Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam (VPBank )

LỜI MỞ ĐẦU Nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển mạnh mẽ sau khi chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO ). Do vậy hội nhập quốc tế về hoạt động ngân hàng đã trở thành tất yếu và cấp bách hơn bao giờ hết của nền kinh tế nứơc nhà. Trong bối cảnh đó hệ thống các Ngân hàng Thương mại bao gồm cả ngân hàng quốc doanh và ngân hàng ngoài quốc doanh đều đang đầu tư tổng lực để phát triển. Việc không ngừng nỗ lực để hoàn thiện chính mình, tạo dựng lòng tin vững chắc nơi khách hàng l

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh Việt Nam (VPBank ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à mục tiêu chiến lược của các ngân hàng thương mại phần hiện nay. Trong số các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay VPBank là một trong những ngân hàng tốt nhất và đang phát trển từng bước vững chắc để khẳng định vị trí của mình trong lòng khách hàng. VPBank tự hào có một đội ngũ cán bộ công nhân viên trẻ trung, năng động, đoàn kết và gắn bó với nhau như một đại gia đình cùng phấn đấu vì mục tiêu chung của cả ngân hàng là: phấn đấu đưa VPBank trở thành Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu to lớn đó, ban lãnh đạo của VPBank hiểu rõ tầm quan trọng của việc quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro tín dụng vì hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất với ngân hàng đó là hoạt động tín dụng. Trong công tác thực hiện quản lý rủi ro tín dụng của mình VPBank đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó cũng vẫn tồn tại những hạn chế nhất đinh. Thời gian qua được thực tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank ) là điều hết sức quý giá đối với em. Được sự giúp đỡ rất nhiệt tình và chân thành của các anh chị trong phòng tín dụng của VPBank chi nhánh Ngô Quyền giúp đỡ em đã chọn và nghiên cứu sâu hơn về thực trạng tình hình quản lý rủi ro tín dụng tại VPBank. Em quyết định chọn đề tài : “ Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam ( VPBank )” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Để hoàn thiện đề tài này ngoài sự cố gắng của bản thân là sự giúp đỡ và hướ ng dẫn rất nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn em đó là TS. Hoàng Xuân Quế. Em xin cảm ơn thầy rất nhiều, nhờ có những hướng dẫn tỷ mỉ, cặn kẽ của thầy đã giúp em hoàn thành bài chuyên đề một cách tốt đẹp. Và em cũng xin chân thành cảm ơn các anh chị làm việc tại phòng tín dụng của VPBank chi nhánh Ngô Quyền đã cho em những tư liệu quí giá để em có thể hoàn thiện bản đề án của mình kịp tiến độ và cho em một thời gian thực tập vô cùng bổ ích. Bản đề án của em tuy đã có sự đầu tư về thời gian và công sức tuy nhiên không thể nào tránh được những thiếu sót và sơ xuất, em xin được sự góp ý chân thành của thầy để em có thể hoàn thiện hơn nữa. Một lần nữa em xin được cảm ơn thầy rất nhiều! Hà Nội, ngày 10 tháng 04 năm 2008 Sinh viên Nguyễn Thị Bích Ngọc CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1, HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.1.1, Khái niệm và đặc điểm Trong quá trình phát triển nền kinh tế và sản xuất hàng hóa đòi hỏi sự xuất hiện của một tôt chức tài chính trung gian, chính vì lẽ đó NHTM đã sớm ra đời và phát triển cho tới ngày hôm nay. NHTM là động lực thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, nó đã trở thành một trung gian tài chính quan trọng vào bậc nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng được nhìn từ nhiều góc độ khác nhau có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Theo các nhà kinh tế học: NHTM là một tổ chức trung gian tài chính với chức năng chính là chuyển vốn từ người không có cơ hội đầu tư sang người có cơ hội đầu tư, từ ngưởi tiết kiệm sang người đang có nhu cầu chi tiêu, và được phân biệt vơi các trung gian tài chính khác ở chức năng thanh toán riêng có của NHTM. Theo luật các tổ chức gtín dụng ghi : hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, NHTM là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Ngày nay, hoạt động ngân hàng đã và đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó được thể hiện trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời ngày càng nhiều dịch vụ mới thỏa mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng tới sự xuất hiện của các ngân hàng với quy mô toàn cầu , được tổ chức thành các tập đoàn. Tuy nhiên, một ngân hàng dù lớn hay nhỏ thì hoạt động cũng bao gồm các hoạt động chính sau: Hoạt động huy động vốn: đây là nghiệp vụ xuất hiện từ những thưở sơ khai của ngân hàng. Các ngân hàng mở các tài khoản nhận giữ hộ và thanh toán cho khách hàng là dân cư, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Ngày nay nguồn huy động của các ngân hàng càng phong phú hơn khi hệ thống liên ngân hàng đang ngày càng phát triển hiện đại. Vốn của ngân hàng có thể được hình thành từ việc đi vay ngân hàng nhà nước, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, mặc dù vậy thì nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng vẫn là nguồn trọng nhất và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn của NHTM . Hoạt động sử dụng vốn : nếu như huy động vốn là mục đích đầu tiên của ngân hàng khi nó ra đời thì việc sử dụng nguồn vốn lại thể hiện chức năng trung gian tài chính thực sự quan trọng của ngân hàng. Nó điều phối tiền tử chỗ thừa tiền sang chỗ thiếu tiền, từ nơi ít cần tới tiền sang nơi cần tiền hơn, qua đó nó thúc đẩy tiềm lực kinh tế của xã hội phát triển một cách tối đa. Hoạt động sử dụng vốn đầu tiên nói đến ở đây đó là hoạt động ngân quĩ tức là các hoạt động mang tính chất dự trữ. Sau khi nhận được tiền gửi, NHTM phải dành riêng ra những khoản không sử dụng, các khoản đó được tồn tại dưới hình thức là các khoản dự trữ bắt buộc hay các khoản dự trữ vượt quá. Các khoản dự trữ này thường không sinh lời hay chỉ sinh lời một khoản rất nhỏ, mặc dù vậy nhưng không một NHTM nào được thiếu khoản này do đó là qui định bắt buộc của Ngân hàng trung ương nhưng quan trọng hơn là để đảm bảo khả năng thanh toán của NHTM bởi nguồn tiền gửi của khách hàng có thể bị rút ra bất cứ lúc nào và NHTM ngay lập tức phải thanh toán cả gốc cả lãi cho khách hàng. Tiếp đến là hoạt động đầu tư, NHTM thực hiện hoạt động này dưới các hình thức như : đầu tư vào các chứng khoán (trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, tín phiếu kho bạc, cổ phiếu ), góp vốn liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, đầu tư vào các dự án. Thông qua hoạt động đầu tư NHTM kiếm được lợi nhuận đồng thời cũng phân tán được rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Hoạt động thanh toán, đây là hoạt động phân biệt giữa NHTM với các trung gian tài chính khác, NHTM tiến hành thanh toán cho khách hàng dưới các hình thức : thanh toán bù trừ, thanh toán séc, thanh toán bằng L/C, thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi… Các hoạt động khác như : chuyển tiền, môi giới, tư vấn, uỷ thác, bảo lãnh… Hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất và tạo nên danh mục tài sản phong phú trong bảng cân đối tài sản của NHTM đó chính là hoạt động tín dụng. Vậy thế nào là hoạt động tín dụng và đặc điểm của hoạt động này ra sao xin được phép trình bày duới đây: Tín dụng – credit bắt nguồn từ tiếng latinh “credo” có nghiã là sự tin tưởng hay nói cách khác tín dụng là việc NHTM tài trợ cho khách hàng dựa trên cơ sở tin tưởng nhau. Các hoạt động tài trợ cuả ngân hàng thì có nhiều hình thức như cho khách