Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank

LỜI MỞ ĐẦU Đất nước ta đang trong giai đoạn phát triển nhanh, mạnh ở nhiều lĩnh vực. Đảng và nhà nước đã đưa ra mục tiêu biến nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu này là một vấn đề không hề đơn giản, nó đòi hỏi cần có sự phát triển toàn diện ở tất cả các ngành và cần sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân. Ngành ngân hàng cũng không phải là ngoại lệ, là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, là cầu nối giữa những người muốn tiết k

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệm và những người muốn đầu tư. Là một trung gian tài chính quan trọng các ngân hàng một khi phát triển sẽ là cơ sở cho sự phát triển của các ngành khác. Chúng ta đang ở trong giai đoạn kinh tế toàn cầu, giai đoạn mà hàng rào kinh tế giữa các nước đang dần dần được phá vỡ, nước ta cũng đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều này, một mặt là cơ hội tốt để các ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động, tăng doanh số, lợi nhuận một mặt là một thách thức rất lớn đối với các ngân hàng, các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt trong nội bộ hệ thống ngân hàng và giữa các ngân hàng với những tổ chức tài chính khác. Vì vậy, để có thể giữ được khách hàng và không ngừng gia tăng lợi nhuận, các ngân hàng thương mại luôn phải chú trọng nghiên cứu và phát triển những sản phẩm mới với chất lượng cao nhất, đáp ứng nhu cầu thị trường, bên cạnh đó cần được sự giúp đỡ của nhà nước, nhằm phát huy nội lực, không ngừng nâng cao tính hiệu quả, chính xác của các hoạt động của mình đặc biệt là các hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của các ngân hàng, quyết định đến thành công hay thất bại, đến lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy, hoạt động tín dụng lại là hoạt động chức đựng nguy cơ rủi ro cao nhất, nếu rủi ro xảy ra sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các ngân hàng thậm chí có thể làm cả hệ thống ngân hàng sụp đổ. Như vậy, việc quản lý, phòng ngừa và hạn chế rủi ro là một việc mà các ngân hàng cần hết sức quan tâm nếu muốn duy trì hoạt động cũng như tăng tổng số lợi nhuận, tài sản của mình. Vì thế, trong thời gian thực tập tại ngân hàng VPBank em đã tìm hiểu về hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và của cả hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và chọn đề tài “ hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank ” làm đề tài cho chuyên đề thực tập của mình. Chuyên đề thực tập gồm: Chương I:Tín dụng và rủi ro tín dụng của ngân hàng thuơng mại. Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại Cổ phần Các Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Việt Nam – VPBank. Chương III: Các giải pháp phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng tại VPBank và một số kiến nghị. Em xin chân thành cảm ơn Ths HOÀNG LAN HƯƠNG đã hướng dẫn tận tình và chu đáo, giúp em hoàn thành chuyên đề này. Trong quá trình thực tập em đã cố gắng học hỏi và nghiên cứu, tìm tòi, nhưng do kiến thức thực tế còn chưa nhiều, kinh nghiệm còn ít, nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến của cô để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn. CHƯƠNG I: TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng 1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại các ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ của toàn xã hội.Vì thế, ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngoài ra, ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Với mục tiêu lợi nhuận, đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ hoặc các giấy tờ có giá khác và mục tiêu của ngân hàng cũng là các đối tượng mà nó kinh doanh. Ngân hàng cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp như: mua bán ngoại tệ, nhận tiền gửi, cho vay, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý… Thực hiện trao đổi ngoại tệ: Trong thị trường tài chính ngày nay, mua ban ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy thường có độ rủi ro cao và đòi hỏi trình độ chuyên môn cao Nhận tiền gửi: Cho vay được coi là hoạt động mang lại lợi nhuận cao vì thế ngân hàng tim mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng. Ví dụ như hiện nay do chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước Việt Nam nên có nhiều ngân hàng đã tăng lãi suất tiền gửi lên tới 12%/ năm, đây là mức lãi suất được xem là tương đối cao, tuy nhiên có lẽ là chưa dừng lại ở mức này. Cho vay: gồm có cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ cho dự án. Ngày nay, khi mà thị trường tài chính ngày càng phát triển thì Ngân hàng thương mại trở thành một trung gian tài chính không thể thiếu trong nền kinh tế. Sự cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt thúc đẩy các ngân hàng cung cấp các tiện ích ngày càng tốt hơn cho khách hàng. Vì thế, các ngân hàng trong nước cần phải áp dụng công nghệ mới, thay đổi tư duy về tuyển dụng nhân sự, mức lương, quảng cáo và đặc biệt chú ý tới chất lượng các dịch vụ. Ngân hàng thương mại có chức năng chủ yếu như: là trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán, trung gian thanh toán. Là trung gian tài chính: đây là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Trong xã hội có những người thừa tiền(tức là thu nhập của họ hiện tại lớn hơn các khoản chi cho tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ, và do đó có tiền để tiết kiệm) và cũng có những người thiếu tiền(tức là thu nhập không đủ đáp ứng nhu cầu chi tiêu và đầu tư nên cần được bổ sung vốn) những người thừa tiền tìm đến ngân hàng gửi tiền tiết kiệm nhằm để lấy tiền lãi còn những người thiếu tiền lại tìm đến ngân hàng nhằm vay thêm vốn để đầu tư. Vì thế, ngân hàng tập hợp được những người cần tiết kiệm và những người cần vốn để đầu tư, tức là ngân hàng chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Tạo phương tiện thanh toán: Tiền- vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Ban đầu, các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữa. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất giữa, nó trở thành tiền giấy. Mỗi quốc gia có loại tiền riêng ví dụ như Việt Nam có tiền VND, Mỹ có đồng USD. Ngày nay, tiến bộ khoa học phát triển với những ứng dụng hiện đại thì tiền mặt đã ngày càng được hạn chế vì những nhược điểm của nó thay vào đó là nhiều hình thức thanh toán mới như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm thu, nhờ chi, các loại thẻ… Là trung gian thanh toán: Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia.Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc các trung gian thanh toán khác.Với nhiều hình thức thanh toán khác nhau và ngày càng hiện đại đã góp phần làm cho ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. Tín dụng ngân hàng 1.1.2.1 Khái niệm về tín dụng ngân hàng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, nghiệp vụ tín dụng không chỉ có ý nghĩa với nền kinh tế mà còn có ý nghĩa quan trọng quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hoàn thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác, trên cơ sở số vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng... của các chủ thể kinh tế góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy, ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Khi thiết lập một quan hệ tín dụng phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc đó là : có thời hạn, có hoàn trả và có đền bù. Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, hai bên thoả thuận với nhau một thời hạn nợ và mức nợ, do đó hình thức của tín dụng là di chuyển vốn vay từ ngân hàng sáng cho khách hàng nhưng không phải là sự chuyển đổi về quyền sở hữu vốn, sự chuyển nhượng này chỉ chuyển quyền sử dụng vồn từ ngân hàng sáng cho khách hàng. Sau khi đến hạn thoả thuận, khách hàng hoàn trả khoản vốn đó cho ngân hàng kèm theo một tỷ lệ % tiền lãi. Khi thiết lập quan hệ tín dụng của khách hàng mối quan tâm lớn nhất của ngân hàng là khoản tín dụng đó có đem lại lợi nhuận cho ngân hang hay không, khách hàng có trả được nợ đúng hạn hay không? Chính vì thế, để thiết lập một mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng là phải dựa trên khả năng tài chính của khách hàng, dựa trên lòng tin, sự tin tưỏng của ngân hàng về khả năng hoàn trả nợ đúng hạn của khách hàng. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau: cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống cho vay trung han, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. 1.1.2.2 Phân loại tín dụng Có nhiều cách phân loại tín dụng theo những tiêu thức khác nhau, sau đây là một số cách phân loại. Căn cứ theo phương thức cho vay. Theo tiêu thức này, tín dụng Ngân hàng được chia thành một số loại sau đây: - Cho vay theo hạn mức thấu chi: Đây là hình thức cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian xác định. - Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức cam kết bảo đảm sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng. - Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống. - Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng . - Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức cấp tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. - Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. - Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kì hạn trong thời hạn cho vay. Căn cứ vào thời gian cho vay. Thời gian cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. - Tín dụng ngắn hạn: Tín dụng ngắn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm và thường được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. - Tín dụng trung hạn: Tín dụng trung hạn ở Việt Nam có thời hạn từ 1 đến 5 năm, còn đối với một số nước trên thế giới loại tín dụng này có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ mà thời gian thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: Loại tín dụng này có thời hạn cho vay trên 5 năm (Việt Nam), hay trên 7 năm (đối với một số nước trên thế giới). Tín dụng dài hạn được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như: đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay...), cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. Căn cứ vào đối tượng cho vay - Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được cấp để hình thành vốn cố định. Loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. Thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này trên 12 tháng. - Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh như mua nguyên vật liệu, hàng hoá dự trữ, chi cho các chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Tín dụng vốn lưu động thường được sử dụng để bù đắp mức vốn lưu động tạm thời thiếu hụt. Thời gian cho vay vốn ngắn hạn thường dưới 12 tháng. Căn cứ vào mục đích sử dụng. - Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cung cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua sắm nhà cửa, phương tiện đi lại, các hàng hoá tiêu dùng... Tín dụng tiêu dùng được cấp phát dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc dưới hình thức bán chịu hàng hoá. - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là loại tín dụng cấp cho các chủ thể kinh tế để tiến hành sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Phân loại theo thành phần kinh tế Theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành: - Cho vay doanh nghiệp Nhà nước. - Cho vay kinh tế tập thể. - Cho vay kinh tế tư nhân. - Cho vay kinh tế cá thể. - Cho vay kinh tế hỗn hợp. Trước đây kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo tuy nhiên hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế, đã có rất nhiều doanh nghiệp đã được cổ phần hoá nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường. Nhà nước đã có chính sách khác nhau đối với từng khu vực kinh tế, có tác động lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng ngân hàng tới các thành phần kinh tế nói chung. Mặt khác, mỗi thành phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng biệt nên ngân hàng cần phải có thái độ khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn. 1.1.2.3 Vai trò của tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân Thứ nhất, nó có vai trò là góp phần thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp liên kết, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài… Đồng thời tín dụng ngân hàng còn đáp ứng nhu cầu vốn cần thiết cho các doanh nghiệp và cá nhân để duy trì quá trình sản xuất được liên tục, góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, ngay cả những hoạt động dịch vụ cũng không thể tách khỏi sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng. Nó là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là nhu cầu tiết kiệm vốn cho đầu tư phát triển. Hai là: Tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Là trung gian tài chính, hoạt động chính của ngân hàng là tập trung vốn, tiền tệ tạm thời nhàn rỗi còn phân tán ở mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp... trên cơ sở đó cho vay các đơn vị kinh tế, thực hiện tái sản xuất mở rộng, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hiện đại, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Tín dụng Ngân hàng trở thành đòn bẩy kinh tế quan trọng nhất giúp các nhà sản xuất kinh doanh cạnh tranh trên thị trường một cách có hiệu quả nhất. Ba là: Tín dụng là công cụ tài trợ cho các dự án tạo việc làm, các ngành kinh tế kém phát triển và các nghành mũi nhọn, thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và các chương trình dự án mang tính chất xã hội khác. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cơ cấu kinh tế còn nhiều mặt mất cân đối, lạm phát và thất nghiệp luôn có khả năng tiềm ẩn. Bên cạnh đó, nông nghiệp lại là ngành sản xuất chính, thu nhập bình quân đầu người thấp. Vì vậy, muốn nâng dần thu nhập bình quân đầu người, giải quyết nạn thất nghiệp không phải chỉ dựa vào quỹ ngân sách nhà nước hoặc trông chờ vào các khả năng góp vốn của nước ngoài. Tín dụng Ngân hàng thực sự giữ vai trò quan trọng trong việc đầu tư cho các dự án có ý nghĩa kinh tế xã hội. Song song với việc tài trợ cho các nền kinh tế mũi nhọn, có tiềm năng kinh tế lớn như sản xuất, hàng xuất khẩu, hàng mỹ nghệ, khai thác dầu khí… Bốn là: Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung vốn sản xuất mở rộng quá trình phân công lao động xã hội và tạo điều kiện để phát triển trên các quan hệ kinh tế đối với nước ngoài. Ngân hàng tập trung vốn tạo đà mở rộng quy mô sản xuất và thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và uy tín. Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy nhanh chóng quá trình tập trung và tích luỹ vốn, tạo cho các doanh nghiệp đủ điều kiện hợp tác liên doanh với các tập đoàn kinh tế nước ngoài. Vì trong điều kiện kinh tế hiện nay, phát triển kinh tế của một nước được gắn liền với thị trường thế giới. Điều đó đồng nghĩa với việc tín dụng ngân hàng đã trở thành một trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Năm là: Thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng, nhà nước có thể kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế để đề ra các biện pháp, chính sách quản lý kinh tế và pháp lý phù hợp. Đồng thời điều chỉnh cơ cấu kinh tế và hoạt động của các thành phần kinh tế thông qua các chính sách về tín dụng như là các chính sách ưu đãi về lãi suất và các điều kiện cho vay khác cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất theo mục tiêu định hướng phát triển kinh tế của nhà nước. 1.2 Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.1 Rủi ro của ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá là tiền tệ. Vì thế, nó tồn tại nhiều rủi ro. Rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Phân chia rủi ro theo loại tài sản gồm có: rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng. Phân chia theo nguyên nhân – các nhân tố tác động, gồm có rủi ro do người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do thay đổi tỷ giá, rủi ro do các nguyên nhân khác. Sau đây là các loại rủi ro phổ biến như: Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ cả vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro hối đoái Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi ngoài dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên thay đổi. Có những thay đổi có thể dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến gắn với thay đổi lãi suất và nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và nguồn, quy mô và kì hạn các hợp đồng kì hạn… Nguyên nhân rủi ro lãi suất là Sự không phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản. Sự thay đổi của lãi suất thị trường khác với dự kiến của ngân hàng Ngân hàng sử dụng lãi suất cố định trong các hợp đồng. Rủi ro lãi suất là một loại rủi ro thị trường quan trọng, đặc biệt trong điều kiện lãi suất thường xuyên thay đổi. Vì thế cần phải hạn chế rủi ro lãi suất bằng các biện pháp như: duy trì sự phù hợp về kì hạn của nguồn và tài sản, thực hiện trao đổi lãi suất, áp dụng lãi suất thả nổi, sử dụng các hợp đồng kì hạn… Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến làm tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán Các rủi ro khác Các rủi ro khác là khả nằng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hoản loạn, lỗi công nghệ… Rủi ro tín dụng 1.2.2.1 Khái niệm rủi ro tín dụng Hoạt động ngân hàng luôn hàm chứa rủi ro, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng của các ngân hàng đang trở nên rất đáng quan tâm. Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năng khách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Khi thực hiện cho vay đối với một ngân hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên, những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại- hoạt động tín dụng. Loại rủi ro này có thể phát sinh do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan và cả từ hai phía khách hàng và ngân hàng. Về phía khách hàng Rủi ro tín dụng phát sinh có thể do những nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Về mặt chủ quan có thể do trình độ quản lý của khách hàng yếu kém dẫn đến sử dụng vốn vay kém hiệu quả hoặc thất thoát ảnh hưởng đến khả năng trả nợ. Cũng có thể do khách hàng sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình, họ tìm đủ mọi cách ứng phó với ngân hàng như cung cấp sai thông tin, thiếu thiện chí trong việc trả nợ trong khi biện pháp xử lý nợ của ngân hàng tỏ ra kém hiệu quả. Về mặt khách quan có thể do khách hàng gặp phải những thay đổi môi trường kinh doanh không thể lường trước được, chẳng hạn sự thay đổi về giá cả hay nhu cầu thị trường, sự thay đổi về môi trưòng pháp lý hay chính sách của chính phủ khiến cho doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn tài chính không thể khắc phục được. Vì thế, doanh nghiệp không thể trả nợ cho ngân hàng được. Về phía ngân hàng Rủi ro tín dụng có thể phát sinh do nguyên nhân chủ quan như quá trình phân tích và thẩm định tín dụng không kỹ lưỡng dẫn đến sai lầm trong quyết định cho vay. Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai. Mặt khác, cũng có thể quyết định cho vay đúng đắn nhưng do thiếu kiểm tra kiểm soát sau khi cho vay dẫn đến khách hàng sử dụng vốn vay không đúng mục đích nhưng ngân hàng vẫn không phát hiện kịp thời để ngăn chặn. Vì thế, để cho vay tốt, cán bộ tín dụng phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến khách hàng vay. Như vây, họ cần được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện, đặc biệt cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp. 1.2.2.2 Các hình thức rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không trả nợ gốc và nợ lãi đúng hạn, đầy đủ. Theo phương thức quản lý rủi ro tín dụng hiện nay, người ta chia rủi ro tín dụng thành 4 mức độ rủi ro tín dụng khác nhau: 1.2.2.2.1. Không thu lãi đúng hạn Cấp độ thấp nhất là khi người vay không trả được lãi đúng hạn, khi đó ngân hàng sẽ chuyển số lãi đó vào khoản mục lãi treo phát sinh. Sở dĩ hình thức này được xếp vào cấp độ thấp vì ngoại trừ trường hợp khách hàng muốn quỵt nợ, chiếm dụng vốn thì phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu cân đối trong thời hạn thu nợ và trả nợ của khách hàng. Hình thức này có xảy ra