PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống Ngân hàng thương mại nước ta đang trong quá trình đổi mới để bắt kịp với xu thế phát triển của nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Ngân hàng đã thực sự là ngành tiên phong trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Đặc biệt trong những năm qua, hoạt động ngân hàng nước ta đã góp phần tích cực huy động vốn, mở rộng vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất phát triển, tạo điều kiện thu hút vốn nước ngoài để tăng trưởng kinh tế trong nư
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc. Ngành ngân hàng đã xứng đáng là công cụ đắc lực hỗ trợ cho nhà nước trong việc kiềm chế, đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả.
Song song với quá trình đó, vấn đề rủi ro tín dụng cũng đang diễn ra hết sức phức tạp, gây ra những tác động to lớn không thể lường hết được cho nền kinh tế. Do đó đòi hỏi phải có sự đầu tư thích đáng trong việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế mức tối đa những rủi ro có thể xảy ra.
Hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang tích cực xây dựng chính sách, chiến lược và đề ra những biện pháp thực hiện để hạn chế rủi ro tín dụng trước những quy định và yêu cầu gắt gao của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà nước. Vì mục tiêu an toàn và phát triển bền vững, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam và Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long cũng đã ban hành nhiều quy định để hạn chế rủi ro tín dụng. Trong đó, chính sách mang tầm chiến lược, định hướng lớn nhất là việc ban hành và đưa vào áp dụng quy trình tín dụng mới với mục tiêu lớn nhất là hạn chế mức tối đa những rủi ro trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng TMCP NT Việt Nam. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục vì vậy đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Thăng Long" được lựa chọn nghiên cứu nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh, đồng thời đề xuất những giải pháp khắc phục hạn chế.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại.
Phân tích, nhận xét, đánh giá về thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long.
Đề xuất những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro tín dụng của Ngân Hàng Thương Mại
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng TMCP NT Thăng Long từ năm 2005 đến năm 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng v à duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình viết luận văn: thống kê, tổng hợp số liệu, tài liệu các loại để so sánh, phân tích, đánh giá rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NH TMCP Thăng Long.
5. Kết cấu luận văn:
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Rủi ro tín dụng của Ngân Hàng Thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long.
CHƯƠNG I
RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm rủi ro
Mọi hoạt động của từng cá nhân cũng như toàn xã hội đều hướng tới một mục đích nào đó. Song có những trường hợp mục đích đó không đạt được do trong quá trình hoạt động gặp phải rủi ro. Vậy rủi ro là gì? Có rất nhiều khái niệm về rủi ro như “rủi ro là những bất trắc gây ra mất mát thiêt hại”; “rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi”... Nhưng nói chung mọi ý kiến đều đi đến khẳng định rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến. Rủi ro có thể gặp bất cứ lúc nào ngoài ý muốn của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống nhất là lĩnh vực kinh tế.
Trong lĩnh vực kinh tế rủi ro được coi là những tổn thất mà các doanh nghiệp phải chấp nhận khi kinh doanh. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ – tín dụng ngân hàng cũng không tránh khỏi điều đó. Và thực tế đã chứng minh rằng không một ngành kinh doanh nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ.
Tóm lại: rủi ro là những bất trắc xảy ra ngoài mong muốn của con người. Trong kinh doanh rủi ro tồn tại khá phổ biến và rất phức tạp bởi vì thực tiễn đã chứng minh rằng bất kì hoạt động kinh doanh nào đem lại lợi nhuận đều có rủi ro, lợi nhuận càng lớn thì rủi ro càng cao.
1.1.2. Các loại rủi ro phổ biến trong hoạt động kinh doanh ngân hàng
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng: Cũng như bất kì ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động của ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Bản thân người quản lý ngân hàng và người lập chính sách cần biết và hiểu những rủi ro này để tìm mọi cách hạn chế những đổ vỡ dễ gây thiệt hại, trước hết là đến ngân hàng đó và sau đó là toàn bộ nền kinh tế. Trên thế giới, người ta đã phân ra nhiều loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
1.1.2.1. Rủi ro tín dụng
Hoạt động cơ bản của một ngân hàng là huy động vốn và cho vay, với mục đích nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, hoạt động cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro., khiến cho ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi khi đến hạn. Có thể nói rủi ro tín dụng là rủi ro cơ bản và chủ yếu của một ngân hàng thương mại.
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất.Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro tín dụng được xem là rủi ro lớn nhất trong các loại rủi ro mà ngân hàng gặp phải, nó thường xuyên xảy ra và gây nên hậu quả nặng nề nhất. Rủi ro tín dụng ngân hàng gắn liền với rủi ro của khách hàng vay vốn. Tuy vậy thực tế cho thấy rủi ro tín dụng xảy ra còn vì khách hàng cố ý không trả nợ gốc và lãi cho ngân hàng, có ý đồ chiếm dụng vốn...Rủi ro tín dụng xảy ra có thể làm tê liệt khả năng thanh toán của ngân hàng, thậm chí đưa ngân hàng đến bờ vực phá sản. Chính vì vậy trong quá trình hoạt động kinh doanh Ngân hàng không được xem nhẹ vấn đề rủi ro tín dụng.
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của NHNN Việt Nam thì "rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết".
1.1.2.2. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng.
Để có thể phòng ngừa rủi ro hối đoái, ngân hàng phải làm cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ trong bảng cân đối tài sản.
Cần lưu ý rằng, cho dù giá trị tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ là cân xứng với nhau đối với từng loại ngoại tệ thì ngân hàng cũng chỉ mới loại trừ được rủi ro tỷ giá, còn rủi ro lãi suất ngoại tệ vẫn phát sinh nếu các kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ không cân xứng với nhau. Vì vậy, chỉ khi ngân hàng làm cho tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ cân xứng với nhau cả về số lượng và kì hạn thì mới có thể phòng ngừa được rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất ngoại tệ một cách triệt để.
Các tỷ giá và mức lãi suất giữa các quốc gia (giữa các đồng tiền) có mối tương quan không chặt chẽ với nhau, do vậy, ngân hàng có thể tận dụng đặc điểm này bằng cách đa dạng hoá cơ cấu tài sản có và tài sản nợ bằng ngoại tệ nhằm giảm rủi ro hối đoái.
1.1.2.3. Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả lãi. Khi tài trợ, ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay, tiền gửi và chứng khoán thường xuyên biến động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng. Như vậy, rủi ro lãi suất là khả năng thu nhập giảm do chênh lệch lãi suất giảm khi lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến gắn với thay đổi nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và nguồn, qui mô và kì hạn của hợp đồng kì hạn...
Quá trình chuyển hoá tài sản là một chức năng đặc biệt cơ bản của ngân hàng. Quá trình chuyển hoá tài sản bao gồm việc mua các chứng khoán sơ cấp, tức là sử dụng vốn; và phát hành các chứng khoán sơ cấp, tức là huy động vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các chứng khoán sơ cấp trong danh mục đầu tư thuộc tài sản có thường không cân xứng với các chứng khoán thứ cấp thuộc tài sản nợ. Sự không cân xứng về kì hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
Ngoài ra khi lãi suất thị trường thay đổi ngân hàng còn có thể gặp phải rủi ro giảm giá trị tài sản. Như chúng ta đã biết, giá trị thị trường của tài sản có hay tài sản nợ là dựa trên khái niệm giá trị hiện tại của tiền tệ. Do đó, nếu lãi suất thị trường tăng lên thì mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng lên, do đó giá trị hiện tại của tài sản có và tài sản nợ giảm xuống và ngược lại. Do đó, nếu kì hạn của tài sản có và tài sản nợ không cân xứng với nhau, ví dụ tài sản có có kì hạn dài hơn tài sản nợ, thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị của tài sản có sẽ giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị của tài sản nợ. Rủi ro giảm giá trị của tài sản khi lãi suất thay đổi thuộc loại rủi ro về lãi suất và có thể dẫn đến thiệt hại về tài sản của ngân hàng.
Ngân hàng có thể phòng ngừa rủi ro bằng cách làm cho các kỳ hạn của tài sản có và tài sản nợ cân xứng nhau. Việc làm cho các kì hạn cân xứng với nhau, một mặt, giảm được rủi ro lãi suất; mặt khác, lại làm giảm khả năng sinh lời của ngân hàng, bởi lẽ nó làm giảm các cơ hội đầu tư vào những lĩnh vực có rủi ro song khả năng sinh lời lớn.
1.1.2.4. Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm cho gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán.
Nguồn vốn để đầu tư tín dụng trong các ngân hàng thương mại chủ yếu là nguồn vốn huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng những người gửi tiền trong ngân hàng thường gửi theo hình thức không kỳ hạn. Chính vì thế nên họ có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào để phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ. Mà trong khi đó các ngân hàng lại dùng nguồn vốn huy động không kỳ hạn để cho vay có kỳ hạn (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn). Khi khách hàng có nhu cầu về vốn thì ngân hàng thường không đủ nguồn để trả cho khách hàng. Chính vì vậy ngân hàng phải đi vay vốn để bổ xung nguồn vốn thanh khoản hoặc phải bán tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu rút vốn của khách hàng. Trong cơ cấu tài sản thì tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, do đó ngân hàng sử dụng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng; bởi vì tiền mặt tại quỹ của ngân hàng không mang lại thu nhập gì cho ngân hàng. Chính vì vậy ngân hàng phải duy trì 1 lượng tiền mặt nhất định để đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng mà không làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản của ngân hàng. Để làm được điều này thì trong trường hợp thiếu hụt tiền mặt tạm thời thì NHTM chỉ cần đi vay bổ sung một cách thông thường trên thị trường thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
Tuy nhiên trong trường hợp đặc biệt ngân hàng có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản khi khách hàng mất lòng tin vào ngân hàng hoặc nhu cầu rút tiền có tính thời vụ cao… mà trong khi ngân hàng lại không dự tính được khi nào khách hàng cần vốn để sản xuất kinh doanh.Trong bối cảnh đó hầu hết các ngân hàng phải đáp ứng với nhu cầu vốn thiếu – chi phí bổ xung cho huy động vốn trên thị trường sẽ tăng đáng kể do đó lượng vốn trên thị trường giảm. Hậu quả là ngân hàng phải bán 1 lượng lớn tài sản để đáp ứng với nhu cầu rút tiền của khách hàng. Điều này khiến cho NHTM gặp phải rủi ro thanh khoản; ngân hàng buộc phải bán tài sản của mình với giá rẻ vì ngân hàng không còn đủ thời gian để tìm đối tác thích hợp cũng như điều kiện để thương lượng về giá cả. Chính vì vậy ngân hàng đứng trước nguy cơ đối mặt với rủi ro thanh khoản chuyển sang rủi ro phá sản.
1.1.2.5. Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Hoạt đông ngoại bảng là các hoạt động không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng), bởi vì các hoạt động này không liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ sơ cấp hoặc ngân hàng phát hành các chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại bảng có ảnh hưởng đến trạng thái tương lai của bảng cân đối tài sản nội bảng, bởi vì các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra những tài sản có và tài sản nợ bổ sung cho bảng cân đối nội bảng.