hàng vay, mua giúp khách hàng hàng hóa, nguyên vật liêụ, máy móc, chiêt khấu các loại giấy tờ có giá hay là đứng ra là người bảo lãnh cho khách hàng. Trên thục tế có rất nhiều cách hiều khác nhau về tín dụng, tuy nhiên ở đây ta tiếp cận tín dụng là một hoạt động của ngân hàng. Chính vì thế, ta có thể hiểu: tín dụng là giao dịch giữa bên cho vay (NHTM) và bên đi vay (các đơn vị kinh tế, dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội). Trong đó, bên đi vay sử dụng vốn trong khoảng thời gian nhất định và có trách nhệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi khi đến hạn vay. Đối với NHTM thì phần lớn thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm phần lớn tổng thu nhập, đối với cac NHTM ở Việt Nam thì tỷ lệ này lên tới 70 – 80%. Điều này cho thấy vai trò to lớn của hoạt động tín dụng với hoạt động ngân hàng nói riêng và với nền kinh tế nói chung. Thông qua sự tăng trưởng của hoạt động tín dụng phản ánh một phần nào đó sự phát triển triển cuả ngân hàng vì không những ngân hàng có được doanh thu từ lãi suất mà khách hàng phải trả mà quan trọng hơn đây là cơ sở để ngân hàng thâm nhập vào nền kinh tế, khẳng định vị trí của ngân hàng và phát triển sang nhiều lĩnh vực khác đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam còn thiếu thốn, nghèo nàn rất nhiều dịch vụ ngân hàng. Đối với người được vay vốn, ngân hàng là nguồn vốn khổng lồ mà họ dễ dàng tiếp cận ở mọi lúc, mọi nơi với rất nhiều phương thức tiện lợi cho họ thông qua thỏa thuận với ngân hàng. Vay vốn ở ngân hàng không những người vay có được nguồn vốn kịp thời mà còn có được những lời khuyên bổ ích giúp cho doanh nghiệp đầu tư hiệu quả hơn và ngày càng lớn mạnh hơn. Đối với nền kinh tế thì công dụng không thể chối cãi được đố là việc phân bổ vốn một cách kịp thời, hiệu quả, giúp tối đa hóa hiệu quả cuả các tiềm lực kinh tế. Các doanh nghiệp sản xuất thuận lợi và có điều kiện tiếp cận và áp dụng khoa học hiện đại nhiều hơn. Từ đó nâng cao đời sống người dân, nâng cao chất lượng xã hội, nâng cao dân trí và kinh tế - xã hội phát triển về mọi mặt. 1.1.2. Phân loại Để nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng phục vụ được nhiều đối tượng với các nhu cầu khác nhau thì các NHTM hiện nay áp dụng rất nhiều các hình thức tín dụng. Và để giúp cho việc quản lý hoạt động tín dụng được đơn giản, chính xác hơn thì NHTM tiến hành phân loại tín dụng. Dựa trên những tiêu thức khác nhau mà tín dụng được phân loại như sau: 1.1.2.1, Phân loại theo thời gian ( thời hạn tín dụng ) : Là cách phân loại có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và tính sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới 12 tháng. Được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp cà các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Với các NHTM có thể nói rằng tín dụng ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao nhất. Tín dụng trung hạn có thời hạn từ NHTM 1 đến 5 năm ( theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ) còn với một số nước trên thế giới thì có thời hạn đến 7 năm. Loại tín dụng này thường được dùng để tài trợ cho việc mua sắm các tài sản cố định như phương tiện vận tải, cải tiến thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm một số loại vật nuôi cây trồng phục vụ cho các dự án nhỏ. Tín dụng dài hạn, theo qui định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( NHNN ) thời hạn tín dụng là trên 5 năm còn ở một số nước là trên 7 năm. Loại tín dụng này để cung cấp vốn cho các dự án dài hạn có thời gian thu hồi vốn chậm để xây dựng nhà xưởng, sân bay, cầu đường và mua sắm các loại máy móc có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. 1.1.2.2, Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. Chiết khấu thương phiếu là việc mà ngân hàng ứng trước cho khách hàng một khoản tiền tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng cho việc sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn thanh toán, phần thu nhập này được tính theo một tỷ lệ với giá trị của thương phiếu và tỷ lệ đó được gọi là lãi suất chiết khấu. Cho vay là hình thức ngân hàng tài trợ cho khách hàng một số tiền và nhận lại sự cam kết của khách hàng sẽ trả lại toàn bộ khoản tiền gốc cộng thêm một phần lãi là chì phí của việc sử dụng vốn, cam kết này được thực hiện sau một khoảng thời gian nhất định. Bảo lãnh là hình thức ngân hàng cho phép khách hàng dùng uy tín của ngân hàng để làm cam đoan về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng trong các hợp đồng, và nếu khách hàng không thực hiện được thì ngân hàng sẽ là người thực hiện các nghĩa vụ tài chính đó. Cho thuê là ngân hàng bỏ tiền của mình ra để mua tài sản cho khách hàng thuê với những thoả thuận về tiền thuê hàng tháng, hàng quí, hàng năm. Sau một thời gian nhất định, ngân hàng sẽ thu hồi được số vốn bỏ ra ban đầu và thêm một phần lãi. 1.1.2.3, Phân loại theo tài sản bảo đảm: Tài sản bảo đảm là nguồn thu hồi nợ thứ hai của ngân hàng khi nguồn thu nợ theo dự tính ban đầu không có hoặc không đủ để trả cho ngân hàng. Theo hình thức này thì tín dụng được phân chia thành : tín dụng có tài sản bảo đảm và tín dụng không có tài sản bảo đảm. Tín dụng có tài sản bảo đảm là việc khách hàng dùng tài sản của mình đang có quyền sở hữu hay đang có quyền sử dụng hay khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Có thể đảm bảo theo hình thức cầm cố, hoặc thế chấp hay cam kết trả nợ của người thứ ba. Tín dụng không cần tài sản bảo đảm được áp dụng đối với những khách hàng thường xuyên và có uy tín, khả năng tài chính vững mạnh hoặc với những món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Đối với những khoản vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể giám sát được việc thực hiện cũng như tiêu thụ sản phẩm thì ngân hàng cũng có thể chấp nhận cho vay không cần tài sản bảo đảm. 1.1.2.4, Phân loại tín dụng theo rủi ro : Các ngân hàng có những cách phân loại tín dụng theo rủi ro khác nhau để thực hiện tốt việc quản lý rủi ro, kịp thời trích lập dự phòng cho các khoản tín dụng nâng cao độ an toàn cho ngân hàng. Theo các dấu hiệu của rủi ro các khoản tín dụng được xếp theo mức độ rủi ro từ thấp tới cao: Tín dụng lành mạnh : là các khoản tín dụng có khả năng thanh toán cao. Tín dụng có vấn đề : là các khoản tín dụng có các dấu hiệu như các rủi ro không ngờ đến xảy ra với khách hàng như thiên tai, cháy nổ khi vận chuyển, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm…có thể làm cho khách hàng không có khả năng trả nợ. Nợ quá hạn vẫn có khả năng thu hồi Nợ quá hạn khó đòi và những khoản không có khả năng thu hồi 1.1.2.5, Phân loại theo mục đích sử dụng Tuỳ theo mục đích sử dụng có các loại cho vay để kinh doanh sản xuất và cho vay phục vụ mục đích tiêu dùng. 1.2, Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM 1.2.1, Khái niệm rủi ro Rủi ro là những tổn thất xảy ra ngoài dự kiến. Bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng chứa đựng những rủi ro nhất định, có những rủi ro mà con người có khả năng phòng ngừa và hạn chế như rủi ro xuất phát từ các hành vi chủ quan bất cẩn của con người gây ra, hay những rủi ro do thiên nhiên gây ra nhưng trong tầm dự đoán và kiểm soát của con người. Bên cạnh đó thì cũng có những rủi ro bất trắc mà con người không thể ngờ tới, cũng như không có khả năng dự đoán và làm thay đổi chúng như sự biến đổi nhanh chóng của thời tiết, thiên tai, chiến tranh… Nhưng có thể kết luận rằng dù bất cứ loại rủi ro nào khi đã xảy ra thì đều kèm theo những tổn thất lớn, nhỏ. Vì vậy