cũng không gây tổn thất quá lớn đến ngân hàng, bởi lẻ số lãi mà ngân hàng chưa thu được trong kỳ sẽ được hạch toán cho kỳ tiếp theo. Thông thường rủi ro này thường gắn với khách hàng là các doanh nghiệp có thời hạn của khoản vốn thường khá dài. 1.2.2.2.2. Không thu được vốn đúng hạn Đây là hình thức rủi ro xảy ra khi đã đến kỳ hạn trả nợ nhưng khách hàng vẫn chưa hoàn trả cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng sẽ chuyển khoản nợ này vào danh mục nợ quá hạn, số vốn của ngân hàng trong một chừng mực nào đó có thể xem là đã mất nhưng trong thực tế khoản nợ quá hạn vẫn hoàn toàn có thể thu hồi được nếu ngân hàng có các biện pháp hợp lý đối với khách hàng của họ. Khoản vay của khách hàng đối với ngân hàng thường có kỳ hạn xác định (6 tháng, 12 tháng, 24 tháng) trong khi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thường không có kỳ hạn xác định, nhiều khi nó chậm hơn dự tính một khoảng thời gian nhất định. Chính vì thế, nhiều khi ngân hàng cần gia hạn cho khách hàng trong một thời gian ngắn để họ hoàn thành chu trình kinh doanh của mình. Thời gian từ khi một khoản vốn được xem là nợ quá hạn đến khi nó được coi là không thể thu hồi là khá dài và trong thời gian này ngân hàng sẽ có các biện pháp để thu được vốn, thông thường tỷ lệ nợ quá hạn là khá cao còn nợ không còn khả năng thu hồi là rất nhỏ. Các khách hàng của ngân hàng sở dĩ chưa trả được khoản vay đúng hạn vì nhiều lý do có thể do chủ quan hay do khách quan. Khi nguyên nhân là chủ quan thì ngân hàng cần có các biện pháp để khách hàng thay đổi hành vi để họ đưa ra quyết định trả nợ. Còn khi nguyên nhân là khách quan, khi khách hàng hiện tại chưa đủ năng lực về tài chính thì ngân hàng cần có các biện pháp để giúp đỡ khách hàng như gia hạn thời hạn vay, cho vay thêm để khách hàng có thể đủ tiền trả cho khách hàng. Khi khách hàng cân đối được thu chi thì họ sẽ hoàn trả được khoản vay. Tóm lại, rủi ro không thu được vốn đúng hạn là hình thức có thể gây hậu quả lớn đối với ngân hàng. Để hạn chế được rủi ro này ngân hàng cần có các biện pháp linh động, phù hợp với từng đối tượng khách hàng cụ thể. Trong nhiều trường hợp ngân hàng cần như một nhà đầu tư mà đối tượng đầu tư là khách hàng của họ. Nhưng biện pháp thích hợp nhất vẫn là xem xét tính hiệu quả dự án của khách hàng, có các biện pháp hạn chế tác hại khi có rủi ro xảy ra như tài sản thế chấp, trả gốc định kỳ. 1.2.2.2.3. Không thu được đủ lãi. Tình hình trở nên nghiêm trọng hơn khi ngân hàng không thu được lãi lúc này, tình hình kinh doanh của khách hàng có thế đã kém hiệu quả tới mức không thể trả đủ lãi cho ngân hàng. Khi đó, ngân hàng phải chuyển khoản lãi này vào khoản mục lãi treo đóng băng, thậm chí có thể phải thực hiện miễn giảm lãi cho khách hàng. Hình thức này có thể xem là hình thức tiếp theo của hình thức rủi ro không thu được lãi đúng hạn. Ban đầu, vì một lý do nào đó khách hàng chưa thể thanh toán khoản lãi đúng kỳ hạn nhưng khi tình hình trở nên xấu đi khách hàng không thể thanh toán được khoản lãi nữa. Các ngân hàng rất dễ mắc phải rủi ro này nếu họ cho vay một cách tràn lan mà không xem xét tính hiệu quả của một khoản vay nào đó, tất nhiên là trong một số trường hợp là nguyên nhân khách quan, bất khả kháng mà khách hàng dù đã tính toán kỹ vẫn mắc phải. Để hậu quả của rủi ro này không ảnh hưởng lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thì họ cần có các hình thức cho vay phong phú, linh động, và đặc biệt cán bộ tín dụng cần xem xét tính khả thi, hiệu quả của khoản vay trước khi có các quyết định cho vay. Việc thu lãi định kỳ cũng sẽ hạn chế hậu quả, giúp ngân hàng xác định sớm được rủi ro mà họ mắc phải để có các biện pháp thích hợp. Lãi là phần lợi nhuận của các khoản cho vay của ngân hàng, nó có yếu tố quyết định đến lợi nhuận ròng mà ngân hàng thu được trong một chu trình kinh doanh nào đó. Việc quản lý, kiểm soát lãi là vấn đề hết sức quan trọng. Rủi ro không thu được lãi là điều các ngân hàng không hề mong muốn nhưng họ cần đối mặt với nó, đó như là chi phí cơ hội cho khoản lợi nhuận trong tương lai của họ. Chỉ khi nào rủi ro không thu được lãi được phòng ngừa, hạn chế một cách tối đa thì ngân hàng mới có thể phát triển, tạo được lợi thế cạnh tranh với các ngân hàng khác. 2.2.4. Không thu được đủ vốn cho vay. Hoạt động tín dụng của ngân hàng luôn đầy rẫy rủi ro, giả sử không có chúng thì hoạt động của ngân hàng hóa ra đã quá đơn giản. Khi thực hiện một hợp đồng tín dụng nào đó, lẻ dĩ nhiên là ngân hàng muốn thu được cả vốn lẫn lãi khi hết thời hạn của khoản cho vay đó. Nhưng thực tế nhiều khi họ phải chấp nhận những trường hợp khách hàng hoàn toàn không có khả năng thanh toán khoản nợ họ đang thiếu cho ngân hàng. Điều này dĩ nhiên cũng do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ quan có, khách quan có nhưng vấn đề của ngân hàng là làm sao tối thiểu các hợp đồng tín dụng không hiều quả này. Xóa nợ là điều không hề mong muốn nhưng trong một chu kỳ kinh doanh nhất định ngân hàng cũng phải chấp nhận. Xóa nợ lẽ dĩ nhiên sẽ làm mất vốn của ngân hàng và ngân hàng phải dùng số vốn dự phòng để bù đắp chúng. Để hậu quả là không quá tệ hại ngân hàng cần có các biện pháp phòng ngừa ngay từ khi hình thành một hợp đồng tín dụng. Hiện nay đối với các khoản vay lớn Ngân hàng thương mại thường bắt buộc các khách hàng hoàn trả thành nhiều lần vào các thời điểm nhất định, như thế rủi ro không thu được vốn xem ra có thể hạn chế được một phần. Tài sản thế chấp nhiều khi cũng đóng vai trò quan trọng khi khách hàng không còn năng lực trả nợ nhưng điều mà các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam còn yếu kém là việc định giá tài sản thế chấp còn rất kém, cộng thêm việc giai lận của khách hàng nên việc áp dụng tài sản thế chấp nếu muốn phát huy hiệu quả thì ngân hàng cần có các biện pháp nghiệp vụ nhất định. Trên đây là bốn hình thức của rủi ro tín dụng mà các ngân hàng thường mắc phải. Ở những thời điểm nhất định ngân hàng có thể gặp một hay nhiều hình thức rủi ro này, nghiên cứu bốn hình thức rủi ro này giúp cho các Ngân hàng thương mại có một cái nhìn toàn cảnh về rủi ro tín dụng qua đó họ có thể ý thức được tác hại của chúng giúp cho họ có các biệ._.n pháp nghiệp vụ hợp lý để phòng ngừa và hạn chế hậu quả mà chúng gây nên. Để hoạt động tín dụng của mình thực sự có hiệu quả thì các ngân hàng tất yếu phải có các biện pháp huy động, cho vay hợp lý cần thực hiện các yêu cầu về hoạt động tín dụng, chu trình tín dụng đúng đắn. Về phía đội ngủ cán bộ nhân viên của ngân hàng thì họ cần nâng cao nghiệp vụ ngân hàng, không ngừng học tập, tiếp cận với các kiến thức tiên tiến trên thế giới về lĩnh vực ngân hàng. Không chỉ cần có kiến thức các ngân hàng cũng cần giáo dục cho nhân viên của mình về thái độ đối với công việc, đối với khách hàng tạo cho họ có một môi trường làm việc thích hợp để họ phát huy được năng lực của mình. Ngân hàng cũng cần có các biện pháp để quản lý chặt chẻ nhân viên của mình, tránh tình trạng nhân viên vì mưu lợi cá nhân mà bỏ qua các quy tắc của hoạt động tín dụng dẫn đến nguy cơ rủi ro cao cho các ngân hàng. Gần đây, một số nhân viên của ngân hàng do mưu lợi cá nhân mà chấp nhận các dự án không có tính khả thi, hiệu quả dẫn đến việc ngân hàng bị mất vốn khi khách hàng không có khả năng chi trả khoản mà họ đã vay. 2.3. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng. Tuy rủi ro tín dụng là khách quan song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh rủi ro tín dụng, ngân hàng cụ thể hoá thành những chỉ tiêu hoặc những dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh rủi ro tín dụng: Nợ quá hạn và tỷ lệ quá hạn trên tổng dư nợ Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ Nợ có vấn đề Tính đa dạng hoá của tài sản Tình hình tài chính của phương án của người vay hoặc xếp hạng tín dụng người vay. Đảm bảo tiền vay. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Môi trường hoạt động của người vay. Nợ quá hạn Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng sẽ được chuyển thành nợ quá hạn. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và kèm theo một số chỉ tiêu khác như quá một kỳ gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản… Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh cáo cho ngân hàng: Hi vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Các quan điểm khác nhau, các tính toán khác nhau về kì hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm cho các chỉ tiêu này bị biến dạng Thứ nhất do kì hạn trả nợ không đúng. Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn hạn để hạn chế rủi ro. Kỳ hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập của người vay. Khi đến hạn, người vay dĩ nhiên không thể trả được nợ, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tào chính đối với người vay, buộc họ phải trả them phần phụ phí để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt. Thứ hai, do đảo nợ hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với ngân hàng cấp trên hoắc để không chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên ngân hàng thoả thuận vay khoản mới để trả nợ cũ. Nhân viên ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi này làm cho chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không thể phản ánh đầy đủ rủi ro tín dụng. Thứ ba, do chính sách cho vay. Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi bằng phát mại tài sản. Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ. Khi Chính Phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của ngân hàng, trở thành tài sản ảo. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào khoản nợ khoanh ( khi được Chính Phủ đồng ý ). Tuy nhiên chúng thực sự đe dọa thu nhập của ngân hàng nếu Chính Phủ không tìm ra nguồn bù đắp. Nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = * 100% Tổng dư nợ cho vay Tỷ lệ nợ quá hạn gián tiếp cho thấy được quy mô của các khoản cho vay có vấn đề của ngân hàng. Nếu tỷ lệ này càng lớn thì càng chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là kém, ngân hàng cần phải xem xét lại khả năng đánh giá của các khoản vay của mình, đánh giá lại quá trình thủ tục cho vay, đặc biệt cần xem xét lại khả năng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của cán bộ ngân hàng ở phòng tín dụng. Theo quy định của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam, thì tỷ lệ nợ quá hạn trên 7% thì ngân hàng này được đánh giá là kém và ngân hàng cần phải điều chỉnh các nghiệp vụ của mình. Còn nếu tỷ lệ này dưới 5% thì chứng tỏ ngân hàng này thực hiện các nghiệp vụ tín dụng khá tốt và ngân hàng cần phải phát huy hơn nữa nhằm làm cho chất lượng cho vay ngày càng đạt hiệu quả cao hơn, làm cho ngân hàng ngày càng phát triển. Chỉ tiêu nợ quá hạn có thể thấp, có thể giảm đi qua các năm nhưng là do dư nợ của ngân hàng tăng nhanh chóng, nợ quá hạn của ngân hàng vẫn tăng đều đặn nhưng dư nợ của ngân hàng lại tăng nhanh hơn nợ quá hạn. Nếu ngân hàng quá tin tưởng vào chỉ tiêu này, cho rằng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng là không đáng kể khi chỉ tiêu này thấp thì rất là nguy hiểm, vì rất có thể việc mở rộng quy mô cho vay của ngân hàng không gắn liền việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ làm cho rủi ro của khoản vay mới đó trong tương lai phát sinh và làm ảnh hưởng đến ngân hàng. Tuy nhiên nợ quá hạn chưa hẳn là tổn thất của ngân hàng vì đây vẫn là chỉ tiêu gián tiếp. Vì không phải tất cả các khoản nợ quá hạn đều dẫn đến rủi ro 2.3.2 Các chỉ tiêu khác Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lý ngân hàng cũng sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng,trích lập quỹ dự phòng… Điểm của khách hàng Thông qua phân tích tình hình, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính song phẳng… ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro tiềm ẩn. Các khoản cho vay có vấn đề Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy có trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa trên qui định của ngân hàng Tính kém đa dạng của tín dụng. Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng tập trung tài trợ cho một nhóm khách hàng, của một nghành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so vơi đa dạng hoá Mất ổn định vĩ mô Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm pháp cao, tình hình chính trị mất ổn định… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vậy mất ổn định vĩ mô được ngân hàng xem là một nội dùng phản ánh rủi ro tín dụng. 1.2.2.4 Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng Khi các khách hàng có các dấu hiệu sau đây thì chứng tỏ khách hàng đó đang có những dấu hiệu về rủi ro tín dụng và ngân hàng cần phải có những biện pháp nhằm kiểm soát khách hàng đó. Từ báo cáo tài chính: Ngân hàng không nhận được báo cáo tài chính từ người vay một cách kịp thời, đúng thời hạn đã cam kết. Khả năng thanh khoản, vốn lưu động giảm. Có những thay đổi nhanh chóng về tài sản cố định Doanh số bán hàng giảm một cách nhanh chóng. Mức độ chênh lệch lớn giữa tổng doanh thu và doanh thu ròng Doanh thu tăng nhưng lợi nhuận giảm. Xuất hiện các khoản lỗ từ hoạt động kinh doanh. Những dấu hiệu liên quan đến quản trị: Các chức năng điều hành và phân công, xử lý công việc thể hiện một sự chắp vá Trong quá trình kinh doanh có những chiến lược mạo hiểm không phù hợp với thực tế, khả năng của công ty như : từ bỏ các hợp đồng nhỏ mang lại lợi nhuận ít nhưng ổn định cho công ty, đầu tư các hợp đồng lớn mang lại lợi nhuận cao nhưng ẩn chứa nhiều rủi ro; đầu tư những