Xuất phát từ tính chất của các hoạt động ngoại bảng là ngân hàng thu được phí trong khi không phải sử dụng đến vốn kinh doanh cho nên đã khuyến khích phát triển các hoạt động ngoại bảng ngày càng phát triển. Tuy nhiên những hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Chẳng hạn, trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu phá sản thì ngân hàng phải đứng ra thanh toán toàn bộ gốc và lãi chứng khoán do công ty phát hành. Điều này dẫn đến là bảo lãnh thư đã trở thành một bộ phận trong bảng cân đối tài sản nội bảng- nghĩa là ngân hàng phải sử dụng vốn kinh doanh của mình để trang trải những gì đã cam kết trong thư bảo lãnh. Trong thực tế, những trường hợp thua lỗ nghiêm trọng trong hoạt động ngoại bảng đã trở thành nguyên nhân chính khiến cho ngân hàng có thể đi đến phá sản.
Ngày nay, hoạt động ngoại bảng rất phong phú và đa dạng. Trong khi một số hoạt động ngoại bảng được sử dụng tích cực vào việc phòng ngừa rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối và rủi ro tín dụng... thì nếu việc quản trị điều hành không hiệu quả hoặc không đánh giá đúng được tác dụng của các nghiệp vụ ngoại bảng có thể dẫn đến những tổn thất to lớn.
1.1.2.6. Rủi ro công nghệ
Đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành chủ đề được các NHTM quan tâm hơn bao giờ hết trong những năm gần đây. Các NHTM hiện nay đã đầu tư những khoản đầu tư khổng lồ vào lĩnh vực thông tin và cơ sở hạ tầng công nghệ. Các NHTM thiết lập mạng lưới máy rút tiền và gửi tiền tự động ATM một cách rộng khắp, xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ tự động ACH và mạng lưới điện tín thanh toán và chuyển tiền như hệ thống CHIPS của Mỹ.
Mục tiêu phát triển công nghệ ngân hàng là nhằm giảm chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm, mở rộng quy mô hoạt động của ngân hàng, nhờ khai thác tiềm năng của công nghệ ngân hàng. Hiệu quả kinh tế nhờ mở rộng quy mô hoạt động bao hàm khả năng ngân hàng hạ thấp được giá thành hoạt động bình quân bằng cách mở rộng đầu tư ra các dịnh vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp. Hiệu quả do tăng cường khai thác tiềm năng công nghệ nhất định có thể cung cấp nhiều hơn các dịnh vụ khác nhau cho khách hàng.
Một NHTM có thể sử dụng cùng một thông tin về khách hàng đã được thu nhận trong máy tính để mở rộng kinh doanh hoạt động tín dụng cùng với hoạt động bảo lãnh. Có nghĩa là cùng một thông tin (tuổi tác, nghề nghiệp, thu nhập) có thể nhận biết tiềm năng tín dụng và tiềm năng bảo lãnh cho khách hàng.
Rủi ro công nghệ phát sinh khi những khoản đầu tư cho phát triển công nghệ không tạo ra được khoản tiết kiệm trong chi phí như đã dự tính khi mở rộng qui mô hoạt động. Tính không hiệu quả trong đầu tư công nghệ của ngân hàng phát sinh trong trường hợp, ví dụ, dung lượng đầu tư quá lớn dẫn đến công nghệ không sử dụng đến và hậu quả là tổ chức bộ máy trở nên quan liêu kém hiệu quả; hoặc là qui mô hoạt động không được mở rộng, mặc dù đã đầu tư công nghệ mới. Rủi ro về công nghệ có thể gây nên hậu quả là khả năng cạnh tranh của ngân hàng giảm xuống đáng kể và nguyên nhân tiềm ẩn của sự phá sản ngân hàng trong tương lai. Ngược lại, lợi ích từ việc đầu tư công nghệ là tạo cho ngân hàng một sức bật quan trọng trong cuộc cạnh tranh dữ dội trên thương trường và đồng thời cho phép ngân hàng phát triển các sản phẩm mới, tiên tiến, hiện đại giúp cho ngân hàng tồn tại và phát triển bền vững.
1.1.2.7. Rủi ro quốc gia và rủi ro khác
Nền kinh tế thị trường không còn bó gọn trong một quốc gia nữa. NHTM đã mở rộng đầu tư ra nước ngoài như đầu tư và mua bán các đồng ngoại tệ mạnh. Nhưng khi các nước đó có biến động về kinh tế - chính trị dẫn tới suy thoái kinh tế sẽ dẫn tới rủi ro quốc gia. Rủi ro quốc gia còn nghiêm trọng hơn cả trường hợp hơn rủi ro tín dụng mà ngân hàng gặp phải khi đầu tư cho các công ty nội địa. Trong một công ty nội địa không có khả năng trả nợ thì NHTM là chủ nợ có quyền tham dự vào quá trình phân chia tài sản để thu nợ. Như vậy chí ít ngân hàng cũng thu hồi được một phần hay toàn bộ vốn cho vay.
Trong trường hợp NHTM đầu tư cho công ty nước ngoài thì ngay cả trong trường hợp công ty đó có khả năng trả nợ vay nhưng cũng có thể không thực hiện được vì chính phủ nước này cấm hoặc hạn chế việc thanh toán cho nước ngoài do dự trù ngoại hối hạn hẹp hoặc vì lý do chính trị. Trong trường hợp này ngân hàng như là một chủ nợ, rất ít hoặc không có cơ hội khiếu nại lên toà án địa phương hay quốc tế.
Lợi nhuận của các NHTM khi đầu tư ra nước ngoài là rất cao tuy nhiên rủi ro cũng không nhỏ. Do đó khi đầu tư ra nước ngoài phải nghiên cứu kỹ lưỡng kinh tế - chính trị của nước đó đồng thời phải nhận định được tương lai nền kinh tế - chính trị của nước đó.
Những rủi ro khác bao gồm: thay đổi thuế đột ngột, ảnh hưởng của chiến tranh làm cho các điều kiện trên thị trường tài chính thay đổi đột biến không dự tính trước, sự sụp đổ đột ngột của thị trường chứng khoán, rủi ro trộm cắp, lừa đảo...
1.2. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Hoạt động tín dụng Ngân hàng thương mại
1.2.1.1. Khái niệm tín dụng và tín dụng ngân hàng
Tín dụng:
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về tín dụng. Tín dụng có thể được hiểu theo những cách như sau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng số vốn đó sẽ được hoàn trả vào một ngày xác định trong tương lai.
- Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trong nền kinh tế, trong đó chủ thể này chuyển nhượng cho chủ thể khác quyền sử dụng một lượng giá trị với những điều kiện và trong một thời gian nhất định mà hai bên đã thỏa thuận dựa trên nguyên tắc hoàn trả.
Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng thực chất là mối quan hệ cho vay - có hoàn trả giữa hai chủ thể trong nền kinh tế: ngân hàng và cá nhân, tổ chức. Trong đó ngân hàng có thể đóng vai trò là người đi vay (huy động tiền gửi của tổ chức, cá nhân) hoặc người cho vay (cho tổ chức, cá nhân vay vốn). Tóm lại có thể khái quát thành khái niệm như sau:
- Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau giữa một bên là ngân hàng với một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong một khoảng thời gian nhất định dựa trên nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
1.2.1.2 Các nguyên tắc của tín dụng ngân hàng:
Để đảm bảo cho hoạt động ngân hàng luôn luôn an toàn và phát triển bền vững thì yêu cầu bắt buộc của tín dụng ngân hàng là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau đây:
Một là, cho vay có mục đích, có phương án vay vốn khả thi, hiệu quả:
Mục đích và phương án vay vốn luôn được đề cập rõ ràng, là quy định bắt buộc trong tất cả các hợp đồng tín dụng. Khách hàng vay phải ghi rõ mục đích sử dụng vốn vay: sản xuất kinh doanh, đầu tư dự án, tiêu dùng..., đồng thời nêu được tính khả thi, hiệu quả của phương án, có khả năng trả nợ ngân hàng đầy đủ cả gốc và lãi.
Hai là, việc cho vay phải có bảo đảm :
Yêu cầu khi khách hàng vay phải có bảo đảm: tài sản cầm cố, thế chấp thuộc sở hữu của người đi vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba để đảm bảo an toàn cho khoản vay, hạn chế được rủi ro tín dụng khi khách hàng không trả được nợ. Hoạt động cho vay là lĩnh vực chứa đựng rất nhiều rủi ro. Vì vậy, yêu cầu phải có bảo đảm là hết sức cần thiết và quan trọng đối với ngân hàng.
Ba là, khách hàng vay phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn:
Với vai trò trung gian của ngân hàng là đi vay để cho vay. Do đó, các khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng hầu hết đều xuất phát từ nguồn tiền mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức, cá nhân. Việc sử dụng hợp lý nguồn tiền này là yêu cầu bắt buộc đối với ngân hàng. Để đảm bảo khả năng thanh khoản, ngân hàng luôn phải đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi trong mọi trường hợp. Vậy trong hợp đồng tín dụng, quy định bắt buộc khách hàng phải cam kết hoàn trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn đã thỏa thuận để duy trì tính thanh khoản, giúp ngân hàng phát triển bền vững.
1.2.1.3 Phân loại tín dụng:
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, tín dụng ngân hàng được phân loại như sau:
* Căn cứ vào thời hạn vay:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm. Khoản tín dụng này thường được sử dụng để tài trợ cho nhu cầu vay vốn lưu động hoặc tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được sử dụng cho mục đích đầu tư mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh với quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: có thời hạn từ 5 năm trở lên. Đây là khoản tín dụng được sử dụng để tài trợ nhu cầu xây dựng nhà xưởng, đầu tư dự án mới, quy mô lớn, thời gian thu hồi vốn lâu.
* Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
- Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: là trường hợp khách hàng cam kết sử dụng tài sản của mình để trả nợ cho ngân hàng hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba khi không có khả năng trả nợ gốc và lãi theo đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng.
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là hình thức cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba. Việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của người đi vay.
* Căn cứ vào mục đích vay vốn:
- Cho vay sản xuất kinh doanh: phục vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh
- Cho vay tiêu dùng: phục vụ cho mục đích tiêu dùng cho cá nhân, hộ gia đình.
* Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: là hình thức cho vay áp dụng đối với khách hàng có nhu cầu vốn không thường xuyên
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: phục vụ cho những khách hàng có nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, có mục đích sử dụng vốn, có kế hoạch và phương án vay vốn rõ ràng, có uy tín với ngân hàng. Khách hàng chỉ cần ký hợp đồng tín dụng một lần, những lần giải ngân tiếp theo không cần ký lại hợp đồng tín dụng với điều kiện tổng dư nợ không vượt quá hạn mức đã ký
- Cho vay đầu tư dự án: là hình thức cho vay để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
- Cho vay trả góp: thường áp dụng đối với cá nhân, để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng cá nhân
* Căn cứ vào mức độ rủi ro:
- Tín dụng lành mạnh: là các khoản vay an toàn, có khả năng thu hồi vốn
- Tín dụng có vấn đề: là các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như chậm trả gốc và lãi
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là các khoản nợ đã quá thời hạn trả nợ nhưng khách hàng có thể khắc phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, cam kết sẽ trả nợ hoặc được đảm bảo bởi tài sản cầm cố, thế chấp.
- Nợ quá hạn khó đòi: là các khoản nợ quá hạn lâu, không có khả năng trả nợ....
1.2.1.4 Quy trình tín dụng ngân hàng
*Ý nghĩa của việc thiết lập quy trình tín dụng
Việc thiết lập và không ngừng hoàn thiện quy trình tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Về mặt hiệu quả, quy trình tín dụng hợp lý góp phần nâng cao chất lượng và giảm thiểu rủi ro tín dụng. Về mặt quản trị, quy trình tín dụng có tác dụng sau đây:
+ Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc phân định trách nhiệm và quyền hạn của từng bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng.
