tiêu chí khác như nợ quá hạn theo thời hạn đã cơ cấu lại, không có tài sản đảm bảo, tài sản không bán được,…
Tỷ lệ nợ khó đòi= Nợ khó đòi/Tổng dư nợ *100%
Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu lại tiền của ngân hàng đã trở nên mong manh. Khi xảy ra tình trạng nợ khó đòi cao thì ngoải khả năng mất vốn, thiệt hại trước mắt là ngân hàng đã bị giảm thu nhập. Tỷ lệ nợ khó đòi càng lớn thì khả năng xảy ra rủi ro của ngân hàng càng cao.
- Dự phòng rủi ro.
Theo khoản 2, điều 2 quyết định 493 qui định: “Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và được hạch toán vào chi phí tín dụng của tổ chức tín dụng.” Lượng trích dự phòng phản ánh chi phí vốn mà ngân hàng phải bỏ ra vì lượng trích dự phòng này ngân hàng phải dự trữ mà không được sử dụng để quay vòng vốn. Lượng trích dự phòng cao đồng nghĩa với chi phí vốn ngân hàng bỏ ra càng lớn, đây là điều mà ngân hàng không mong muốn.
Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung.
Theo mục 4, khoản 3, điều 1, quyết định 18, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với 5 nhóm nợ được quy định như sau: Trích lập 0% cho nợ nhóm 1, trích lập 5% cho nợ nhóm 2, trích lập 20% cho nợ nhóm 3, trích lập 50% cho nợ nhóm 4 và trích lập 10% cho nợ nhóm 5. Cũng theo khoản 4 điều 1 quyết định 18, số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức:
R= max {0.(A-C)} * r
Trong đó: R là số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A là số dư nợ gốc của khoản nợ
C là giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo
r là tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Ngoài ra, theo điều 9, mục 2 quyết định 493, tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0.75% tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo quy định.
Tỷ lệ trích dự phòng= Trị giá dự phòng/Tổng dư nợ * 100%
- Lãi treo và tỷ lệ lãi treo
Lãi treo là các khoản lãi mà khách hàng khi đến hạn trả lãi mà không trả được hoặc không trả đủ. Lãi treo làm giảm thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng.
Tỷ lệ lãi treo= Lãi treo phát sinh/ Tổng thu nhập *100%
Tỷ lệ này càng lớn thì càng thể hiện ngân hàng bị giảm thu nhập nhiều, bởi vậy, giống như các chỉ tiêu đã đề cập phía trên, tỷ lệ này đối với ngân hàng càng thấp càng tốt.
- Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh các chỉ tiêu định tính như trên, còn có nhiều chỉ tiêu khác, cả chỉ tiêu định tính và định lượng có thể được sử dụng để đánh giá rủi ro tín dụng của một ngân hàng. Đó là những chỉ tiêu như hiệu suất sử dụng vốn, tính đa dạng hóa của tài sản, tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của các phương án vay, mô hình xếp hạng tín dụng khách hàng, quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng, môi trường kinh tế, tài chính nói chung và diễn biến từng môi trường kinh doanh,…
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.3.1. Các nhân tố chủ quan
1.3.1.1. Chính sách tín dụng và quy trình cấp tín dụng
Hoạt động tín dụng liên quan tới nhiều bộ phận trọng ngân hàng, đòi hỏi phải có sự kết hợp và chỉ đạo chung thông qua các chính sách, qui tắc và sự kiểm soát chung. Một chính sách tín dụng tốt phải thể hiện được chiến lược cho vay của ngân hàng trong một giai đoạn cụ thể, là cơ sở hình thành nên thủ tục cho vay. Chính sách tín dụng cần vạch ra phương hướng hoạt động và một khung tham chiếu rõ ràng, làm căn cứ để xem xét nhu cầu vay vốn của khách hàng. Mặt khác, chính sách tín dụng cũng không nên quy định quá chặt chẽ sẽ bóp nghẹt tính sang tạo của cán bộ tín dụng. Do vậy, việc đề ra một chính sách tín dụng phù hợp là hết sức cần thiết, và đó là nền tảng cho hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Qui trình cấp tín dụng là do Ban giám đốc ngân hàng quyết định, được xây dựng một cách chi tiết và quán triệt xuống từng chi nhánh ngân hàng, từng cán bộ ngân hàng. Qui trình phân tích tín dụng cần thể hiện những nội dung mà cán bộ tín dụng phải thực hiện khi cho vay nhằm hạn chế rui ro như phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, thẩm định dự án, thẩm định tài sản đảm bảo, lịch sử của người đi vay, mục đích vay, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn vay,…Áp dụng một quy trình tín dụng chặt chẽ và được tuân thủ nghiêm ngặt sẽ giúp ngân hàng ra các quyết định cấp tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian chi phí, và đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh của ngân hàng, giảm thiểu những rủi ro không mong muốn.
1.3.1.2. Công tác quản lí trong nội bộ ngân hàng
Các bộ phận trong hoạt động tín dụng hoạt động khá độc lập và thực hiện các chức năng khác nhau: chức năng kinh doanh, chức năng quản lý rủi ro và chức năng tác nghiệp. Nhưng điều đó không có nghĩa là các chức năng đó được thực hiện riêng rẽ, mà trên thực tế các chức năng đó có quan hệ mật thiết với nhau, có tác động qua lại lẫn nhau. Nếu sự phối hợp giữa các chức năng này càng chặt chẽ thì càng tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ quản lý rủi ro trong việc thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và kịp thời nhất. Từ đó họ sẽ đưa ra được những quyết định xử lý chính xác, góp phần hạn chế rủi ro tín dụng. Do đó, công tác quản lí từ phía ban lãnh đạo là hết sức quan trọng để đạt được sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả trong nội bộ ngân hàng nhằm thực hiện các nghiệp vụ nhanh chóng và an toàn.
Công tác quản lí trong bộ phận tín dụng cần linh hoạt, thích ứng theo từng thời kì và có hình thức quản lí khoản tín dụng chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó, đa dạng hóa các loại hình tín dụng và mộ nhân tố giúp ngân hàng phân tán rủi ro. Ngân hàng không nên tập trung cấp tín dụng cho một đối tượng khách hàng, một ngành nghề, một thị trường mà nên cố gắng đa dạng hóa, cung cấp nhiều hình thức tín dụng phù hợp với nhiều đối tượng khách hàng trên cơ sở một số nhóm khách hàng và một số thị trường mục tiêu. Việc tập trung các khoản nợ vào một nhóm khách hàng hay một thị trường sẽ dẫn đến nguy cơ cao cho ngân hàng khi có những biến động trong thị trường ngành nghề đó.
1.3.1.3. Chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng
Đây là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến khả năng quản lý rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng của NHTM. Liên quan đến yếu tố con người có hai nhân tố chính tác động đến khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng là trình độ và tư cách đạo đức.Dù cho nguồn thông tin thu thập được có chính xác và đầy đủ đến đâu, công nghệ ngân hàng hiện đại như thế nào nhưng người sử dụng chúng không có trình độ thì rất khó để có thể đưa ra được những quyết định đúng đắn. Cán bộ tín dụng ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, còn cần có những hiểu biết rộng về các ngành nghề trong xã hội và cập nhật những diễn biến trong nền kinh tế. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có kinh nghiệm dày dạn và sự linh hoạt, nhay bén khi thực hiện nghiệp vụ. Bên cạnh đó, tư cách đạo đức của cán bộ quản lý cũng rất quan trọng. Một người cán bộ trung thực, không tham lam, làm việc vì ngân hàng sẽ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng.
