Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quân Đội chi nhánh Bắc Hải

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT MB: military bank. NHTM: Ngân hàng thương mại. NHTMCPQĐ: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội. NHNN: Ngân hàng nhà nước. TGD: Tổng giám đốc. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU SƠ ĐỒ Sơ đồ 2.1: mô hình tổ chức của chi nhánh Bắc Hải 35 Sơ đồ 2.2: mô hình tổ chức của phòng giao dịch trực thuộc chi nhánh 37 Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn tại MB Bắc Hải 38 Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn cụ thể của MB Bắc Hải 39 Bảng 2.3: Bảng báo cáo kết quả hoạt động của MB 42

doc114 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2421 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Quân Đội chi nhánh Bắc Hải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 2.4: Bảng phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế (tỷ đồng) 44 Bảng 2.5: Bảng phân loại tín dụng theo kỳ hạn (tỷ đồng) 45 Bảng 2.6: Bảng phân loại tín dụng theo chất lượng 46 Bảng 2.7: Bảng phân loại dư nợ cho vay theo mức độ rủi ro tại MB Bắc Hải 47 Bảng 2.8: Bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn của MB Bắc Hải 48 Bảng 2.9: Bảng phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay 49 Bảng 2.10: Bảng phân chia mức độ rủi ro 59 Bảng 2.11: Danh sách thành viên hội đồng xử lý rủi ro của MB 67 Bảng 2.12: Bảng số liệu về công tác thu hồi nợ 73 Biểu dồ 2.1: Dư nợ tín dụng của MB Bắc Hải 43 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, ở nước ta, hoạt động của các ngân hàng thương mại đang rất thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như đại bộ phận dân chúng. Đặc biệt là trong năm vừa qua, trong tình hình của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, hoạt động của các NHTM càng được chú ý tới đặc biệt là những rủi ro có thể xẩy ra với các ngân hàng. Và một trong những rủi ro quan trọng và có tác động mạnh mẽ nhất tới hoạt động của các NHTM chính là rủi ro tín dụng. Có thể nói đây là loại rủi ro có ý nghĩa sống còn đối với mỗi ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Chính vì tác động lớn như vậy nên việc hạn chế rủi ro tín dụng có vai trò rất quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Khi thực tập tai chi nhánh MB Bắc Hải, nhận thấy tình hình hoạt động tín dụng của chi nhánh vẫn còn tồn tại những rủi ro, đối với chi nhánh hiện nay việc đưa ra những giải pháp nhằm hạn chế rủi ro là rất cần thiết. Ý thức được vấn đề đó em đã quyết định chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng Quân Đội chi nhánh Bắc Hải”. Cơ cấu của đề tài gồm ba phần: Chương I: Tổng quan về rủi ro tín dụng tại NHTM Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội chi nhánh Bắc Hải. Chương III: Các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đôi chi nhánh Bắc Hải. Do kiến thức và hiểu biết có hạn nên bài viết còn nhiều hạn chế. Em mong nhận được những ý kiến phê bình góp ý của thầy hướng dẫn cũng như các anh chị tại chi nhánh MB Bắc Hải. CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NHTM 1.1. Tín dụng ngân hàng 1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Là quan hệ chuyển giao quyền sử dụng vốn lẫn nhau giữa người đi vay và người cho vay trên nguyên tắc có hoàn trả (trong đó người cho vay là ngân hàng). Quan hệ tín dụng dựa trên nền tảng của sự tin tưởng nhau giữa các chủ thể. Trong quá trình đó, bên cho vay sẽ chuyển giao vốn của mình cho bên vay sử dụng trong một thời gian nhất định mà hai bên thỏa thuận gọi là thời hạn tín dụng, khi đến hạn bên đi vay sẽ phải hoàn trả vô điều kiện cả gốc lẫn lãi cho bên cho vay. Điều 20 trong luật Các Tổ chức tín dụng Việt Nam quy định: “tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng trong đó người cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng còn người đi vay là các doanh nghiệp hoặc các cá nhân có nhu cầu về vốn.” Theo đó, việc cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Điểm đặc biệt trong tín dụng ngân hàng là việc ngân hàng vừa là người đi vay vừa là người cho vay bằng vốn của người khác. Quá trình vận động này đặc biệt ở chỗ ngân hàng chỉ bán quyền sử dụng của mình đối với tiền hay hàng hoá, chứng khoán, dịch vụ chứ không bán quyền sở hữu nên sau một thời gian sẽ thu hồi cả vốn lẫn lãi. Và giáo trình “Ngân hàng thương mại” của trường Đại học kinh tế quốc dân định nghĩa rằng “Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong lền kinh tế”. Từ định nghĩa đó ta thấy được hoạt động chính của các ngân hàng là huy động vốn trong nền kinh tế và sử dụng số vốn huy động được vào hoạt động kinh doanh của mình. Số vốn của ngân hàng thực tế nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu vay vốn của cá khách hàng vì vậy ngoài nguồn vốn chủ ngân hàng còn huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, những nguồn vốn này là cơ sở để ngân hàng tiến hành các hoạt động của mình trong đó có hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy có thể nói đây là nguồn gốc của hoạt động tín dụng ngân hàng. 1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng Tín dung ngân hàng là hoạt động quan trong nhất của các ngân hàng thương mại. Nó có vai trò quan trọng đối với chính các ngân hàng này và với toàn bộ nền kinh tế. Đối với nhà nước: Trước hết tín dụng ngân hàng có vai trò điều chỉnh cung tiền thông qua dự trữ bắt buộc và hạn mức tín dụng. Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho nền kinh tế, ngân hàng đã tạo ra số nhân tiền tệ. Đó chính là khả năng tạo tiền của ngân hàng. Chúng ta đã biết công thức tính cung tiền của nền kinh tế M=m*MB trong đó m = (1+c)/(r+c) với r = R/D và c = C/D. (M: cung tiền; MB: lượng tiền cơ sở; m: số nhân tiền; c: tỷ lệ tiền tệ trong lưu thông; r: tỷ lệ dự trữ tiền gửi; R: lượng tiền dự trữ trong ngân hàng; C: số lượng tiền mặt đang lưu thông; D: số lượng tiền gửi tại các ngân hàng thương mại). Qua công thức ta nhận thấy cung tiền trong nền kinh tế tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự trữ tiền gửi tại các ngân hàng. Tỷ lệ dự trữ này của các NHTM lại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà ngân hàng nhà nước quy định, các ngân hàng thương mại luôn dự trữ một khoảng tiền lớn hơn mức dự trữ bắt buộc để vừa đảm bảo được mức dự trữ của mình luôn phải đạt được mức dự trữ bắt buộc mà vẫn không ảnh hưởng tới việc kinh doanh của ngân hàng. Còn về hạn mức tín dụng, nó sẽ tác động đến lượng tiền cho vay của các NHTM với khách hàng và qua đó ảnh hưởng tới số tiền cung tiền của nền kinh tế. Vì yếu tố đó mà ngân hàng nhà nước sẽ dễ dàng thay đổi lượng tiền cung ứng bằng cách điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc hạn mức tín dụng đối với các NHTM. Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Và khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh sẽ kéo theo nền sản xuất xã hội phát triển. Bên cạnh đó khi các doanh nghiệp mở rộng sản xuất sẽ tạo điều kiện cho một bộ phận lao động trong xã hội có được công ăn việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống góp phần hạn chế các tệ nạn trong xã hội. Với chức năng trung gian tài chính của mình, ngân hàng với nghiệp vụ tín dụng của nó có vai trò quan trọng trong thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Nếu không có các tín dụng ngân hàng đứng ra làm cầu nối giữa người cho vay đầu tiên và người đi vay cuối cùng thì những người này sẽ phải tự tìm đến nhau. Điều này vốn không phải dễ vì rất khó để những người cho vay và đi vay ở cùng một mức lãi suất, cùng một lượng tiền gặp nhau trong nền kinh tế. Điều đó dẫn tới hiện tượng ứ đọng vốn trong nền kinh tế gây ra tồn đọng trong quá trình lưu thông tiền tệ. Với sự xuất hiện của tín dụng ngân hàng vấn đề này đã được giải quyết. Và chúng ta cũng nhận thấy nếu lượng vốn ứ đọng này không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ dẫn đến mất cân đối trong mối quan hệ tiền – hàng, kéo theo sự biến động của hệ thống giá cả. Do vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần vào ổn định tiền tệ, giá cả. Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn trở thành công cụ quan trọng của nhà nước trong quá trình phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng. Khi khủng hoảng kinh tế diễn ra, nhu cầu của nền kinh tế giảm, các doanh nghiệp cũng cắt giảm thu hẹp sản xuất. Đề hồi phục nền kinh tế nhà nước có thể thực hiện các chính sách nhằm thúc đẩy tín dụng ngân hàng phát triển thông qua đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong cuộc khủng hoảng hiện nay nhà nước ta cũng đang thực hiện biện pháp này thông qua chính sách hỗ trợ lãi suất trong thời gian vừa qua. Đối với ngân hàng: Tín dụng là hoạt động chủ yếu của NHTM, phần lớn nguồn vốn mà các NHTM huy động được đều được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Hình thức tín dụng truyền thống của các NHTM là hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản. Nhưng hiện nay các NHTM đã thực hiện đa dạng hóa các hình thức tín dụng với nhiều loại hình tín dụng mới. Hoạt động tín dụng cũng đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Bởi vậy, hoạt động tín dụng có vai trò quyết định tới sự tồn tại và phát triển của các NHTM. Hoạt động tín dụng cũng là cơ sở quan trọng để NHTM phát triển các hoạt động khác. Trong lịch sử phát triển của ngành ngân hàng hoạt động tín dụng chính là hoạt động đầu tiên và cơ bản nhất của mỗi NHTM. Và từ hoạt động cơ bản đó NHTM mới phát triển các hoạt động khác như thanh toán, quản lý quỹ hay dịch vụ đại lý, tư vấn... Đối với doanh nghiệp Tín dụng ngân hàng còn góp phần vào tài trợ nguồn vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của mình, ngoài nguồn vốn chủ sở hữu, các doanh nghiệp đều cần đến một lựơng vốn vay để thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường như ngày nay việc sử dụng vốn vay lại càng trở thành tất yếu. Để thực hiện mục tiêu mở rộng sản xuất ở từng doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh, yêu cầu về nguồn vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Bởi lẽ, đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có mà doanh nghiệp còn phải biết tận dụng các nguồn vốn khác trong xã hội. Từ đó, tín dụng ngân hàng với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp nhanh chóng đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích lũy vốn cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp, tăng hiệu quả của dự án phương án. Để đảm bảo nguồn vốn vay được sử dụng có hiệu quả các NHTM thường tìm hiểu kĩ về các doanh nghiệp và đưa ra những nguyên tắc tín dụng. Vì vậy để vay vốn được từ các NHTM thì các doanh nghiệp buộc phải nâng cao uy tín và hiệu quả hoạt động của