+ Quy trình tín dụng làm cơ sở cho việc thiết lập các hồ sơ và thủ tục vay vốn về mặt hành chính.
+ Quy trình tín dụng chỉ rõ mối quan hệ giữa các bộ phận liên quan trong hoạt động tín dụng.
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả các bước đi cụ thể từ khi tiếp nhận nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi ngân hàng ra quyết định cho vay, giải ngân và thanh lý hợp đồng tín dụng. Một bảng mô tả quy trình tín dụng có thể tóm tắt như sau:
Các giai đoạn của qui trình
Nguồn và nơi cung cấp thông tin
Nhiệm vụ của ngân hàng ở mỗi giai đoạn
Kết quả của mỗi giai đoạn
(1)
(2)
(3)
(4)
Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
- Khách hàng đi vay cung cấp thông tin
- Tiếp xúc, phổ biến và hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn
- Hoàn thành bộ hồ sơ để chuyển sang giai đoạn sau.
Phân tích tín dụng
- Hồ sơ đề nghị vay từ giai đoạn trước chuyển sang
- Các thông tin bổ sung từ phỏng vấn, hồ sơ lưu trữ...
- Tổ chức thẩm định về các mặt tài chính và phi tài chính do các cá nhân hoặc bộ phận thẩm định thực hiện.
- Báo cáo kết quả thẩm định để chuyển sang bộ phận có thẩm quyền để quyết định cho vay.
Quyết định tín dụng
- Các tài liệu và thông tin từ giai đoạn trước chuyển sang và báo cáo thẩm định
- Các thông tin bổ sung.
- Quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay dựa vào kết quả phân tích.
- Quyết định cho vay hoặc từ chối tuỳ thuộc kết quả thẩm định.
- Tiến hành các thủ tục pháp lý như ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng công chứng và các loại hợp đồng khác.
Giải ngân
- Quyết định cho vay và các hợp đồng liên quan.
- Các chứng từ làm cơ sở giải ngân.
- Thẩm định các chứng từ theo các điều kiện của hợp đồng tín dụng trước khi phát tiền vay.
- Chuyển tiền vào tài khoản tiền gửi của khách hàng hoặc chuyển trả cho nhà cung cấp theo yêu cầu của khách hàng.
Giám sát và thanh lý tín dụng
- Các thông tin từ nội bộ ngân hàng
- Các báo cáo tài chính theo định kì của khách hàng
- Các thông tin khác.
- Phân tích hoạt động tài khoản, báo cáo tài chính, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay.
- Tái xét và xếp hạng tín dụng.
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
- Báo cáo kết quả giám sát và đưa ra các giải pháp xử lý.
- Lập các thủ tục để thanh lý tín dụng.
*Quy trình tín dụng căn bản:
a. Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng
Là khâu căn bản đầu tiên của qui trình tín dụng, nó được thực hiện ngay sau khi cán bộ tín dụng tiếp xúc với khách hàng có nhu cầu vay vốn. Tuỳ từng trường hợp mà cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ với những thông tin yêu cầu khác nhau. Nhìn chung một bộ hồ sơ đề nghị cấp tín dụng cần thu thập từ khách hàng những thông tin sau:
+ Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách hàng.
+ Thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng.
+ Thông tin về bảo đảm tín dụng.
Ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải lập và nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau:
+ Giấy đề nghị vay vốn
+ Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng.
+ Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ, hoặc dự án đầu tư.
+ Báo cáo tài chính của thời kì gần nhất.
+ Các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay.
+ Các giấy tờ liên quan khác nếu cần thiết.
b. Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi. Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát những loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Mặt khác phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó nhận định về thái độ của khách hàng làm cơ sở quyết định cho vay.
c. Quyết định và ký hợp đồng tín dụng
Quyết định tín dụng là quyết định cho vay hoặc từ chối đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng. Có hai loại sai lầm cơ bản thường gặp trong khâu này:
+ Quyết định chấp thuận cho vay đối với một khách hàng không tốt.
+ Từ chối cho vay đối với một khách hàng tốt.
Cả hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại đáng kể cho ngân hàng. Loại sai lầm thứ nhất dễ dẫn đến thiệt hại do nợ quá hạn hoặc nợ không thể thu hồi, tức là thiệt hại về tài chính. Loại sai lầm thứ hai dễ dẫn đến thiệt hại về uy tín và mất cơ hội cho vay.
Nhằm hạn chế sai lầm, ngân hàng thường chú trọng: (1) thu thập và xử lý thông tin một cách đầy đủ và chính xác làm cơ sở để ra quyết định, (2) trao quyền quyết định cho một hội đồng tín dụng hoặc những người có năng lực phân tích và phán quyết.
Cơ sở để ra quyết định tín dụng: trước hết dựa vào thông tin thu thập và xử lý từ hồ sơ tín dụng, do giai đoạn trước chuyển sang. Kế đến, dựa vào những thông tin khác hoặc thông tin cập nhật hoá có liên quan.
Quyền phán quyết tín dụng:Tuỳ theo qui mô vay lớn hay nhỏ mà quyền phán quyết thường được trao cho một hội đồng tín dụng hay một cá nhân phụ trách.
Sau khi ra quyết định tín dụng, kết quả có thể là chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Nếu chấp thuận cho vay, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng và làm các bước tiếp theo. Nếu từ chối cho vay, ngân hàng sẽ có văn bản trả lời và giải thích lý do cho khách hàng được rõ.
d. Giải ngân
Giải ngân là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng đã được ký kết. Giải ngân là phát tiền vay cho khách hàng trên cơ sở mức tín dụng đã cam kết trong hợp đồng. Giải ngân góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở khâu trước. Ngoài ra, cách thức giải ngâncòn góp phần kiểm tra và kiểm soát xem vốn tín dụng có được sử dụng đúng mục đích cam kết hay không.
Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hoá hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy vậy, giải ngân cũng phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây khó khăn và phiền hà cho khách hàng.
e. Giám sát tín dụng
Giám sát tín dụng là khâu khá quan trọng nhằm mục đích bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã cam kết, kiểm soát rủi ro tín dụng, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Các phương pháp giám sát tín dụng có thể áp dụng bao gồm:
+ Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng.
+ Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kì.
+ Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kì.
+ Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn.
+ Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay.
+ Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác.
+ Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác.
f. Thanh lý hợp đồng tín dụng
Đây là khâu kết thúc của qui trình tín dụng. Khâu này bao gồm:
w Thu nợ
Ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng.tuỳ theo tính chất của khoản vay và tình hình tài chính của khách hàng, hai bên có thể thoả thuận và lựa chọn một trong những hình thức thu nợ sau:
+ Thu nợ gốc và lãi một lần._. khi đáo hạn.
+ Thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi theo định kỳ.
+ Thu nợ gốc và lãi theo nhiều kì hạn.
Nếu đến hạn trả nợ mà khách hàng không có khả năng trả nợ thì ngân hàng có thể xem xét cho gia hạn nợ hoặc chuyển sang nợ quá hạn để sau này có biện pháp xử lý thích hợp nhằm đảm bảo thu hồi nợ.
w Tái xét hợp đồng tín dụng
Thực chất là tiến hành phân tích tín dụng trong điều khoản tín dụng đã được cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, phát hiện rủi ro để có hướng xử lý kịp thời.
w Thanh lý hợp đồng tín dụng
Nếu hết thời hạn của hợp đồng tín dụng và khách hàng đã hoàn tất nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi thì ngân hàng và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, giải chấp tài sản nếu có và lưu hồ sơ vay vốn của khách hàng vào kho lưu trữ.
1.2.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
Rủi ro trong hoạt động tín dụng là đặc trưng nhất và dễ xảy ra nhất. Hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng trả nợ của khách hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Không phải bao giờ dự tính này cũng chính xác tuyệt đối và thời gian qua đi thì khả năng phán đoán lại càng trở nên khó hơn. Người ta cho rằng rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.2.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
Rủi ro tín dụng được định nghĩa là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Có nghĩa là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của các ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Các ngân hàng sẽ không bị đe doạ bởi rủi ro tín dụng nếu luôn luôn nhận lại được cả gốc và lãi của các khoản vay đúng thời hạn, ngược lại nếu người vay gặp khó khăn tài chính, thì cả gốc và lãi khoản vay bị đặt trong tình trạng rủi ro không thu hồi được. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi các ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng lãi suất cố định. Nhưng khi có rủi ro, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, mức vốn có thể mất lại không có giới hạn. Có thể lấy các trái phiếu có phiếu lĩnh lãi cố định do các doanh nghiệp phát hành và các khoản cho vay của ngân hàng để minh chứng cho mâu thuẫn giữa thu nhập và rủi ro tín dụng. Trong cả hai trường hợp, nếu không có rủi ro, nguồn thu nhập của ngân hàng là có giới hạn dưới dạng lãi suất các khoản cho vay hoặc lãi suất trái phiếu, ngược lại ngân hàng thường mất toàn bộ phần lãi suất và có thể một phần hay toàn bộ vốn gốc, điều này còn phụ thuộc vào khả năng bồi hoàn của tài sản thế chấp và kết quả của việc thanh lý tài sản trong trường hợp người đi vay phá sản.
1.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu tài sản của ngân hàng thương mại, và đem lại phần lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại. Nhưng đây cũng là hoạt động luôn luôn chứa đựng nguy cơ rủi ro. Rủi ro tín dụng là loại rủi ro gắn liền với việc không thu được nợ khi đến hạn hoặc ứ đọng vốn, thiếu hụt vốn. Có hai loại rủi ro tín dụng chính đó là:
Rủi ro tín dụng được phân loại dựa vào các tiêu thức sau đây:
- Căn cứ vào tính chất của rủi ro tín dụng:
+ Rủi ro sai hẹn: là rủi ro mà người vay không trả được nợ gốc và lãi đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng
+ Rủi ro mất vốn: là rủi ro mà ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và/hoặc lãi theo hợp đồng tín dụng.
- Căn cứ vào cách phân loại nợ theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của NHNN Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước :
+ Rủi ro đối với nợ cần chú ý: Đó là những khoản nợ quá hạn từ 10 đến 90 ngày, các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu)
+ Rủi ro đối với nợ dưới tiêu chuẩn: là những khoản nợ quá hạn từ 91 đến 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nợ cần chú ý; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng.
+ Rủi ro đối với nợ nghi ngờ: là những khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai.
+ Rủi ro đối với nợ có khả năng mất vốn: là những khoản nợ đã quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nựo cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nựo lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
1.2.2.3 Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
Một số dấu hiệu cảnh báo rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
Khách hàng có biểu hiện:
+ Các khoản nợ gốc và lãi khách hàng không thanh toán đầy đủ hoặc chậm thanh toán.
+ Xin ngân hàng cho kéo dài thời hạn trả nợ, xin gia hạn nợ
+ Có biểu hiện giảm vốn điều lệ
+ Vốn vay bị sử dụng với mục đích khác so với thoả thuận trong hợp đồng
+ Chu kì vay thường xuyên gia tăng
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý và tổ chức khách hàng
+ Không có sự thống nhất trong hội đồng quản trị hay ban điều hành về quan điểm, mục đích, cách thức quản lý...
+ Quản lý nhân sự yếu kém, cơ cấu không hợp lý dẫn đến việc dùng người không hiệu quả và có hiện tượng những người có năng lực rời khỏi công ty
+ Nội bộ không đoàn kết, có sự mâu thuẫn và tranh giành quyền lực.