1.3.1.4. Hệ thống thông tin
Cán bộ tín dụng đưa ra quyết định cho vay chủ yếu dựa trên nguồn thông tin đầu vào họ thu thập được. Do vậy, nếu thông tin thu thập được chính xác và đáng tin cậy thì giúp cho cán bộ tín dụng đưa ra được quyết định cho vay đúng đắn từ đó giúp hạn chế rủi ro tín dụng, và ngược lại.
Nguồn chủ yếu cho cán bộ tín dụng khai thác thường là từ hệ trung tâm thông tin liên ngân hàng, từ báo cáo tài chính, tài liệu do khách hàng cung cấp; ngoài ra họ còn tự thu thập từ internet, các mối quan hệ bên ngoài…Hệ thống thông tin do ngân hàng Nhà nước Việt nam cung cấp hỗ trợ các ngân hàng về tình hình tín dụng của khách hàng trên toàn hệ thống liên ngân hàng. Đây là một kênh thông tin giúp các ngân hàng có thể kiểm tra đánh giá khách hàng đầy đủ hơn nhằm đưa ra các quyết định cấp tín dụng đúng về hạn mức cho vay và thời hạn tín dụng, cách thu hồi nợ nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Kênh thông tin này cũng giúp cho ngân hàng có thông tin chính xác hơn về các khách hàng lần đầu tiên đến với ngân hàng.
1.3.2. Các nhân tố khách quan
1.3.2.1. Môi trường kinh tế, chính trị
Môi trường kinh tế, chính trị ổn định là yếu tố nền tảng cho sự phát triển và hoạt động làm ăn hiệu quả của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung và ngân hàng nói riêng. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, do đó hoạt động của nó phụ thuộc rất nhiều vào nền kinh tế và môi trường tài chính trong và ngoài nước. Nền kinh tế đang trên đà đi lên với một thị trường tài chính lành mạnh sẽ trợ giúp các ngân hàn hoạt động hiệu quả, hạn chế được rủi ro khi mà các khách hàng của ngân hàng cũng có điều kiện kinh doanh thuận lợi.Một xã hội ngày càng ổn định, dân trí cao, đội ngũ nhân viên với trình độ lành nghề, trình độ quản lý cao và hiểu biết về khách hàng sẽ giúp hạn chế những rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng nói chung và với hoạt động tín dụng nói riêng.
1.3.2.2. Môi trường luật pháp và các chính sách của Nhà nước.
Hệ thống pháp luật và các chính sách quy định chặt chẽ, phù hợp và cơ sở để các doanh nghiệp và ngân hàng hoạt động, phát triển theo đúng quy định. Đặc biệt ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động của các doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi trong nước mà còn tham gia kinh doanh với các đối tác nước ngoài, không chỉ kinh doanh những ngành nghề truyền thống mà ngày càng phong phú đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường.Vì vậy, chính sách và các quy định của Nhà nước càng đòi hỏi chặt chẽ và mở rộng hơn nữa, đi sâu vào từng ngành nghề, từng lĩnh vực, đưa ra những quy định về cách thức hoạt động. Điều này không những giúp các doanh nghiệp có định hướng đúng, tuân thủ pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh mà nó qui định trách nhiệm của doanh nghiệp với chính phủ và các đối tác của mình.
1.3.2.3. Trình độ quản lý và phương án vay của khách hàng.
Những khoản tín dụng được cấp cho những khách hàng có khả năng quản lý tốt sẽ đảm bảo cho khả năng thu hồi vốn của ngân hàng, hạn chế rủi ro tín dụng. Những phương án vay tốt với điều kiện khả thi, tính toán các yếu tố hợp lý là một trong những điều kiện đầu tiên để khách hàng có thể được vay vốn tại ngân hàng. Tuy nhiên, phương án vay hợp lý không phải là yếu tố đảm bảo chắc chắn cho thành công của phương án kinh doanh, để đồng vốn đầu tư của chủ đầu tư và của ngân hàng được sử dụng hiệu quả và sinh lời còn cần đến trình độ quản lý của người thực hiện dự án. Đây là yếu tố quan trọng, đóng vai trò quan trọng giúp khách hàng trả nợ cho ngân hàng. Nếu như người đi vay không có khả năng quản lý việc sử dụng vốn cho đúng mục đích và hiệu quả, khả năng thu hồi vốn của ngân hàng sẽ rất khó khăn khi mà bản thân người vay cũng gặp khó khăn, đặc biệt đối với các khách hàng là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh.
1.3.2.4. Ý thức trách nhiệm của khách hàng.
Yếu tố này có ảnh hưởng đáng kể tới khả năng hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Ý thức của khách hàng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng ngay từ khâu thẩm định, khi mà khách hàng có thể cố tình khai tăng nhu cầu vốn để được vay nhiều hơn, lập báo cáo tài chính giả về khả năng tài chính của mình, khai tăng giá trị tài sản đảm bảo,… để chiếm dụng vốn của ngân hàng. Trong quá trình sử dụng vốn vay, ý thức của khách hàng là hết sức quan trọng trong việc quản lí, sử dụng đồng vốn đúng với mục đích và hiệu quả, giúp đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Có những khách hàng cố tính chiếm dụng vốn, khi đến hạn vẫn chây ỳ không thanh toán nợ gốc hoặc nợ lãi sẽ khiến ngân hàng đối mặt với rủi ro tín dụng. Vì vậy, ý thức trách nhiệm của khách hàng là một yếu tố quan trọng giúp ngân hàng phòng tránh được rủi ro tín dụng.
CHƯƠNG 2THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH HDB HÀ NỘI
2.1. Tổng quan về chi nhánh HDB Hà Nội
2.1.1. Lịch sử hình thành phát triển và cơ cấu tổ chức của HDB Hà Nội
2.1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển.
Ngày 04/01/1990 Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà TP. Hồ Chí Minh (HDBank) được thành lập. Là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên của cả nước với vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng, HDBank có chức năng thực hiện kinh doanh tổng hợp, đa dạng trong lĩnh vực nhà ở; kinh doanh tiền tệ, tín dụng thông qua việc đầu tư vốn, cung ứng tín dụng và dịch vụ nhà; tập trung huy động vốn và quản lý tất cả các nguồn vốn để phục vụ chương trình phát triển nhà ở và chỉnh trang đô thị; tư vấn cho Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh về chương trình, kế hoạch phát triển nhà và chỉnh trang đô thị.
Chi nhánh Hà Hội là đơn vị hạch toán phụ thuộc của ngân hàng TMCP phát triển nhà tp HCM được thành lập theo quyết định số 1300 QĐ- NHNN ngày 27/06/2006 của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có con dấu và có nhiệm vụ thực hiện các hoạt động theo quy định của ngân hàng. Chi nhánh Hà Nội được đặt tại số 91B Nguyễn Thái Học, phường Điện Biên, quận Ba Đình Hà Nội. Chi nhánh Hà Nội được thành lập nhằm cung cấp các dịch vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và dịch vụ khác, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hoạt động kinh doanh và yêu cầu mở rộng mạng lưới chi nhánh của HD Bank tại các tỉnh, thành phố ngoài địa bàn tp HCM, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp các dịch vụ của HD Bank đến khách hàng.
Đến thời điểm 30/12/2007, chi nhánh Hà Nội có 3 chi nhánh trực thuộc bao gồm: Phòng giao dịch Đống Đa, phòng GD Hoàn Kiếm, phòng GD Hoàn Kiếm. Qua quá trình mở rộng hoạt động của chi nhánh, trong năm 2008, chi nhánh Hà Nội mở thêm các phòng giao dịch Hồng Hà, PGD Hai Bà Trưng, PGD Thái Thịnh, PGD Trung Hòa, PGD Hà Đông và PGD Tây Đô.