mình. Tương tự đối với các dự án, muốn vay vốn thực hiện dự án các doanh nghiệp cũng phải tìm hiểu thị trường, khai thác thông tin, định lượng hoạt động kinh doanh để đảm bảo hiệu quả của dự án. Hiện nay trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn hoạt động trong mối quan hệ qua lại với nhau. Đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế thì các doanh nghiệp đó còn có quan hệ xuất nhập khẩu với các công ty nước ngoài. Với các dịch vụ như bảo lãnh, cho vay doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng có thể giúp tăng cường các mối quan hệ này. 1.1.3. Các hình thức tín dụng ngân hàng Chiết khấu thương phiếu. Trong nền kinh tế thị trường, các loại giấy tờ có giá được phát hành và lưu thông rộng rãi. Người nắm giữ những giấy tờ có giá này nếu cần tiền mặt mà những giấy tờ có giá này chưa đến hạn thì có thể mang giấy tờ đó đến ngân hàng chiết khấu. Đây được coi là một nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người kí tên trên thương phiếu. Điều 57 mục 2 Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Người chủ sở hữu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác phải chuyển giao ngay mọi quyền, lợi ích hợp pháp phát sinh từ các giấy tờ đó cho tổ chức tín dụng.” Như vậy về bản chất đây là hoạt động tín dụng ngắn hạn. Có thể nói chiết khấu là một hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng nhận các chứng từ có giá và trao cho khách hàng một số tiền bằng mệnh giá của chứng từ nhận chiết khấu trừ đi phần lợi nhuận và chi phí mà ngân hàng được hưởng. HÌnh thức này khác với cho vay ở chỗ: không cần tài sản thế chấp mà sử dụng ngay chứng từ nhận chiết khấu làm đảm bảo tín dụng, ngân hàng thu lãi trước khi phát tiền vay bằng cách khấu trừ vào mệnh giá, qui trình xem xét cấp tín dụng đơn giản và nhanh chóng hơn so với cho vay. Hiện nay các NHTM thường nhận chiết khấu hai loại chứng từ cơ bản: thương phiếu và chứng từ có giá khác như trái phiếu, kỳ phiếu… Cho vay. Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng quy định: cho vay là một hình thức của cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng cho khách hàng vay một khoản tiền để sử dụng vào một mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Cho vay là một hình thức tín dụng lâu đời, nó đã phát triển với nhiều hình thức khác nhau. Thấu chi: thấu chi là một nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Đây là hình thức tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, tuy nhiên chúng chỉ được áp dụng với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và có kì thu nhập ngắn. Cho vay trực tiếp từng lần: đây là hình thức cho vay của các NHTM đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên và không có đủ điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Theo hình thức này mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, sau đó ngân hàng sẽ tiến hành phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu bảo đảm nếu cần. Và mỗi món vay loại này được quản lý tách biệt theo các hồ sơ khác nhau. Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, hạn mức này có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì, đó chính là dư nợ tối đa tại mỗi thời điểm tính. Trong nghiệp vụ này các NHTM sẽ không xác định trước kì hạn nợ và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập NHTM sẽ tiến hành thu nợ. Hình thức này tạo sự chủ động cho khách hàng trong việc quản lý ngân quỹ. Tuy nhiên việc không tách thành các khoản nợ cụ thể lên các NHTM cũng gặp khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát hiệu quả sử dụng vốn trong từng lần vay. Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân chuyển của hàng hóa. Trong quá trình hoạt động của mình các doanh nghiệp có thể gặp phải hiện tượng thiếu vốn khi mua hàng, khi đó, ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay để mua hàng và doanh nghiệp sẽ phải trả nợ khi bán được hàng. Theo phương thức này thì đầu năm hoặc quý doanh nghiệp sẽ phải làm đơn xin vay luân chuyển. Cũng theo phương thức này, mọi khoản thu từ bán hàng của doanh nghiệp đều được dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích sang tài khoản tiền gởi thanh toán của khách hàng. Có thể nhận thấy theo hình thức này, giá trị hàng hóa mua vào đều là đối tượng được ngân hàng cho vay và thu nhập từ bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng, đồng thời các khoản phải thu và hàng hóa trong kho trở thành vật bảo đảm cho khoản vay. Phương thức này thường được áp dụng với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì ngắn ngày. Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng mà theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Các khoản cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn tài trợ cho các tài sản cố định và hàng lâu bền. Đây là hình thức cho vay rủi ro cao nhất trong các hình thức cho vay vì các khoản vay này thường được thế chấp bằng chính các loại hàng hóa mua trả góp, khả năng trả nợ lại phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay, nếu người này mất việc ốm đau, giảm thu nhập thì khả năng trả nợ cho ngân hàng cũng giảm. Chính vì lý do đó nên lãi suất cho vay trả góp thường cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng. Cho vay gián tiếp: đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Trong phương thức này ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên tham gia vay vốn ngân hàng. Và để bù đắp một phần chi phí của trung gian, ngân hàng trích một phần thu nhập để lại cho trung gian. Hình thức này thường được áp dụng với thị trường có nhiều khoản vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Cho thuê tài sản. Cho thuê là hình thức tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Hoạt động này được phân thành hai hình thức là cho thuê hoạt động (còn gọi là cho thuê vận hành) và cho thuê tài chính. Theo điều 1 khoản 1 của nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02 tháng 5 năm 2001 quy định: “Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận.” Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Cho thuê vận hành là hình thức cho thuê tài sản theo đó Bên thuê sử dụng tài sản cho thuê của bên cho thuê trong một thời gian nhất định và sẽ trả lại tài sản đó cho bên cho thuê khi kết thúc thời hạn thuê tài sản. Bên cho thuê giữ quyền sở hữu tài sản cho thuê và nhận tiền cho thuê theo hợp đồng cho thuê. Bảo lãnh, tái bảo lãnh. Theo quy chế bảo lãnh ngân hàng: bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bảo lãnh. Bảo lãnh được chia thành nhiều hình thức khác nhau theo mục tiêu của bảo lãnh đó là bảo lãnh tham gia dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng , bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh hoàn trả vốn vay, bảo lãnh đảm bảo thanh toán. Ta có thể thấy bản chất của bảo lãnh ngân hàng là một hình thức tài trợ của ngân hàng cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới từ đó thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh của họ nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải bỏ tiền ngay khi kí kết hợp đồng bảo lãnh, chính vì thế, bảo lãnh không được quản lý trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng mà được quản lý trong phần tài sản ngoại bảng. Và khi khách hàng không thực hiện được cam kết, ngân hàng sẽ phải đứng ra chi trả cho bên thứ ba. Khi đó khoản tiền chi trả này sẽ được xếp vào loại tài sản xấu trong bảng cân đối kế toán và khoản chi trả này cúng là một phần cấu thành lên nợ quá hạn của ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy bảo lãnh cũng chưa đựng các loại rủi ro như một khoản cho vay lên nó cúng đòi hỏi phải phân tích khách hàng như khi cho vay. Tuy nhiên khác với các khoản cho vay ngân hàng thu lãi từ lãi suất thì bảo lãnh ngân hàng thu phí của khách hàng. Phí bảo lãnh này được tính theo phần trăm của số tiền bảo lãnh. Ngoài ra ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng kí quỹ. 1.2. Rủi ro tín dụng ngân hàng 1.2.1. Khái niệm rủi ro và quản lý rủi ro: Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta vẫn thường gặp “sự rủi ro”. Đó là những gì không tốt, ngoài sự mong đợi, có thể xảy ra đối với chúng ta trong mọi mặt của đời sống xã hội: vật chất, sức khoẻ, tinh thần và bao gồm cả tư duy, như bị mất cắp tiền, tai nạn giao thông, thất vọng, buồn chán do không đạt được mục đích nào đó… Như vậy, “rủi ro” là một phần của cuộc sống hàng ngày, nó diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực cuộc sống; là những nguy cơ tiềm ẩn có khả năng xảy ra và có thể sẽ mang đến những tổn hại về vật chất, tinh thần hoặc các yếu tố khác trong các lĩnh vực của đời sống xã hội... Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh và rủi ro là hai phạm trù có tính song hành. Khi tiến hành mọi hoạt động kinh doanh chúng ta luôn phải đứng trước sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận, lợi nhuận càng cao rủi ro càng lớn, bất cứ một hoạt động đem lại lợi nhuận nào đều hàm chứa rủi ro đi kèm. Khái niệm rủi ro thường bao gồm 02 nhân tố: Khả năng xảy ra rủi ro (tần số khả năng xẩy ra rủi ro nhiều hay ít) và hậu quả nếu rủi ro xảy ra (sự thiệt hại do rủi ro gây ra nhiều hay ít). Trong cuộc sống cũng như trong công việc, chúng ta luôn tìm cách dự đoán trước những rủi ro có thể xảy ra và lựa chọn cách xử lý đối với những rủi ro này bằng cách: ngăn chặn không cho rủi ro xảy ra, giảm thiểu hậu quả của rủi ro, né tránh rủi ro hoặc chấp nhận để cho rủi ro xảy ra. Đây là phản ứng mang tính tự nhiên được đưa ra nhằm bảo vệ chúng ta - đôi khi bảo vệ sự sống còn - trước những thiệt hại có thể xảy ra, hay còn gọi là quản lý rủi ro. Tất cả chúng ta đều có kỹ năng quản lý rủi ro, mặc dù có thể đôi khi chúng ta không nhận ra điều này. Ví dụ: vào mùa mưa, đi làm phải đem áo mưa; để không bị kẹt xe phải tránh giờ cao điểm hoặc chọn đường đi khác, v.v… Như vậy, Quản lý rủi ro là việc dự đoán về những khả năng và mức độ hậu quả của sự việc có thể xảy ra, qua đó áp dụng những biện pháp để làm giảm độ không an toàn và thay đổi cách xem xét và hành động đối với sự việc đó. Dưới góc độ quản lý, quản lý rủi ro là một phương pháp để phát hiện ra những yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của công tác quản lý từ đó thay đổi cách xem xét và hành động nhằm loại trừ hoặc làm giảm sự ảnh hưởng của những yếu tố trên. Như nội dung đã đề cập phần trên, khi xác định được rủi ro, chúng ta thường lựa chọn các biện pháp xử lý nhằm ngăn chặn, làm triệt tiêu các rủi ro, né tránh hoặc làm giảm các thiệt hại do rủi ro gây ra. Thông thường có các hình thức xử lý rủi ro chủ yếu như sau: -       Ngăn chặn, làm triệt tiêu nguyên nhân, điều kiện nảy sinh rủi ro; -       Làm giảm tác hại của rủi ro; -       Né tránh đối với những rủi ro mà nếu ta áp dụng biện pháp để ngăn chặn hiệu quả sẽ thấp vì chi phí cho việc ngăn chặn này sẽ lớn hơn hậu quả của rủi ro có thể xảy ra; -          Chuyển giao rủi ro; -          Chấp nhận những rủi ro có khả năng và mức độ xảy ra thấp, vì chi phí cho việc quản lý những rủi ro này sẽ cao hơn hậu quả có thể xảy ra. 1.2.2. Rủi ro tín dụng 1.2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của rủi ro tín dụng Theo sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter Rose: trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự chuyển dịch trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng, theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập ngân hàng. Từ đó cho thấy rủi ro tín dụng là rủi ro đặc trưng nhất, dễ xẩy ra nhất và gây hậu quả nặng nề nhất đối với hoạt động của ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro, theo đuổi lợi nhuận với rủi ro chấp nhận được là bản chất ngân hàng. Trong mọi hoạt động của ngân hàng, bất kì hoạt động nào cũng đều hàm chứa rủi ro và tín dụng không phải là một ngoại lệ. Chính vì thế P. Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) cho rằng: “Nếu ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng. Thế nên đã có rất nhiều nhà kinh tế nghiên cứu về rủi ro tín dụng và đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng: Theo Timothy W.Koch: “Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lợi, rủi ro xảy ra khi khách hàng sai hẹn – có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và lãi theo thỏa thuận. Rủi ro ro tín dụng là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hạn” (trong sách Bank Management, Đại học nam Carolina, The Dryden Press, 1995, trang 107). Trong tài liệu “Financial Institutions Management – A Modern Perpective”, A. Saunder và H.Lange lại cho rằng: “rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn”. Còn theo Henie Van Greuning, Sonja Brajovic Bratanovic: Rủi ro tín dụng được định nghĩa là nguy cơ mà người đi vay không thể chi trả tiền lãi hoặc hoàn trả vốn gốc so với thời hạn đã ấn định trong hợp đồng tín dụng. đây là thuộc tính vốn có của hoạt động ngân hàng. Theo ngân hàng thế giới (The World Bank): Rủi ro tín dụng tức là việc chi trả một khoản tín dụng bị trì hoãn, hoặc tồi tệ hơn là không chi trả được toàn bộ. Điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của ngân hàng. Trong luật pháp nước ta, theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, được ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, quy định: “rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.” Các định nghĩa khá đa dạng nhưng tựu trung lại chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau: - Rủi ro tín dụng phát sinh khi người vay sai hẹn (defaut) trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn hoặc lãi hoặc cả hai. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn (delayed payment) hoặc không thanh toán (non payment). Hay có thể hiểu là rủi ro tín dụng phát sinh khi ngân hàng không thu được vốn lãi hoặc cả hai đúng hạn, phát sinh nợ quá hạn hoặc nợ khó đòi có thể dẫn đến mất vốn. - Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức độ cao hơn có thể dẫn đến phá sản ngân hàng. Có thể ví rủi ro tín dụng như một “ngòi nổ”, khi nó xẩy ra gây thiệt hại không lớn lắm nhưng với những tác động dây chuyền mà nó tạo ra có thể gây ra những thiệt hại lớn thậm chí có thể gây ra khủng hoảng tài chính hoặc khủng hoảng kinh tế xã hội trên phạm vi quốc gia hoặc thế giới, điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang diễn ra vốn suất phát từ những rủi ro tín dụng trong thị trường tín dụng nhà đất ở Mĩ. - Đối với các nước đang phát triển (như ở Việt Nam), các ngân hàng thiếu đa dạng trong kinh doanh cá dịch vụ tài chính, các sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, vì vậy tín dụng được coi là dịch vụ sinh lời chủ yếu và thậm chí gần như là duy nhất, đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ. Vì vậy rủi ro tín dụng cao hay thấp sẽ quyết định hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. - Mặt khác, rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, thì rủi ro tiềm ẩn càng lớn). Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra. Để chủ động phòng ngừa rủi ro tín dụng có hiệu quả, ngoài việc hiểu thế nào là rủi ro tín dụng thì việc nhận biết các đặc điểm của rủi ro tín dụng cũng là rất cần thiết và hữu ích. Rủi ro tín dụng có những đặc điểm cơ bản sau: - Rủi ro tín dụng mang tính gián tiếp: Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Rủi ro tín dụng chủ yếu xảy ra khi khách hàng gặp những tổn thất và thất bại trong quá trình sử dụng vốn. Hay nói cách khác những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng là nguyên nhân chủ yếu gây nên rủi ro tín dụng của ngân hàng. - Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng, phức tạp của nguyên nhân, hình thức, hậu quả của rủi ro tín dụng tại các ngân hàng. Do đó khi phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng phải chú ý đến mọi dấu hiệu rủi ro, xuất phát từ nguyên nhân bản chất và hậu quả do rủi ro tín dụng đem lại để có biện pháp phòng ngừa phù hợp. - Rủi ro tín dụng có tính tất yếu tức luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại: tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện và đầy đủ, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Kinh doanh ngân hàng thực chất là kinh doanh rủi ro ở mức phù hợp và đạt được lợi nhuận tương ứng. 1.2.2.2. Phân loại rủi ro tín dụng Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tùy theo mục đích, yêu cầu của việc nghiên cứu hoặc quản lý. Đối với ngân hàng việc phân loại có ý nghĩa rất quan trọng, nó liên quan tới việc thiết kế chính sách, quy trình, thủ tục và mô hình tổ chức của ngân hàng nhằm đảm bảo nhận biết đầy đủ các nguyên nhân làm phát sinh rủi ro và phân chia trách nhiệm giữa các bộ phận của ngân hàng. Tùy theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các loại khác nhau. Theo đối tượng sử dụng Rủi ro tín dụng phân loại theo đối tượng sử dụng thực tế là phân loại theo đối tượng khách hàng của ngân hàng. Theo cách phân loại này rủi ro tín dụng được phân thành: Rủi ro tín dụng khách hàng cá thể. Rủi ro tín dụng công ty, rủi ro tổ chức kinh tế. Theo giai đoạn phát sinh rủi ._.ro Quy trình tín dụng bao gồm nhiều bước, nhiều giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn đó đều có thể phát sinh rủi ro đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Phân loại rủi ro tín dụng theo tiêu chí này bao gồm: Rủi ro trong giai đoạn thẩm định hay rủi ro do đánh giá sai khách hàng. Rủi ro khi cho vay. Rủi ro trong khi quản lý, xử lý thu nợ. Theo sản phẩm tín dụng Hoạt động tín dụng của các NHTM rất đa dạng. Do đó loại hình sản phẩm trong hoạt động tín dụng của NHTM cũng rất đa dạng và phong phú. Chúng ta có thể tạm chia các sản phẩm tín dụng của các NHTM thành hai loại đó là các sản phẩm nội bảng và các sản phẩm ngoại bảng. Cũng giống như vậy rủi ro tín dụng cũng có thể phân chia thành rủi ro tín dụng nội bảng và rủi ro tín dụng ngoại bảng. Theo thời hạn của khoản vay Tương tự như tín dụng ngân hàng có thể phân chia theo thời hạn thành tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thì rủi ro tín dụng cũng có thể phân chia thành rủi ro tín dụng dài hạn, rủi ro tín dụng trung hạn và rủi ro tín dụng ngắn hạn. Theo phạm vi: Rủi ro đơn lẻ: được hiểu là loại rủi ro gắn liền với một giao dịch cụ thể nào đó. Rủi ro hệ thống: rủi ro gắn liền với một nhóm khách hàng có thể là đối với khách hàng trong một ngành cũng có thể là khách hàng trong toàn bộ nền kinh tế. Theo nguyên nhân của rủi ro: Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch bao gồm rủi ro lựa chọn (rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của ngân hàng); rủi ro bảo đảm (rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như mức cho vay, loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo…); rủi ro nghiệp vụ (rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có vấn đề). Rủi ro danh mục: là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành rủi ro nội tại (xuất phát từ đặc điểm hoạt động và sử dụng vốn của khách hàng vay vốn, lĩnh vực kinh tế) và rủi ro tập trung (rủi ro do ngân hàng tập trung cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao). Nếu phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro thì rủi ro tín dụng được phân ra thành rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. Rủi ro khách quan là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch họa, người vay bị chết, mất tích và các biến động ngoài dự kiến khác làm thất thoát vốn vay trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách. Rủi ro chủ quan do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay vì vô tình hay cố ý làm thất thoát vốn vay hay vì những lý do chủ quan khác. Theo tính chất của rủi ro: Rủi ro ứ đọng vốn, thiếu hụt vốn: trong đó rủi ro ứ đọng vốn là loại rủi ro xẩy ra khi vốn huy động được bị tồn đọng lớn không cho vay hoặc đầu tư được. Còn rủi ro thiếu hụt vốn là loại rủi ro xẩy ra khi ngân hàng sử dụng vốn vượt quá mức mà ngân hàng có thể huy động được, để bù đắp mức thiếu hụt này ngân hàng phải huy động tại các nguồn khác đắt hơn làm giảm thu nhập của ngân hàng. Rủi ro nợ quá hạn: xẩy ra khi đến hạn thanh toán mà người vay chư trả đủ bị chuyển sang nợ quá hạn. 1.2.