+ Phát sinh nhiều khoản chi phí không hợp lý
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
+ Giá trị sản lượng hoặc doanh thu của doanh nghiệp suy giảm
+ Thu nhập không ổn định và thiếu tính thường xuyên
+ Chậm trễ trong thanh toán lương cho nhân viên
+ Hệ số quay vòng vốn lưu động thấp, khả năng thanh toán giảm
+ Các khoản nợ thương mại gia tăng một cách bất thường
Nhóm 4: Nhóm dấu hiệu thuộc về xử lý thông tin tài chính, kế toán
+ Chậm chễ hay trì hoãn nộp báo cáo tài chính, các số liệu trong báo cáo tài chính không hợp lý và thiếu chuẩn xác
+ Tăng doanh số bán hàng nhưng lãi giảm hoặc lỗ
+ Tiền mặt giảm, vốn lưu động giảm
+ Sản xuất và bán hàng không đạt chỉ tiêu như kế hoạch
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu thuộc về thương mại
+ Doanh nghiệp chuyển lĩnh vực kinh doanh, kinh doanh những ngành nghề mà không thuộc chuyên môn của mình, lĩnh vực có độ rủi ro cao
+ Yếu tố đầu vào không thuận lợi như: giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng, không nhập được những nguyên liệu đặc chủng...
+ Cơ cấu vốn của doanh nghiệp không hợp lý, sử dụng vốn sai mục đích ví dụ như: dùng vốn vay ngắn hạn để mua sắm, tài trợ cho TSCĐ, nhà xuởng...
+ Chi phí của doanh nghiệp không hợp lý
Nhóm 6: Nhóm các dấu hiệu về mặt pháp luật
+ Có những thay đổi về chính sách liên quan đến ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp theo chiều hướng bất lợi
+ Doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật
1.2.2.4 Tác động của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng và nền kinh tế
* Tác động rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng: Đối với mỗi ngân hàng, uy tín giữ vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh. Với hoạt động cơ bản là huy động vốn, các ngân hàng luôn mong muốn tạo dựng uy tín để huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân. Trong trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng sẽ tác động xấu đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, dẫn đến khả năng không thu hồi được gốc và lãi, lợi nhuận giảm, nợ xấu tăng lên. Đây là nguyên nhân trực tiếp làm giảm sút uy tín của ngân hàng
- Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng: Ngân hàng luôn luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình trong mọi trường hợp. Bất cứ khi nào người gửi tiền đến rút khoản tiền mà họ gửi tại ngân hàng thì ngân hàng đều phải chi trả đầy đủ cả gốc và lãi. Với vai trò là trung gian huy động nguồn vốn nhàn rỗi của các tổ chức, cá nhân để cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận, ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán nguồn vốn mà ngân hàng đã huy động được khi xảy ra rủi ro tín dụng. Khi đó, ngân hàng bị tổn thất về nguồn vốn nhưng vẫn phải thanh toán đầy đủ cho các khoản nợ và khoản vay của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng: Với mỗi ngân hàng, lợi nhuận thu được từ hoạt động cho vay chiếm tỷ lệ rất lớn, từ 40-80% tổng lợi nhuận. Rủi ro tín dụng làm cho ngân hàng mất một phần lợi nhuận do không thu được lãi cho vay, đồng thời, ngân hàng phải bù đắp phần gốc vay không thu hồi được từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Điều này làm cho lợi nhuận của ngân hàng còn lại càng bị thấp.
- Rủi ro tín dụng có thể dẫn tới phá sản ngân hàng: Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm uy tín, giảm khả năng thanh toán, giảm lợi nhuận và hậu quả xấu nhất là dẫn đến phá sản ngân hàng.
* Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế
Ngân hàng - tài chính là lĩnh vực có ảnh hưởng sâu sắc đối với nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng có liên quan chặt chẽ đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội và cá nhân, hộ gia đình... Khi nền kinh tế càng phát triển thì ngân hàng càng giữ vai trò quan trọng. Rủi ro tín dụng gây ra những hậu quả xấu cho chính ngân hàng như: giảm khả năng thanh toán, giảm uy tín, giảm lợi nhuận, đồng thời cũng gây ra những tác động xấu cho nền kinh tế. Sự sụp đổ của các ngân hàng sẽ kéo theo sự xáo trộn rất lớn đối với kinh tế, xã hội. Người gửi tiền bị mất vốn, có thể bị khánh kiệt; các doanh nghiệp không có vốn để tiếp tục duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, sản xuất bị đình trệ, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được... Như vậy hậu quả tất yếu là dẫn đến suy thoái kinh tế. Rủi ro tín dụng không chỉ ảnh hưởng đến kinh tế của một nước mà ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế khu vực và thế giới. Bởi vì hiện nay, quan hệ tín dụng không chỉ hạn chế trong phạm vi một nước mà còn tồn tại quan hệ tín dụng toàn cầu, cho vay giữa các quốc gia với nhau. Do đó, khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể tác động đến nền kinh tế của các nước trong khu vực và quốc tế.
1.2.2.5 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là vấn đề cấp thiết hiện nay mà các NHTM đang dồn toàn tâm toàn lực để giải quyết. Để hạn chế tối đa rủi ro tín dụng ở các NHTM hiện nay thì cần thiết phải tìm ra nguyên nhân phát sinh để có biện pháp giải quyết. Các nguyên nhân chính gây ra rủi ro tín dụng là:
* Nguyên nhân thuộc về phía ngân hàng:
Chính sách tín dụng của ngân hàng còn nhiều bất cập
Chính sách tín dụng giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng hoạt động cho vay của ngân hàng. Một chính sách tín dụng hợp lý sẽ đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng và giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên hiện nay, chính sách tín dụng của NHTM còn nhiều bất cập như: chính sách tín dụng đề cao việc tăng dư nợ hơn là chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, quan tâm đến tài sản đảm bảo nhiều hơn là tính hiệu quả của phương án vay vốn... Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro tín dụng, mỗi ngân hàng cần xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý.
Quy trình cho vay còn nhiều hạn chế
Rủi ro tín dụng tồn tại trong tất cả các khâu của quy trình cho vay bao gồm:
- Thông tin khách hàng không đầy đủ trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn
Trong quá trình thẩm định trước khi ra quyết định cho vay, ngân hàng phải thu thập đầy đủ thông tin liên quan đến khách hàng. Tuy nhiên, trong trường hợp thông tin không đầy đủ và chính xác sẽ dẫn đến rủi ro rất lớn cho ngân hàng. Bởi vì thông tin về khách hàng không đầy đủ sẽ dẫn đến quyết định cho vay sai. Việc cán bộ tín dụng đưa ra quyết định cho vay sai dẫn đến NHTM cho vay những trường hợp rủi ro không trả được nợ.
Thông tin về doanh nghiêp bao gồm tập hợp các thông tin về tình hình tài chính, quản trị, điều hành, ban lãnh đạo, khách hàng, tình hình tiêu thụ sản phẩm... Hiện nay, các NHTM có thể tham khảo thông tin về doanh nghiệp qua Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Tuy nhiên, dữ liệu do CIC cung cấp không phải thường xuyên đầy đủ và cập nhật. Do đó, các NHTM chủ yếu dựa vào nguồn thông tin mà khách hàng cung cấp trong hồ sơ vay vốn.
- Định giá khoản vay chưa phù hợp với mức độ rủi ro của khách hàng
Việc định giá khoản vay không theo mức độ rủi ro của khách hàng không chỉ làm giảm thu nhập của ngân hàng mà còn không khuyến khích khách hàng cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định đầu tư, làm thiếu hụt nguồn bù đắp rủi ro của ngân hàng và làm tăng mức độ rủi ro tín dụng từ cả hai phía ngân hàng và khách hàng. Các ngân hàng định giá khoản vay thể hiện ở việc cấp giới hạn tín dụng cho khách hàng. Nếu mức độ rủi ro của ngân hàng thấp sẽ được cấp giới hạn tín dụng cao và ngược lại. Do đó, nếu đánh giá mức độ rủi ro không phù hợp sẽ làm tăng rủi ro cho ngân hàng.
- Tâm lý ỷ lại tài sản thế chấp
Liên quan đến tài sản đảm bảo nợ vay, rủi ro thường xảy ra ở các tình huống: không có tài sản đảm bảo; hoặc ỷ lại tài sản thế chấp một cách thái quá; hoặc tài sản thế chấp không đủ điều kiện về tính pháp lý của quyền sở hữu, tính thanh khoản và yêu cầu không tranh chấp. Tài sản thế chấp là phương án dự phòng khi dự án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro. Không có phương án kinh doanh nào là phi rủi ro nên tài sản đảm bảo là cần thiết, song tâm lý ỷ lại tài sản thế chấp cũng là một yếu tố gây ra rủi ro do khoản vay cần được trả bằng tiền chứ không phải bằng tài sản.
- Công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay chưa chặt chẽ
Công tác kiểm tra, giám sát món vay, định kỳ đánh giá lại doanh nghiệp, khoản vay và tài sản thế chấp bị buông lỏng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lâu dài, cán bộ tín dụng thường có tâm lý cả nể, tin khách hàng và bỏ qua chế độ kiểm tra định kỳ, phương pháp kiểm tra không khoa học, không phát hiện được những dấu hiệu bất thường trong hoạt động của doanh nghiệp.
Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng còn hạn chế
Trình độ, năng lực của cán bộ tín dụng không chỉ là trình độ chuyên môn mà còn là vấn đề phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp.
- Trình độ nghiệp vụ, năng lực của cán bộ tín dụng hạn chế là nguyên nhân lớn dẫn đến rủi ro tín dụng. Bởi vì cán bộ tín dụng là người tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp, tiếp nhận hồ sơ và thẩm định hồ sơ, đưa ra quyết định cho vay. Như vậy một món vay có được duyệt hay không phụ thuộc rất lớn vào cán bộ tín dụng. Sự hạn chế về trình độ, năng lực trong quá trình thẩm định, quy trình phân tích, đánh giá khách hàng và quyết định cho vay đã dẫn đến rủi ro tín dụng.
- Rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng: Trong quá trình tác nghiệp, cán bộ tín dụng có thể gặp rủi ro đạo đức do quan hệ mờ ám với khách hàng, bị khách hàng mua chuộc... với mục đích che dấu những thông tin xấu của doanh nghiệp hoặc làm thay đổi biến thông tin xấu thành thông tin tốt, dẫn đến việc cho vay đối với những khoản vay tiềm ẩn nhiều rủi ro.
* Nguyên nhân thuộc về phía khách hàng
Rủi ro từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng ngân hàng. Có thể là những nguyên nhân không chủ ý hoặc cố tình của khách hàng nhưng đều để lại tổn thất cho ngân hàng.
- Do năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng còn hạn chế: Năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh doanh là yếu tố định tính, không thể định lượng được. Do đó, trong hồ sơ vay vốn, khả năng này không được thể hiện nên cán bộ tín dụng khó có thể nắm bắt được. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, sự hạn chế này sẽ bộc lộ thông qua một số các chỉ tiêu tài chính như: hàng hóa tiêu thụ chậm, tồn kho tăng, doanh thu giảm, lợi nhuận giảm... , mức độ nghiêm trọng sẽ là mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Khi đó rủi ro tín dụng thuộc về ngân hàng và ngân hàng sẽ khó lòng thu hồi được đầy đủ vốn.