Trong quá trình mở rộng hoạt động của ngân hàng, giữa năm 2008, PGD Hoàn Kiếm và PGD Cầu Giấy được nâng cấp thành chi nhánh độc lập và phân bổ quản lý các PGD. Đến thời điểm hiện tại, chi nhánh Hà Nội quản lý 3 phòng GD trực thuộc là PGD Đống Đa, PGD Hồng Hà và PGD Hai Bà Trưng.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức
Đến thời điểm hiện nay, chi nhánh HDB Hà Nội chia thành 4 địa điểm kinh doanh, do Ban giám đốc trực tiếp điều hành và quản lý
Phòng kế toán ngân quĩ , tin học
BAN GIÁM ĐỐC
Phòng kế hoạch, nguồn vốn
Phòng kinh doanh dịch vụ
Phòng thanh toán quốc tế
Phòng hành chính
Ban kiểm tra, kiểm toán nội bộ
Phòng Giao dịch Đống Đa
Phòng Giao dịch Hồng Hà
Phòng Giao dịch Hai Bà Trưng
Các phòng ban có các chức năng cụ thể như sau:
- Ban lãnh đạo
Giám đốc chi nhánh điều hành mọi hoạt động của Ban giám đốc, Giám đốc chi nhánh thục hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật và ngân hàng cấp trên và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
Phó giám đốc là người cố vấn tham mưu trợ giúp Giám đốc trong quá trình quản lý điều hành hoạt động kinh doanh, trong phạm vi cho phép được sự ủy nhiệm của Giám đốc. Phó giám đốc có quyền thay mặt Giám đốc ra quyết định và chịu trách nhiệm pháp lý trước các quyết định đó.
Ngoài ra trong Ban lãnh đạo Chi nhánh có các trưởng phòng,ban, phó phòng, ban do Tổng giám đốc quyết định bổ nhiệm, với quyền hạn do Giám đôc chi nhánh Hà Nội quyết định dựa trên qui định của HDB.
- Phòng kinh doanh và dịch vụ
Trực tiếp thực hiện nghiệp vụ tín dụng theo phạm vi phân công đúng pháp quy và các quy trình tín dụng: tiếp thị, tìm kiếm khách hàng, dự án, giới thiệu sản phẩm, phân tích thông tin, nhận hồ sơ, xem xét quyết định cho vay, bảo lãnh, hoàn thiện hồ sơ giải ngân và quản lý giải ngân, quản lý kiểm tra sử dụng các khoản vay, theo dõi thu đủ nợ, thu đủ lãi, đến khi tất toán hợp đồng tín dụng với mỗi khách hàng.
Thực hiện chiết khấu cho vay cầm cố chứng từ có giá
Chịu trách nhiệm marketing tín dụng, tư vấn cho khách hàng sử dụng sản phẩm tín dụng, danh mục về các vấn đề liên quan
Quản lý hồ sơ tín dụng theo quy định tổng hợp phân tích, quản lý thông tin và lập các báo cáo về công tác tín dụng. Thực hiện yêu cầu quản lý tín dụng, rủi ro tín dụng của Chi nhánh theo quy định.
Nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng.
- Phòng kế hoạch và nguồn vốn
Tổ chức và điều hành tài sản nợ, tài sản có bằng tiền của chi nhánh để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả, an toàn đúng pháp luật.
Đảm bảo cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn an toàn, tích cực, bảo đảm khả năng thanh toán, tránh rủi ro kỳ hạn, rủi ro lãi suất, các loại rủi ro nguồn vốn khác.
Chủ trì xây dựng các quy trình nghiệp vụ trong công tác điều hành nguồn vốn, tham gia xây dựng quy trình các hoạt động nghiệp vụ khác.
Thức hiện cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn, thực hiện trích quỹ bảo lãnh, quỹ dự phòng rủi ro tín dụng theo quy định của NHNN và HD Bank.
- Phòng kế toán- ngân quỹ- tin học
Quản lý kế toán, tổ chức thực hiện tổ chức và chỉ đạo việc hạch toán kế toán, phản ánh chính xác trung thực kịp thời, đầy đủ toàn bộ tài sản, nguồn vốn và phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Quản lý tài chính, quản lý các loại vốn, quỹ công nợ
Trực tiếp nhận tiền gửi của tổ chức kinh tế, huy động vốn dân cư, thực hiện nghiệp vụ tín dụng và một số loại dịch vụ ngân hàng theo sự phân công của Ban giám đốc.
Thực hiện các dịch vụ như dịch vụ chuyển tiền, thanh toán thẻ, thu đổi ngoại tệ, thu đổi tiền mặt, ngân quỹ
- Phòng thanh toán quốc tế
Thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh, riêng việc chuyển tiền ra nước ngoài sẽ được thực hiện tại trụ sở chính của HDB tại thành phố HCM
Dịch thuật các chứng từ, tài liệu có liên quan đến lĩnh vực thanh toán quốc tế cho ngân hàng và khách hàng.
- Phòng hành chính
Thực hiện công tác hành chính quản trị
Thực hiện các mặt tổ chức cán bộ, quản lý lao động, chính sách tiền lương, thưởng, bảo hiểm
Tham gia đào tạo cán bộ, huấn luyện, nâng cao tay nghề cho cán bộ công nhân viên, thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, kỳ luật,…
Tham gia thực hiện phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiên côgn tác hành chính, quản trị, bảo vệ, hậu cần, phục vụ các mặt hoạt động của chi nhánh.
- Ban kiểm tra kiểm soát nội bộ
2.1.2. Khái quát tình hình hoạt động của HDB Hà Nội
2.1.2.1. Hoạt động tín dụng tại HDB Hà Nội
Hoạt động cho vay:
Bảng 2.1.CƠ CẤU DƯ NỢ THEO LOẠI HÌNH TÍN DỤNGTẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006 (6 tháng cuối năm)
Năm 2007
Năm 2008
Số tiền (triệu đ)
Tỷ trọng %
Số tiền (triệu đ)
Tỷ trọng %
Số tiền (triệu đ)
Tỷ trọng %
1.
Vay CK GTCG
75,764
57,16
1,510,932
66.27
381,262
23.46
2.
Vay bổ sung VLĐ
24,786
18.7
308,251
13.52
674,602
41.51
3
Vay XNK
14,103
10.64
199,724
8.76
261,163
16.07
4
Vay khác
17,894
13.5
261,056
11.45
308,130
18.96
Tổng dư nợ
132,548
100
2,279,964
100
1,625,156
100
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tình hình dư nợ chi nhánh HDB Hà Nội.
Bảng tổng hợp trên cho thấy những biến động đáng kể trong hoạt động cho vay của chi nhánh trong giai đoạn 2006-2007. Sau nửa cuối năm 2006 chi nhánh mới đi vào hoạt động với nhiều trở ngại, đến năm 2007 tổng dư nợ tại chi nhánh đã tăng vọt lên 2,279,964 triệu đồng. Như vậy, chi nhánh đã rất nhanh chóng thích ứng với môi trường địa bàn và xây dựng được mối quan hệ khách hàng trong một thời gian ngắn. Thời gian này chi nhánh có thuận lợi từ phía môi trường kinh doanh, do năm 2007 là năm mà các hoạt động tài chính diễn ra mạnh mẽ. Tuy nhiên, đến năm 2008, khi mà môi trường kinh doanh xấu đi thì chi nhánh lại không kịp điều chỉnh thích ứng, dẫn đến xu hướng giảm dư nợ đáng kể. Dư nợ năm 2008 còn 1,625,156 triệu đồng, giảm khoảng 30% so với thời kì 2007.