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng: Kinh doanh ngân hàng là kinh doanh rủi ro hay nói cách khác Hoạt động ngân hàng luôn phải đối diện với rủi ro. Vì vậy, nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng giúp ngân hàng có biện pháp phòng ngừa hiệu quả, giảm thiệt hại. Có 3 nhóm nguyên nhân cơ bản sau đây: 1.2.2.3.1. Các nguyên nhân khách quan: Nhân tố kinh tế: Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của NHTM có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Chính vì vậy hoạt động của nó chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các ngành khác trong nền kinh tế. Sự biến động bất thường của một hoạt động kinh tế nào đó trong nền kinh tế nói chung cũng đều ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực còn lại, với vai trò cầu nối của mình thì hoạt động của ngân hàng càng chịu nhiều ảnh hưởng từ những biến động bất thường đó. Vì thế có thể khẳng định môi trường kinh tế ảnh hưởng rất lớn rất lớn tới các ngân hàng. Trong số các hoạt động của các NHTM thì hoạt động tín dụng cũng chính là hoạt động nhạy cảm nhất với những biến động của nền kinh tế. Do đó các nhân tố kinh tế này là sẽ tác động mạnh mẽ tới hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Khi nền kinh tế ở trạng thái hưng thịnh thì các ngành trong nền kinh tế cũng phát triển kéo theo nhu cầu tín dụng cao, đồng thời các biến số của nền kinh tế tăng cao và ổn định, tín dụng ngân hàng sẽ phát triển và gặp ít rủi ro hơn. Ngược lại, nếu nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hay suy thoái, các doanh nghiệp có khuynh hướng giảm thiểu hoạt động kinh doanh của mình, tín dụng ngân hàng sẽ bị thu hẹp, đồng thời những khoảng tín dụng đã cấp cũng có nguy cơ gặp rủi ro cao. Trong các nhân tố kinh tế chúng ta cũng cần chú ý tới các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ. Vì thế bất kì một thay đổi nào trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ đều có thể gây ra ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng, có nguy cơ gây ra rủi ro tín dụng. Nhân tố xã hội: Các nhân tố xã hội như trình độ dân trí, trật tự an ninh, an toàn xã hội... ảnh hưởng trực tiếp tới các bên tham gia vào quan hệ tín dụng ngân hàng đó chính là ngân hàng và khách hàng của ngân hàng. Thực tế cho thấy, nếu một nơi nào an ninh trật tự không đảm bảo, an toàn xã hội kém, có nhiều tội phạm sẽ gây ra thiếu an toàn trong các hoạt động đầu tư gây trở ngại cho hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng cũng theo đó mà tăng lên. Nhân tố pháp lý: Môi trường pháp lý trong hoạt động kinh doanh là tổng hợp các yếu tố pháp lý có tác động tới hoạt động kinh doanh, bao gồm hệ thống pháp luật và hệ thống các biện pháp đảm bảo cho hệ thống pháp luật được thực thi cùng với sự chấp hành pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng đó chính là các quy định của NHNN, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và một số luật định khác liên quan. Nếu như các quy định của pháp luật không rõ ràng, thiếu đồng bộ, thiếu kịp thời, thiếu ổn định và nhiều kẽ hở thì sẽ gây khó khăn cho các NHTM trong các hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng. Nếu các NHTM hoạt động trong môi trường pháp lý như vậy sẽ không đạt được hiệu quả và dễ gặp rủi ro. Ngược lại, với một môi trường pháp lý vững chắc, rõ ràng, đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ góp phần đẩy mạnh hoạt động của các NHTM và hạn chế rủi ro trong các hoạt động của NHTM trong đó có hoạt động tín dụng. Và môi trường pháp lý đó cũng là cơ sở pháp lý để ngân hàng giải quyết các khiếu nại, tố cáo khi có tranh chấp xẩy ra trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. 1.2.2.3.2. Các nguyên nhân từ phía khách hàng: Khách hàng là người lập phương án, dự án vay vốn, và cũng chính họ cũng là người sử dụng nguồn vốn vay được của ngân hàng vào việc sản xuất, kinh doanh cũng như tiêu dùng của chính họ. Vì vậy, rủi ro tín dụng cũng xuất phát từ phía người vay. Năng lực của khách hàng: năng lực của khách hàng quyết định tới việc sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không. Nếu năng lực của khách hàng yếu kém sẽ gây ra thiếu hiệu quả trong việc thực hiện các dự án, phương án từ đó sẽ dẫn tới rủi ro tín dụng với các ngân hàng. Năng lực của khách hàng có thể xét trên hai yếu tố: Khả năng quản lý kinh doanh của khách hàng: trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vai trò của của nhà quản lý ngày càng quan trọng. Đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế, và việc gia nhập WTO của nước ta như hiện nay, vai trò của nhà quản trị càng được đề cao. Khả năng quản lý kinh doanh và quản trị tài chính của khách hàng ngày càng tác động nhiều hơn tới chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của chính các khách hàng và từ đó tác động tới chất lượng tín dụng của ngân hàng và có thể sẽ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Trong quá trình hoạt động của mình rất có thể do trình độ của nhà quản lý, của chủ doanh nghiệp còn yếu kém, không dự đoán được những biến động của thị trường, thiếu hiểu biết về việc sản xuất, phân phối và khuếch trương sản phẩm... dẫn tới những tính toán thiếu hợp lý trong khi lập và thực hiện dự án kinh doanh. Từ đó sẽ dấn tới việc dự án kém hiệu quả gây ảnh hưởng tới việc trả nợ cho ngân hàng dẫn tới rủi ro tín dụng. Khả năng thích nghi với môi trường cạnh tranh. Để tồn tại trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một yếu tố không thể tránh khỏi, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải đối mặt với cạnh tranh. Đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế như hiện nay, các doanh nghiệp không chỉ đối mặt với cạnh tranh từ các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong điều kiện như vậy năng lực cạnh tranh của khách hàng là một yếu tố quan trọng, nếu năng lực cạnh tranh của khách hàng tốt thì khách hàng đó sẽ tồn tại và phát triển, khả năng trả nợ cho ngân hàng lớn và ngược lại năng lực cạnh tranh kém có thể dẫn tới thua lỗ, khó khăn trong việc trả nợ cho ngân hàng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Sự trung thực của khách hàng: tính trung thực của khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng, một nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng của ngân hàng. Sự trung thực của khách hàng có thể xét trên ba khía cạnh: Sử dụng vốn sai mục đích. Đây là một loại rủi ro phổ biến trong hoạt động của ngân hàng. Sau khi vay vốn vủa ngân hàng thay vì sử dụng vốn như đã nêu trong hợp đồng vay vốn khách hàng đã sử dụng vốn vào việc có mà theo họ có thể đem lại lợi nhuận cao hơn, tuy nhiên đi kèm theo đó là mức độ rủi ro cũng cao hơn, nguy cơ mất vốn cao hơn gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Cung cấp số liệu sai cho nhân viên tín dụng để vay tiền. Đây là loại rủi ro xẩy ra khi khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, không cung cấp số liệu trung thực hay cố tình vi phạm các nguyên tắc kế toán để tạo ra số liệu đẹp nhằm qua mặt nhân viên tín dụng. Trong điều kiện thông tin không tốt, thiếu tính phổ thông như hiện nay, việc phát hiện ra các sai phạm đó là rất khó đối với ngân hàng, tình trang thông tin không cân xứng rất dễ xẩy ra làm cho ngân hàng có những quyết định tín dụng không hợp lý, dẫn đến khả năng mất vốn cao. Từ đó gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Cố ý chốn tránh nhiệm vụ trả nợ. Đây là hiện tượng, khi đến hạn trả nợ cho ngân hàng, mặc dù khách hàng có đủ khả năng thanh toán nhưng lại không muốn trả nợ cho ngân hàng. Họ cố tình chây ì, nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng. Đây là một loại rủi ro đạo đức của người vay. Rủi ro về tài sản đảm bảo của khách hàng: tài sản đảm bảo là một trong những điều kiện quan trọng để khách hàng có thể vay tiền. Nó chính là nguồn trả nợ thứ hai cảu khách hàng khi nguồn trả nợ thứ nhất của ngân hàng (thu nhập của khách hàng hay lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh) không đủ để trả nợ cho ngân hàng. Nó là một trong những yếu tố làm giảm thiểu rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên hiện nay vẫn còn hiện tượng tài sản thế chấp là nhà xưởng, máy móc, thiết bị cũ lạc hậu không còn đủ tiêu chuẩn là vật thế chấp gây khó khăn cho ngân hàng trong công tác cho vay. Bên cạnh đó là hiện tượng vật được đem ra thế chấp bị mất giá, giảm giá trong quá trình cho khách hàng vay, hay khi khách hàng không còn khả năng trả nợ, ngân hàng tiến hành phát mại tái sản nhưng lại không bán được hay bán được nhưng vẫn không đủ bù đắp nợ của khách hàng. Các nguyên nhân khác từ phía khách hàng: người vay chết, mất tích... 1.2.2.3.3. Các nguyên nhân từ phía ngân hàng: NHTM là bên cho vay trong quan hệ tín dụng ngân hàng. Và cũng có nhiều rủi ro tín dụng mà nguyên nhân xuất phát từ phía ngân hàng. Các nguyên nhân đó có thể được xét trên các khía cạnh: Chính sách tín dụng: Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sing lời (giáo trình ngân hàng thương mại). Chính sách tín dụng bao gồm các yếu tố: hạn mức tín dụng đối với khách hàng,; các loại hình tín dụng được thực hiện; kỳ hạn tín dụng được áp dụng; lãi suất và phí suất tín dụng; điều kiện giải ngân, thanh toán; phương hướng giải quyết các khoản tín dụng có vấn đề. Việc hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các yêu tố này. Chính sách tín dụng hợp lý, linh họat, đúng đắn, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, nếu các chính sách tín dụng mà thiếu hợp lý, cứng nhắc cũng là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn trong quản lý rủi ro tín dụng. Bên canh đó nếu hệ thống chính sách tín dụng không ổn định, lỏng lẻo, hay thay đổi, chưa chú trọng phân tích khách hàng... sẽ gây ra những hậu quả nguy hiểm, là nguyên nhân gây ra không ít rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Bên cạnh đó việc mở rộng quy mô tín dụng mà không chú ý tới chất lượng tín dụng, chính sách tín dụng chỉ chú ý tới mở rộng quy mô mà xem nhẹ chất lượng khoản vay cũng là một nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng. Quy trình cấp tín dụng: Quy trình cấp tín dụng là tập hợp những nhiệm vụ cơ bản và những bước trong quá trình cho vay, thu nợ nhằm đảm bảo an toàn vốn tín dụng. Nó bao gồm các bước từ khâu chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng và quá trình thu hồi nợ. Vai trò của quy trình tín dụng rất quan trọng. Một quy trình tín dụng hợp lý, linh hoạt, chủ động, thích hợp với mỗi loại khách hàng khác nhau sẽ giảm bớt được rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Đồng thời sự kết hợp nhịp nhành của các bước trong quy trình tín dụng cũng sẽ giúp cho các ngân hàng phát hiện kịp thời các khuyết điểm, nắm được tình hình của các khoản tín dụng để có biện pháp can thiệp kịp thời, sớm ngăn chặn và hạn chế các rủi ro tín dụng có thể xẩy ra. Ngược lại một quy trình tín dụng bất hợp lý thiếu gắn kết giữa các bước cũng là một nguyên nhân dẫn tới rủi ro tín dụng. Mạng lưới thông tin tín dụng: Mạng lưới thông tin tín dụng cũng là một yếu tố quan trọng tác động tới rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Những thông tin tín dụng có chất lượng sẽ là những căn cứ để đưa ra những quyết định tín dụng đúng đắn, hạn chế những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. Những thông tin về khách hàng mà ngân hàng cần quan tâm bao gồm: Thông tin tài chính của khách hàng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của phương án vay vốn, nhu cầu vốn thực tế của dự án, khả năng trả nợ của người vay, giá trị tài sản thế chấp... Thông tin gián tiếp: thông tin về xu hướng phát triển và khả năng cạnh tranh của ngành mà khách hành hoạt động, tình hình kinh tế xã hội... Thông tin phi tài chính: năng lực quản lý, năng lực sản xuất kinh doanh, uy tín, quan hệ xã hội... Hệ thống thông tin của ngân hàng cần phải đa dạng chính xác và đầy đủ. Chính vì vậy nguồn thông tin của ngân hàng cũng phải đa dạng và phong phú. Ngân hàng không chỉ lấy thông tin từ chính tổ chức đi vay mà còn phải lấy thông tin từ bên ngoài