lĩnh vực mà bản thân người lãnh đạo chưa có kinh nghiệm …Việc thực hiện các dự án trên mang lại những rủi ro cho khách hàng, khả năng thu lợi nhuận và hoàn trả tiền cho ngân hàng của khách hàng có thể diễn ra không như dự định của khách hàng và như thế nó sẽ mang lại rủi ro cho cả ngân hàng Đặt giá bán hàng hoá và dịch vụ một cách không thực tế, có thể làm cho hàng hoá dịch vụ không tiêu thụ được Thay đổi thường xuyên cơ cấu hội đồng quản trị, ban quản lý điều hành, các cán bộ tổ chức… xuất hiện bất đồng và mâu thuẫn trong quản lý điều hành Có sự chậm trễ trong việc xử lý những thay đổi của thị trường cũng như môi trường xung quanh. Từ hoạt động kinh doanh. Thay đổi về phạm vi kinh doanh Khách hàng thay đổi chiến lược kinh doanh do những thay đổi trong chính sách Nhà nước đặc biệt là chính sách thuế, xuất nhập khẩu, thay đổi về tỷ giá, lãi suất… Hoặc do thay đổi công nghệ kỹ thuật sản xuất, thị hiếu người tiêu dùng. Những thay đổi trên cũng là những rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng sẽ gây suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng, là dấu hiệu của rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng Ngân hàng nhận thấy có sự chênh lệch giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế khách hàng thu được so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị vay vốn. Trong báo cáo của khách hàng xuất hiện các khoản chi phí bất hợp lý như gia tăng đột biến các loại chi phí quản lý, chi phí tiếp khách, chi phí văn phòng… hay dấu hiệu cho thấy khách hàng có các nguồn thu nhập bất thường không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc không phải từ hoạt động được đề xuất trong phương án vay vốn. - Trong doanh nghiệp có sự thất thoát, thiếu hụt bất thường về tài sản. Tác hại của rủi ro tín dụng Qua các mục trên ta đã thấy được bản chất của rủi ro tín dụng, các biểu hiện của rủi ro tín dụng và các nguyên nhân xảy ra chúng. Chúng ta đã biết rằng rủi ro tín dụng là điều các ngân hàng không hề mong muốn, vậy chúng thực sự có tác hại ra sao? Trước hết, rủi ro tín dụng làm cho các ngân hàng khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình dẫn đến quá trình tìm kiếm lợi nhuận của họ sẽ không còn dễ dàng nữa. Khi rủi ro tín dụng xảy ra họ phải có thời gian, công sức, tiền bạc để khắc phục chúng. Điều này tất yếu sẻ ảnh hưởng đến các hoạt động khác trong đó hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng lớn nhất. Rủi ro tín dụng cũng làm cho số vốn của ngân hàng giảm đi gây ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận, sự an toàn, tính ổn định của hoạt động ngân hàng. Khi mà rủi ro tín dụng xảy ra thì ở bất cứ cấp độ nào đối với các ngân hàng họ cũng có khả năng hoặc chắc chắn mất đi một lượng vốn nhất định làm cho những dự tính và kế hoạch của họ với lượng vốn đó thay đổi. Rõ ràng mất vốn dẫn đến mất đi một cơ hội để sử dụng nguồn vốn đó cho những hoạt động kinh tế khác. Hơn nữa, khi mất vốn các ngân hàng phải có kế hoạch để bù đắp làm cho quy mô kinh doanh khó phát triển hơn. Rủi ro tín dụng khi xảy ra ở mức độ nhẹ có thể kiểm soát, phòng ngừa được nhưng khi nó ở mức trầm trọng thì ngân hàng khi đó rất khó để quản lý, kiểm soát chúng dẫn đến những hậu quả khó lường đối với ngân hàng. Rủi ro tín dụng làm cho uy tín của ngân hàng giảm sút, làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Khi một ngân hàng nào đó thường xuyên có rủi ro tín dụng ở mức độ cao thì trước hết khách hàng sẽ không còn tin tưởng vào ngân hàng làm cho họ mất đi một lượng khách hàng. Hơn nữa, ngân hàng cũng khó khăn trong việc thu hút đội ngũ nhân viên có năng lực cao bởi lẽ phép so sánh sẽ luôn tồn tại đặc biệt đối với các nhân viên trình độ cao. Họ sẽ không chọn một ngân hàng có mức độ rủi ro cao bởi lẻ khi đó họ cũng khó có môi trường phát triển và thu nhập mà họ có được cũng mang tính “rủi ro” cao. Rủi ro tín dụng ở một mức cao không chỉ có ảnh hưởng đến một hai ngân hàng mà có ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống, đó là rủi ro hệ thống, rủi ro dây chuyền. Khi một ngân hàng sụp đổ do không phòng ngừa và hạn chế được rủi ro tín dụng thì hiệu ứng dây chuyền diễn ra và các ngân hàng khác cũng lâm vào tình trạng nguy kịch khi khách hàng lúc này không còn lòng tin vào ngân hàng nữa. Ngân hàng thương mại là một trung gian tài chính quan trọng bật nhất ở nước ta hiện nay khi mà thị trường chứng khoán còn chưa thực sự phát triển. Nó cung cấp tiền cho gần như toàn bộ nền kinh tế, chính vì thế ở tầm vĩ mô khi ngân hàng gặp rủi ro tín dụng thì hoạt động của toàn bộ nền kinh tế cũng chịu ảnh hưởng nhất định. Tóm lại, rủi ro tín dụng ở mức độ thấp có thể ảnh hưởng đến hoạt động, thu nhập của ngân hàng nhưng khi nó đã tiến lên một mức độ cao thì không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng có rủi ro mà nó còn có ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng thậm chí là cả nền kinh tế quốc dân. Các ngân hàng phải ý thức được vấn đề này để phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, điều này không những có lợi cho họ mà còn có lợi cho những chủ thể kinh tế khác trong nền kinh tế. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM - VPBANK 2.1 Khái quát về VPBank 2.1.1.Sự ra đời và phát triển của VPBank Trong những năm qua, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng đã có những bước phát triển vượt bậc, có sự chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng khá và bền vững đã thúc đẩy hoạt động đầu tư xây dựng, kinh doanh, buôn bán phát triển, tạo tiền đề cho việc tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của các tầng lớp nhân dân. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện mạnh mẽ Nền kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển mình mạnh mẽ sau khi chúng ta chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Do vậy, hội nhập về hoạt động ngân hàng đã trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết của nền kinh tế Việt Nam. Trong bối cảch đó, hệ thống các ngân hàng thương mại gồm ngân hàng thương mại quốc doanh lẫn ngân hàng thương mại cổ phần đang đầu tư tổng lực để phát triển Ngân hàng Thương mại cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12/08/1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04/09/1993 theo giấp phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04/09/1993. - Tên gọi : Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam - Tên giao dịch : Ngân hàng ngoài quốc doanh Việt Nam - Tên viết tắt : VPBank - Trụ sở chính tại số 8, Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Logo VPBank nổi bật với 2 màu sắc cơ bản là xanh đậm và đỏ tươi. Trong ý nghĩa truyền thống, màu xanh tượng trưng cho sự trù phú, sinh sôi, thịnh vượng còn màu đỏ tượng trưng cho sự mạnh mẽ, sự nổi bật và sự thành công. Hai vòng cung màu xanh trên biểu tượng VPBank thể hiện sự luân chuyển liên tục của dòng tiền, tạo cảm giác về sự thuận lợi, trôi chảy, hứa hẹn một sự phát triển trong tầm tay. Vòng cung cũng thể hiện mối quan hệ khăng khít, bền chặt giữa VPBank và khách hàng. Màu đỏ tươi giữa 2 vòng cung tạo điểm nhấn thị giác, tạo sự nổi bật cho logo VPBank dù xuất hiện ở bất kỳ nơi nào. Nhìn tổng thể, logo VPBank đem đến cho khách cảm nhận về sự bền vững, niềm tin tưởng vững chắc vào thành công của VPBank và những gì gắn với VPBank. Lựa chọn 2 màu xanh – đỏ làm tông màu chủ đạo cho biểu trưng Ngân hàng, VPBank muốn khẳng định với khách hàng: Gửi tiền vào VPBank, đồng tiền của khách hàng sẽ sinh sôi - Vay vốn VPBank, đồng vốn VPBank sẽ “đem lộc” đến cho cá nhân và doanh nghiệp. Nói cách khác, khách hàng đến với VPBank là đến với thành công và thịnh vượng! Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. vào tháng 7/20 vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng. Tính đến thời điểm 31/12/2007 vốn điều lệ của VP là 2000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt hơn 18.2 ngàn tỷ đồng tăng 78 % so với cuối năm 2006. Sự tăng trưởng vốn điều lệ của VPBank (Đơn vị: Tỷ đồng) Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Với chủ trương mở rộng mạng lưới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt hơn tới khách hàng, năm 2007 VPBank đã đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007 toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc ( chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương ). Các chi nhánh, phòng giao dịch mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đi vào hoạt động suôn sẻ và bước đầu đạt được những kết quả khả quan. Những thành công mà VPBank đã đạt được trong những năm qua . Sau 14 năm hoạt động, trải qua nhiều khó khăn thử thách đến nay có thể nói rằng VPBank đã bước đầu thành công trong việc xây dựng thương hiệu. Với sự nỗ lực cả trong hoạt động kinh doanh cũng như các hoạt động xã hội, tập thể lãnh đạo và nhân viên VPBank đã đạt được nhiều thành tích đáng chú ý và được xã hội công nhận: Cúp vàng “Doanh nghiệp vì tiến bộ xã hội và Phát triển bền vững” Bằng khen của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước dành cho  Tập thể lao động xuất sắc năm 2005 Giấy chứng nhận Ngân hàng thanh toán xuất sắc năm 2004 do Ngân hàng UNION BANK – Mỹ trao tặng Giấy chứng nhận Ngân hàng thanh toán xuất sắc năm 2005 do Ngân hàng THE BANK OF NEWYORK – Mỹ trao tặng Giấy khen: đối với Tập thể lãnh đạo và nhân viên Hội sở VPBank  “ Đã có thành tích góp phần chấn chỉnh, củng cố hoạt động của VPBank” của Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội (23/7/2004) Công nhận danh hiệu Công đoàn cơ sở vững mạnh năm 2005 của Công đoàn Ngân hàng Việt Nam (27/4/2006) Giấy khen: “ Đã có thành tích trong công tác Đoàn và phong trào Thanh thiếu nhi Thủ đô năm 2005” của Ban chấp hành TNCS Hồ Chí Minh TP Hà Nội trao tặng. Chứng nhận “Doanh nhân văn hóa” của Trung tâm Văn hóa doanh nhân Việt Nam đối với Tổng Giám đốc Lê Đắc Sơn (năm 2006) Giải thưởng : “ Vì sự tiến bộ xã hội và phát triển bền vững” của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam. Công nhận Cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh của Đảng bộ thành phố Hà Nội.  Giấy chứng nhận của hội sở hữu trí tuệ Việt Nam công nhận VPBank đạt Nhãn hiệu nổi tiếng 2007. Giấy chứng nhận Ngân hàng Thanh toán xuất sắc năm 2006 do Ngân hàng Citibank trao tặng Chứng nhận"Doanh nhân Văn hóa" của Trung tâm Văn hóa Doanh nhân Việt Nam đối với TGĐ Lê Đắc Sơn năm 2007 Bằng khen và cúp Thăng Long "Nhà Doanh nghiệp giỏi thành phố Hà Nội" do UBND Thành phố Hà Nội trao tặng cho TGĐ Lê Đắc Sơn Đơn vị đạt giải phong trào xuất sắc Hội diễn ca múa nhạc kỷ niệm 60 năm ngày thương binh liệt sỹ do UBND Quận Hoàn Kiếm trao tặng Giấy khen đã có thành tích trong công tác Đoàn và phong trào thanh thiếu nhi nhiệm kỳ 2002-2007 do Thành Đoàn trao tặng . Giấy khen do UBND Thành phố trao tặng cho Tập thể Tốt năm 2007 2. 2 Tình hình hoạt động và kết quả kinh doanh tại VPBank Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt, với nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên VPBank trên toàn hệ thống, VPBank đã đạt được những thành quả đáng ghi nhận. Tính đến thời điểm 31/12/2007 vốn điều lệ của VPBank là 2.000 tỷ đồng, tổng tài sản đạt hơn 18,2 ngàn tỷ đồng tăng 78% so với cuối năm 2006. Lợi nhuận trước thuế toàn hệ thống đạt trên 313 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2006. Với chủ trương mở rộng mạng lưới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và đem lại dịch vụ tốt hơn tới khách hàng, năm 2007 VPBank đã đẩy mạnh việc phát triển mạng lưới  các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2007 toàn hệ thống VPBank đã có tổng số 100 điểm giao dịch trên toàn quốc (chưa kể gần 30 điểm giao dịch khác đang chuẩn bị khai trương). Các CN, PGD mới khai trương của VPBank trên toàn quốc đều đi vào hoạt động suôn sẻ và bước đầu đạt được những kết quả khả quan. Dự án phần mềm ngân hàng lõi Corebanking T24 đã chính thức hoàn thành và đưa vào hoạt động phục vụ khách hàng từ tháng 10/2007. Về dự án Thẻ: Đến nay VPBank đã phát hành 5 loại thẻ, mỗi loại thẻ đều hướng tới một nhóm khách hàng riêng biệt, bao gồm: Thẻ ghi nợ nội địa Autolink, thẻ VPBank Platinum EMV MasterCard debit và credit, Thẻ VPBank MC2 EMV MasterCard debit và credit. 4 loại thẻ quốc tế là các loại thẻ công nghệ chíp đầu tiên tại Việt Nam với độ bảo mật và tính an toàn. Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại – đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. So với các ngân hàng thương mại Việt Nam khác, lãi suất huy động của VPBank được xem là hấp dẫn trên thị trường hiện nay. Đây là một động thái để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và đáp ứng được nhu cầu cũng như theo kịp xu hướng chung của thị trường. Bên cạnh chính sách lãi suất linh hoạt, chủ trương đa dạng hoá hình thức huy động vốn cũng góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng cao cho nguồn vốn huy động của VPBank trong thời gian gần đây. 2.2.1 Hoạt động huy động vốn Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Và vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng vào tháng 7/20006. Tính đến thời điểm 31/12/2007 vốn điều lệ của VPBank là 2000 tỷ đồng. Khi ngân hàng làm ăn có lãi, khi đó ngân hàng sẽ chuyển một phần thu nhập thành vốn đầu tư. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập lớn, nguồn vốn tích luỹ sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu. Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm…để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp ứng yêu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước qui định… Đến 31/12/2007, tổng số dư huy động vốn của VPBank là 15355 tỷ đồng, đạt 113% kế hoạch cả năm 2007, tăng 6290 tỷ đồng so với cuối năm 2006 ( tương đương tăng 69%). Trong đó nguồn vốn huy động của các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 12941 tỷ đồng, tăng 138% so với cuối năm 2006. Riêng số dư tiền gửi tiết kiệm là 7906 tỷ đồng tăng 3397 tỷ đồng so với cuối năm 2006. Nguồn vốn liên ngân hàng cuối năm 2007 là 2414 tỷ đồng, giảm 1210 tỷ đồng so với cuối năm 2006. Bảng 1: Tình hình huy động vốn của VPBank Đơn vị : tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2007 tăng so với năm 2006 Nguồn vốn huy động 9.065 15.355 6.290 VND 8.775 14.587 5812 Ngoại tệ 290 768 478 1. Huy động từ TCKT và dân cư 9.377 12.941 3.564 1.1 Tiền gửi tiết kiệm 4.509 7.906 3.397 1.2 Tiền gửi thanh toán 4.868 5.035 167 2.Nguồn vốn liên ngân hàng 3.624 2.414 (1.210) (nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của VPBank) Ta thấy nguồn vốn mà VPBank huy động ngày càng được nhiều chứng tỏ uy tín của ngân hàng ngày càng được nâng lên như thế mới thu hút được một khối lượng tiền gửi vào ngân hàng tương đối lớn như thế. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư. 2. 2.1 Hoạt động tín dụng Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho các tổ chức, cá nhân dưới hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác. Cũng như các ngân hàng khác hoạt động tín dụng của ngân hàng VPBank diễn ra khá sôi động và có tầm quan trọng trong hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng cùng với hoạt động huy động vốn sẽ thực hiện hoạt động cho vay tới các cá nhân, tổ chức kinh tế trong xã hội. Nếu ngân hàng chỉ thực hiện tốt công tác huy động mà không quan tâm đến công hoạt động cho vay thì sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn làm cho ngân hàng bị lỗ vốn. Ngày nay khi mà nền kinh tế nói chung phát triển khá nhanh, các cá nhân tổ chức đều cần có vốn để kinh doanh, tiêu dùng thì hoạt động cho vay của ngân hàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó cùng với hoạt động huy động đi vay tiền từ những cá nhân, tổ chức nhàn rỗi để cho vay đến các cá nhân, tổ chức muốn sữ dụng đồng tiền đó để sinh lời. Những người muốn vay vốn của ngân hàng có thể nói là rất nhiều nhưng các ngân hàng khó có thể đáp ứng hết, mặt khác các ngân hàng nếu cứ cho vay tràn lan thì rủi ro rất cao. Chính vì thế để thực hiện một hợp đồng cho thì các cán bộ, nhân viên của ngân hàng phải xem xét rất kỹ lưỡng. Ở các ngân hàng khác nhau thì điều kiện cho vay khác nhau nhưng dù thế nào thì họ cũng phải xem xét tính hiệu quả khả thi của dự án cho vay, cách thức trả nợ của ngân hàng hoặc xem xét đến tài sản thế chấp. Khác với hoạt động huy động mang ít rủi ro thì cho vay của Ngân hàng thương mại mang nhiều tính rủi ro, bởi lẽ khi đã thực hiện một hợp đồng cho vay đồng nghĩa với lúc đó ngân hàng bị giãm sút một lượng vốn. Nếu khách hàng của ngân hàng vì một lý do nào đó không hoàn trả được khoản họ đã vay thì các ngân hàng sẽ bị mất vốn. Các biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Như vậy, hoạt động cho vay hết sức quan trọng đối với các ngân hàng, nó không những mang lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn là một công cụ cạnh tranh rất hữu hiệu giữa các ngân hàng. Hơn nữa do nó tiềm ẫn rủi ro cao nên ngân hàng phải luôn quản lý, kiểm soát hoạt động này để tránh các rủi ro xảy ra đối với ngân hàng. Cũng như nhiều ngân hàng khác VPBank đã, đang và sẽ có những biện pháp để cho hoạt động cho vay thật sự phát huy tác dụng của mình và cũng hạn chế và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho vay. VPBank luôn định hướng cho nhân viên của mình phải điều tra phân tích, phân loại khách hàng theo từng nhóm với các tiêu thức như tổng số nợ, số đơn vị chưa vay, số đơn vị đủ điều kiện vay nhưng chưa vay, số đơn vị dự kiến có thể vay trong năm…Và cũng để hạn chế rủi ro VPBank luôn đa dạng hóa các loại hình cho vay, các hình thức cho vay, phương thức cho vay. Cũng có thể một cách thức cho vay nhưng nhiều khi ngân hàng áp dụng các hình thức trả nợ khác nhau để phù hợp với các đối tượng khách hàng. Để hạn chế rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động cho vay VPBank chú trọng đào tạo cán bộ tín dụng có nghiệp vụ cao, đối với mỗi dự án đi vay của khách hàng các cán bộ của ngân hàng phải luôn xem xét tính khả thi, hiệu quả để đưa ra quyết định cho vay hay không. Bảng 2: Cơ cấu tín dụng Đơn vị: Tỷ đồng Cơ cấu Chỉ tiêu Năm 2005 Chiếm % trên tổng dư nợ Năm 2006 Chiếm % trên tổng dư nợ Năm 2007 Chiếm % trên tổng dư nợ Tổng dư nợ(tỷ đồng) 3295,408 5013 13217 Theo thời hạn tín dụng Ngắn hạn 1845,428 56% 2882,475 57,5% 6625,682 50,13% Trung và dài hạn 1449,572 44% 2130,525 42,5% 6591,318 49,87% Theo loại tiền Ngoại tệ 115,339 3,5% 160,416 3,2% 660,85 5% VND 3180,069 96,5% 4852,584 96,8% 12556,15 95% ( Nguồn: Báo cáo thường niên, bản tin VPBank, phòng tổng hợp và quản lý chi nhanh ) Qua bảng trên ta thấy hoạt động tín dụng của VPBank ngày càng được mở rộng nhanh chóng. Tín dụng là hoạt động chủ yếu và mang lại nguồn thu nhập chính cho VPBank. Nếu như dư nợ trong năm 2004 mới đạt gân 1865 tỷ thì đến năm 2006 đã đạt hơn 5000 tỷ , tức là tăng lên gần gấp 3 lần. Tổng dư nợ cho vay năm 2007 đạt 13217 tỷ đồng, tăng 8186 tỷ đồng so với cuối năm 2006 (Tương ứng tăng 163% so với năm 2006). Trong đó dư nợ cho vay bằng VNĐ đạt 12596 tỷ đồng chiếm 95% tổng dư nợ, dư nợ ngắn hạn đạt 6626 tỷ đồng, chiếm 50% tổng dư nợ. Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tăng qua các năm và chiếm hơn 50% tổng dư nợ của VPBank. Điều này thể hiện đúng định hướng phát triển của ngân hàng là trở thành một ngân hàng bán lẻ hàng đầu miền Bắc. Trong những năm gần đây, ngân hàng đã tập trung cho vay đối tượng khách hàng là các cá nhân, các hộ kinh doanh nhỏ, với các khoản vay có thời hạn nhỏ hơn hoặc bằng 12 tháng. Phát triển tín dụng ngắn hạn cũng nhằm góp phần hạn chế rủi ro tín dụng vì thông thường các khoản vay có thời gian ngắn sẽ ẩn chứa ít rủi ro hơn các khoản vay dài hạn. Dư nợ cho vay bằng ngoại tệ chiếm tỷ trọng nhỏ, tuy nhiên nó đang ngày càng chiếm tỷ trọng lớn hơn vì khi chúng ta gia nhập WTO, mở rộng quan hệ với nhiều nước trên thế giới thì chúng ta sẽ cần nhiều nguồn ngoại tệ hơn để mở rộng giao dịch vì thế VPBank cũng như các ngân hàng khác ngày càng phải sử dụng nhiều ngoại tệ hơn. Hầu hết các khoản tín dụng mà VPBank cấp cho khách hàng đều bằng VNĐ. Vì do ngân hàng không chuyên về cho vay xuất nhập khẩu như các ngân hàng khác nên các hợp đồng cho vay ngoại tệ thường rất ít vì thế cũng hạn chế được khả._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31372.doc
Tài liệu liên quan