Đặc điểm của hoạt động tín dụng chi nhánh HDB Hà Nội là trong cơ cấu tín dụng của chi nhánh, hoạt động cho vay chiết khấu chứng từ có giá chiếm tỷ trọng rất lớn so với loại hình cho vay truyền thống của ngân hàng. Đặc điểm này xuất phát từ thực tế thời gian hoạt động của chi nhánh là chưa lâu, bắt đầu từ tháng 6 năm 2008, hơn nữa chi nhánh Hà Nội là một trong những chi nhánh đầu tiên của HDB tại Hà Nội. Điều này khiến cho chi nhánh bị hạn chế về nhiều mặt, bao gồm quan hệ khách hàng, uy tín, thông tin khách hàng,… Trong những điều kiện không thuận lợi đó, chi nhánh đã lựa chọn tập trung phát triển loại hình cho vay chiết khấu, vốn là loại hình cho vay khá an toàn để dần dần tạo chỗ đứng trên địa bàn, tạo dựng mối quan hệ mà vẫn hạn chế được rủi ro.Tuy nhiên, hướng đi này khiến cho ngân hàng bị hạn chế về khả năng đa dạng hóa sản phẩm cho vay và đối tượng khách hàng.
Tình hình sử dụng vốn và đóng góp thu nhập của hoạt động tín dụng:
Trong năm 2007, các hoạt động chiếm dụng nguồn vốn chủ yếu tại HDB Hà Nội là dư nợ chiếm 51.33% tổng tài sản và đầu tư chứng khoán chiếm 25.44%. Trong khi đó, thu thuần từ hoạt động tín dụng là 2,782 triệu, chỉ chiếm khoảng gần 10% tổng thu nhập, trong đó thu lãi từ đầu tư chứng khoán là 87,776 triệu. Một hoạt động đáng chú ý đem lại nguồn thu lớn cho chi nhánh là hoạt động dịch vụ, đặc biệt là nghiệp vụ chiết khấu. Như đã phân tích, hoạt động chiết khấu của ngân hàng chiếm hơn 50% tổng dư nợ, do đó ngoài lãi suất còn đem lại phí hoa hồng đáng kể cho chi nhánh. Thu thuần từ hoạt động dịch vụ năm 2007 là 32,060 triệu, chiếm tới 90% tổng thu của chi nhánh, trong đó thu từ nghiệp vụ chiết khấu chiếm tới hơn 90% tổng thu hoạt động dịch vụ.
Tuy nhiên, đến năm 2008, do hoạt động tín dụng thu hẹp và chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng bởi môi trường kinh doanh tiêu cực, thu thuần từ hoạt động tín dụng giảm đáng kể. Thu và chi cho lãi năm 2008 giảm nhẹ, khoảng 15%, tuy nhiên thu thuần từ hoạt động tín dụng cũng giảm. Năm 2008, thu thuần từ hoạt động tín dụng là 2,098 triệu. Thu từ tín dụng giảm có một phần nguyên nhân từ việc thu hẹp hoạt động tín dụng của chi nhánh, cũng như tỷ lệ nợ xấu và nợ quá hạn tăng đáng kể. Ngoài ra, năm 2008 thu từ hoạt động dịch vụ cũng giảm đáng kể. Nhìn vào cơ cấu nợ năm 2008, ta nhận thấy một thay đổi lớn trong cơ cấu nợ, tỷ trọng cho vay chiết khấu, một hoạt động mang lại nguồn thu phí cho ngân hàng giảm đáng kể.
2.1.2.2. Hoạt động huy động vốn tại HDB Hà Nội
Tình hình huy động vốn theo loại hình huy động
Bảng 2.2.TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TẠI HDB HÀ NỘI GĐ 2006-2008
Đơn vị: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006(6 tháng cuối năm)
Năm 2007
Năm 2008
Tổng số
Tỷ trọng %
Tổng số
Tỷ trọng %
Tổng số
Tỷ trọng %
1
Tiền gửi
271,525
96.67
3,859,857
97.81
3,103,384
98
2
Tiền vay
4,585
1.63
68,863
1.74
47,184
1,49
3
Phát hành GT CG
0
0
0
0
0
0
4
Tiền ký quỹ
4,776
1.7
17,561
0.45
14,250
0.45
Tổng số
280,886
100
3,946,281
100
3,166,718
100
Nguồn: Bảng ._. cáo tài chính không minh bạch.
Báo cáo tài chính không minh bạch là nguyên nhân gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định tình hình tài chính cảu khách hàng. Khi thẩm định dự án, cán bộ tín dụng thường phân tích đánh giá khách hàng thông qua báo cáo tài chính của khách hàng, song trên thực tế các báo cáo này đã bị chỉnh sửa và không qua kiểm toán. Do vậy, độ chính xác của những báo cáo này thường không cao, không thể tin cậy và do đó, gây khó khăn cho cán bộ tín dụng trong việc thẩm định, phân tích tình hình tài chính và đưa ra quyết định đối với các khoản vay của khách hàng.
CHƯƠNG 3GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DUNG TẠI CHI NHÁNH HDB HÀ NỘI
3.1. Định hướng phát triển của chi nhánh về hoạt động tín dụng
Chi nhánh chủ trương tiếp tục thay đổi cơ cấu đầu tơ, mở rộng thị trường hoạt động tín dụng tới nhiều lính vực trân cơ sở giữ vững thị phàn ban đầu trên địa bàn hoạt động. Chi nhánh sẽ tạp trung tiếp cận khách hàng, đa dạng hóa đối tượng khách hàng, bên cạnh tập trung cho vay các doanh nghiệp chỏ và vừa, các cá nhân, hộ sản xuất có thu nhập ổn định. Đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng,. cho vay gắn liền với các duchj vụ tiện ích của ngân hàng như chuyển khoản, thanh toán, phát hành thẻ tín dụng. dịch vụ ngân hàng điện từ,…
Chi nhánh xác định đẩy mạnh tăng cường công tác tài trợ dự án, tăng cường xử lý nợ bằng đồng tài trợ, quan tâm hơn đến vị thế và vai trò của chi nhánh trên địa bàn, có những biện pháp kiên quyết và hữu hiệu nhằm cải thiện chất lượng tín dụng.
Đề phòng, hạn chế và ngăn ngừa RRTD, hình thành khuôn khổ pháp lý đồng bộ trong toàn hệ thống, áp dụng các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Từng bước nâng cao trình độ cán bộ tín dụng vả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập trong thời gian tới. Nâng cao kĩ năng thẩm định, đặc biệt coi trọng công tác phân tích đánh giá của cán bộ tín dụng về khách hàng.
3.2. Giải pháp hạn chế RRTD tại chi nhánh
3.2.1. Đưa ra chính sách tín dụng và chiến lược khách hàng phù hợp
Chiến lược khách hàng phù hợp cho từng đối tượng sẽ thu hút được đông đảo khách hàng đến với ngân hàng, nhờ đó giúp ngân hàng có nhiều sự lựa chọn hơn trong quá trình cho vay, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Khách hàng là những người trực tiếp sử dụng sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng, do đó chiến lược khách hàng phù hợp có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đặc biệt, thu hút được những cá nhân, tổ chức có uy tín, năng lực kinh doanh, có đầy đủ tư cách pháp nhân, có phương án kinh doanh tốt, đa dạng ngành nghề, năng lực tài chính tốt là một mục tiêu quan trọng của chi nhánh. Vì vậy, ngân hàng cần đẩy mạnh công tác khách hàng, cụ thể là thực hiện những công tác sau:
- Tích cực áp dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với khách hàng. Thực hiện chính sách ưu đãi về phí lãi suất và tiếp tục đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, tuyên truyền sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
- Thường xuyên theo dõi diễn biến thị trường tài chính tiền tệ, tình hình lãi suất, mức thu phí của các ngân hàng trên địa bàn để đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt với mức phí phù hợp, nhằm giữ vững mối quan hệ với những khách hàng truyền thống và thu hút những khách hàng tiềm năng.
- Chủ động và tích cực tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cho vay dự án theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố, đồng thời luôn quan tâm duy trì và củng cố mạng lưới khách hàng truyền thống.
- Cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng. Mối quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng là mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại cùng phát triển, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, khách hàng tiến hành kinh doanh tốt, đạt hiệu quả và lợi nhuận cao thì khả năng thanh toán của khách hàng được đảm bảo và hạn chế nguy cơ RRTD của ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần đưa ra lời khuyên cho khách hàng về các bạn hàng, các lĩnh vực hiện đang đầu tư có hiệu quả, về công nghệ,… để khách hàng có định hướng phát triển và giảm thiểu rủi ro.
- Cán bộ tín dụng cần thường xuyên liên lạc với doanh nghiệp để thu thập thông tin về quá trình SXKD của khách hàng, qua đó có thể tư vấn cho khách hàng về những thay đổi trong phương án sản xuất, về quản lí tài chính doanh nghiệp hay quy mô hoạt động để phù hợp với tình hình thực tiễn, giảm thiểu rủi ro cho cả khách hàng lẫn bản thân chi nhánh.
3.2.2. Tăng cường công tác thẩm định dự án
Thẩm định dự án là một công tác hết sức quan trọng, là một trong những khâu quan trọng nhất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng thẩm định, để ngân hàng có thể xác định được những khoản vay tương đối an toàn.
Nhóm các giải pháp về tổ chức điều hành của ngân hàng đối với hoạt động thẩm định dự án bao gồm 2 bước cơ bản. Thứ nhất, chi nhánh nên chú trọng tới nhóm giải pháp về tổ chức điều hành để có thể thực hiện tốt quá trình chuyên môn hóa hoạt động thẩm định các dự án cho vay. Thứ hai, chi nhánh cần xây dựng một quy trình thẩm định chặt chẽ và đào tạo các cán bộ thẩm định và cán bộ tín dụng thực hiện.
Cụ thể, các dự án có quy mô, lính vực kinh doanh, sản xuất khác nhau nên việc phân bổ nhiệm vụ của cán bộ cần dựa trên năng lực của từng cán bộ, đồng thời có sự kết hợp chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình thực hiện của mỗi người, nhằm đạt được kết quả tương đối chính xác trong quá trình thực hiện. Những quy định chi tiết, cụ thể về trách nhiệm của từng cán bộ đối với kết quả thẩm định dự án đầu tư, tách bạch bộ phận thẩm định khỏi bộ phận tín dụng cần được đưa ra. Chi nhánh nên thành lập một phòng ban chuyên môn về công tác thẩm định, hoạt động độc lập nhưng vẫn có sự kết hợp chặt chẽ với bộ phận kinh doanh của ngân hàng.
Chi nhánh cũng nên hình thành mối quan hệ về thẩm định với các chi nhánh HDB khác và các ngân hàng khác để có thể nắm bắt được các thông tin thuận lợi, nhanh nhạy và chính xác. Như vậy, các chi nhánh, các ngân hàng có thể cùng giám sát được một khách hàng và có điều kiện để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình thẩm định dự án.
3.2.3. Mở rộng mạng lưới thông tin
Hệ thống thông tin tín dụng góp phần đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng khốc liệt và thị trường tài chính diễn biến phức tạp như hiện nay, để đối phó với tình trạng nợ quá hạn của khách hàng, các ngân hàng cần có một hệ thống thông tin tín dụng đảm bảo cung cấp cho ngân hàng các thông tin cần thiết về khách hàng một cách chính xác, kịp thời và đầy đủ nhất giúp ngân hàng phòng ngừa nguy cơ xảy ra của rủi ro tín dụng.
Để tăng cường mạng lưới thông tin hiệu quả, chi nhánh cần thực hiện xây dựng một hệ thống thông tin phòng ngừa rủi ro cho riêng mình, ngoài việc tham khảo thông tin khách hàng từ trung tâm CIC của ngân hàng Nhà nước. Chi nhánh cần tiếp tục hiện đại hóa hệ thống thu thập và xử lý thông tin khách hàng, huấn luyện cán bộ tín dụng thực hiện công tác này thật hiệu quả. Từ nhiều nguồn khác nhau, phòng tín dụng cần thu thập và sàng lọc nhằm tạo ra cơ sở dữ liệu cho mình, cung cấp cho ban lãnh đạo để đưa ra quyết định chính xác và kịp thời.
- Đối với thông tin về khách hàng: Thông tin khách hàng phần lớn là từ các báo cáo tài chính do chính khách hàng lập, ít qua kiểm toán nên đây chỉ được coi là thông tin mang tính chất tham khảo, độ tin cậy không cao, không đáng tin cậy. Để có nguồn thông tin đầy đủ, cán bộ tín dụng cần trực tiếp thu thập thêm thông tin từ đối tác của khách hàng, từ các ngân hàng mà khách hàng đã từng giao dịch, cơ quan quản lý, trung tâm tín dụng CIC của ngân hàng Nhà nước,… Do chi nhánh chưa có phòng quan hệ khách hàng, đây sẽ là nhiệm vụ mà mỗi nhân viên của chi nhánh phải thực hiện.
- Đối với thông tin về thị trường: Ngân hàng cần quan tâm đến thị trường, sản phẩm mà khách hàng đưa ra. Điều này sẽ tránh cho ngân hàng những rủi ro rất lớn khi nền kinh tế có những biến động bất thường, điển hình như thị trường năm 2008 vừa qua với những biến động khó lường của thị trường tài chính, tiền tệ và các ngành sản xuất hàng hóa dịch vụ. Nắm bắt được những biến động vĩ mô và dự đoán thị trường là một công việc rất khó khăn, các cán bộ thực hiện cần quan tâm đến tình hình cung cầu, giá cả, khả năng cạnh tranh, đối thủ của khách hàng,… và dựa vào kinh nghiệm của cán bộ tín dụng để có thể đưa ra những đánh giá tương đối chính xác.
3.2.4. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng
Trong hoạt động ngân hàng, nghiệp vụ tín dụng có thể coi là một trong những công tác phức tạp nhất, đòi hỏi những cán bộ có trình độ và năng lực, am hiểu, thông thạo nghiệp vụ. Do đó, nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng là một hoạt động mà ban lãnh đạo cần đặc biệt chú ý thực hiện.
Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng hướng tới mục đích bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ tín dụng đáp ứng được những yêu cầu:
- Có đầy đủ kiến thức về nghiệp vụ tín dụng, có trình độ học thức
- Có kinh nghiệm thực tế trong hoạt động tín dụng và khả năng giải quyết, ứng phó với những biến đổi trong quá trình hoạt động
- Có ý thức học hỏi, am hiểu các văn bản luật của Nhà nước, thường xuyên cập nhật với những diễn biến của thị trường kinh tế- tài chính trong nước và quốc tế.
- Có tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần trách nhiệm và quan hệ tốt với khách hàng.
Để đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng đáp ứng những yêu đó, ban lãnh đạo chi nhánh cần thực hiện một số công việc như sau:
- Để nâng cao trình độ và kiến thức nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tín dụng, chi nhánh nên thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Cán bộ tín dụng cần theo kịp các chủ trương, chính sách của Nhà nước, về pháp luật và các hoạt động kinh tế xã hội, về chế độ và thể lệ nghiệp vụ tín dụng… Các lớp đào tạo bồi dưỡng có thể do các cán bộ có trình độ cao, nghiệp vụ sâu và có kinh nghiệm trực tiếp giảng dạy, hoặc có thể mời giảng viên các trường đại học và chuyên gia đến giảng dạy.