vấn đề quản lý rủi ro luôn luôn là vấn đề hết sức quan trọng và cần phải được thực hiện nghiêm túc. 1.2.2, Rủi ro với hoạt động của NHTM Đối với nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, trong thời kỳ kinh tế thị trường phát triển và bùng nổ như ngày hôm nay thì vấn đề rủi ro lại trở nên hết sức phức tạp bởi chỉ cần những biến động nhỏ cũng có thể dẫn tới những hậu quả to lớn. Ngân hàng thương mại là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng hoá tiền tệ. Kinh tế càng phát triển thì lượng tiền tệ được lưu thông qua ngân hàng cũng càng lớn. Nguồn tiền của các NHTM có những thay đổi mạnh mẽ do sự phát triển của công nghệ ngân hàng, sự gia tăng cạnh tranh giữa các NHTM với nhau và với các tổ chức tài chính khác. Các khoản tiền gửi của cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn kèm theo đó là sự nhạy cảm với biến động thị trường cũng cao hơn. Những điều này góp phần giúp cho thị trường vốn trở nên sôi động hơn song cũng làm tăng tính mong manh, kém ổn định của cả hệ thống. Có thể tiến hành phân chia rủi ro dựa theo các loại tài sản của ngân hàng như sau : rủi ro trong quản lý và kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng. Phân chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – bao gồm : rủi ro do người vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả,... 1.2.2.1, Các loại rủi ro phổ biến thường gặp 1Rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng về việc khách hàng không thanh toán nợ đúng hạn, không trả được đầy đủ gốc hay lãi hoặc hoàn toàn mất khả năng thanh toán cả gốc vả lãi gây ra những tổn thất cho ngân hàng. Mỗi một khoản vay dù có đáng tin cậy đến đâu cũng hàm chứa trong đó rủi ro tín dụng, vì vậy đối với những nhà quản lý ngân hàng thì việc luôn luôn dự tính một tỷ lệ rủi ro nhất định đối với ngân hàng mình và giữ cho tổn thất xảy ra không vuợt quá so với tỷ lệ dự tính đó cũng đã là một thành công trong quản lý. 1.2.1.2, Rủi ro hối đoái Rủi ro hối đoái là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến của ngân hàng khi mà tỷ giá hối đoái có những thay đổi bất lợi. tỷ giá hối đoái là thông số thường xuyên thay đổi và phụ thuộc nhiều vào tình hình kinh tế, xã hội, chính trị nói chung trên toàn thế giới chính vì thế mà việc dự đoán được sự thay đổi của nó là rất khó, tuy nhiên đối với những nhà kinh doanh ngân hàng thì việc dự đoán tỷ giá là bắt buộc để điều chỉnh một cách hợp lý và cân đối lượng ngoại tệ của ngân hàng mình. Đương nhiên việc dự đoán cũng có những sai số nhất định, vì vậy rủi ro hối đoái được xem như là xảy ra khi mà lượng tổn thất vượt quá so với lượng tổn thất dự tính. 1.2.1.3, Rủi ro lãi suất Lãi suất của NHTM bao gồm cả lãi suất của các loại tài sản và nguồn vốn đều biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự thay đổi trên thị trường thế giới, các chính sách của chính phủ và NHNN. Khi các tổ chức tín dụng lớn trên thế giới, các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ của những nền kinh tế mạnh có những thay đổi về chính sách của họ thì sẽ gây tác động tới lãi suất trên thị trường liên ngân hàng và tác động tới lãi suất của các NHTM. Tương tự như vậy chính phủ thực hiện các chính sách tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt của mình thì công cụ lãi suất là công cụ có tác dụng nhanh chóng và hiệu quả nhất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ tới rủi ro tín dụng. 1.2.1.4, Rủi ro thanh khoản Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế không như dự kiến làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hay làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản. 1.2.2. Các rủi ro khác Là các khả năng xảy ra cuớp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hoả hoạn, thiên tai, lỗi công nghệ… 1.3, Rủi ro tín dụng Theo quyết định 493/QĐ/2005 do thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 22/04/2005 rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất mà khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả được đầy đủ vốn và lãi. 1.3.1, Sự cần thiết phải hạn chế rủi ro tín dụng Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động tín dụng – hoạt động đặc trưng, quan trọng và có qui mô lớn nhất trong các hoạt động của ngân hàng. NHTM là một trung gian tài chính, tức là luân chuyển tiền của người chưa có cơ hội đầu tư đến những người đang có cơ hội đầu tư nên hiệu quả sử dụng nguồn vốn không chỉ phụ thuộc vào bản thân NHTM mà còn phụ thuộc nhiều vào các khách hàng của họ. Khi thực hiện một hoạt động tín dụng cụ thể nào thì ngân hàng đều phải phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn là cao nhất, và chỉ quyết định cho vay khi khoản vay đó an toàn. Tuy nhiên do hoạt động tín dụng rất nhạy cảm và liên quan tới hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế nên chịu rất nhiều tác động của môi trường. Vậy nên có nhiều quan điểm cho rằng rủi ro tín dụng là tất yếu trong hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng là một doanh nghiệp và mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Theo qui luật rủi ro đi liền với lợi nhuận, rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng nhiều chính vì vậy nên việc ngân hàng chấp nhận rủi ro tín dụng là điều tất yếu của việc kinh doanh, điều quan trọng là làm thế nào để hạn chế được rủi ro đó trong khả năng kiểm soát của ngân hàng mà không làm ảnh hưởng tới mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động ngân hàng là một hoạt động kinh doanh đặc biệt. Hàng hoá ở đây là tiền và nó vô cùng nhạy cảm. Không có bất cứ một ngành kinh doanh nào mà nếu có một đơn vị hoạt động không tốt ngay lập tức sẽ gây tác động tới toàn ngành và dẫn tới sự khủng hoảng có hệ thống của toàn bộ nền kinh tế. Có thể nói rằng ảnh hưởng của ngành ngân hàng trong nền kinh tế là vô cùng to lớn nên việc hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề đặt ra với các nhà quản lý của chính mỗi ngân hàng nói riêng và của cả những nhà quản lý vĩ mô nền kinh tế nói chung. Đối với ngân hàng : Ảnh hưởng đầu tiên nhìn thấy khi rủi ro tín dụng xảy ra là ngân hàng sẽ mất đi hoặc không thu được đúng hạn khoản vốn và lãi, tức là làm sẽ làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận. Những món vay quá hạn hoặc mất khả năng thu hồi gây nên tình trạng thiếu tiền trong ngân quỹ, làm giảm khả năng thanh khoản và dẫn tới rủi ro thanh khoản có thể khiến ngân hàng mất uy tín với khách hàng. Ngân hàng hoặc phải yêu cầu sự giúp đỡ từ phía NHNN và các ngân hàng khác hoặc phải tuyên bố phá sản, đây là hậu quả nghiêm trọng nhất, nó không chỉ ảnh hưởng tới riêng ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng và có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng tài chính. Như vậy, rủi ro tín dụng không những gây ra tổn thất về lợi nhuận về uy tín của NHTM mà nó còn là nguồn gốc của hàng loạt các rủi ro khác và dẫn tới những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Đối với khách hàng: Những người đi vay nếu không có kế hoạch hợp lý sẽ không thanh toán kịp thời hạn và phải chịu lãi suất phạt cho khoản vay đó, tức là chi phí tăng và làm giảm lợi nhuận. Đồng thời việc chậm trễ thanh toán sẽ làm mất uy tín của khách hàng đối với ngân hàng, họ sẽ gặp phải khó khăn khi muốn tiếp tục sử dụng vốn của ngân hàng này hay ngân hàng khác. Đây là một bất lợi vô cùng lớn với doanh nghiêp vì sử dụng vốn vay mang lại rất nhiều lợi ích đối với doanh nghiệp, giảm được thuế thu nhập phải nộp của doanh nghiêp, giảm bớt chi phí vốn so với việc sử dụng vốn của