- Rủi ro đạo đức từ phía khách hàng: Khách hàng cố tình sử dụng vốn sai mục đích vay, gian lận số liệu trong hồ sơ vay, chủ động lừa đảo ngân hàng, chây ỳ trả nợ...Trong trường hợp do khách hàng cố tình thì việc phát hiện ra nguyên nhân sẽ khó khăn hơn nhiều đối với cán bộ tín dụng. Với mong muốn vay vốn bằng mọi cách, khách hàng sẽ tìm mọi thủ đoạn để nhằm lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng.
Hiện nay có nhiều trường hợp khách hàng cố tình gian lận trong các báo cáo tài chính, tạo ra những số liệu không trung thực, đưa ra những báo cáo tài chính "đẹp" để được ngân hàng chấp thuận cho vay. Trong khi rất nhiều báo cáo không được kiểm toán thì việc gian lận này ngân hàng sẽ khó nhận biết được.
* Nguyên nhân chung của nền kinh tế,chính trị - xã hội và pháp luật
Hoạt động tín dụng cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác đều chịu sự chi phối của môi trường kinh tế, pháp lý, xã hội... Tất cả những yếu tố của nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đều ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của mọi doanh nghiệp và cá nhân.
- Môi trường kinh tế - xã hội: Khi nền kinh tế tăng trưởng ổn định, vững mạnh thì sẽ tạo điều kiện cho các cá nhân và doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả và có lãi, khi đó, rủi ro tín dụng thấp. Ngược lại khi nền kinh tế bất ổn, có nhiều biến động về chính trị, xã hội sẽ gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của mọi thành phần kinh tế, rủi ro tín dụng sẽ tăng cao.
Các chính sách kinh tế của Nhà nước cũng có tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với các chính sách kinh tế thông thoáng, tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh cả chiều rộng và chiều sâu, làm ăn hiệu quả, có lãi sẽ có nguồn để trả nợ ngân hàng, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
- Môi trường pháp lý: Hệ thống pháp luật có vai trò to lớn đối với tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội... của một quốc gia. Ở nước ta hiện nay, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, có nhiều bất cập làm hạn chế sự phát triển về mọi mặt. Các chính sách kinh tế nói chung chưa đồng bộ, nhất quán gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó có thể dẫn đến một số rủi ro.
Đối với hoạt động ngân hàng, các chính sách về quản lý rủi ro tín dụng còn thiếu và còn yếu, chưa thực sự là kim chỉ nam cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng thương mại. Tính ứng dụng của các chính sách này chưa cao, chưa mang tính thực tiễn là nguyên nhân lớn dẫn đến sự không nhất quán khi đưa vào sử dụng.
- Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến mọi hoạt động của đời sống xã hội. Hiện nay, dù công nghệ tiên tiến, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng con người vẫn chưa chế ngự được tự nhiên. Các yếu tố thuộc môi trường tự nhiên như: mưa gió, hạn hán, lũ lụt, núi lửa, động đất, sóng thần... có thể ập đến bất cứ lúc nào đe doạ cuộc sống của con người. Khi thiên tai xảy ra, rủi ro là rất lớn do con người chưa thể kiểm soát được. Do đó, hậu quả để lại rất nặng nề đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, đặt biệt đối với những ngành phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên như ngành nông nghiệp. Rủi ro cho vay trong trường hợp này là rất lớn, khả năng không thu hồi được nợ gốc và nợ lãi rất cao, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có thể dẫn đến phá sản.
1.2.2.6 Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hoá thành những dấu hiệu phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng:
a. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ.
Nợ quá hạn
• Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm các khoản nợ đến hạn là chưa được thanh toán đã chuyển thành nợ quá hạn. Tỷ lệ này phản ánh trực tiếp chất lượng tín dụng của ngân hàng, tỷ lệ càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn.
• Tỷ lệ nợ quá hạn và gia hạn nợ trên tổng dư nợ.
Nợ quá hạn + Nợ gia hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn và gia hạn nợ =
Tổng dư nợ
Về cơ bản chỉ tiêu này cũng gần giống như tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ nhưng với các khoản nợ quá hạn được gia hạn nợ sẽ được ngân hàng quản lý khác với nợ quá hạn bởi đây là các khoản nợ của khách hàng đã được gia tăng thêm thời hạn, khách hàng vẫn được vay thêm một khoảng thời gian mà không phải chịu lãi suất hay hình thức phạt nào cả, điều này tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Thông thường tỷ lệ này lớn hơn so với tỷ lệ trên và nó cũng trực tiếp phản ánh mức độ rủi ro của các khoản nợ tín dụng nhưng tỷ lệ này phản ánh những rủi ro tiềm ẩn khác mà tỷ lệ trên không phản ánh hết.
• Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng tài sản.
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng tài sản
• Tỷ lệ rủi ro theo thời gian
Dư nợ có khoản thanh toán quá hạn
Tỷ lệ rủi ro theo thời gian =
Tổng dư nợ
Tỷ lệ này xem xét toàn bộ dư nợ còn lại kể từ khi xuất khoản nợ quá hạn do đó, tỷ lệ này phản ánh trung thực và đầy đủ nhất vấn đề rủi ro đang diễn ra tại ngân hàng. Giúp cho ngân hàng đánh giá được tình hình nợ quá hạn theo thời gian hiện tại đang ở mức độ nào.
• Các chỉ tiêu khác
Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, ngân hàng còn dùng rất nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá rủi ro tín dụng như: tính đa dạng hoá của tài sản, chấm điểm khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản vay…
- Chấm điểm khách hàng: Bằng việc phân tích tình hình tài chính, hiệu quả phương án đi vay, năng lực quản lý của doanh nghiệp… ngân hàng sẽ lập một bộ hồ sơ khách hàng và dựa vào những thông số trên để xếp loại và cho điểm. Ngân hàng sẽ lập một thang điểm chuẩn rồi dựa vào đó đánh giá và chấm điểm khách hàng.
- Quan hệ tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng: Đối với những khách hàng có quan hệ lâu dài và tốt đẹp với ngân hàng thì ngân hàng sẽ yên tâm hơn, mức độ rủi ro sẽ thấp hơn. Những khách hàng này sẽ được ngân hàng cho vay với nhiều ưu đãi như lãi suất thấp, có thể không cần bảo đảm tiền vay, không chịu nhiều sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng. Còn đối với những khách hàng mới lập quan hệ với ngân hàng chưa lâu, chưa có uy tín cao thì ngân hàng cần có nhiều thời gian để thu thập thông tin về khách hàng này, chi phí sẽ cao hơn và lượng thông tin có thể sẽ không đầy đủ. Do vậy đối với những đối tượng này thì ngân hàng rất có thể sẽ gặp nhiều rủi ro hơn.
Các khoản vay có TSĐB và không có TSĐB: Với những hình thức đảm bảo khác nhau thì mức độ rủi ro cũng khác nhau và ngân hàng cũng quản lý những khoản vay này theo những phương thức khác nhau. Thông thường thì khoản vay nào cũng cần có TSĐB nhưng đối với một số khoản vay theo chỉ thị của cấp trên, các khoản vay đối với các công ty uy tín thì không cần có TSĐB.
b. Các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng của ngân hàng
Hiệp định Basel I: là thoả thuận về các quy chuẩn tài chính áp dụng đối với các NHTM của nhóm G10 ký ngày 15/07/1988 tại Thuỵ Sĩ. Hiệp định này được coi là một thể chế pháp lý quan trọng nhất có ảnh hưởng đến sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng trên thế giới và hiện nay có trên 100 nước áp dụng các quy chuẩn tài chính của Hiệp định này. Nội dung được qui định: Các tài sản của ngân hàng trong và ngoài bảng cân đối kế toán được phân thành 4 nhóm, tương ứng với mức độ rủi ro của từng nhóm sẽ có một hệ số rủi ro.
Hiệp định Basel sửa đổi năm 1999 (Basel II): trong quá trình thực hiện Hiệp định Basel I một số khiếm khuyết đã dần bộc lộ, nhất là trong việc phân bổ vốn an toàn rủi ro tín dụng. Tháng 6/1999, Hiệp định Basel II ra đời với một số thay đổi như sau:
+ Yêu cầu về vốn an toàn rủi ro: được tính toán dựa trên cách xếp hạng tín dụng do tổ chức chuyên nghiệp thực hiện hoặc đánh giá tín dụng nội bộ do hệ thống các ngân hàng cùng lập ra.
+ Kiểm tra đánh giá: cần thực hiện tốt công tác này để hoạt động của ngân hàng luôn tuân thủ các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng, phát triển và hoàn thiện quá trình đánh giá nội bộ.
+ Nguyên lý thị trường: khuyến cáo các ngân hàng công bố rộng rãi thông tin về tình hình hoạt động, vốn và mức độ rủi ro cho cổ đông.
Tại Việt Nam, NHNN đã ban hành hai văn bản quan trọng liên quan tới vấn đề này:
Quyết định số 297/1999 QĐ- NHNN ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng, theo đó, các TCTD tại Việt Nam phải thường xuyên duy trì các tỷ lệ an toàn gồm:
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: TCTD (trừ chi nhánh các ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ tối thiểu là 8% giữa vốn tự có so với tài sản kể cả cam kết ngoài bảng được điều chỉnh theo mức độ rủi ro.
+ Tỷ lệ thanh khoản: kết thúc ngày làm việc các TCTD phải duy trì cho ngày làm việc tiếp theo tỷ lệ thanh khoản tối thiểu bằng 1 giữa tài sản có thể thanh toán ngay và nguồn vốn phải thanh toán ngay.
+ Tỷ lệ tối đa sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn: các TCTD chỉ được phép sử dụng tối đa 25% nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn. Riêng đối với các đối tượng vay là TCTD cổ phần của Nhà nước, nhân dân và tín dụng của HTX thì tỷ lệ quy định tối đa là 20% và 10%.
Quyết định số 296/1999/QĐ- NHNN về giới hạn cho vay đối với một khách hàng của TCTD. Tổng dư nợ cho vay của một TCTD đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD đó.
1.3. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Đội ngũ cán bộ ngân hàng
Trình độ của cán bộ tín dụng thấp, đây là một trở ngại lớn đối với công tác hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Một ngân hàng có hệ thống qui trình tín dụng chặt chẽ và đầy đủ nhưng nếu nhân viên tín dụng không có khả năng thì họ vẫn có thể đưa ra những quyết định sai lầm, gây tổn thất cho ngân hàng.
Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng cũng là yếu tố không kém phần quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Cán bộ tín dụng vì mưu lợi cá nhân thông đồng với khách hàng gây thiệt hại cho ngân hàng thì ngân hàng khó có thể kiểm soát và hạn chế rủi ro tín dụng được.
Để hạn chế rủi ro tín dụng, bên cạnh việc phải xây dựng các văn bản luật tín dụng, cẩm nang tín dụng một cách hoàn chỉnh và đầy đủ thì ngân hàng cần phải quan tâm tới việc đào tạo đội ngũ cán bộ.
1.3.1.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ thông tin:
Hoạt động trong ngành ngân hàng, yếu tố thông tin là vô cùng cần thiết. Nhưng hiện nay, ở Việt Nam, việc cung cấp thông tin tín dụng còn chậm và đôi khi chưa chính xác, chưa đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng.