- Chi nhánh nên khuyến khích các cán bộ tín dụng tự học, đào tạo, nâng cao trình độ và năng lực bản thân. Trước mắt, ban lãnh đạo cần hỗ trợ kinh phí, xây dựng một đội ngũ cán bộ chủ chốt, có năng lực, có kinh nghiệm theo học các lớp chuyên ngành RRTD để làm trụ cột cho các hoạt động quản lí RRTD của ngân hàng. Ban lãnh đạo, kiểm tra kiểm soát cần kiểm tra, theo dõi và đánh giá một cách định kỳ, thường xuyên trình độ cán bộ để lập kế hoạch bồi dưỡng cho những cán bộ chưa nắm vững nghiệp vụ hoặc chuyển sang công tác ở những vị trí thích hợp hơn. Ban lãnh đạo cần cân nhắc, lựa chọn và tạo điều kiện cho các cán bộ có trình độ cao, có năng lực tốt, có mục tiêu phấn đấu và có ý thức trong công việc lên vị trí cao hơn để khuyến khích tinh thần nhân viên.
- Chế độ đãi ngộ cần thỏa đáng và công bằng. Với những cán bộ đạt thành tích cao trong công việc, ban lãnh đạo nên có sự khen thưởng kịp thời để khuyến khích, động viên họ hoàn thành tốt hơn công việc được giao, những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc cần phải bị xử lí nghiêm minh. Có như vậy mới khích lệ được tinh thần làm việc và trách nhiệm cao trong nhân viên và giúp cho hoạt động tín dụng nói chung và công tác quản lí RRTD nói riêng đạt được hiệu quả tốt.
3.2.5. Hoàn thiện công tác tổ chức điều hành.
Chi nhánh cần hoàn thiện một cơ cấu tổ chức điều hành phù hợp, tạo điều kiện cho các bộ phận phát huy được hết vai trò và trách nhiệm của mình. Sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận trong chi nhánh sẽ tạo ra một cơ cấu điều hành thống nhất và chặt chẽ.
Ban lãnh đạo cần xem xét, tách rời một số chức năng ra khỏi phòng kinh doanh và thành lập những phòng ban chuyên trách như phòng ban thẩm định, phòng ban quả lí rủi ro, phòng ban quản lí nợ,… Phân chia phòng ban chuyên trách sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ rèn luyện nghiệp vụ, phân chia trách nhiệm rõ ràng từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, tránh tình trạng trách nhiệm và công việc chồng chéo lộn xộn. Chi nhánh cũng nên phân chia cán bộ tín dụng ra thành từng nhóm, mỗi nhóm phụ trách một loại sản phẩm dự án phân theo ngành nghề nhất định. Như vậy sẽ chuyên môn hóa cán bộ tín dụng trong từng lĩnh vực, giúp họ am hiểu hơn về nghiệp vụ và các ngành nghề phụ trách, tăng tính an toàn và hiệu quả trong hoạt động tín dụng.
Trong trường hợp những khoản vay lớn, phức tạp, chi nhánh nên sử dụng các chuyên gia thẩm định ngoài ngân hàng. Đây là việc hợp lí và cần thiết để tăng tính khách quan và độ an toàn của kết quả thẩm định, giúp cán bộ tín dụng đưa ra những quyết định có độ chính xác cao hơn. Việc tập hợp đội ngũ công tác viên ngoài ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định nói riêng và công tác tín dụng nói chung cần có quy chế gắn lợi ích và trách nhiệm, nhằm tận dụng được kiến thức của chuyên gia trong thẩm định và ngăn ngừa việc tiết lộ thông tin bí mật của khách hàng.
3.2.6. San sẻ rủi ro
3.2.6.1. Đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ TD
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện công nghệ thông tin đang đổi mới không ngừng và cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu của khách hàng về sản phẩm ngày càng cao và đa dạng. Việc đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ ngân hàng nói chung và đa dạng hóa sản phẩm tín dụng nói riêng không chỉ tạo vị thế cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng san sẻ RR trong hoạt động.
Hiện nay, các sản phẩm dịch vụ tín dụng của chi nhánh HDB Hà Nội còn bị hạn chế ở các hình thức truyền thống như cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức, chiết khấu giấy tờ có giá,…Chi nhánh cần mở rộng các hình thức tín dụng khác như các hợp đồng đồng tài trợ, cho vay hợp vốn, kết hợp cho vay tài trợ tiêu dùng, … Nỗ lực tạo ra các sản phẩm mới, phong phú đa dạng sẽ giúp đa dạng hóa danh mục sản phẩm, thu hút khách hàng đồng thời giúp phân tán và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng nên tiếp tục đẩy mạnh cho vay chiết khấu giấy tờ có giá, đặc biệt là chiết khấu sổ tiết kiệm, bởi đây là hình thức cho vay khá an toàn và có khả năng thu hồi vốn nhanh chóng.
Ngoài việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng, chi nhánh cần thực hiện đa dạng hóa ngành nghề đầu tư. Hiện nay, các khoản vay của chi nhánh chủ yếu tập trung vào một số ngành cơ bản như xây dựng, vận tải,… Mở rộng ngành nghề kinh doanh tùy thuộc vào tình hình kinh tế thị trường, chú trọng vào những ngành đang phát triển và có tiềm năng phát triển sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng của chi nhánh.
3.2.6.2. Chính sách tài sản đảm bảo
Áp dụng chính sách tài sản đảm bảo là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, cần nhận thức rõ tài sản đảm bảo tín dụng không phải nguồn trả nợ chính, nó chỉ giúp ngân hàng san sẻ rủi ro tín dụng khi khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng.
Chi nhánh có thể phát triển hình thức bảo đảm tín dụng bằng bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh giúp ngân hàng giảm bớt thời gian, chi phí để tìm hiểu khách hàng khi họ đã được bảo lãnh bởi một doanh nghiệp có uy tín hay một tổ chức tín dụng khác. Đây là hoạt động phát triển trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, thực hiện bảo lãnh sẽ cải thiện khả năng của khách hàng trong các giao dịch vay nợ, tăng cường ổn định, giảm thiểu rủi ro trong quan hệ vay mượn của ngân hàng.
Chi nhánh cần tiếp tục xem xét, liên tục cải tiến các điều kiện áp dụng cho tài sản đảm bảo dưới dạng thế chấp và cầm cố dựa trên các văn bản pháp luật và những nguyên tắc cơ bản. Về thế chấp, khách hàng phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện có giấy tờ chứng minh tài sản đảm bảo thuộc quyền sở hữu hợp pháp của khách hàng, không thuộc loại pháp luật cấm trao đổi, không phải là tài sản đang thế chấp tại các TCTD khác, tài sản phải có giá trị khi phát mãi. Đối với các tài sản thế chấp, ngân hàng không có quyền sử dụng tài sản nên cán bộ tín dụng cần kiểm tra thường xuyên, giám sát việc quản lí và sử dụng tài sản thế chấp của khách hàng, đánh giá lại giá trị tài sản và xử lí kịp thời khi có phát sinh xảy ra. Đối với tài sản cầm cố, cán bộ tín dụng cần đảm bảo khách hàng chuyển giao đầy đủ giấy tờ sở hữu tài sản trong suốt thời gian vay. Nếu đến hạn mà khách hàng không trả đủ nợ gốc và lãi, ngân hàng có thể xử lí tài sản đảm bảo theo đúng quy định.
3.2.7. Sớm nhận biết nguy cơ RRTD
Với mục đích cố gắng ngăn chặn những rủi ro trong hoạt động tín dụng, các cán bộ tín dụng cần cố gắng nhận ra các dấu hiệu xảy ra rủi ro càng sớm càng tốt để có biện pháp phòng ngừa và xử lí. Ban lãnh đạo chi nhánh nên đề xuất lên Hội sở hoặc tự thực hiện xây dựng một số cơ sở để phân loại những dấu hiệu xảy ra rủi ro tín dụng.