chủ. Đối với nền kinh tế : Rủi ro tín dụng tác động tới hệ thống ngân hàng, tới các doanh nghêp và thông qua đó tác động tới toàn bộ nền kình tế. Nó làm ứ đọng vốn, giảm hiệu quả luân chuyển vốn của ngân hàng, kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nghiêm trọng hơn, nó có thể kéo theo hàng loạt các rủi ro khác, một cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra và trường hợp xấu nhất là hệ thống ngân hàng tài chinh sụp đổ, nền kinh tế rối loạn, khủng hoảng chính trị, xã hội là điều chắc chắn không thể tránh khỏi. Tóm lại, rủi ro tín dụng ở qui mô nào cũng có những tác động xấu có thể dẫn tới hậu quả nghiêm trọng. Chính vì lẽ đó nên việc hạn chế rủi ro tín dụng đối với NHTM là vô cùng quan trọng và phải được các nhà quản trị NHTM đặt lên là nhiệm vụ hàng đầu. 1.3.2, Các chỉ tiêu biểu hiện mức độ hạn chế rủi ro tín dụng Rủi ro rín dụng chỉ là khả năng xảy ra tổn thất nên không thể nào được đo lường một cách chính xác được nên người ta dùng một số chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng để đo mức độ hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nợ quá hạn và nợ khó đòi : Nợ quá hạn là là khoản nợ mà khách hàng không trả khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Với những món nợ mà không thanh toán được vào thời điểm hết kỳ hạn nợ thì toàn bộ khoản nợ gốc còn lại sẽ được chuyển hết thành nợ quá hạn. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn và đã quá một kỳ gia hạn nợ hoặc không có tài sản bào đảm hoặc không bán được tài sản, công ty phá sản… Khi xem xét chất lượng tín dụng của ngân hàng thì tổng dư nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ hiệu quả sử dụng đồng vốn của ngân hàng. Các chỉ tiêu như tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ, nợ khó đòi trên tổng dư nợ là công cụ hữu hiệu để nhận biết sụ suy giảm chất lượng tín dụng. Các chỉ tiêu trên chỉ phản ánh chính xác khi không có các yếu tố tác động làm biến dạng chúng. Tuy nhiên, trên thực tế thì vẫn xảy ra tình trạng có những khoản nợ bị : dự tính kỳ hạn nợ không đúng, đảo nợ hoặc giãn nợ, do chính sách của ngân hàng nên làm cho các chỉ tiêu này trở nên không chính xác. Những chỉ tiêu trên được dùng để so sánh giữa các thời kỳ với nhau, so với mặt bằng chung của các ngân hàng khác và của ngành ngân hàng nói chung sẽ cho thấy một cái nhìn tổng quát về tình hình hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng trong các thời kỳ khác nhau và so với các ngân hàng khác trong hệ thống NHTM . Nợ có vấn đề : Các khoản nợ có vấn đề là các khoản có khả năng trở thành nợ quá hạn. Các khoản nợ này nếu được phát hiện sớm và nắm bắt nguyên nhân để giải quyết thì sẽ làm giảm bớt tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Tuỳ thuộc vào khả chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng mà tiêu chí đánh giá các khoản nợ có vấn đề là khác nhau. Tỷ lệ nợ có vấn đề có tính chất dự báo đồng thời cũng cho biết một phần nào đó công tác hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng giúp ngân hàng nhanh chóng có biện pháp khắc phục để giảm bớt tỷ lệ nợ có vấn đề chuyển thành nợ quá hạn. Điểm của khách hàng: Chỉ tiêu này phản ánh năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án… Ngân hàng lập hồ sơ khách hàng và chấm điểm cho khách hàng. Thông qua chỉ tiêu này cho thấy khả năng xảy ra rủi ro “ tỉềm ẩn” đối với ngân hàng. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro: Quĩ dự phòng rủi ro được thành lập nhằm mục đích bù đắp vào tổn thất của ngân hàng khi rủi ro xảy ra nhằm không làm ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Quĩ dự phòng được trích lập theo qui định của ngân hàng Trung Ương, tỷ lệ trích lập theo mức độ rủi ro của khoản các khoản vay. Nhìn vào quĩ dự phòng rủi ro của một ngân hàng và quá trình sử dụng nó ta có thể đánh giá phần nào về công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng đó. Ngân hàng mà có quĩ dự phòng rủi ro lớn hơn những ngân hàng cùng qui mô khác và lượng dự trữ ngày càng lớn qua các năm chứng tỏ rằng mức độ rủi ro chứa đựng trong các khoản vay ngày càng lớn, đây là dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng chưa được hạn chế. Cách sử dụng quĩ dự phòng cũng phần nào cho thấy mức độ hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nếu ngân hàng phải dùng tới quĩ này thường xuyên và thậm chí còn phải bổ sung thì rõ rang việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng đó chưa được làm tốt. Tuy nhiên thì chỉ tiêu này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì còn phụ thuộc vào qui mô của các khoản tín dụng. Chẳng hạn như lượng trích lập dự phòng kỳ sau cao hơn kỳ trước có thể là do số lượng các khoản tín dụng và qui mô khoản tín dụng tăng hơn nhiều so với kỳ trước. Tính đa dạng hoá trong hoạt động tín dụng: Đa dạng hoá là một biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro hữu hiệu. Nhìn vào bảng tổng kết tài sản của NHTM ta có thể thấy được danh mục tài sản của ngân hàng đó, tài sản càng đa dạng thì rủi ro càng được phân tán. Tính đa dạng hoá được thể hiện ở các khía cạnh : ngoài hoạt động cho vay ngân hàng còn thực hiện nhiều loại hình dịch vụ sinh lời khác, các khoản cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau với các kỳ hạn khác nhau, nhiều nhóm khách hàng, nhiều ngành nghề khác nhau… Như vậy để đánh giá rủi ro của ngân hàng thì có thể căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau. Nhưng tiêu chí nào cũng có những mặt hạn chế nhất định chính vì thế nên các nhà quản trị ngân hàng cần có cái nhìn tổng quát để đánh giá đúng rủi ro tín dụng với ngân hàng mình và qua đó có biện pháp hạn chế rủi ro thích hợp. 1.3.3, Những nhân tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng Nắm bắt được các nhân tố tác động tới tình hình hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng sẽ giúp cho ngân hàng có những biện pháp quản lý có hiệu quả hơn với các khoản tín dụng. 1.3.3.1, Các nhân tố khách quan Nhân tố khách hàng: Các khoản tín dụng sau khi ra kỏi ngân hàng thì được các doanh nghiệp, cá nhân đưa vào sản xuất và đầu tư, khi đó chúng nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng. Vì vậy hạn chế rủi ro tín dụng không phải chỉ phụ thuộc vào ngân hàng mà phụ thuộc vào khách hàng của ngân hàng. Về phía khách hàng cũng có nhiều yếu tố tác động tới năng lực trả nợ của họ như : trình độ của bản thân, năng lực quản lý, kế hoạch dự toán ngân quỹ cho trả nợ… Trong trường hợp mà phương án kinh doanh không hiệu quả thì năng lực tài chính của khách hàng là yếu tố cần được quan tâm, nó quyết định tới khả năng thu hồi được khoản nợ đó. Bên cạnh đó thì yếu tố đạo đức, vị trí xã hội của khách hàng cũng rất quan trọng vì không loại trừ những trường hợp khách hàng cố ý lừa gạt ngân hàng để chiếm dụng những khoản tín dụng. Vì lẽ đó khi xem xét các khoản tín dụng, trước tiên nhân viên tín dụng nên nắm rõ về tính cách, đạo đức và những thông tin cá nhân của khách hàng để hạn chế những rủi ro đáng tiếc từ phía khách hàng. Nhân tố bất khả kháng: Là một doanh nghiệp nên hoạt động của ngân hàng không nằm ngoài sự tác động của các yếu tố môi trường. kinh tế - xã hội, chính trị nói chung. Đặc biệt là trong thời đại ngày nay. hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu thì những tác động đó không hạn chế trong một quốc gia mà còn là tác động trên toàn thế giới. Vì vậy nên việc hạn chế rủi ro tín dụng càng trở nên khó khăn hơn. Ngành ngân hàng lại liên quan đến rất nhiều ngành nghề trong xã hội, chỉ cần một chính sách của chính phủ đối với một ngành nghề nào đó thôi thì cũng đều ảnh hưởng tới ngân hàng. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều biến động xảy ra, liên tục xảy ra những cuộc khủng hoảng từ phía những nền kinh tế lớn, giá cả các mặt hàng nhiên liệu và năng lương tăng hàng ngày… rất khó để các ngân hàng có thể dự đoán được chính xác tình hình và do đó cũng dẫn tới rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó là các thảm hoạ do thiên nhiên gây ra cũng là những nhân tố bất khả kháng tác động tới hạn chế rui ro tín dụng của các ngân hàng. Thiên tai, bão lũ…khiến nhà đầu tư thiệt hại nhiều tiền, ảnh hưởng tới phương án kinh doanh đã đặt ra và đương nhiên ảnh hưởng tới khả năng thanh toán đối với ngân hàng dẫn tới rủi ro tín dụng. Một nhân tố có tác động lớn đối với hoạt động của ngân hàng đó là môi trường pháp luật và thể chế. Một môi trường thể chế trong sạch, nghiêm minh sẽ giúp cho nền kinh tế phát triển công bằng, lành mạnh. Môi trường có ổn đinh các nhà đầu tư mới yên tâm làm ăn và nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng là rất thấp. Ngược lại, nếu môi trường không ổn định sẽ không thúc đẩy đẩu tư phát triển.._. Luật pháp không nghiêm minh, công bằng sẽ tạo điều kiện cho những cái xấu len lỏi và gây tổn hại cho nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng. 1.3.3.4, Nhân tố chủ quan Các nhân tố chủ quan là nhân tố bắt nguồn từ chính ngân hàng nên bản thân ngân hàng có thể làm thay đổi chúng theo hướng có lợi cho mình nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Vì vậy ngân hàng cần nắm được nhóm nhân tố này để đưa ra những biện pháp hạn chế rủi ro có hiệu quả. Thứ nhất, chính sách tín dụng của ngân hàng Chính sách tín dụng của ngân hàng là những qui định của ngân hàng để phổ biến và thực hiện đồng bộ trong toàn ngân hàng. Nó được xây dựng dựa trên định hướng phát triển của ngân hàng và những qui định của Ngân hàng Nhà nước, nó thể hiện năng lực của bản thân ngân hàng và đường lối kinh tế chung của cả nước, Chính sách tín dụng bao gồm : các qui định về tiêu chuẩn với danh mục cho vay của ngân hàng ( loại hình, thời hạn tín dụng, qui mô chất lượng của khoản vay ). Nó xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm đối với từng cán bộ tín dụng và phòng thẩm định tín dụng; những thủ tục, hoạt động cần thiết từ bước chào mời, xem xét, đánh giá và giải quyết đối với từng đơn xin vay của từng nhóm khách hàng. Những tài liệu cần thiết đi kèm trong hồ sơ vay vốn và phải lưu lại… Xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng mình là điều đầu tiên cần làm tại mỗi ngân hàng, nó phải xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi chủ thể trong qui trình tín dụng, nhũng thủ tục cần thiết, những bước tiến hành từ chào mời cho tới quyết định một khoản tín dụng. Có thể nói, chính sách tín dụng như một văn bản luật lưu thông trong mỗi ngân hàng, trong đó bao gồm những quy định chung và cả những qui định riêng của ngân hàng. Có một chính sách tín dụng đúng đắn, hợp lý và khoa học quyết định một phần thành công của ngân hàng. Vì vậy nên, chính sách tín dụng là nhân tố quan trọng nhất, ảnh hưởng nhiều nhất tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng, Thứ hai, qui trình tín dụng Quy trình tín dụng là các bước mà nhân viên tín dụng cần làm. Nó bao gồm tất cả bước thực hiện từ khi món vay được xem xét giải ngân cho đến khi ngân hàng thu hồi được cả vốn lẫn lãi của khoản vay đó. Xây dựng một qui trình tín dụng hợp lý, chặt chẽ chính xác sẽ giúp các nhân viên tín dụng dựa vào đó thực hiện chính xác, không nhầm lẫn, không sai sót trong từng khoản tín dụng. Thứ ba, cách thức quản lý tiền cho vay của NHTM Cách thức quản lý tiền cho vay của mỗi ngân hàng khác nhau nhưng đều dựa trên những nguyên tắc chung sau: Sàng lọc và giám sát: Ngân hàng tiến hành sàng lọc để lựa chọn khách hàng có ít rủi ro nhất. Sàng lọc khách hàng là bước cơ bản diễn ra trước nhất trong qui trình tín dụng. Ngân hàng cần xác định được những chuẩn mực khách hàng của mình để lựa chọn ra các khách hàng mục tiêu, từ đó lại tiếp tục qua các bước lựa chọn đối nghịch để chọn ra khách hàng có ít rủi ro nhất hạn chế rủi ro tín dụng có thể gặp Quan hệ khách hàng lâu dài: Việc thiết lập quan hệ lâu dài với khách hàng sẽ giúp ngân hàng có được các thông tín chính xác về khách hàng : về đạo đức, khả năng tài chính… mặt khác làm giảm các chi phí giám sát, tìm hiểu khách hàng qua các kênh thông tin khác. Việc có được mối quan hệ tốt với khách hàng là một nhân tố quyết định tới thành công của ngân hàng vì hiện nay số lượng các ngân hàng rất nhiều, muốn thành công các ngân hàng luôn phải xây dựng cho mình một lực lượng khách hàng quen thuộc, thường xuyên và trung thành với ngân hàng mình. Vật thế chấp và số dư bù: Khi rủi ro xảy ra, thì vật thế chấp và số dư bù là những công cụ quan trọng để giảm bớt tổn thất cho ngân hàng. Cũng là một dạng đặc biệt của vật thế chấp, số dư bù giúp cho ngân hàng giám sát được tình hình tài chính của khách hàng . hạn chế rủi ro bắt nguồn từ khách hàng. Hạn chế tín dụng: Hạn chế tín dụng cũng là một trong những nguyên tắc quản lý tác động tới việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Nó góp phần hạn chế những rủi ro tín dụng đến do ngân hàng chấp nhận rủi ro cao để mong chờ những khoản lợ nhuận cao, và do nguyên nhân đạo đức. Ngân hàng thực hiện hạn chế tín dụng bằng hai cách: ngân hàng từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng; cách thứ hai là đồng ý cho vay nhưng theo một định mức nhất định. Tính tương hợp ý muốn: Nguyên tắc quản lý này có nghĩa là : ngân hàng muốn huy động đựoc nhiều vốn hơn để sử dụng vốn đó thực hiện các khoản tín dụng thu được lợi nhuận cao thì ngân hàng cũng phải thoả mãn được các ý muốn của người đem gửi tiền. Ngân hàng phải có một lượng vốn tự có đủ lớn để gây dựng lòng tin đối vói người gửi tiền và phải có một mức lãi suất tiền gửi phù hợp với tình hình thị trường. Các nguyên tắc quản lý tiền vay phải được đảm bảo từ khi xét duyệt khoản tiền vay cho đến khi nó được hoàn trả cả vốn lẫn lãi. Những nguyên tắc này có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hạn chế rủi ro tín dụng tại các NHTM. Thứ tư, chất lượng của đội ngũ cán bộ công nhân viên ngân hàng: Có thể nói đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến hạn chế rủi ro tín dụng. Vì cán bộ, nhân viên là những người trực tiếp áp dụng các chính sách tín dụng, qui trình tín dụng của ngân hàng. Đội ngũ cán bộ nhân viên có nhận thức tốt, có trách nhiệm cao sẽ thực hiện những chính sách của ngân hàng một cách tốt nhất, đưa ngân hàng đi theo định hướng phát triển đã đề ra. Những ngân hàng hiện nay đã nhận ra điều này và họ rất chú trọng vào nhân tố con người. Họ cố gắng lựa chọn ra những cá nhân suất sắc để đào tạo họ thành những cán bộ có chất lượng cao của ngân hàng. Cán bộ có chất lượng cao sẽ thực hiện các qui trình một cách chính xác không có những sai xót như thế giảm thiểu khả năng xảy ra tổn thất từ nguyên nhân do ngân hàng. Ngoài mặt kỹ năng và chuyên môn, cán bộ ngân hàng còn phải có đạo đức tốt vì họ làm việc trong môi trường rất nhạy cảm và đầy cám dỗ. chính vì thế nếu ý chí không vững vàng sẽ dễ mắc phải những sai lầm đáng tiếc. Thứ năm là hệ thống thông tin nội bộ ngân hàng và cách thu thập thông tin từ bên ngoài của ngân hàng: Mọi quyết định đúng đắn đều xuất phát từ những nguồn thông tin đúng đắn và đáng tin cậy. Việc có được nguồn thông tin tốt đối vói ngân hàng đóng vai trò quyết định với trong việc hạn chế rủi