Cán bộ tín dụng thường chỉ có thông tin từ phía khách hàng cung cấp, nên độ chính xác không cao, điều này có thể là nguyên nhân dẫn đến những quyết định sai lầm của cán bộ trong quá trình thẩm định dự án và quyết định cho vay. Ví dụ: các NHTM có thể tham khảo thông tin về doanh nghiệp qua Trung tâm thông tin tín dụng (CIC). Tuy nhiên, dữ liệu do CIC cung cấp không phải thường xuyên đầy đủ và cập nhật. Do đó, các NHTM khó thu thập chính xác và đầy đủ nguồn thông tin về khách hàng; vì thế rủi ro tín dụng xẩy ra là điều khó có thể tránh khỏi
1.3.2 Nhân tố khách quan
1.3.2.1 Khách hàng
a. Ý thức của khách hàng
Nếu khách hàng không có ý thức về trách nhiệm phải trả nợ, họ cố tình chay ì, chiếm dụng vốn của ngân hàng thì dù ngân hàng có nhận thức và thực hiện nhiều biện pháp chặt chẽ để hạn chế rủi ro, kiểm soát khoản vay của khách hàng một cách sát sao thì khách hàng vẫn tìm được kẽ hở để luồn lách, lừa đảo... Ý thức khách hàng là yếu tố khách quan gây nên rủi ro tín dụng, nằm ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng.
b. Năng lực của khách hàng
Khách hàng có ý thức trả nợ nhưng nếu thiếu năng lực, làm ăn thua lỗ thì cũng không thể thanh toán nợ ngân hàng. Vì vậy, năng lực khách hàng là yếu tố quan trọng ngân hàng cần phải xem xét khi quyết định cho vay. Nhưng để đánh giá đúng năng lực của khách hàng là điều không dễ, đây chính là trở ngại đối với ngân hàng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.2.2 Môi trường kinh tế – chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ
Bất kì sự thay đổi nào của Chính phủ về chính sách phát triển kinh tế, phát triển ngành nghề, chính sách tài chính- tiền tệ, chính sách thuế... đều có ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng. Nếu ảnh hưởng đó tác động tới doanh nghiệp là tiêu cực thì ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng theo do khó có khả năng thu hồi nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, sự thay đổi một cách bất ngờ các chính sách liên quan đến kinh tế của Chính phủ là nhân tố ảnh hưởng tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Hệ thống pháp luật của Nhà nước nếu thiếu đồng bộ, không chặt chẽ và rõ ràng sẽ tạo cơ hội cho những kẻ xấu lợi dụng kẽ hở pháp luật để thực hiện những hành vi xấu gây thiệt hại cho ngân hàng. Ngân hàng khó có thể nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng nếu Nhà nước không xây dựng một hệ thống luật pháp ổn định và hoàn thiện.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG
THĂNG LONG
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG THĂNG LONG
2.1.1 Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long
Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long tiền thân là Chi nhánh NH NT Cầu Giấy. Ngày 12/8/2005 đổi tên thành Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long có trụ sở tại thủ đô Hà Nội, là một trong những Chi nhánh lớn của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Từ những ngày đầu mới thành lập với số lượng khách hàng khiêm tốn, cơ sở vật chất thiếu thốn, lạc hậu. Cho đến nay, cùng với sự nỗ lực của toàn thể ban lãnh đạo và._. khách hàng.
+ Đối với khách hàng truyền thống: do có độ đảm bảo an toàn cao hơn và có quan hệ lâu dài với NH nên có thể được hưởng lãi suất ưu tiên, thủ tục vay vốn đơn giản...
+ Xây dựng mối quan hệ với khách hàng cũng giúp ngân hàng giữ được những khách hàng truyền thống và thu hút những khách hàng tiềm năng.
Xây dựng mối quan hệ này là một biện pháp quan trọng trong việc quản trị rủi ro tín dụng.
3.2.4 Thành lập Phòng Quản lý rủi ro tín dụng
Trong quản lý rủi ro tín dụng, Chi nhánh cần thành lập phòng quản lý rủi ro để chuyên quản lý đối với từng khoản tín dụng và đối với danh mục tín dụng. Quản lý rủi ro đối với từng khoản tín dụng đòi hỏi kiến thức cụ thể về hoạt động kinh doanh và điều kiện tài chính của đối tác trong khi quản lý rủi ro danh mục tín dụng yêu cầu kiến thức bao quát toàn diện để giám sát toàn bộ thành phần và chất lượng danh mục tín dụng. Ngân hàng cần phải có hệ thống giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng phù hợp với tính chất, quy mô và tính phức tạp của danh mục tín dụng. Việc giám sát chất lượng của toàn bộ danh mục tín dụng giúp cho ngân hàng có được cái nhìn tổng thể về rủi ro tín dụng, từ đó dễ dàng nhận biết được rủi ro đầu tư tập trung vào những hạng mục nào (khách hàng, khu vực, ngành nghề…), trên cơ sở đó có những điều chỉnh thích hợp để tránh sự tập trung đầu tư quá mức nhằm làm giảm thiểu rủi ro.
Ngoài ra, ngân hàng cũng cần thiết lập được bộ phận chuyên nghiên cứu, phân tích diễn biến và dự báo kinh tế vĩ mô kể cả ngắn hạn và trung dài hạn dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình.
3.2.5 Tăng cường cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Thực tế cho thấy, trước tình hình kinh tế có nhiều biến động như hiện nay, rủi ro tiềm ẩn đối với hoạt động tín dụng là rất lớn. Vì vậy, cho vay có tài sản đảm bảo là yêu cầu cần thiết, nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Với tỷ trọng cho vay các DNNN không có tài sản đảm bảo tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long khá lớn như hiện nay, yêu cầu cấp thiết là phải tăng cường tỷ trọng cho vay có tài sản đảm bảo. Đối với những khoản cấp tín dụng mới, Chi nhánh cần yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo ngay từ khi xét duyệt cấp tín dụng, còn đối với những khách hàng đã được duyệt cấp tín dụng, yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo cho khoản vay có giá trị tương ứng với dư nợ hiện tại. Đặc biệt đối với những khoản vay có nguy cơ phát sinh nợ xấu, nợ quá hạn, Chi nhánh phải tìm mọi cách để tăng thêm tài sản cầm cố, thế chấp.
Trong quá trình xem xét, thẩm định đối với tài sản đảm bảo, CBTD cần lưu ý đến các đặc điểm sau của tài sản:
Thuộc quyền sở hữu, quyền quản lý, sử dụng của khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh:
Để chứng minh các điều kiện này, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải xuất trình Giấy chứng nhận sở hữu, quyền quản lý sử dụng tài sản. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được thế chấp theo quy định của pháp luật về đất đai. Đối với tài sản mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, sử dụng, doanh nghiệp phải chứng minh được quyền được cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản đó.
Thuộc loại tài sản được phép giao dịch:
Tài sản được phép giao dịch được hiểu là các loại tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua bán, tặng, cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh và các giao dịch khác.
Không có tranh chấp tại thời điểm ký kết Hợp đồng bảo đảm:
Để thỏa mãn điều kiện này, Chi nhánh yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh cam kết bằng văn bản về việc tài sản không có tranh chấp về quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý tài sản đó và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về cam kết của mình.
Phải mua bảo hiểm nếu pháp luật có quy định:
Đối với các tài sản mà pháp luật quy định phải mua bảo hiểm thì Chi nhánh yêu cầu khách hàng vay, bên bảo lãnh xuất trình Hợp đồng mua bảo hiểm trong thời hạn bảo đảm tiền vay. Trường hợp khoản vay có thời hạn dài, khách hàng vay và bên bảo lãnh có thể xuất trình hợp đồng mua bảo hiểm có thời hạn ngắn hơn song phải có cam kết bằng văn bản về việc tiếp tục mua bảo hiểm trong thời gian tiếp theo cho đến khi hết thời hạn bảo đảm.
Tính dễ chuyển nhượng của tài sản:
Nhằm đảm bảo khả năng thu nợ nhanh gọn, Chi nhánh chỉ nên lựa chọn các loại tài sản dễ chuyển nhượng, dễ bán trên thị trường để nhận làm tài sản đảm bảo. Các ngôi nhà có giá trị nhỏ, ở sâu trong ngõ, máy móc, thiết bị chuyên dụng, hàng hóa đặc biệt... là các loại tài sản cần hết sức thận trọng khi xem xét nhận thế chấp, cầm cố.
Tính chóng hỏng, giảm giá trị nhanh theo thời gian:
Chi nhánh không nên nhận các tài sản chóng bị hỏng và giảm giá trị nhanh theo thời gian làm tài sản đảm bảo. Riêng trường hợp đảm bảo tiền vay bằng các lô hàng hình thành từ vốn vay, Chi nhánh có thể xem xét chấp nhận với điều kiện quản lý, giám sát được lô hàng và lô hàng đó dễ bán trên thị trường trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
3.2.6. Mở rộng đầu tư có chọn lọc
Cơ cấu dư nợ cho vay khách hàng của chi nhánh chưa thật đồng đều, chỉ tập trung vào một số khách hàng lớn, chủ yếu là kinh doanh thương mại phục vụ cho xuất nhập khẩu mà chưa mở rộng cho vay đối với khách hàng là doanh nghiệp sản xuất hoặc doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Vì vậy trong thời gian tới chi nhánh phải mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp sản xuất, doanh nghiệp ngoài quốc doanh để mở rộng thị trường, đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng trung bình là 22-23%/năm. Tuy nhiên, phương châm của ngân hàng là mở rộng đầu tư nhưng phải dựa trên nguyên tắc bảo đảm an toàn tín dụng.
Việc lựa chọn lĩnh vực, ngành nghề đầu tư có tiềm năng để mở rộng hoạt động cho vay là vô cùng cần thiết. Song thu thập được những thông tin này là không dễ, hơn nữa môi trường kinh tế và pháp luật thường có sự biến động bất ngờ khó dự đoán trước được nên không dễ để đưa ra những đánh giá xác thực về xu thế phát triển của các lĩnh vực trong tương lai. Vì vậy ngân hàng phải hết sức thận trọng trong việc lựa chọn dự án, ngành nghề để cho vay.
3.2.7 Tăng cường hiệu lực của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ
Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ giữ vai trò quan trọng đối với tất cả các ngân hàng thương mại. Đặc biệt đối với hoạt động tín dụng, là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro thì hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với lĩnh vực này là không thể thiếu. Qua kiểm tra, kiểm soát có thể phát hiện những hạn chế, thiếu sót trong quá trình tác nghiệp, đồng thời ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra.
Để tăng cường hiệu lực của bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ, Chi nhánh cần thực hiện một số biện pháp sau:
Hoàn thiện quy trình kiểm tra, kiểm soát nội bộ đối với hoạt động tín dụng. Trong quy trình cần nêu các phương pháp kiểm tra cụ thể, đồng thời đối tượng kiểm tra cũng có tính bao quát, không tập trung vào một số hồ sơ tín dụng riêng lẻ mà phải khái quát được toàn bộ hoạt động tín dụng của Chi nhánh.
Nên bố trí, sắp xếp cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ có kinh nghiệm, công tác nhiều năm trong lĩnh vực tín dụng.
Thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác kiểm tra nội bộ. Do yêu cầu đặc thù của công việc, cán bộ kiểm tra nội bộ phải am hiểu sâu sắc các quy định, văn bản, chế độ pháp luật của ngành ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Vì vậy, việc bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kiến thức là yêu cầu bắt buộc đối với bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ.