Trước hết, phòng quản lí nợ của chi nhánh cần thực hiện nghiêm chỉnh việc phân loại nợ theo quy định 493 của ngân hàng Nhà nước, tạo điều kiện quản lí nợ an toàn. Việc phân loại nợ cần được thực hiện thường xuyên và cập nhật liên tục, tránh những thỏa thuận ngầm, móc ngoặc trong nội bộ ngân hàng và doanh nghiệp, gây ảnh hưởng cho tín minh bạch của hoạt động tín dụng của chi nhánh.
Các cán bộ tín dụng cần theo dõi sát xao các khoản nợ gần đến hạn hoặc đã quá hạn. Cán bộ tín dụng phụ trách cần thường xuyên liên hệ với khách hàng, tìm hiểu tình hình tài chính và khả năng thanh toán cũng như ý định trả nợ của khách hàng. Nếu như nguyên nhân quá hạn nợ là khách quan như do hàng về chậm, khó khăn nhất thời về nguồn vốn lưu động, … trong khi hoàn toàn làm ăn nghiêm túc, hiệu quả thì cán bộ có thể tạo điều kiện để khách hàng không bị chuyển nợ. Ngược lại, những khoản đảo nợ cần được chú ý xem xét cụ thể, nếu thấy có dấu hiệu bất ổn từ phía khách hàng thì cần xử lí ngay, bởi đảo nợ là một trong những nguyên nhân dẫn đến RRTD nếu không được kiểm soát chặt chẽ.
Ngoài 5 nhóm nợ theo quy định 493, chi nhánh nên tự xây dựng một hệ thống phân loại nợ riêng cho mình, phù hợp với những đặc điểm khách hàng và ngành nghề của chi nhánh. Xây dựng được một hệ thống phân loại nợ và các dâu hiệu cụ thể như vậy sẽ tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng quản lí và theo dõi nợ dễ dàng hơn, nhất là trong điều kiện chi nhánh chưa có phòng quản lí rủi ro riêng biệt.
3.2.8. Công tác xử lý RRTD
Công tác xử lí RRTD là bước phòng thủ cuối cùng của ngân hàng khi RRTD đã xảy ra, nhằm giảm bớt những thiệt hại mà nó gây ra cho ngân hàng. Tại HDB Hà Nội tuy chưa có phòng chuyên môn QLRR, chi nhánh đã thành lập ban xử lí nợ, chuyên xử lí các món nợ quá hạn. Đây là bước đầu tiên trong hoạt động cải tổ cơ cấu và thành lập những phòng ban chuyên môn tách khỏi phòng kinh doanh. Ban xử lí nợ tại chi nhánh cần lưu ý một số điểm như sau:
Thứ nhất, về biện pháp khắc phục tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu.
- Cán bộ chuyên trách yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo cho các khoản vay nhưng không gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xác định phương án cơ cấu nợ. Chi nhánh chỉ tiếp tục duy trì quan hệ tín dụng với khách hàng khi khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả gốc và lãi của mình từ các dòng tiền thường xuyên. Các khoản nợ phải được giám sát chặt chẽ. Ngân hàng sẽ gia hạn nợ cho khách hàng, giãn nợ, nhằm giảm gánh nặng nợ nần, tạo điều kiện giúp KH nhanh chóng phục hồi.
- Nếu khách hàng không có khả năng phục hồi, ngân hàng tiến hành thu nợ nhằm thu hồi được càng nhiều vốn càng tốt, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại và chi phí phát sinh.
Thứ 2 là các phương pháp xử lí khi RRTD xảy ra. Khi các khoản vay của khách hàng bị đánh giá là chất lượng kém, khó có khả năng thu hồi, các biện pháp khắc phục không có hiệu quả thì ngân hàng cần đưa ra các biện pháp xử lí như sau:
- Khuyến khích khách hàng trả nợ sớm, giảm lãi suất, lãi phạt cho khách hàng nếu nhận thấy khách hàng có thiện ý trả nợ
- Yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện trả nợ thay đối với các khoản tín dụng có bảo lãnh của bên thứ 3.
- Phát mại tài sản đảm bảo cho khoản vay
- Khởi kiện nếu cần thiết. Tuy nhiên biện pháp này ít được áp dụng bởi những vấn đề phát sinh phức tạp về thủ tục, chi phí và thời gian.
- Sử dụng quỹ dự phòng để bù đắp rủi ro tổn thất đối với các khoản nợ xấu mà ngân hàng xóa nợ sau khi đã sử dụng hết các biện pháp đã thu hồi nhưng không được hoặc không đủ. Những khoản xóa nợ sau khi được bù đắp bằng quỹ dự phòng được chuyển sang theo dõi ngoại bảng để theo dõi và tận thu.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với hội sở HDB
- Hội sở HDB cần nhanh chóng bổ sung và sửa đổi một số nội dung để hoàn thiện quy trình tín dụng nhằm áp dụng một cách khoa học, thống nhất toàn diện trong toàn bộ hệ thống cũng như ban hành những hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện những quy định về đảm bảo tiền vay của NHNN.
- Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về quản lí và điều hành chính sách tín dụng, quản lí rủi ro cho cán bộ nhân viên thuộc các chi nhánh, để họ có thể nâng cao trình độ, hạn chế những sai sót và tăng tính thống nhất của hệ thống.
- Tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động quản lí rủi ro tín dụng. Điều này giúp cho ngân hàn sớm phát hiện ra dấu hiệu rủi ro, phân tích nguyên nhân và có biện pháp kịp thời, hữu hiệu để xử lí kịp thời từ đó giảm thấp những khoản nợ tồn đọng và hạ thấp tổn thất thiệt hại trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng. Vấn đề này liên qua đến vai trò giám sát, kiểm tra của Ngân hàng Nhà nước, Hội đồng đồng quản trị và kiểm tra nội bộ, kiểm toán. Hội sở cần định kỳ yêu cầu các chi nhánh cung cấp thông tin về tình hình tín dụng của chi nhánh, xử lí nghiêm khắc những chi nhánh có biểu hiện che dấu thông tin, ảnh hưởng đến sự an toàn của toàn hệ thống HDB.
- Chi nhánh cần cải tiến và đổi mới quy trình xét duyệt thẩm định và cho vay, kiểm tra giám sát tình hình luân chuyển vốn vay một cách chặt chẽ, định kỳ và đạt hiệu quả cao để hạn chế các dấu hiệu tiêu cực có thể xảy ra trong thẩm định các dự án, trong xét duyệt cho vay để phát hiện kịp thời các khách hàng làm ăn kém hiệu quả hay dự án kém khả thi.
Quy trình cho vay cần tách biệt được các bước và các chức năng kinh doanh, quản lí rủi ro và tác nghiệp nhằm giảm thiểu rủi ro. Theo đó, hồ sơ vay vốn cần được xem xét toàn diện, kiểm tra một cách chính xác và khách quan trước khi được ban lãnh đạo ký duyệt. Quy trình cho vay cần quy định rõ những nội dung của từng khâu công việc, trách nhiệm của các cán bộ liên qua một cách cụ thể, bao gồm từ khâu thẩm định, kiểm soát đến xét duyệt cho vay.
3.3.2. Kiến nghị với NHNN
Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin tín dụng.
Hệ thống thông tin tín dụng trong thời gian vừa qua đã hình thành dựa trên nhu cầu của các ngân hàng và đòi hỏi tất yếu của sự phát triển của thị trường, nó đóng vai trò đáng kể trong việc hạn chế được rủi ro do thông tin không cân xứng, giúp cho các ngân hàng tìm hiểu những thông tin cần thiết nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, hệ thống thông tin này cần được nâng cấp, trở nên minh bạch và công khai hóa thông tin. Đây là tiền đề cơ bản để nâng cao chất lượng quản lí rủi ro. Việc minh bạch và công khai hóa thông tin không chỉ được thực hiện giữa các ngân hàng thương mại với ngân hàng Nhà nước, không chỉ trong nội bộ ngân hàng mà còn giữa các ngân hàng thương mại với các nhà đầu tư và công luận. Để là được điều đó, ngân hàng Nhà nước cần thực hiện:
- Yêu cầu ngân hàng thương mại hợp tác, báo cáo đầy đủ về chất lượng tín dụng và tình hình tài chính của khách hàng cho trung tâm tín dụng.