như từ các tổ chức tín dụng khác, từ các đối tác của khách hàng... Nhờ hệ thống thông tin đa dạng đó ngân hàng mới có thể đánh giá một cách toàn diện chính xác về một khách hàng từ đó đưa ra những quyết định tín dụng hợp lý hạn chế được rủi ro tín dụng. Tuy nhiên hiện nay hệ thông thông tin của các ngân hàng cẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đó, đây cũng là một nguyên nhân khiến các cán bộ tín dụng đưa ra những quyết định tín dụng sai lầm gây ra rủi ro tín dụng. Tình hình huy động vốn: Ngân hàng là một trung gian tài chính hoạt động theo kiểu huy động vốn trong nền kinh tế với lãi suất thấp rồi lại sử dụng chính nguồn vốn huy động được đó cho hoạt động kinh doanh của chính mình để thu được mức phí hoặc lãi cao hơn. Bởi vậy việc huy động vốn cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt đông tín dụng của ngân hàng và qua đó tác động tới rủi ro tín dụng. Nguồn vốn mà ngân hàng huy động được càng đa dạng, càng lớn thì càng tạo điều kiện cho hoạt động tín dụng phát triển cũng như càng giảm được rủi ro trong hoạt động tín dụng. Loại rủi ro tín dụng lớn nhất xuất phát từ huy động vốn mà các ngân hàng hay gặp phải là rủi ro về mặt thanh khoản vì ngân hàng thường huy động những nguồn vốn ngắn và trung hạn trong nền kinh tế trong khi đó lại đi cho vay trung và dài hạn. Hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro: Hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro có tác động lớn tới tình hình rủi ro tín dụng của các NHTM. Với một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng hợp lý các NHTM sẽ phát hiện được những dấu hiệu của rủi ro và từ đó tiến hành ngăn ngừa rủi ro tín dụng từ khi nó chưa xẩy ra. Bên cạnh đó với một hệ thống phân loại rủi ro tín dụng hợp lý cũng sẽ giúp cho ngân hàng quản lý rủi ro tín dụng tốt hơn. Và ngược lại một hệ thống quản lý rủi ro, phân loại rủi ro bất hợp lý cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng chậm hoặc không thể phát hiện ra những dấu hiệu rủi ro có thể diễn ra, cũng không quản lý tốt được các khoản tín dụng đã gặp rủi ro, từ đó dẫn đến tăng rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Công tác tổ chức của ngân hàng: Công tác tổ chức của ngân hàng nếu được cụ thể hóa và được sắp xếp một cách khoa học, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các phòng ban trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ là cơ sở để phát triển hoạt động tín dụng một cách lành mạnh có hiệu quả. Và khi đó nó cũng hạn chế được rủi ro tín dụng có thê xẩy ra thông qua việc phát hiện và xử lý kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề. Và khi công tác tổ chức của ngân hàng không hợp lý có thể dẫn đến sự chồng chéo trong hoạt động và những sai sót không đáng có dẫn tới những rủi ro tín dụng mà đáng nhẽ có thể hạn chế được. Chất lượng nhân sự: Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào mọi khâu trong quá trình tín dụng nên chất lượng nhân sự cũng là một nhân tố có thể gây ra rủi ro tín dụng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng của hoạt động tín dụng cũng như quản lý rủi ro tín dụng. Một cán bộ tín dụng không đủ khả năng phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn trong một hợp đồng vay nợ mà đưa ra quyết định cho vay sẽ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Cơ sở vật chất thiết bị: Trong điều kiện hiện nay, để áp dụng các công nghệ tiên tiến và đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh giữa các NHTM thì cơ sở vật chất thiết bị cũng là một yếu tố cần được chú ý. Việc ứng dụng, sử dụng các cơ sở vật chất ngày càng hiện đại là một nhu cầu tất yếu của tất cả mọi ngành trong nền kinh tế và ngân hàng không phải là ngoại lệ. Việc không thích ứng được với cơ sở vật chất, thiết bị hiện đại cũng là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng Hoạt động kiểm soát nội bộ: Hoạt động kiểm soát nộ bộ cho phép các nhà quản lý nắm bắt được tình hình hoạt động của ngân hàng, những khó khăn mà ngân hàng đang gặp phải để từ đó đưa ra được những đối sách hợp lý. Nếu hoạt động kiểm soát nội bộ khộng tốt rất có thể sẽ xẩy ra tình trạng không tuân thủ những chính sách quy định dẫn đến rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó cũng có thể không kiểm soát được hiện tượng nhân viên ngân hàng cấu kết với khách hàng gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. 1.2.2.4. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng: Việc phát hiện ra các dấu hiệu của rủi ro tín dụng là vô cùng quan trọng. Khi phát hiện ra được những dấu hiệu cho thấy có khả năng xẩy ra rủi ro, ngân hàng có thể tiến hành những hoạt động nhằm ngăn ngừa hoặc xử lý. Trên thực tế để phát hiện ra những dấu hiệu của rủi ro là khá khó, rủi ro có thể đột ngột xẩy ra mà không có bất kỳ một dấu hiệu nào báo trước. Mặc dù vậy vẫn có một số dấu hiệu cảnh báo rủi ro có thể xẩy ra với một khoản tín dụng của ngân hàng. Các dấu hiệu đó có thể phân thành các nhóm dấu hiệu sau: Các dấu hiệu về quan hệ của ngân hàng với khách hàng: là các dấu hiệu khi khách hàng có biểu hiện sau: Không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ lãi và gốc khi đến hạn. Xin ngân hàng cơ cấu lại nợ. Có biểu hiện giảm vốn điều lệ. Chậm trễ trong việc thanh toán các khoản phải trả bao gồm cả phải trả nhân viên. Vốn vay bị sử dụng sai với mục đích trong hợp đồng cho vay. Chu kỳ vay thường xuyên ra tăng. Các dấu hiệu về phương pháp quản lý và tổ chức của khách hàng: Không có sự thống nhất trong hội đồng quản trị hay ban lãnh đạo về quan điểm, mục đích và cách thức quản lý. Quản lý nhân sự yếu kém, cơ cấu tổ chức không hợp lý dẫn đến hiện tượng dùng người không hiệu quả, những nhân viên có năng lực rời bỏ doanh nghiệp. Các dấu hiệu về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng: Giá trị sản lượng hoặc doanh thu của khách hàng có xu hướng giảm. Thu nhập của khách hàng thiếu tính thường xuyên, ổn định. Vòng quay vốn lưu động thấp, khả năng thanh toán giảm. Các khoản tín dụng thương mại gia của khách hàng tăng một cách bất thường. Các dấu hiệu về xử lý thông tin tài chính, kế toán: Khách hàng chậm trễ hay trì hoãn nộp báo cáo tài chính, các số liệu trong báo cáo tài chính không hợp lý, thiếu chính xác. Tiền mặt, vốn lưu động của khách hàng giảm một cách bất thường. Sản xuất và bán hàng của khách hàng không đạt chỉ tiêu, kế hoạch. Cơ cấu vốn của khách hàng không hợp lý. Các dấu hiệu về thương mại: Khách hàng tham gia kinh doanh những ngành nghề không thuộc chuyên môn, những lĩnh vực có độ rủi ro cao. Yếu tố đầu vào của khách hàng không thuận lợi: ví dụ như giá cả đầu vào tăng cao, không mua được nguyên vật liệu đầu vào... Chi phí của doanh nghiệp khách hàng không hợp lý. Các dấu hiệu về mặt pháp lý: Có những thay đổi về chính sách liên quan đến ngành nghề kinh doanh của khách hàng theo chiều hướng bất lợi. Doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật. 1.2.2.5. Chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng và chỉ tiêu về an toàn tín dụng: Các chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng: Tỷ lệ nợ quá hạn: đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng, nó giúp đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tỉ lệ này được tính theo công thức: Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn/Tổng dư nợ. Tỷ lệ lãi treo: lãi treo là khoản tiền lãi của khoản vay mà ngân hàng chưa thu hồi được. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ thiệt hại trong thu nhập dự tính của ngân hàng do rủi ro tín dụng gây ra. Được tính theo công thức: Tỷ lệ lãi treo = Lãi treo phát sinh/Tổng thu nhập từ hợp đồng tín dụng Tỷ lệ nợ khó đòi: tỷ lệ này phản ánh tổn thất trong hoạt động tín dụng của ngân hang. Nó được tính theo công thức: Tỷ lệ nợ khó đòi = Nợ khó đòi/Tổng doanh số cho vay Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ: phản ánh tỷ lệ các khoản nợ không thu hồi được nhưng được nhà nước cho phép khoanh lại (thường là các khoản cho vay chính sách). Tỷ lệ nợ khoanh, xóa nợ = Nợ khoanh/ Tổng doanh số cho vay Tỷ trọng nợ khó đòi trên nợ quá hạn: phản ánh số lượng nợ có khả năng mất vón cao trên tổng số nợ quá hạn. Được tính bằng công thức: Tỷ trọng nợ khó đòi trên nợ quá hạn = Nợ khó đòi/ Nợ quá hạn Các chỉ tiêu về an toàn tín dụng Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu: là tỷ lệ tối thiểu giữa vốn tự có và tổng tài sản chuyển đổi rủi ro mà các NHTM cần phải duy trì. Hiện nay, ở nước ta, tỷ lệ này đang được quy định là 8%. Tỷ lệ thanh khoản: các tổ chức tín dụng cần duy trì đảm bảo khả năng thanh khoản của mình. Để đạt được điều đó các tổ chức tín dụng phải đạt được các chỉ tiêu: tỷ lệ giữa tài sản “Có” có thể thanh toán ngay và tài sản “Nợ” sẽ đến hạn thanh toán trong thánh tới tối thiểu là 25%; tỷ lệ giữa tài sản “Có” thanh ngay trong 7 ngày và tài sản “Nợ” phải thanh toán ngay trong 7 ngày tối thiểu là 1. Giới hạn cho vay, bảo lãnh: Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một khách hàng không được vượt quá 25% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng dư nợ cho vay của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 50% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của tổ chức tín dụng đối với một nhóm khách hàng có liên quan không được vượt quá 60% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ tối đa nguồn vốn ngắn hạn tổ chức tín dụng được phép cho vay trung hạn và dài hạn: Ngân hàng thương mại: 40%, Tổ chức tín dụng khác: 30%. Tác động của rủi ro tín dụng tới hoạt động của ngân hàng: Rủi ro tín dụng luôn tiềm ẩn trong kinh doanh ngân hàng và gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Giảm lợi nhuận: ngân hàng cấp tín dụng dựa chủ yếu vào nguồn vốn huy động được trong nền kinh tế. Để có được nguồn vốn này ngân hàng phải trả chi phí huy động. Nếu rủi ro tín dụng xẩy ra ngân hàng sẽ không thu được lãi để bù đắp chi phí. Khi đó, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm một cách đáng kể. Giảm uy tín của ngân hàng: chất lượng tín dụng thấp, tỷ lệ nợ quá hạn cao thì hiệu quả hoạt động của ngân hàng kém do hậu quả của rủi ro tín dụng, khi đó dân chúng sẽ mất lòng tin vào ngân hàng sẽ làm giảm uy tín và vị thế của ngân hàng. Giảm khả năng thanh toán: khi rủi ro tín dụng xẩy ra nhiều, đến một lúc nào đó ngân hàng không còn đủ nguồn vốn để trang trải cho các khoản này, khi đó khả năng thanh toán của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu tình trạng đó kéo dài còn có nguy cơ gây mất khả năng thanh toán của ngân hàng dẫn tới nguy cơ phá sản của ngân hàng. Giảm hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng: rủi ro tín dụng phát sinh đồng nghĩa với việc một phần vốn của ngân hàng bị tồn đọng hoặc thất thoát trong khoản tín dụng đó. Từ đó sẽ dẫn tới việc làm giảm vòng quay vốn của ngân hàng, làm giảm doanh số cho vay và dẫn đến làm giảm hiệu quả trong việc sử dụng vốn của ngân hàng. Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi phải trích lập dự phòng, không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất khi ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay. 1.3. Lý thuyết về hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại: 1.3.1. Hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại: Mục đích của việc hạn chế rủi ro tín dụng là nhằm đảm bảo cho hoạt động tín dụng của ngân hàng không phải chịu những rủi ro quá lớn làm ảnh hưởng đến sự tồn tại và khả năng cạnh tranh và phát triển của ngân hàng. Nói cách khác hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng nhằm mục đích xác định, đo lường rủi ro và từ đó giảm thiểu rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt trong phạm vi có thể. Việc hạn chế rủi ro tín dụng giúp ngân hàng tránh được việc phải đối mặt với những rủi ro quá lớn mà nếu chúng xẩy ra thì tác hại sẽ vượt quá khả năng chịu đựng của ngân hàng. Khi tiến hành công tác hạn chế rủi ro tín dụng chúng ta phải chú y đến vấn đề sự đánh đổi giữa chi phí và lợi ích đạt được từ việc hạn chế rủi ro tín dụng. Bất cứ một hoạt động nào của ngân hàng cũng đều phát sinh chi phí, hoạt động hạn chế rủi ro cũng vậy. Để có thể giảm thiểu rủi ro của mình các ngân hàng sẽ phải bỏ ra chi phí, nhưng vấn đề đặt ra là chi phí đó là bao nhiêu và lợi ích thu được từ hoạt động hạn chế rủi ro đó là bao nhiêu. Khi đối mặt với rủi ro ngân hàng có thể hạn chế, loại bỏ hay hứng chịu rủi ro. Đôi khi việc hạn chế hay loại bỏ rủi ro lại gây ra chi phí cao hơn so với tác hại mà rủi ro có thể gây ra, trong trường hợp đó ngân hàng nên chấp nhận rủi ro thay vì hạn chế nó. Các bước cơ bản để hạn chế rủi ro tín dụng: - Bước 1: theo dõi giám sat để nhận biết, xác định và nắm được nguyên nhân gây ra rủi ro. - Bước 2: đo lường rủi ro, tính toán đưa ra mức độ rủi ro tín dụng mà ngân hàng phải đối mặt, mức độ thiệt hại tài chính mà ngân hàng phải chịu nếu rủi ro xẩy ra. - Bước 3: đưa ra những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro cũng như tăng cường khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng. Các nguyên tắc cơ bản để hạn chế rủi ro tín dụng: khi hạn chế rủi ro cần đảm bảo bất kỳ rủi ro phát sinh ở đâu, thời điểm nào hệ thống kiểm soát rủi ro của ngân hàng cũng phải phát hiện được và có kế hoạch theo dõi, xử lý thích hợp. Ngân hàng phải xây dựng hạn mức rủi ro tín dụng hợp lý cho từng loại sản phẩm, từng cán bộ và tổng mức rủi ro của toàn bộ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Đồng thời mức độ rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt phải nằm trong khả năng chịu đựng được của ngân hàng 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Nhân tố con người: đây là nhân tố quan trọng tác động tới hoạt động hạn chế rủi ro của NHTM. Nhân tố con người bao gồm những cán bộ trong chính ngân hàng, và từ phái khách hàng. Đối với các cán bộ ngân hàng hai yếu tố cần được chú ý đó chính là trình độ của cán bộ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ. Cán bộ tín dụng có trình độ kém, đưa ra những quyết định sai lầm sẽ gây ra rủi ro cho ngân hàng. Cán bộ quản lý rủi ro trình độ thấp cũng sẽ không phát hiện ra sai sót, nguy cơ rủi ro trong tín dụng sẽ không ngăn chặn, giảm được rủi ro cho ngân hàng. Tuy vậy nhưng đạo đức nghề nghiệp mới là yếu tố gây ra rủi ro tín dụng nguy hiểm hơn. Về phía khách hàng, hai yếu tố là ý thức của khách hàng và năng lực của khách hàng sẽ tác động tới rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt. Môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh: bất kỳ sự thay đổi nào của Chính Phủ về chính sách phát triển kinh tế, chính sách tài chính tiền tệ... đều có ảnh hưởng tới đến hoạt động của ngân hàng. Vì vậy, sự thay đổi bất thường của các yếu tố chính sách liên quan tới hoạt động kinh tế của chính phủ đều là nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó yếu tố luật pháp cúng là một yếu tố tác động tới việc hạn chế rủi ._.g thẩm định các dự án đầu tư, tình trạng nâng giá trị thực tế của dự án để được vay nhiều hơn là khá phổ biến. Để hạn chế được tình hình trên, đảm bảo xác định khách quan và chính xác giá trị tài sản bảo đảm, cần thuê một tổ chức định giá hoặc kiểm toán độc lập, có uy tín để thực hiện việc kiểm toán toàn bộ việc thanh quyết toán giá trị công trình và định giá tài sản. Đồng thời thực hiện chặt chẽ và nghiêm túc việc chứng minh nguồn vốn tự có tham gia dự án của khách hàng, giải ngân đối ứng theo tiến độ dự án. Các khách hàng có mức độ xếp hạng tín dụng càng thấp thì càng cần nâng tỷ lệ tham gia của vốn tự có, cần lựa chọn những tài sản bảo đảm có giá trị, tính thanh khoản cao… Các điều kiện pháp lý trong hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ càng đảm bảo các quyền lợi của chi nhánh khi rủi ro xảy ra, đồng thời nâng cao trách nhiệm của khách hàng trong sử dụng vốn vay, hạn chế rủi ro xảy ra. Chi nhánh cũng nên tìm cách đưa vào áp dụng những phầm mềm chuyên dụng trong việc chấm điểm tín dụng chi khách hàng. Khi đó sẽ vừa đảm bảo được tính khách quan trong khâu thẩm định vừa tăng cường được tốc độ xử lý của khâu thẩm định. 3.2.6. Giải pháp hoàn thiện quy trình cho vay Về quy trình cấp tín dụng có thể thấy MB nói chung cũng như chi nhánh Bắc Hải đã xây dựng được một quy trình cho vay khá hoàn thiện. Tuy nhiên chi nhánh cũng cần lưu ý những điểm sau trong công tác hoàn thiện quy trình cho vay. Đối với những khách hàng là doanh nghiệp vay lần đầu hay khách hàng cá nhân vay lớn đều phải thông qua hội đồng tín dụng, qua đó sàng lọc lựa chọn khách hàng có khả năng tài chính, kinh doanh hiệu quả để hạn chế rủi ro. Về giai đoạn thẩm định khoản tín dụng, các giải pháp hoàn thiện công tác này đã được nêu ở phần trên. Tuy nhiên khi tiến hành thẩm định các cán bộ tín dụng của chi nhánh cũng cần chú ý tới việc: So sánh kết quả xếp hạng khách hàng mà mình đã đưa ra với xếp hạng của các cơ quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC). Phân tích cơ cấu nợ, mục đích là để xác định những tác động của cơ cấu nợ đối với nguy cơ vỡ nợ của khách hàng. Nếu cơ cấu nợ không hợp lý và hiệu quả thì người trả nợ sẽ bị hạ thấp loại xếp hạng. Khi thực hiện việc thẩm định khách hàng phải, các cán bộ luôn tuân thủ theo quy trình đã được đề ra. Bám sát theo đúng quy trình định sẵn, việc thẩm định sẽ không phải tốn nhiều thời gian do phải định hướng, mà vẫn có thể đảm bảo giảm thiểu được rủi ro. Khi khoản tín dụng được duyệt các cán bộ tín dụng của chi nhánh tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng, hồ sơ này phải mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý và giải ngân. Đồng thời khi lãnh đạo chi nhánh trước khi quyết định cho vay thì cần phải tập hợp một số thông tin về thị trường, chính sách kinh tế,… để có cái nhìn hệ thống về rủi ro có thể xảy ra trong một bối cảnh cụ thể trước khi ra quyết định. Việc ra quyết định cho vay cần phải có sự kiểm tra kỹ lưỡng thay vì kiểm tra sơ sài và quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng thì hiệu quả phòng ngừa rủi ro sẽ cao hơn. Đối với những khoản vay phải thông qua Hội đồng tín dụng để xét duyệt thì càng ẩn chứa rủi ro cao, hoạt động của Hội đồng tín dụng vẫn mang tính hình thức, các thành viên không có đủ thời gian cần thiết để nghiên cứu hồ sơ và đa phần vẫn quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng trực tiếp xử lý hồ sơ. Chính vì vậy, hoạt động của Hội đồng tín dụng cần quy định thời gian nghiên cứu hồ sơ cụ thể và phải có ý kiến bằng văn bản của tất cả thành viên hội đồng trước khi họp để ra quyết định. Việc giám sát sau khi cho vay cũng là công đoạn quan trọng của quy trình tín dụng. Khi tiến hành công đoạn này các cán bộ tín dụng của chi nhánh cần chú ý: Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không? Nêu rõ nguyên nhân gây ra sai lệch. Mô tả thực tế sử dụng vốn vay so với các chứng từ đã xuất trình hoặc dự kiến ban đầu.Ngân hàng phải quản lý được nguồn doanh thu của khách hàng. Trong hợp đồng tín dụng phải thỏa thuận được với khách hàng việc chuyển doanh thu và sử dụng các dịch vụ tại chi nhánh MB Bắc Hải, qua đó vừa kiểm soát được nguồn trả nợ, vừa tăng thêm phí dịch vụ thu được. So sánh thực tế dự án so với dự kiến ban đầu: tình hình các yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ, tình hình cơ sở vật chất, sự hiện hữu và tình trạng của tài sản thế chấp, cầm cố tại thời điểm kiểm tra. Những thay đổi trong hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, tình hình tài chính của khách hàng (khách hàng doanh nghiệp) hoặc sự thay đổi về tình trạng gia đình và nguồn thu nhập (khách hàng cá nhân). Đánh giá ảnh hưởng của các thay đổi này đến khả năng trả nợ. Giai đoạn thu hồi và xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai. Nếu việc trả nợ đang tốt, bỗng dưng chậm lại một vài kỳ, nhưng vẫn thanh toán đủ, nhân viên ngân hàng cần phải tìm hiểu nguyên nhân, để tìm biện pháp khắc phục, thậm chí có thể giúp ích được cho khách hàng bằng cách trao đổi với đối tác khách hàng khi cần thiết, tư vấn cho khách hàng những phương án mới giúp nhanh thu hồi được vốn... Nếu việc trả nợ thường xuyên chậm và để quá hạn nhiều kỳ, ngoài việc theo dõi, tìm hiểu nguyên nhân, đôn đốc khách hàng trả nợ, nhân viên ngân hàng cần phải tiến hành rà soát hồ sơ, thẩm định lại khả năng trả nợ và chuyển qua xử lý nợ. Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn. Sau khi rà soát thẩm định lại khoản vay, khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khoản vay vẫn còn có khả năng thu hồi, bộ phận xử lý nợ hoạch định kế hoạch và biện pháp thu hồi; nếu các khoản vay có nguy cơ mất khả năng thu hồi nợ, bộ phận xử lý nợ sẽ chuẩn bị phương án xử lý nội bộ, sau đó chuyển hồ sơ sang các cơ quan hữu quan có thẩm quyền thụ lý. 3.2.7. Giải pháp tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ về tín dụng Công tác kiểm soát nội bộ trong hoạt động tín dụng nói riêng và các hoạt động của chi nhánh nói chung là một công cụ vô cùng quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động của chi nhánh trong đó có rủi ro tín dụng. Thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra. Để tăng cường công tác này chúng ta cần chú ý tới những giải pháp: Tăng cường những cán bộ có trình độ, đã qua nghiệp vụ tín dụng để bổ sung cho phòng quản lý tín dụng, là phòng ban có trách nhiệm theo dõi kiểm soát công tác tín dụng của chi nhánh. Hiện tại phòng quản lý tín dụng của chi nhánh chỉ có hai người là quá ít chưa đáp ứng được công việc do đó việc tăng cường cán bộ là cần thiết. Các cán bộ làm công tác kiểm tra giám sát này cần phải có đầy đủ các phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn nhận khách quan; có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về quản trị kinh doanh và các nghiệp vụ ngân hàng; có khả năng thu thập, phân tích, đánh giá và tổng hợp thông tin; có kiến thức, kỹ năng về kiểm toán nội bộ; và có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực ngân hàng tối thiểu là hai năm. Một vần đề khác cần chú ý trong công tác kiểm tra kiểm soát tín dụng đó chính là phải đào tạo đạo đức nghề nghiệp để cán bộ quản lý tín dụng của chi nhánh trong quá trình tác nghiệp phải thực hiện công tác một cách vô tư, tránh tình trạng cả nể và chưa thực sự góp ý thẳng. Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát. Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích của kiểm tra. Bên cạnh đó, hệ thống kiểm soát nội bộ cần được thường xuyên tự đánh giá bởi vì việc này sẽ có tác dụng phòng ngừa rủi ro và hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý rủi ro của ngân hàng. Đồng thời chi nhánh cũng như toàn bộ hệ thông NHTMCP Quân Đội cũng cần trao thêm thẩm quyền cho bộ phận kiểm tra giám sát tín dụng này. Đồng thời cũng nên tách hoạt động của bộ phận này ra khỏi sự quản lý của các giám đốc chi nhánh người có quyền ra quyết định tín dụng cao nhất tại chi nhánh. 3.2.8. Các giải pháp về tài sản bảo đảm : Có thể nói một trong những biện pháp để đảm bảo an toàn và hạn chế tổn thất khi rủi ro xảy ra chính là tài sản bảo đảm của khách hàng, đây chính là nguồn thứ cấp để thu hồi nợ của chi nhánh khi không thu được nợ của khách hàng. Để đảm bảo khả năng thu hồi nợ cho chi nhánh tài sản đảm bảo cần đạt được yêu cầu có giá trị cao, có khả năng chuyển nhượng, đủ điều kiện pháp lý. Đồng thời việc xác định giá trị tài sản bảo đảm cần phải mang tính khách quan. Cần thường xuyên theo dõi tài sản bảo đảm, nắm bắt thông tin về tài sản bảo đảm, nếu có biến động lớn cần xem xét định lại giá trị tài sản. Thường xuyên thu thập thông tin về tài sản cùng loại qua thị trường và trung tâm bán đấu giá để có cơ sở định giá tài sản bảo đảm. Đối với việc nhận tài sản bảo đảm, chi nhánh cũng cần thường xuyên xem xét tính hợp lệ, hợp pháp và tính thị trường của tài sản đó. Linh hoạt trong phạm vi cho phép đối với doanh nghiệp có tín nhiệm, kinh doanh có hiệu quả. Khi nhận thấy tài sản đảm bảo của khách hàng không đủ để đảm bảo cho khoản vay cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm, đối với các doanh nghiệp khi tài sản của khách hàng không đủ có thể dùng tài sản cá nhân của Chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng, thành viên hội đồng quản trị… làm tài sản bảo lãnh để vay vốn ngân hàng, áp dụng các biện pháp cầm cố quyền đòi nợ, bảo lãnh của Tổng công ty. Bên cạnh đó chi nhánh cũng có thể giảm dần dư nợ, hạn mức tín dụng nếu khách hàng không đáp ứng đủ điều kiện tài sản bảo đảm theo quy định của chi nhánh. 3.2.9. Chuyển rủi ro cho bên thứ ba: Chi nhánh cũng có thể hạn chế rủi ro của mình bằng cách chuyển bớt rủi ro cho bên thứ ba. Trong hoạt động tín dụng của mình chi nhánh có một số khách hàng vay mang nhiều rủi ro, nếu chi nhánh từ chối cho vay sẽ bị mất khách, vì vậy chi nhánh có thể thực hiện việc chuyển rủi ro để vừa giữ chân được khách hàng vừa tránh phải chịu rủi ro quá mức. Cho vay đồng tài trợ: Đây là hình thức nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng có một dự án có nhu cầu vốn lớn hay mang nhiều rủi ro. Với nghiệp vụ này rủi ro của chi nhánh sẽ được san sẻ bớt cho các tổ chức tín dụng khác. Bán rủi ro: Là hình thức chuyển rủi ro cho các chủ thể có khả năng chịu đựng rủi ro. Trong trường hợp khoản vay có rủi ro cao, ngân hàng khó có thể chịu nổi nếu rủi ro xảy ra, vì vậy ngân hàng sẽ bán khoản cho vay cho các ngân hàng lớn hơn hoặc một trung gian tài chính khác để hưởng hoa hồng. Thực hiện bảo hiểm tiền vay: tức là chuyển rủi ro cho những cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp. Cho vay có bảo lãnh cũng là một hình thức giảm thiểu rủi ro. Trong thời gian vừa qua MB đã ký hợp đồng thỏa thuận hợp tác về bảo lãnh tín dụng với VDB (ngân hàng phát triển Việt Nam). Theo thỏa thuận hợp tác VDB sẽ bảo lãnh cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động để được vay vốn tại MB. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp có dự án, phương án kinh doanh tốt nhưng thiếu tài sản đảm bảo sẽ được VDB bảo lãnh để thực hiện vay vốn tại MB. Nếu lĩnh vực vay vốn của doanh nghiệp này thuộc diện được hỗ trợ lãi suất thì doanh nghiệp còn được vay vốn với mức hỗ trợ 4% lãi suất theo quyết định 131 của Thủ tướng Chính phủ. Một công cụ hiệu quả trong quản lí rủi ro tín dụng là các phái sinh tín dụng trong các nghiệp vụ tự phòng vệ. Phái sinh tín dụng là các công cụ phái sinh được sử dụng để quản lí rủi ro tín dụng. Chúng cho phép tách rủi ro tín dụng với các loại hình rủi ro khác vốn có trong mỗi công cụ cụ thể và chuyển rủi ro này từ người bán rủi ro (người mua sự bảo vệ tín dụng) đến người mua rủi ro (người bán sự bảo vệ tín dụng). Khả năng tách rủi ro tín dụng khỏi các tài sản Có và tài sản Nợ làm cho phái sinh tín dụng trở nên hấp dẫn trong sử dụng. Nhờ các công cụ này, chi nhánh có thể tự bảo vệ mình khỏi các rủi ro tín dụng, đảm bảo đa dạng hoá các rủi ro này. Tuy nhiên cần chú ý hiện nay thị trường các công cụ tài chính phái sinh ở nước ta chưa phát triển nên cungx khóthực hiện biện pháp này. 3.2.10. Một số biện pháp khác Đa dạng hoá phương thức cho vay: Một trong những nguyên tắc cổ điển nhất trong kinh doanh là “Không nên bỏ trứng vào một giỏ”. Nguyên tắc này cũn được áp dụng trong kinh doanh ngân hàng nói chung và trong tín dụng nói riêng. Trong hoạt động tín dụng điều đó có nghĩa là hướng các hoạt động tín dụng đến đa dạng mà các hậu quả của các hoạt động tín dụng đó không liên quan với nhau chặt chẽ giúp loại trừ một số rủi ro. Đây là nguyên lý không có gì mới, nhưng trong thực hiện thì cần luôn luôn quán triệt, xuyên suốt. Chi nhánh có thể thực hiện đa dạng hóa hoạt động tín dụng của mình bằng cách: Đa dạng hóa các đối tượng cho vay, không cho vay tập trung vào một đối tượng, một nhòm đối tượng có liên quan hay một ngành. Chi nhánh cũng có thể đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng của mình với nhiều hình thức tín dụng khác nhau. Trích lập dự phòng: đây là giải pháp quan trọng trong việc hạn chế những thiệt hai mà chi nhánh có thể sẽ phải chịu sau khi rủi ro xẩy ra. Chi nhánh đã nhận định được vai trò của việc trích lập dự phòng nên đã trích lập dự phòng đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật. Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô: việc nghiên cứu và dự báo vĩ mô nền kinh tế cũng là một hoạt động quan trọng có thể hạn chế được rủi ro cho chi nhánh. Khi đã dự đoán được những thay đổi vĩ mô của nền kinh tế các cán bộ tín dụng sẽ có thể đưa ra được những quyết định chính xác hơn, qua đó hạn chế được những rủi ro có thể xẩy ra. Để thực hiện được điều đó MB nói chung và chi nhánh Bắc Hải nói riêng nên thành lập Bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình. Bộ phận này sẽ tiến hành phân tích, đánh giá quy mô, cơ cấu và hiệu quả tín dụng của các ngành kinh tế, thành phần kinh tế, địa bàn nông thôn và thành thị để trên cơ sở đó ngân hàng có thể thực hiện các gải pháp mở rộng tín dụng an toàn - hiệu quả - bền vững. Ở trên chúng ta cũng đưa ra giải pháp là phải thành lập một phòng thông tin riêng. Chúng ta có thể kết hợp đưa thêm bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô vào phòng đó. Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, đang định hướng mô hình phát triển ở VN. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng và nhân viên của họ và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng việc quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã hoàn thành được hơn một nửa. 3.3. Một số kiến nghị Phía trên em đã nêu ra một số biện pháp mà một chi nhánh MB Bắc Hải có thể thực hiện nhằm hạn chế rủi ro của mình. Tuy nhiên để có thể thực hiện được các giải pháp đó một cách hiệu quả chi nhánh cần có sự hợp tác của nhà nước, NHNH cũng như của chính hệ thống của MB. Do đó em đã đưa ra một số kiến nghị sau: 3.3.1. Kiến nghị với nhà nước Đầu tiên đó là việc xây dựng một môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định. Trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO, với sự xuất hiện của các doanh nghiệp nước ngoài môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp trong nước khách hàng chính của các tổ chức tín dụng trong nước dễ có nguy cơ mất khả năng thanh toán, phá sản. Hơn nữa, hiện nay có nhiều ngân hàng mới được thành lập, trong khi thị trường có hạn nên cạnh tranh ngày càng khốc liệt, từ đó chất lượng tín dụng ngày càng giảm thấp. Trong điều kiện đó việc đảm bảo các môi trường này ổn định sẽ giúp giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng. Để làm được điều đó trong việc hoạch định chính sách, chính phủ cần cân đối một cách thích hợp giữa các mục tiêu đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, ổn định tiền tệ và sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thương mại, tránh tình trạng thắt chặt hoặc thả lỏng quá mức, thay đổi định hướng phát triển kinh tế quá đột ngột gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán và có sự định hướng lâu dài nhằm tạo môi trường kinh tế ổn định. Khuyến khích hình thành và phát triển các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán tạo tiền đề thúc đẩy cải tiến và đổi mới công nghệ ngân hàng Việt Nam, từng bước hội nhập vào nền tài chính thế giới. Bên cạnh đó nhà nước cũng cần có định hướng phát triển các hoạt động mua bán các công cụ tài chính phái sinh có nuồn gốc từ các hợp đồng tín dụng. Nhà nước cũng nên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường bảo hiểm tín dụng để có thể giảm thiểu và phân tán rủi ro. Nhà nước cũng cần ban hành những quy chế bắt buộc trong việc mua bảo hiểm tín dụng cho các khoản vay. Cơ chế, chính sách của Nhà nước nên được đổi mới theo hướng cho phép ngân hàng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự phòng rủi ro một cách chủ động. Quỹ dự phòng rủi ro hiện được trích theo phân loại nợ một cách bị động: đợi đến lúc quá hạn, trở thành nợ xấu mới trích, mà không hề tính toán theo mức độ rủi ro của khoản vay. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách trong điều kiện hiện nay. Nhà nước phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Trong việc ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách pháp luật nhà nước cần nắm bắt nhanh và kịp thời mọi sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cần phải thu thập ý kiến đầy đủ, khách quan từ các cơ quan ban ngành, doanh nghiệp để đảm bảo việc thực thi được chính xác, hiệu quả, công bằng và phù hợp với điều kiện thực tế. Nhà nước cũng cần hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý liên quan hoạt động tín dụng của ngân hàng như quy định về giao dịch bảo đảm, đăng ký giao dịch bảo đảm, quy định về cấp các giấy tờ sở hữu tài sản, quy định về các ngành kinh doanh … vốn là những vấn đề liên quan đến nhiều bộ, ngành khác nhau, có ảnh hưởng đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Chính phủ cần điều phối sự kết hợp với các bộ ngành có liên quan, cùng với NHNN để thống nhất, chia sẻ quan điểm về phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng, cùng nhau phối kết hợp để giải quyết những vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng.. Bên cạnh đó là việc xóa bỏ hiện tượng chồng chéo, phủ định lẫn nhau trong các điều khoản luật. Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí, Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu thi hành án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch thoả thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các tài sản đảm bảo. Nếu có xảy ra tranh chấp thì các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng thu hồi nợ, nếu phải ra tòa thì cũng nên sử dụng luật dân sự, không nên hình sự hoá các quan hệ tín dụng. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền chủ nợ của ngân hàng và bảo đảm tiền vay nhằm giúp cho các ngân hàng thuận lợi khi phải thực hiện các biện pháp xử lý tài sản để thu hồi nợ, tránh tình trạng dây dưa, kéo dài, ảnh hưởng đến sự lành mạnh tài chính của các ngân hàng, cho phép các ngân hàng tự bán các tài sản bảo đảm để xử lý nợ quá hạn không phải qua Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản khi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và bên bảo đảm trong việc xử lý nợ quá hạn. Có các chính sách thích hợp để thị trường bất động sản phát triển ổn định và vững chắc nhằm làm giảm rủi ro do về tài sản đảm bảo của ngân hàng vì hiện nay phần lớn tài sản đảm bảo của khách hàng chủ yếu là các giấy tờ nhà đất. Cần có những quy định cụ thể liên quan đến công bố thông tin tài chính doanh nghiệp có xác minh của kiểm toán, quy định chặt chẽ hơn về những điều kiện để được thành lập công ty kiểm toán và quy định rõ trách nhiệm của công ty kiểm toán cũng như các kiểm toán viên có liên quan khi cho ra đời những báo cáo kiểm toán sơ sài, hoặc thiếu trung thực. Vì thực tế hiện này cho thấy chất lượng của rất nhiều công ty kiểm toán là chưa đảm bảo. Đồng thời cũng cần ban hành chế độ kiểm toán bắt buộc, trước mắt là các doanh nghiệp lớn và các dự án lớn, quy định với những doanh nghiệp, dự án này nếu muốn vay phải có kiểm toán về tình hình tài chính của doanh nghiệp và dự án. 3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Hoàn thiện hệ thống giám sát ngân hàng theo hướng: nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và hệ thống cảnh báo sớm những rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của các Tổ chức tín dụng; phát triển và thống nhất cách thức giám sát ngân hàng trên cơ sở lí luận và thực tiễn; xây dựng cách tiếp cận hoạt động đánh giá chất lượng quản lý rủi ro trong nội bộ các Tổ chức tín dụng. Sớm ban hành quy chế về thương phiếu và chiết khấu thương phiếu cùng các văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề này nhằm tạo ra môi trường pháp lý để các khách hàng vay vốn có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc vay vốn. Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh: với sự mở rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại, NHNN đã giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh, tranh giành khách hàng vay vốn giữa các ngân hàng như cho vay để hoàn trả các khoản vay của các ngân hàng khác, hạ thấp các tiêu chuẩn, điều kiện vay vốn dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng tăng cao. Do đó NHNN cần thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng, lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại, đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp. Ứng dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu (25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel) trong thực thi chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước và giám sát thị trường, hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng và hướng tới các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống giám sát ngân hàng được hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh nói chung và cấp tín dụng nói riêng, thực hiện các cảnh báo sớm cho các ngân hàng thương mại, đảm bảo thị trường phát triển bền vững. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc NHNN quy định về phân loại nợ có một số điểm chưa phù hợp cần xem xét điều chỉnh theo hướng đối với nợ gia hạn cần căn cứ vào thời gian gia hạn và số lần gia hạn để phân loại nợ (hiện nay chỉ căn cứ vào số lần gia hạn, mà không căn cứ vào thời gian gia hạn nên đã đánh đồng và xếp tất cả các khoản nợ gia hạn vào nhóm nợ xấu). Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng của Trung tâm CIC Ngân hàng Nhà nước: Để nâng cao tính hiệu quả và thúc đẩy động lực làm việc, có thể nghiên cứu chuyển đổi Trung tâm này sang hình thức một công ty cổ phần có sự góp vốn của các ngân hàng thương mại. Nghiên cứu và cho áp dụng mô hình công ty xếp hạng tín nhiệm độc lập ở Việt Nam để hỗ trợ cho các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh, có thể thu hút sự chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm của các Công ty xếp hạng tín dụng trên thế giới. 3.3.3. Kiến nghị với ngân hàng cổ phần quân đội Định kỳ yêu cầu các chi nhánh phải cung cấp thông tin về tình hình tín dụng của chi nhánh, xử lý nghiêm khắc những chi nhánh có biểu hiện muốn che giấu thông tin, ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Quân Đội Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về quản lý và điều hành chính sách tín dụng, quản lý rủi ro... cho cán bộ nhân viên thuộc các chi nhánh, để họ có thể nâng cao trình độ, hạn chế những sai sót không đáng có. Chủ động xây dựng hệ thống thông tin, các chỉ số giúp cảnh báo trước về các nguy cơ có rủi ro cao cần phòng tránh, như xác định được những lĩnh vực, những ngành có tiềm ẩn rủi ro cao. Tăng cường khả năng trao đổi thông tin trong nội bộ các chi nhánh của MB, giữa chi nhánh với hội sở. Tăng cường trao đổi thông tin với các tổ chức tín dụng khác cũng như với CIC. Đa dạng hoá danh mục đầu tư, đa dạng hoá khách hàng, không tập trung cho vay một loại khách hàng, ngành hàng hay lĩnh vực nào đó mà cần mở rộng đối tượng cho vay nhằm giảm thiểu và phân tán rủi ro. Nên tổ chức và củng cố lại bộ phận tín dụng theo hướng chuyên môn hoá các khâu trong quy trình tín dụng, không nên cho một cán bộ chuyên trách một khoản vay từ khi bắt đầu đến khi kết thúc để giảm thiểu được rủi ro. Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng khách hàng để từ đó có sự chọn lựa giao dịch với các khách hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả nhằm ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro ngay từ ban đầu. Cần phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng trong hợp đồng tín dụng như lãi suất, tỷ lệ vốn tự có tham gia phương án, dự án, các tài sản bảo đảm …để đảm bảo lợi ích thu được phải tương xứng với mức độ rủi ro. Dựa trên mức lãi suất cơ bản của NHNN ban hành và chi phí vốn của mình, MB chỉ nên xây dựng mức lãi suất tham khảo và giao cho các chi nhánh quyền chủ động xác định mức lãi suất phù hợp đối với từng khách hàng, đồng thời cần xây dựng biểu lãi suất theo thang bậc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp (phần dư nợ vay vượt giới hạn tín dụng tham khảo nhưng vẫn trong giới hạn tín dụng được phê duyệt phải áp dụng mức lãi suất cho vay cao hơn). Cần phải xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng tách riêng về mặt lợi ích với hoạt động tín dụng của mỗi chi nhánh. KẾT LUẬN Cùng với những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, chất lượng tín dụng của NHTMCP Quân Đội đang có những dấu hiệu giảm sút nghiêm trọng. Do đó nâng cao chất lượng tín dụng thông qua hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu của MB nói chung và chi nhánh Bắc Hải nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng cũng như công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Bắc Hải, chỉ ra những mặt còn hạn chế cần khắc phục. Từ đó, tác giả đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở những quan điểm định hướng và mục tiêu trong giai đoạn phát triển sắp tới. Một số giải pháp nằm ngoài tầm quyết định của chi nhánh, em đã đề xuất kiến nghị với MB, NHNN Việt Nam và Chính phủ để hỗ trợ cho sự tăng trưởng tín dụng bền vững. Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Tái, người đã tận tình hướng dẫn học viên hoàn thành luận văn này. Cùng với những khó khăn của nền kinh tế và cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu, chất lượng tín dụng của NHTMCP Quân Đội đang có những dấu hiệu giảm sút nghiêm trọng. Do đó nâng cao chất lượng tín dụng thông qua hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng là nhiệm vụ hàng đầu của MB nói chung và chi nhánh Bắc Hải nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Dựa trên những cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, luận văn đi sâu nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân rủi ro tín dụng cũng như công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Bắc Hải, chỉ ra những mặt còn hạn chế cần khắc phục. Từ đó, tác giả đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở những quan điểm định hướng và mục tiêu trong giai đoạn phát triển sắp tới. Một số giải pháp nằm ngoài tầm quyết định của chi nhánh, em đã đề xuất kiến nghị với MB, NHNN Việt Nam và Chính phủ để hỗ trợ cho sự tăng trưởng tín dụng bền vững. Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Tái, người đã tận tình hướng dẫn học viên hoàn thành luận văn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, NXB thống kê. Peter Rose, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính năm 2001. Frederie S.Minkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học kỹ thuật 2001. Luật Các tổ chức tín dụng. Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng. Quyết định 493 năm 2005 của NHNN. Báo cáo kết quả kinh doanh của MB. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh MBBắc Hải. Quyết định số 2230 của Tổng giám đốc MB. Thông báo số 1913 của Tổng giám đốc MB. Thông báo số 501 của Tổng giám đốc MB. Thông báo số 1447 của Tổng giám đốc MB. Tạp chí ngân hàng. Tạp chí tài chính. Các trang web: Một số diễn đàn trên mạng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTH2598.doc