3.2.8 Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng
Hệ thống thông tin tín dụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình thẩm định và ra quyết định cho vay của CBTD, góp phần lựa chọn khách hàng và hạn chế rủi ro tín dụng. Hiện nay, trong thẩm định vay vốn của ngân hàng còn hạn chế mà nguyên nhân chủ yếu là thiếu thông tin để phân tích, đánh giá về khách hàng vay vốn. Thông tin trong bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng còn thiếu, nhất là từ các báo cáo tài chính. Số liệu trong các báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chưa kiểm toán, nhiều khách hàng kê khai không chính xác.
Ngoài ra, hệ thống thông tin của ngân hàng chưa đầy đủ đã làm cho việc phân tích, đánh giá khách hàng thiếu chính xác, dẫn đến rủi ro tín dụng, khách hàng không trả được nợ. Thông tin lưu trữ tại ngân hàng còn thiếu và không cập nhật thường xuyên, chưa được tập hợp lưu trữ có hệ thống nên khó khăn cho việc tra soát.
Thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) cũng thiếu nhiều dữ liệu cần thiết và không cập nhập về khách hàng. Một số thông tin có thể khai thác từ cơ quan thuế, kiểm toán... thì lại không lấy được dữ liệu do chưa có cơ chế phối hợp rõ ràng giữa ngân hàng với các cơ quan này, chủ yếu tìm hiểu được là nhờ quan hệ.
Để nâng cao chất lượng thông tin phục vụ công tác tín dụng, chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long cần thực hiện một số biện pháp sau:
Thứ nhất, thiết lập hệ thống thông tin đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau:
- Từ chính nguồn thông tin trong hồ sơ vay vốn của khách hàng, yêu cầu các nguồn thông tin này phải được kiểm toán của cơ quan có thẩm quyền. Đối với các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán, khi xem xét thẩm định hồ sơ, CBTD phải thận trọng. Nếu nghi ngờ thì có thể kiểm chứng bằng cách sử dụng thêm một số nguồn thông tin khác.
- Qua việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng vay vốn để tìm hiểu thông tin với những phương pháp: phỏng vấn trực tiếp, phát phiếu điều tra... Cách tìm hiểu thông tin này rất quan trọng và cần thiết, bởi vì nhiều thông tin có ý nghĩa không thể phản ánh hết trên hồ sơ vay vốn, như các thông tin định tính.
- Từ chứng từ lưu trữ trong hệ thống thông tin của ngân hàng. Trong đó, có những thông tin cơ bản do khách hàng có thể có mối quan hệ vay, gửi tiền tại ngân hàng trước đây.
- Các nguồn thông tin từ các đối tượng khác: đối tác, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, báo chí, thông tin trên mạng internet...
Thứ hai, quản lý thông tin khoa học, thuận tiện cho việc tìm kiếm.
- Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long cần đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý khách hàng, sử dụng phần mềm tin học để hỗ trợ trong quá trình tác nghiệp.
- Khi tiếp nhận hồ sơ của khách hàng, cần phân tích theo hướng chuyên môn hóa, từ đó sắp xếp thông tin theo loại hình cho vay, thuận tiện cho công tác tra cứu sau này khi tìm kiếm thông tin đối với hình thức cho vay tương tự.
- Tài liệu phân tích phải được lưu trữ theo một mẫu biểu thống nhất và quy chuẩn.
Thứ ba, tăng cường hợp tác, trao đổi và chia sẻ thông tin giữa các NHTM trong việc cung cấp thông tin về khách hàng.
Hiện nay, mỗi ngân hàng đều xây dựng một trung tâm thông tin tín dụng riêng để phục vụ hoạt động tín dụng nội bộ. Tuy nhiên hiện nay do cạnh tranh lẫn nhau nên các ngân hàng thường bí mật về nguồn thông tin này. Điều này tiềm ẩn rủi ro lớn khi xảy ra rủi ro đạo đức của khách hàng vay, khách hàng cố tìm mọi cách để vay được vốn ngân hàng, bằng cách có thể sử dụng cùng một phương án vay vốn, cùng một tài sản thế chấp để vay tại nhiều ngân hàng. Khi đó, việc trao đổi và chia sẻ thông tin giữa các ngân hàng về khách hàng vay là rất cần thiết, có thể giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro trong cho vay.
3.2.9 Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp
Đối với mỗi ngân hàng, lực lượng nhân sự đóng vai trò quyết định trong mọi hoạt động nghiệp vụ. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng, là lực lượng lao động mà không một máy móc, công nghệ nào có thể thay thế được thì trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn. Trước thực trạng tại chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long, đội ngũ làm công tác tín dụng còn rất non trẻ cả tuổi đời và tuổi nghề thì việc bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp rất cần thiết.
Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác tín dụng:
Thường xuyên tổ chức các lớp học, tập huấn cho cán bộ làm công tác tín dụng về kiến thức pháp luật, kinh tế, bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, phân tích rủi ro tín dụng cho cán bộ tín dụng.
Xây dựng chính sách đào tạo, khuyến khích cán bộ đang công tác tại Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long đi học cao học, tiến sỹ tại các trường đại học trong và ngoài nước nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ xuất sắc.
Nâng cao tinh thần và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ làm công tác tín dụng:
Để hạn chế rủi ro tín dụng, rủi ro đạo đức nghề nghiệp, đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm, cần có chế độ lương bổng thích hợp để khuyến khích cán bộ làm công tác tín dụng. Hiện nay, chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long áp dụng mức lương như nhau cho tất cả các cán bộ làm việc tại các phòng ban (không tính đến thâm niên công tác) là không hợp lý, không khuyến khích người lao động hăng say hết mình với công việc. Do đó, đối với cán bộ làm công tác tín dụng, cần xây dựng một chính sách lương, thưởng phù hợp với mức tăng trưởng dư nợ của cán bộ đó. Đồng thời cũng áp dụng mức phạt nhất định trong trường hợp xảy ra rủi ro tín dụng đối với khoản vay như: tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi... để từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm, gắn quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ làm công tác tín dụng đối với mỗi khoản vay mà cán bộ đó phụ trách.
3.3. KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam
Mô hình tín dụng mới qua thời gian áp dụng thử nghiệm tại 3 Chi nhánh, từ tháng 7/2006 đã được áp dụng chính thức trong toàn bộ hệ thống NH TMCP NT Việt Nam Để mô hình thực sự phát huy hiệu quả trong công tác tín dụng nói chung và quản lý rủi ro tín dụng nói riêng, NH TMCP NT Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu để có những chỉnh sửa kịp thời và ban hành những văn bản hướng dẫn cụ thể về quy trình tác nghiệp cũng như cách thức làm việc của các bộ phận có liên quan.
Với tư cách là đơn vị chủ quản của toàn bộ hệ thống Ngân hàng Ngoại thương và có các phòng ban chuyên trách đảm nhiệm công tác hoạch địch chính sách tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng, NH TMCP NT Việt Nam cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện một hệ thống quản lý rủi ro định hướng thông lệ quốc tế. Cụ thể:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm và xếp hạng doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá kết quả áp dụng trong thời gian vừa qua, nghiên cứu nhằm bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu tài chính và phi tài chính. Đây sẽ là tiền đề cho việc xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của NH TMCP NT Việt Nam, từ đó có thể áp dụng phương pháp phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo chuẩn mực quốc tế
Cần sớm nghiên cứu và xây dựng mô hình lượng hoá cụ thể mức độ rủi ro của doanh nghiệp cũng như mô hình định lượng để xác định GHTD trên cơ sở mức độ rủi ro của doanh nghiệp; xây dựng mô hình đánh giá và cảnh báo sớm rủi ro để áp dụng chung cho toàn hệ thống.
NH TMCP NT Việt Nam cần sớm xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống thông tin quản lý đảm bảo cập nhật, chính xác và đầy đủ. Hệ thống thông tin này được tập trung tại Hội sở chính, kết nối trực tuyến với các chi nhánh trên cơ sở mạng máy tính nội bộ (LAN). Nội dung hệ thống này bao gồm tất cả các thông tin cần thiết cho hoạt động quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng. Với trình độ công nghệ chưa đồng bộ giữa các ngân hàng như hiện nay thì NH TMCP NT có thể thiết kế những mẫu biểu thông tin riêng phù hợp với xu hướng phát triển công nghệ riêng của mình trong đó bám sát các nội dung khoa học chung của các vấn đề báo cáo và đặc biệt phải bám sát quy định chung của quốc tế. Mặt khác, hệ thống thông tin này lại còn phải phù hợp với các yêu cầu báo cáo chung của NHNN.
Để nâng cao tính độc lập của bộ phận kiểm tra nội bộ tại các Chi nhánh NH TMCP NT cần phải tiến hành theo hướng tổ chức lại bộ máy và hoạt động của Ban kiểm soát HĐQT và Phòng Kiểm tra nội bộ trung ương kết hợp với việc tăng cường tính chủ động của các cán bộ làm công tác kiểm tra, kiểm soát ở chi nhánh qua việc đan xen giữa quản lý theo chiều ngang và quản lý theo ngành dọc. Việc tăng cường mối quan hệ giữa Ban kiểm soát HĐQT và Phòng kiểm tra nội bộ cũng như nâng cao vai trò quản lý theo ngành dọc của khâu kiểm tra, kiểm soát có tác dụng làm tăng tính độc lập của bộ phận kiểm tra, kiểm soát ở các đơn vị thành viên do kết quả kiểm tra được báo cáo lên cả Giám đốc các đơn vị thành viên và Phòng kiểm tra nội bộ trung ương.
NH TMCP NT Việt Nam cần tạo điều kiện cho các Chi nhánh trong công tác đào tạo cán bộ tín dụng nói chung và cán bộ quản lý rủi ro tín dụng nói riêng. Với sự ra đời của Trung tâm đào tạo, NH TMCP NT cần thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo về các lĩnh vực chuyên môn cung cấp nền tảng kiến thức toàn diện cho các cán bộ tín dụng.
3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
3.3.2.1. Cần hoàn thiện các văn bản, quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng.
Hiện nay việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động tín dụng được thực hiện theo Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN ban hành ngày 25/4/2007.
Theo quyết định này, các khoản nợ thuộc nhóm 2 trích lập 10% dự phòng, nhóm 3 trích lập 20% dự phòng, nhóm 4 trích lập 50% dự phòng, nhóm 5 trích lập 100%. Việc qui định tỷ lệ trích lập dự phòng như trên là quá cứng nhắc, kém linh hoạt, ví dụ như không có cơ sở gì để đảm bảo những khoản tín dụng cùng một nhóm có mức độ tổn thất như nhau.
Do các văn bản quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng chưa rõ ràng, chặt chẽ và thiếu linh hoạt. Điều này đã gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc xử lý nợ quá hạn để làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của bản thân các ngân hàng. Chính vì vậy, việc hoàn thiện các văn bản, quy chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết.
3.3.2.2. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm soát.
Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại trên cơ sở pháp luật hiện hành, phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình thực tế của ngân hàng.
Công tác thanh tra là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của NHNN, mục tiêu của công tác thanh tra là nhằm phát hiện kịp thời, ngăn chặn và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật của NHTM. Nhưng trên thực tế, NHNN chỉ mới thực hiện việc kiểm tra, theo dõi ở giai đoạn sau khi đã phát sinh rủi ro, chưa thực hiện công tác giám sát từ xa để phòng ngừa và ngăn chặn kịp thời. Cần phải xây dựng một số điều luật nhằm tăng cường hơn nữa vai trò kiểm tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động tín dụng của NHTM.