ro. Trong một qui trình tín dụng không khi nào là không cần tới thông tin. Khi bắt đầu một khoản vay ngân hàng cần tới thông tin chính xác về khách hàng, về lịch sử tín dụng của khách hàng; khi thực hiện khoản tín dụng cần thông tin về việc thực hiện kế hoạch của khách hàng tiện cho việc giám sát của ngân hàng. Và khi kết thúc khoản tín dụng cũng vẫn cần tiếp nhận thêm thông tín về khách hàng để bổ sung vào quĩ thông tin của ngân hàng, phục vụ cho những lần giao dịch tiếp theo… Hệ thống thông tin nội bộ của một ngân hàng tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng đó thông qua việc các thông tin đầy đủ và chính xác, luôn được cập nhật giúp cho việc ra quyết định tín dụng đúng đắn và kịp thời. Việc ngân hàng tìm nhiều cách để có được thông tin từ bên ngoài. sử dụng chúng như thế nào và khả năng đánh giá các luồng thông tín đó cũng ảnh hưởng nhiều tới việc hạn chế rủi ro tín dụng. Thứ sáu, tính đa dạng hoá trong hoạt động của ngân hàng Đây là yếu tố tác động tới hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng nhưng không phải là tác động trực tiếp , nó chỉ nhằm giảm thiểu tổn thất xảy ra đối với ngân hang khi rủi ro xảy ra. Đa dạng hoá giúp cho ngân hàng phân tán được rủi ro, đây cũng là một công cụ hữu hiệu trong việc hạn chế rủi ro tính dụng của ngân hàng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH VIỆT NAM ( VPBANK ) 2.1, KHÁI QUÁT VỀ VPBANK 2.1.1, Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động: Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam (VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99 năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993. Hội sở chính được đặt tại số 18 Lê Thánh Tông – Hà Nội. Chiến lược kinh doanh của VPBank là tập trung vào hoạt động ngân hàng bán lẻ. gồm 2 mảng chủ yếu : một là, ngân hàng phục vụ tiêu dùng ( đa dạng hóa các hình thức huy động vốn; đa dạng hóa cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp; phát triển các dịch vụ thẻ ngân hàng) và thứ hai là, ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng; Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác; Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo quy định của NHNN Việt Nam. Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển, theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng. Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Và hiện nay vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng vào tháng 7/2007 và đến cuối năm 2007 là 2000 tỷ đồng. Sứ mệnh phát triển :VPBank sẽ trở thành ngân hàng thương mại đô thị đa năng, hoạt động theo phương châm: lợi ích của khách hàng là trên hết; lợi ích của người lao động được chú trọng; đóng góp có hiệu quả vào sự phát triển của cộng đồng. Đối với khách hàng: VPBank cam kết thỏa mãn tối đa lợi ích của khách hàng trên cơ sở cung cấp cho khách hàng những sản phẩm và dịch vụ phong phú, đa dạng, đồng bộ, nhiều tiện ích, chi phí cạnh tranh. Đối với nhân viên: VPBank quan tâm đến đời sống vật chất lẫn tinh thần của toàn thể nhân viên và đảm bảo cho nhân viên mức thu nhập ổn định, mang tính cạnh tranh cao trong thị trường lao động ngành tài chính ngân hàng.VPBank đảm bảo cán bộ nhân viên thường xuyên được nâng cao trình độ nghiệp vụ, phát triển đầy đủ các quyền lợi về chính trị và văn hóa… Đối với cổ đông :VPBank quan tâm và cố gắng nâng cao giá trị cổ phiếu, duy trì mức cổ tức cao hàng năm… Đối với cộng đồng :VPBank cam kết thực hiện tốt nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách Nhà nước; quan tâm chăm lo đến công tác xã hội, từ thiện để chia sẻ khó khăn của cộng đồng. Tầm nhìn chiến lược: VPBank phấn đấu đến năm 2010 trở thành ngân hàng dẫn đầu khu vực miền Bắc, đồng thời là ngân hàng trong top 5 của cả nước, một ngân hàng có tầm cỡ của khu vực Đông Nam Á về chất lượng hiệu quả và độ tin cậy. Giá trị cốt lõi: VPBank định hướng khách hàng là nền tảng trung tâm cho mọi hoạt động Sự kết hợp hài hòa lợi ích khách hàng, nhân viên, cổ đông và cộng đồng là sợi chỉ xuyên suốt mọi hoạt động; Xây dựng văn hóa ngân hàng theo phương châm tạo dựng một tập thể đoàn kết, tương trợ, văn minh, không ngừng học hỏi để hoàn thiện, luôn trao đổi thông tin để cùng tiến bộ… Công nghệ tiến tiến và quản trị thông tin có khoa học là cơ sở để tăng tốc và duy trì sức mạnh. Đội ngũ nhân viên luôn minh bạch và có tinh thần trách nhiệm, luôn thể hiện tính chuyên nghiệp và sáng tạo là cơ sở cho thành công của ngân hàng. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới của VPBank: Sơ đồ tổ chức của VPBank : Tính đến 30/04/2007, VPBank có mạng lưới hoạt động như sau: Hội sở chính : số 8 Lê Thánh Tông – Hà Nội 16 Chi nhánh trực thuộc hội sở chính, 57 chi nhánh cấp 2 và phòng giao dich Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài Gòn. Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi nhánh Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân Phú; Chi nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đã chấp thuận cho VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo, Phòng giao dịch Giảng Võ, Phòng giao dịch Hai Bà Trưng, Phòng Giao dịch Chương Dương. Trong năm 2006, VPBank tiếp tục được NHNN cho mở thêm Phòng Giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và Phòng Giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế), Phòng giao dịch Bách Khoa, phòng Giao dịch Tràng An (trực thuộc Chi nhánh Hà Nội), Phòng giao dịch Tân Bình (trực thuộc Chi Nhánh Sài Gòn), Phòng Giao dịch Khánh Hội (trực thuộc Chi nhánh Hồ Chí Minh), phòng giao dịch Cẩm Phả (trực thuộc CN Quảng Ninh), phòng giao dịch Phạm văn Đồng (trực thuộc CN Thăng long), phòng giao dịch Hưng Lợi (trực thộc CN Cần Thơ). Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm 2006, VPBank cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản; Công ty Chứng Khoán.  Hiện nay, hệ thống VPBank có tổng cộng 37 điểm giao dịch gồm có: Hội sở chính tại Hà Nội, 21 Chi nhánh và 16 phòng giao dịch tại các Tỉnh, Thành phố lớn của đất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc; Bắc Giang và 2 Công ty trực thuộc. Năm 2006, VPBank sẽ mở thêm các Chi nhánh mới tại Vinh (Nghệ An); Thanh Hóa, Nam Định, Nha Trang, Bình Dương; Đồng Nai, Kiên Giang và các phòng giao dịch, nâng tổng số điểm giao dịch trên toàn Hệ thống của VPBank lên 50 chi nhánh và phòng giao dịch. Hiện tại VPBank đã có 90 Chi nhánh và Phòng giao dịch hoạt động tại 34 tỉnh, thành trên cả nước.  Số lượng nhân viên của VPBank trên toàn hệ thống tính đến nay có trên 2.600 người, trong đó phần lớn là các cán bộ, nhân viên có trình độ đại học và trên đại học (chiếm 87%). Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng, giúp VPBank sẵn sàng đương đầu được với cạnh tranh, nhất là trong giai đoạn đầy thử thách sắp tới khi Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác quản trị nhân sự 2.1.2, Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu thể hiện kết quả kinh doanh của VPBank từ 2005 – 2007. STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 06/05% 07/06% 1 Vốn điều lệ 309 750 242 2.000 267 2 Tổng tài sản 6.092 1.0159 167 18.200 179 3 Nguồn vốn huy động từ dân cư 3.178 5.678 179 15.355 270 4 Dư nọ tín dụng 3.014 5.031 167 13.217 262 5 Tỷ lệ nợ quá hạn 0.75% 0,58% < 1% 6 Lợi nhuận ròng trước thuế 76,2 156 205 313 200 7 Số lượng điểm giao dich 30 47 157 100 213 8 Số lượng CBNV 782 1.235 158 2000 162 ( số liệu được trích từ báo cáo thường niên cuả ngân hàng qua các năm ) 2.1.2.1, Những hoạt động chính: Hoạt động huy động vốn: Huy động vốn là một hoạt động được VPBank rất chú trọng, với mục tiêu bảo đảm an toàn vốn cho vay, an toàn thanh khoản và tăng nhanh tài sản có, nâng cao vị thế của VPBank trong hệ thống ngân hàng. Do đó, trong các năm qua, các hoạt động huy động vốn từ khu vực dân cư cũng như từ khu vực liên ngân hàng đều được VPBank khai thác triệt để. Trong những năm gần đây sự cạnh tranh trong hoạt động huy động vốn bằng việc tăng lãi suất huy động vốn giữa các ngân hàng thương mại diễn ra rất mạnh, bên cạnh đó sự phát triển khá sôi động của thị trường chứng khoán cũng đồng thời làm dịch chuyển luồng vốn dân cư và các doanh nghiệp vào đầu tư chứng khoán. Mặc dù có những tác động trên, nguồn vốn huy động của VPBank vẫn tăng trưởng cao. Đó là nhờ vào chính sách lãi suất phù hợp, đa dạng hóa các sản phẩm huy động, cùng với các chương trình khuyến mãi với quà tặng hấp dẫn. Mặt khác, trong những năm gần đây, VPBank đã tích cực mở rộng mạng lưới hoạt động đồng thời thương hiệu ngân hàng cùng đã chiếm được vị trí vững chắc trong tiềm thức dân cư và các doanh nghiệp do vậy việc huy động vốn cũng trở nên thuận lợi hơn. Đến cuối năm 2007,nguồn vốn huy động đạt 15.355 tỷ đồng, tăng gấp 13,5 lần so với cuối năm 2003, đặc biệt năm 2004 nguồn vốn tăng gấp 3 lần so với cuối năm 2003. Bình quân giai đoạn 2004 – 2007 nguồn vốn huy động của VPBank đạt mức tăng trưởng 68%. Biểu 2.1: Tổng nguồn vốn huy động của VPBank qua các năm 2005 -2007 ( theo nguồn từ báo cáo thường niên của ngân hàng qua các năm ) Hoạt động tín dụng: Trong điều kiện nền kinh tế mở cửa và liên tục tăng trưởng manh, những năm gần đây, Việt Nam được xem là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao hàng đầu trên thế giới. Nhu cầu vốn đầu tư tăng cao nên hoạt động tín dụng của các ngân hàng khá sôi động. Trong thời gian từ 2004-2007, hoạt động tín của VPBank được giữ vững theo phương châm bảo thủ, không cạnh tranh bằng cách nới lỏng điều kiên tín dụng. Tuy vậy, nhờ có sự nỗ lực tiếp thị khách hàng của đơn vị nên tốc độ phát triển tín dụng vẫn đạt ở mức khá cao, cao gấp hơn 2 lần mức tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành ngân hàng. Doanh số cho vay của toàn hệ thống năm 2007 đạt tỷ đồng, tăng 8.186 tỷ đồng( tương đương với 163 %) so với năm 2006. Dư nợ tín dụng toàn hệ thống tính đến ngày 31/12/2007 đạt 13.217 tỷ đồng Với chiến luợc trở thành ngân hàng bán lẻ tốt nhất tại Việt Nam, VPBank chú trọng vào các khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vừa và nhỏ, các cá nhân, hộ gia đình. Chất lượng tín dụng của VPBank vẫn đảm bảo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và qui chế của VPBank. Tỷ lệ nợ xấu ( gồm các nhóm 3, 4, 5 ) của VPBank Cuối năm 2007 ở mức 0,49% tổng dư nợ, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu chung của ngành ngân hàng Việt Nam( khoảng 7 %). Biểu 2.2 : Tổng dư nợ của VPBank qua các năm 2005 - 2007 ( nguồn từ báo cáo thưòng niên các năm ) 2.1.2.2, Các hoạt động, dịch vụ khác: Hoạt động dịch vụ ngân quỹ: Năm 2006, 2007 với sự ra đời của nhiều ngân hàng mới và các ngân hàng được nâng cấp lên từ nông thôn do vậy các giao dịch liên ngân hàng diễn ra khá sôi động. Tuy nhiên, do thị trường chứng khoán ngày càng hấp dẫn và ngày càng có nhiều công ty chứng khoán ra đời nên đã có sự dịch chuyển một phần nguồn vốn của các ngân hàng sang các công ty chứng khoán. Tuy có những khó khăn nhất định, song hoạt động ngân quỹ trong năm 2007 đạt kết quả khả quan. Hầu hết các chỉ tiêu hoạt động ngân quỹ đều đạt và vuợt kế hoạch từ 30 - 40%. Các quan hệ liên ngân hàng vẫn được duy trì và phát triển tốt. Các ngân hàng thương mại cổ phần đều đã thiết lập quan hệ và có hạn mức tín chấp nói riêng cho VPBank. Hoạt động ngân quỹ đã làm tốt công tác điều hoà vốn, đảm bảo nguồn vốn đáp ứng nhu cầu thanh khoản cao cho toàn hệ thống, tận dụng tốt các cơ hội chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ và đồng USD để kinh doanh thu lãi; luôn duy trì trạng thái ngoại tệ âm ở mức phù hợp và đáp ứng đúng yêu cầu ngân hàngNhà nước đặt ra. Trong năm 2007, tổng doanh số mua ngoại tệ là 386 triệu USD. Doanh số mua kỳ phiếu, trái phiếu năm 2007 là 1.380 tỷ đồng so với năm 2006 là giảm 615 tỷ đồng, giá trị kỳ phiếu, trái phiếu đến hạn thanh toán là 1347 tỷ đồng; số dư chứng từ có giá đến cuối năm còn 2080 tỷ đồng – tăng 37 tỷ đồng so với năm trước. Tất cả các trái phiếu, kỳ phiếu mà VPBank tham gia muc bán trong thời gian qua đều có nguồn gốc từ kho bạc nhà nước hoặc các ngân hàng thương mại quốc doanh phát hành. Hoạt động thanh toán: Hoạt động thanh quốc tế: Hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank trong những năm gần đây tăng trưởng khá tốt. Trị giá L/C nhậpkhẩu mở trong năm 2007 đạt hơn 110 triệu USD, tăng hơn 81% so với năm 2006. Doanh số chuyển tiền TTR trong năm 2007 đạt hơn 133 triệu USD, tăng 66% so với cuối năm 2006. Bảng 2.2: Kết quả hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank từ năm 2005 – 2007. STT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 06/05 (%) Năm 2007 07/06 ( %) 1 Trị giá L/C nhập mở trong kỳ 38,225 61,049 159 110,498 181 2 Trị giá L/C xuất trong kỳ 6,243 5,665 90 7,750 136 3 Doanh số chuyển tiền TTR 44,685 80,078 179 133,730 166 4 Doanh số nhờ thu 3,618 5,159 142 9,230 178 5 Tổng số phí thu được 4,015 6,122 152 10,346 169 ( số liệu theo báo cáo thường niên của VPBank ) Hoạt động thanh toán trong nước: Cùng với việc mở rộng mạng lưới hoạt động cũng như đầu tư phát triển công nghệ ngân hàng việc chuyển tiền trong nước thông qua VPBank ngày càng trở nên thuận tiện và nhanh chóng. Doanh số chuyển tiền trong nước năm 2007 đạt 7331 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2006. Phí dịch vụ chuyển tiền tuy vẫn là con số khiêm tốn nhưng cũng đạt được những tăng trưởng nhất định. Biểu 2.3 : Tỷ lệ nợ xấu của VPBank từ năm 2004 – 2007. 2.2, THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI VPBANK Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động của ngân hàng. Đó là hoạt động có qui mô lớn nhất, đem lại thu nhập chính cho VPBank. Trong các hoạt động tín dụng của VPBank, hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và phần lớn rủi ro tín dụng là do hoạt động này mang lại nên để xem xét hoạt động tín dụng và tình hình quản lý rủi ro tín dụng dưới đây tôi xin được trình bày theo quan điểm hoạt động tín dụng là hoạt động cho vay trung và dàu hạn của VPBank. 2.2.1, tỷ trọng tài sản là các khoản vay trong tổng tài sản Bảng 2.3: Tình hình tổng tài sản và dư nọ cho vay của VPBank qua các năm 2005 - 2007 stt Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Tổng tài sản 6.092 10.159 18.200 2 Dư nợ cho vay 3.014 5.061 13.217 3 Tỷ trọng 49,5 % 49,8% 72,62% ( nguồn: báo cáo thường niên các năm) Qua bảng trên ta thấy: dư nợ cho vay của VPBank qua các năm đều chiếm tỷ lệ lớn so với tổng tài sản. Năm 2005, tỷ lệ này là 49.5%; đến năm 2006 vẫn giữ vững là 49,8% nhưng sang năm 2007 đã có bước tiến đáng kể lên tới 72,62%. Qua đó cho thấy sự tác động của việc Việt Nam gia nhập WIO tới hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung và của VPBank nói riêng. Đầu tư nước ngoài tăng, các dự án lớn đòi hỏi nguồn vốn đối ứng nhiều, các doanh nghiệp vừa và nhỏ mọc lên như nấm đó là những nguyên nhân làm cho dư nợ cho vay của ngân hàng tăng gấp đôi so với năm trước đó. Dư nợ tăng phản ánh một điều là rủi ro tín dụng cũng tăng theo, việc quản lý và hạn chế rủi ro tín dụng càng phải được quan tâm và giám sát một cách chặt chẽ hơn. Dư nợ cho vay tăng chứng tỏ là doanh số thu được