- Trang bị cho trung tâm những thiết bị hiện đại đáp ứng được nhu cầu của công việc như thu nhập, xử lí, phân tích thông tin một cách nhanh chóng và chính xác.
- Cần đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên tại trung tâm về mặt nghiệp vụ và trú trọng cả tin học, ngoại ngữ.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tín dụng đối với các ngân hàng thương mại.
Công tác thanh tra, kiểm tra của ngân hàng Nhà nước với các ngân hàng thương mại phải được tiến hành một cách thường xuyên với mục tiêu phát hiện kịp thời những sai phạm, ngăn chặn và xử lí những hành vị vi phạm pháp luật của các ngân hàng thương mại. Trên thực tế, ngân hàng Nhà nước mới chỉ kiểm tra giám sát các ngân hàng sau khi RR đã xảy ra, chưa thực hiện công tác phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần xây dựng một số qui định nhằm tăng cường hơn nữa vai trò kiểm tra, kiểm soát của mình đối với các ngân hàng thương mại, giúp các NHTM tự chấn chỉnh hoạt động của mình.
Hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế hóa mọi hoạt động trong ngân hàng, đảm bảo các nguyên tắc hạn chế rủi ro ở mọi khâu của ngân hàng.
Ngân hàng TW cần thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kỳ, bảo đảm mọi công việc được xử lí một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền. Cần bảo đảm các ngân hàng tuân thủ các văn bản pháp luật, quy định về phân loại nợ, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Yêu cầu các NHTM tham gia bảo hiểm tín dụng.
Bảo hiểm có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống quản lí RRTD của ngân hàng. Bảo hiểm có lợi về mặt kinh tế cho mọi người, mọi tổ chức, nó chia sẻ mất mát thiệt hại về tài sản và bảo hiểm ngày nay đang đi sâu vào đời sống kinh tế và xã hội. Bảo hiểm tín dụng tuy vẫn còn khá mới lạ ở Việt Nam, song nó giúp các ngân hàng khi phát sinh rủi ro không còn phải dùng các biện pháp phi kinh tế để ngăn chặn. Lúc đó, các công ty bảo hiểm sẽ hỗ trợ các ngân hàng giải quyết những khó khăn trước mắt, hạn chế ảnh hưởng đến nền kinh tế. Vì vậy, ngày nay tham gia bảo hiểm tín dụng là một biện pháp để ngân hàng đề phòng những rủi ro không lường trước được.
3.3.3. Kiến nghị với các cơ quan liên quan
- Nhà nước cần giảm sự can thiệp vào hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. Trước mắt, các ngân hàng thương mại cần được độc lập trong hoach định và thực thi chiến lược kinh doanh, biện pháp kinh doanh, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình theo pháp luật. Các cơ qua Nhà nước không nên can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các NHTM, xóa bỏ các hình thức bao cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh.
- Bên cạnh đó, Nhà nước nên tạo điều kiện hướng các ngân hàng phục vụ mục tiêu chung một cách tự nhiên như là hệ quả tất yếu của kinh doanh, sao cho khi NHTM cố gắng đạt được hiệu quả kinh tế cho bản thân thì đồng thời cũng mang lại hiệu quả cho toàn xã hội. Trong trường hợp cần thực hiện một số mục tiêu xã hội lớn như xóa nợ hoặc cho vay ưu đãi với các vùng bị thiên tai…, Nhà nước cần tạo điều kiện cho các NHTM không phải chịu khó khăn về tài chính phát sinh, tách biệt rõ ràng giữa hoạt động kinh doanh sinh lời và nghĩa vụ thực hiện những chính sách xã hội của ngân hàng. Việc Chính phủ thực hiện hỗ trợ lãi suất cho các TCKT thực hiện bổ sung vốn lưu động trong kinh doanh là một bước đi hợp lí để hỗ trợ cho nền kinh tế, kích thích thị trường tài chính.
- Chính phủ và các cơ quan liên quan cần tăng cường quản lí các doanh nghiệp. Chính phủ cần xem xét kỹ trước khi cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp, tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép. Cần yêu cầu các doanh nghiệp kiểm toán các báo cáo tài chính định kỳ, là cơ sở để đánh giá tình hình, chất lượng, doanh số hoạt động của doanh nghiệp, giúp ngân hàng thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp khi đến vay, đảm bảo an toàn đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.
KẾT LUẬN
Lĩnh vực rủi ro tín dụng đã được nghiên cứu và phát triển trên thế giới trong nhiều năm qua, tuy nhiên ở Việt nam vấn đề này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ và phổ biến sâu rộng. Về mặt lý thuyết, các nội dung về rủi ro tín dụng chưa được giảng dạy phổ biến cho sinh viên, các sách tham khảo về nội dung này còn hiếm và chủ yếu được dịch từ các tài liệu nước ngoài. Tuy các công trình nghiên cứu về rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng đã được thực hiện tại Việt Nam trong những năm gần đây nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế và giải quyết được tính cấp bách của vấn đề.
Về mặt thực tiễn, có rất ít các văn bản pháp qui hướng dẫn, qui định về các hoạt động trong lĩnh vực này và các văn bản đã có không bao quát được toàn bộ các nội dung của vấn đề. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng còn gặp nhiều khó khăn trong việc quản lí, hạn chế rủi ro tín dụng từ phía môi trường kinh tế, khách hàng, hệ thống thông tin và bản thân năng lực của các ngân hàng.
Với đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng TMCP phát triển nhà thành phố HCM chi nhánh Hà Nội” , chuyên đề đã đề cập đến những vấn đề chính sau:
- Những vấn đề lý luận cơ bản nhất về hoạt động của ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.
- Thực trạng hoạt động tín dụng của chi nhánh HDB Hà Nội và thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh HDB Hà Nội: những khó khăn tiềm ẩn và những hạn chế mà ngân hàng cần khắc phục.
- Một số giải pháp và những kiến nghị với các cơ quan liên quan để hạn chế nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng tại chi nhánh HDB Hà Nội.
Rủi ro tín dụng là một vấn đề phức tạp và đa dạng, với trình độ nghiên cứu còn hạn chế, chuyên đề này không tránh khỏi những thiếu sót. Mong các thầy cô và các cán bộ trong ngân hàng HDB sẽ chỉ ra các thiếu sót và giúp em hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rose P.S. (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội.
2. PGS.TS Phan Thị Thu Hà (2007), Giáo trình Ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân.
3. TS. Tô Ngọc Hưng, Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê.
4. PGS.TS Nguyễn Hữu Tài, Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, NXB Giáo dục.
5. PGS Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng, NXB Thống kê.
6. Các văn bản của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
7. Báo Vneconomy.vn
Bài viết Rủi ro hoạt động ngân hàng, 14/5/2008.
Bài viết Lãi suất ngân hàng đón đợt sóng mới, 17/06/2008
8. Báo Vietnamnet.vn
Bài viết Người tiêu dùng châu Á tăng tiết kiệm do sợ mất việc, 22/1/2009
9. Báo cáo tài chính tổng hợp HDB Hà Nội 2006, 2007, 2008
Báo cáo chi tiết tình hình tín dụng HDB Hà Nội 2006, 2007, 2008
Báo cáo chi tiết tình hình nguồn vốn HDB Hà Nội 2006, 2007, 2008
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21273.doc