3.3.2.3. Cần đẩy mạnh hoạt động thông tin tín dụng nhằm nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam.
Việc hình thành và phát triển hệ thống TTTD ngân hàng Việt Nam trong những năm qua là một bước đi khách quan tất yếu, phù hợp với tiến trình phát triển và đáp ứng đòi hỏi của hoạt động tiền tệ tín dụng trong nền kinh tế thị trường. Hệ thống TTTD trong thị trường tài chính góp phần làm giảm sự không cân xứng về thông tin giữa những người vay và người cho vay, cho phép người cho vay đánh giá rủi ro chính xác hơn và cải thiện chất lượng đầu tư, dễ dàng tư vấn chọn lựa phương án và giảm chi phí tín dụng cho người vay tốt, từ đó tăng khối lượng tín dụng và góp phần phát triển kinh tế. Hoạt động TTTD của ngân hàng Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ, đã hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động tín dụng nói chung. Tuy nhiên, TTTD của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, còn có những khó khăn, tồn tại, chất lượng thông tin chưa thực sự tốt, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhạy, kịp thời và chính xác. Vì vậy, cần phải có sự phối hợp tích cực hơn nữa của NHNN và các NHTM để tiếp tục hoàn thiện và phát triển hoạt động TTTD. NHNN cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng TTTD theo hướng:
+ Cần trang bị cho trung tâm CIC những thiết bị mới, hiện đại đáp ứng được nhu cầu về công việc như: xử lý và phân tích thông tin một cách nhanh chóng, chính xác.
+ Cần phải đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên tại CIC không những về mặt nghiệp vụ mà còn phải chú trọng đào tạo về tin học và ngoại ngữ.
+ Cần tuyên truyền để các NHTM nhận thức đúng về vai trò to lớn của trung tâm CIC từ đó các NHTM có sự hợp tác với trung tâm để chia sẻ thông tin.
3.3.3 Kiến nghị với Chính phủ
Để tạo điều kiện cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, giúp các ngân hàng mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, Chính phủ cần phải:
3.3.3.1. Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán và có sự định hướng lâu dài nhằm tạo môi trường kinh tế ổn định.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng thông qua việc không ngừng hoàn thiện và ổn định các chính sách kinh tế- xã hội.
Một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, giảm hiệu quả sử dụng vốn dẫn đến khó khăn trong việc thanh toán nợ với ngân hàng là do chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính phủ chưa hoàn thiện, thường xuyên có những đổi mới, thiếu tính ổn định. Các doanh nghiệp phải chuyển hướng, điều chỉnh hoạt động, không theo kịp sự thay đổi cơ chế chính sách dẫn tới kinh doanh thua lỗ, ứ đọng hàng hoá, mất khả năng thanh toán.
Vì vậy, trong quá trình điều chỉnh cơ chế, chính sách cần có những bước đệm hoặc những biện pháp tháo gỡ khó khăn xuất hiện do thay đổi trong cơ chế. Đặc biệt, trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài là hết sức gay gắt, Chính phủ cần có những chính sách bảo hộ đối với doanh nghiệp trong nước, điều chỉnh và tăng cường hiệu lực pháp lý của các chính sách thuế, quản lý ngoại hối... bảo đảm tác dụng tích cực của hệ thống cơ chế chính sách.
+ Với tư cách là người tạo lập môi trường vĩ mô, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo cơ sở cho hoạt động tài chính, tín dụng ngân hàng.
Trong lĩnh vực ngân hàng, hiện nay Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, cùng với các bộ luật khác đã được ban hành tạo ra hành lang pháp lý hết sức quan trọng. Tuy nhiên Nhà nước cần chỉ đạo việc ban hành, triển khai thực hiện các nghị định, thông tư hướng dẫn một cách nhanh chóng, đồng bộ giữa các cấp, các ngành, tránh gây ách tắc và đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các NHTM.
+ Đề nghị Chính phủ ban hành nghị định về thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế cho phù hợp với tình hình mới, nghiên cứu phát triển hệ thống lưu thông séc, hối phiếu và hệ thống thanh toán thay thế thanh toán bằng tiền mặt giúp cho việc quản lý, sử dụng vốn vay đúng mục đích.
+ Cần bổ sung tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhằm tăng tiềm lực tài chính, giúp ngân hàng có thể đứng vững trước những biến động của thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh trong môi trường kinh tế hội nhập.
+ Để tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM xử lý nợ tồn đọng thì cần có sự phối hợp đồng bộ của các bộ, các ngành có liên quan.
Bộ tư pháp: cần ban hành văn bản hướng dẫn các phòng công chứng địa phương và UBND các cấp thực hiện công chứng các hợp đồng mua bán những tài sản mà ngân hàng được giao từ các vụ án, để giúp các ngân hàng có thể bán tài sản để thu hồi nợ một cách nhanh chóng.
Bộ tài chính: Theo qui định của Chính phủ “ Việc xử lý tài sản đảm bảo là biện pháp để thu hồi nợ, không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của TCTD”. Vì vậy bộ tài chính cần phải hướng dẫn cụ thể các cơ quan thuế địa phương thực hiện chế độ miễn giảm thuế đối với các công ty quản lý nợ và khai thác tài sản đảm bảo của NHTM.
Cục địa chính: Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản mà công ty Quản lý nợ và Khai thác Tài sản của NHTM cần bán để thu hồi nợ nhưng không có đủ giấy tờ chứng nhận về quyền sở hữu và sử dụng đất thì Cục địa chính phải hợp thức hoá thủ tục giấy tờ này, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng thu nợ.
3.3.3.2. Chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về kiểm toán độc lập, trong đó bổ sung đối tượng kiểm toán bắt buộc là các công ty cổ phần, đó cũng là những doanh nghiệp có doanh số hoạt động lớn nhất là các công ty cổ phần chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước, hiện có số dư nợ vay vốn ngân hàng sau doanh nghiệp nhà nước; giúp cho ngân hàng thẩm định năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn được an toàn, trong và sau khi cho vay và tạo điều kiện để các doanh nghiệp thích ứng với quá trình hội nhập.
+ Chính phủ phải xem xét kĩ khi cấp giấy phép hoạt động cho doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động của doanh nghiệp sau khi cấp phép hoạt động.
+ Cần phải tăng cường năng lực tài chính để nâng số vốn tự có của các doanh nghiệp quốc doanh, tránh tình trạng vốn của ngân hàng chiếm phần lớn trong tổng vốn kinh doanh.
KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển, sự hội nhập của nền kinh tế đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới, môi trường cạnh tranh của hệ thống ngân hàng không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà mở rộng ra toàn cầu. Sự hội nhập này vừa tạo cơ hội (mở rộng thị trường, nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực kinh doanh của ngân hàng, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật và công nghệ ngân hàng điện tử, minh bạch hoá thông tin...) vừa tạo thách thức (phải tuân theo các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là các điều khoản của Basel II, cạnh tranh công bằng và mạnh mẽ hơn trong tất cả các lĩnh vực) cho các ngân hàng Việt Nam. Đứng trước những thách thức này đòi hỏi NHTM Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng để tăng năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh. Không nằm ngoài xu hướng đó, NH TMCP NT Việt Nam nói chung và chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long nói riêng đang nỗ lực hết sức trong việc giải quyết vấn đề về rủi ro tín dụng. Do vậy, việc nghiên cứu giải pháp để hạn chế rủi ro tín dụng là một công việc hết sức có ý nghĩa.
Trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu để thực hiện đề tài, tôi đã hoàn thành được các mục tiêu đề ra:
Thứ nhất, trình bày những vấn đề cơ bản về rủi ro trong ngân hàng thương mại, từ đó hình thành cơ sở lý luận để vận dụng vào phân tích thực tế.
Thứ hai, tìm hiểu, phân tích quá trình thực hiện hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long từ năm 2005 đến năm 2007. Qua đó, đánh giá những kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại, đồng thời phân tích một số nguyên nhân dẫn đến những mặt còn hạn chế
Thứ ba, đề xuất những giải pháp có tính thực tiễn và khả thi để tăng cường hạn chế rủi ro tín dụng tại Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long
Hi vọng rằng trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng và giải pháp mới, Chi nhánh Thăng Long sẽ có những bước tiến tích cực trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng.
Do đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp, trong khuôn khổ một luận văn thạc sỹ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Tôi kính mong các thầy cô giáo, các bạn và tất cả những ai quan tâm đến lĩnh vực này tiếp tục giúp đỡ, đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện.
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TMCP: Thương mại cổ phần
NH TMCP NT : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
NSNN: Ngân sách Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
HTX: Hợp tác xã
DNQD: Doanh nghiệp quốc doanh
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
CTCP: Công ty cổ phần
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
DPRR: Dự phòng rủi ro
NQH: Nợ quá hạn
TTTD: Thông tin tín dụng
CIC: Trung tâm thông tin tín dụng
XNK: Xuất nhập khẩu
VNĐ: Việt Nam Đồng
NH TMCP NT : Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương
TSCĐ: Tài sản cố định
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
- Giáo trình Ngân hàng thương mại – Trường ĐH Kinh tế Quốc dân –PGS.TS Phan Thị Thu Hà
Nghiệp vụ ngân hàng – Trường ĐH Kinh tế TPHCM
Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng – PTS Nguyễn Văn Tiến
- Rủi ro tài chính: thực tiễn và phương pháp đánh giá, Nhà xuất bản tài chính- TS.Nguyễn Văn Nam, TS.Hoàng Xuân Quyến
Cẩm nang quản lý tín dụng ngân hàng
Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê, TS.Nguyễn Văn Tiến (2002)
Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – PGS.TS Lê Văn Tề
Tiền tệ -Ngân hàng – Nguyễn Ninh Kiều
Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Ngân Hàng Nhà nước ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/4/2007 của NHNN Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xủa lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng
Quyết định số 297/1999 QĐ- NHNN ngày 25/8/1999 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng
Quyết định số 296/1999/QĐ- NHNN về giới hạn cho vay đối với một khách hàng của TCTD
Luật các Tổ chức tín dụng 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997
Tạp chí ngân hàng – Số chuyên đề năm 2006
Tạp chí ngân hàng – năm 2007
Báo cáo tín dụng của chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long
Báo cáo tổng kết năm của chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long
Báo cáo kết quả kinh doanh của CN NH TMCP NT Thăng Long
Quản trị Ngân hàng thương mại – Peter S.Rose
Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S.Mishkin
Ngân hàng thương mại – Edward W.Reed, Edward K.Gill
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 1: Tình hình huy động vốn theo đối tượng huy động vốn
Biểu đồ 2: Tình hình huy động vốn theo loại tiền huy động
Bảng 1: Tình hình huy động vốn của Chi nhánh
Bảng 2: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh
Bảng 3: Tín dụng phân theo thời hạn
Bảng 4: Cho vay bằng đồng Việt Nam
Bảng 5: Cho vay bằng ngoại tệ qui đổi
Bảng 6: Cho vay theo loại tiền
Bảng 7: Tín dụng phân theo thành phần kinh tế
Bảng 8: Tín dụng phân theo tài sản đảm bảo
Bảng 9: Tình hình nợ quá hạn tại Chi nhánh
Bảng 10: Nợ quá hạn phân theo kỳ hạn nợ
Bảng 11: Nợ quá hạn phân theo khả năng thu hồi
Bảng 12: Nợ quá hạn phân theo loại tiền
Bảng 13: Trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Vũ Duy Hào, các đồng chí lãnh đạo và các anh chị em cán bộ Chi nhánh NH TMCP NT Thăng Long, các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi hết sức nhiệt tình, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian qua để hoàn thành luận văn này.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7698.doc