từ hoạt động cho vay của ngân hàng tăng, có nghĩa là ngân hàng làm ăn có hiệu quả. Tuy nhiên việc tăng về qui mô không đồng nghĩa với tăng cả về chất lượng. Tại VPBank đội ngũ cán bộ lãnh đạo và nhân viên còn rất trẻ nên nhận biết rất rõ về điều này nên việc đảm bảo chất lượng của các khoản vay luôn được đặt lên hàng đầu và được ngân hàng thực hiện rất tốt. Tuy nhiên thì mọi rủi ro là không thể tính trước, thậm chí là với những khoản cho vay tưởng chừng như rất tốt vì vậy nên VPBank phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa những biện pháp hạn chế rủi ro của mình. 2.2.2, Kết cấu cho vay Kết cấu cho vay theo thời hạn cho vay: Bảng 2.4: Cơ cấu các khoản cho vay của VPBank theo thời hạn vay. STT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 1 Dư nợ cho vay 3.014 5.061 13.217 2 Ngắn hạn 56% 54% 51% 3 Dài hạn 44% 46% 49% ( nguồn từ báo cáo tài chính các năm cuả phòng tổng hợp và quản lý hành chính ) Khách hàng mục tiêu của VPBank là các doanh nghiệp vừa và nhỏ vad các khách hàng cá nhân, chính vì thế nên tỷ trọng các khoản vay ngắn hạn của VPBank thường chiếm tỷ lệ cao hơn so với các khoản cho vay trung và dài hạn. Các khoản cho vay ngắn hạn hàm chứa ít rủi ro hơn là dài hạn bởi sự biến động trong thời gian ngắn có thể dự đoán được và có biện pháp đề phòng. Điều này cho thấy chính sách tín dụng của VPBank không phải là mạo hiểm. hạn chế rủi ro ở mức nhất định trong thời kỳ kinh tế còn nhiều biến động như hiện nay. Kết cấu dư nợ theo ngành nghề: Bảng 2.5: cơ cấu các khoản vay của VPBank theo ngành nghề Ngành 2005 2006 2007 % tổng dư nợ cho vay % tổng dư nợ cho vay % tổng dư nợ cho vay Ngành nông lâm nghiệp 40,143 1,33% 122,47 2,42% 331,746 2,51% Ngành thuỷ hải sản 20,936 0,69% 33,403 0,66% 70,05 0,53% Ngành công nghiệp 777,786 25,8% 1.130,121 22,33% 3.214,374 24,32% Ngành dịch vụ 1.223,085 40,5% 2.114,99 41,79% 6.467,078 48,93% Các ngành khác 980,357 32,5% 1.685,313 33,3% 3.133,75 23,71% Qua bảng trên nhận thấy hoạt động cho vay của VPBank chủ yếu tập trung vào các ngành dịch vụ, thương mại gồm có: Ngành thương nghiệp ôtô, xe máy, đồ dùng cá nhân; ngành kinh doanh khách sạn và nhà hàng: ngành vận tải kho bãi và thông tin liên lạc… cơ cấu cho vay theo ngành thể hiện mục tiêu, phương hướng phát triển của VPBank là chủ yếu phục nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế. Việc đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh thể hiện mức độ phân tán rủi ro của ngân hàng, đây là biện pháp hạn chế rủi ro rất có hiệu quả. Ở VPBank cũng vậy, ngoài việc thực hiện theo mục tiêu chung thì ngân hàng vẫn mở rộng cho vay đối với các ngành khác như nông lâm nghiêp, thuỷ hải sản, các ngành công nghiêp như: công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, công nghiệp xây dựng,… và các hoạt động khác phục vụ : nghiên cứu khoa học, giáo dục, văn hoá thể thao, y tế… thực tế là danh mục cho vay cơ cấu theo ngành của VPBank ngày càng có thêm nhiều ngành và tỷ trọng các ngành cố gắng được duy trì một cách hợp lý qua các năm. Việc tỷ trọng của một số ngành giảm xuống tuy là có do tác động của cạnh tranh nhưng vẫn thể hiện chiến lược đa dạng hoá trong hoạt động cho vay nhằm phân tán rủi ro, hạn chế rủi ro tín dụng. Kết cấu dư nợ theo loại tiền: Việc cân đối sử dụng đồng ngoại tế và đồng nội tệ là một chính sách quan trọng đối với ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Hiện nay thế giới đang có nhiều biến động, nhiều đồng tiền mạnh được ưa chuộng hơn đồng Đôla và được sử dụng nhiều trong giao dịch thế giới, chính vì vậy ngân hàng cần đa dạng cơ cấu dư nợ theo loại tiền để hạn chế rủi ro về mặt tỷ giá, dẫn đến rủi ro tín dụng do các khoản vay bằng ngoại tệ gây ra. Tuy nhiên ở VPBank hiện nay vẫn chủ yếu là thực hiện cho vay bằng đồng Đôla và VNĐ. Bảng 2.6 : Cơ cấu các khoản vay của VPBank theo loại tiền Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ cho vay 3014 5061 13217 Dư nợ bằng USD ( % so với tổng dư nợ) 3,5% 5,3% 5% Dư nợ bằng VNĐ (% so với tổng dư nợ) 96,5% 94,7% 95% ( nguồn : báo cáo thường niên các năm và phồng tổng hợp và quản lý chi nhánh ) Những năm gần đây do đồng Đôla thường xuyên có những biến động lên xuống, đặc biệt trong năm 2007 vừa rồi, FED liên tục cắt giảm lãi suất của Đôla làm cho việc nắm giữ đồng tiền này trở nên không còn hấp dẫn và an toàn như trước nữa. Đứng trước những biến động này thì VPBank đã cố gắng giảm tỷ trọng dư nợ cho vay bằng ngoại tệ xuống so với các thời kỳ trước đây ( năm 2003 dư nợ cho vay bằng USD chiếm tới 18% nhưng những năm gần đây VPBank luôn duy trì tỷ lệ này ở mức dưới 5% ). Tình trạng khách hàng sử dụng tiền vay bằng VNĐ nhiều hơn USD có thể dẫn tới việc ngân hàng bị đọng vốn ngoại tệ tuy nhiên nó ngăn ngừa được tình trạng mất khả năng hoàn trả của khách hàng khi rủi ro tỷ giá xảy ra. Trên thực tế là VPBank chưa hề để xảy ra một trường hợp rủi ro nào lớn liên quan tới việc biến động về tỷ giá bởi vì tại VPBank khách hàng luôn được tư vấn về cách phòng ngừa rủi ro tỷ giá và các nhân viên tín dụng dựa trên tình hình thị trường mà thoả thuận với khách hàng một mức lãi suất phù hợp. 2.1.3, tình hình nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ qua các năm: Biểu 2.4 : Tỷ lệ nợ xấu của VPBank các năm từ 2004 - 2005 Qua biểu đồ trên ta nhận thấy: tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của VPBank luôn ở mức thấp. Tỷ lệ nợ xấu tăng đột biến trong năm 2005, đã giảm xuống trong năm 2006 và giữ ở mức ổn định trong năm 2007. So với thời kỳ từ năm 2004 trở về trươc thì tỷ lệ nợ quá hạn của VPBank đã giảm xuống rất nhanh chóng từ 13,17% năm xuống còn 0,58% trong năm 2004 và biến động không nhiều vào các năm sau, tuy năm 2005 có tăng lên một chút nhưng vẫn nhỏ hơn nhiều so với tỷ lệ 5% mà NHNN qui định.Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự thay đổi vượt bậc của VPBank, trong số đó, nguyên nhân lớn nhất là do sự thay đổi cơ bản về ban lãnh đạo của ngân hàng để khắc phục hậu quả do ban lãnh đạo trước đó để lại. Ngoài ra chính sách tín dụng của NHNN trong giai đoạn này cũng tác động nhiều tới tình trạng nợ quá hạn của các ngân hàng, làm giảm bớt tình trạng đảo nợ, giãn nợ,… Xét một cách toàn diện trong thời kỳ này VPBank đã thực hiện tốt việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống thấp đạt mức an toàn và chấp nhận được so với tỷ lệ mà NHNN đặt ra. Điều này cho thấy hiệu quả của các công cụ VPBank đang sử dụng nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Đây là điều mà ngân hàng cần phải phát huy cao hơn nữa trong thời gian tới. Từ những hậu quả nặng nề do quá khứ để lại ban lãnh đạo của VPBank nhận thấy rõ tầm quan trọng của việc phải hạn chế rủi ro tín dụng. Đồng thời ngân hàng cũng xác định hạn chế rủi ro tín dụng là quá trình liên tục từ khâu định hướng tín dụng ban đầu đến khi thu hồi được hết nợ. Việc hạn chế rủi ro tín dụng đòi hỏi sự tham gia của tất cả các bộ phận trong ngân hàng từ cơ quan đầu não là hội đồng quản trị cho tới các nhân viên của ngân hàng với mục đích không chỉ là hạn chế rủi ro tín dụng mà còn là nân cao chất lượng của các tài sản nội ngoại bảng, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh và giúp ngân hàng ngày càng phát triển. 2.3, ĐÁNH GIÁ CHUNG 2.3.1, Những kết quả đạt được Qua những phân tích ở trên ta thấy vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng tại VPBank đã được quan tâm và điều chỉnh tương đối hợp lý. Với những chính sách của mình ban lãnh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32986.doc
Tài liệu liên quan