Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng NHLD Lào - Việt chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, người ta khó có thể hình dung được nền kinh tế thị trường mà lại vắng bóng các tổ chức tài chính trung gian làm “cầu nối” giữa người có vốn và người cần vốn. Trong số các tổ chức tài chính trung gian, hệ thống các Ngân hàng thương mại chiếm vị trí quan trọng nhất cả về quy mô tài sản cũng như về thành phần các nghiệp vụ. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, Ngân hàng thương mại giữ một vị trí rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền k

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng NHLD Lào - Việt chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường còn non yếu. Hơn nữa, Việt Nam đã ra nhập WTO, hội nhập với nền kinh tế thế giới, hệ thống ngân hàng với tư cách là trụ cột của nền tài chính nước nhà đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới. Cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn hẳn về phương diện vốn và công nghệ đòi hỏi các ngân hàng trong nước phải có những chiến lược mang ý nghĩa sống còn. Cũng như bất kỳ ngành kinh doanh nào khác, ngân hàng có thể gặp rủi ro và có thể bị mất vốn. Hơn nữa, ngân hàng là một ngành kinh tế nhạy cảm, hoạt động ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng của rất nhiều loại rủi ro. Rủi ro là khó tránh khỏi nên làm thế nào để giảm thiểu rủi ro đến mức tối đa mà vẫn đảm bảo mức sinh lời cao cho các Ngân hàng luôn là một bài toán khiến cho các nhà quản trị Ngân hàng phải trăn trở. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại thì hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động mang lại thu nhập chính và cũng là hoạt động hàm chứa nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, em chọn đề tài: “Hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt chi nhánh Hà Nội” làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. CHƯƠNG I TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế Khái niệm Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế. Nó là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước (thành phố, tỉnh…) Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị,... Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử… Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: “ Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.” Theo Luật Các tổ chức tín dụng – NHNN năm 1997 thì: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.” Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn Tiền gửi của khách hàng (bao gồm cá nhân và tổ chức) là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để huy động được nhiều tiền với chất lượng ổn định, các ngân hàng phải đưa ra được nhiều sản phẩm dịch vụ được mọi đối tượng và đa dạng hóa các hình thức huy động vốn như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội, cơ quan, tiết kiệm của dân cư,…linh hoạt về lãi suất. Là đối tượng chịu dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước nên chi phí tiền gửi của NHTM trả cho khách hàng cao hơn so với thực tế. Ngoài ra tiền gửi ngắn hạn hoặc không kỳ hạn thường rất nhạy cảm với những biến động của lãi suất và các yếu tố khác của nền kinh tế như lạm phát. Ngoài nguồn tiền gửi của khách hàng NHTM còn huy động vốn từ nguồn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác hoặc của NHNN nhưng tỷ trọng thấp hơn nhiều so với nguồn tiền gửi. Hoạt động sử dụng vốn Trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng phải tìm cách sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả nhất để thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn là quá trình biến tài sản nợ thành tài sản có khác nhau, thông qua các nghiệp vụ, bao gồm: Nghiệp vụ ngân quỹ: duy trì một mức tiền mặt tại quỹ để đáp ứng nhu cầu chi trả tiền mặt thường xuyên cho khách hàng; tiền gửi tại NHNN và tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác để thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Nghiệp vụ cho vay: bao gồm chiết khấu, thấu chi, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án. Nghiệp vụ đầu tư: đầu tư theo dự án ngân hàng, đầu tư vào chứng khoán. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Khái niệm về tín dụng ngân hàng Tín dụng là gì? Khó có thể đưa ra một định nghĩa chính xác về tín dụng. tín dụng là một thuật ngữ xuất phát từ chữ Lating “Credo” có nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm. Trong quan hệ tài chính, tín dụng có thể hiểu theo các nghĩa sau: Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người đi vay, Trong một quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể. Như một công ty công nghiệp hoặc thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng hóa cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận bên mua phải trả tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và cá nhân thể hiện dưới hình thức cho vay, tức là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay và sau một thời gian nhất định nguời đi vay phải thanh toán vốn gốc và lãi. Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của ngân hàng thì được hiểu là: “Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay (ngân hàng) và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán”. Theo Khoản 10, Điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam, số 07/1999/QHX quy định: “Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.” Sự cần thiết của tín dụng ngân hàng Thỏa mãn nhu cầu vốn trên thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, vốn tự có của các doanh nghiệp hầu hết đều nhỏ hơn so với nhu cầu sử dụng vốn. Do đó, tín dụng ngân hàng trở thành một kênh cung cấp vốn quan trọng cho các nhu cầu đó. Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với mọi thành phần kinh tế và trong một số trường hợp còn thực hiện cho vay đối với ngân sách nhà nước thông qua việc mua trái phiếu. Thúc đẩy và kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: việc thỏa mãn một phần hay toàn bộ nhu cầu vốn của doanh nghiệp đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ, đầu tư xây dựng cơ bản,…từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát triển. Đồng nghĩa với quyết định cho vay phục vụ nhu cầu vốn của doanh nghiệp là việc ngân hàng tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đảm bảo các khoản vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nâng cao tăng cường hệ thống kinh doanh: các doanh nghiệp khi sử dụng vốn tín dụng phải có nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi của khoản vay khi đến hạn. Điều này đặt ra yêu cầu đối với doanh nghiệp là phải quan tâm sát sao đến hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng trì trệ. Các doanh nghiệp phải tự chủ kinh doanh tức là phải nắm bắt được nhu cầu, tình hình của thị trường, đánh giá, phân tích những biến động và xu hướng phát triển của thị trường để tìm ra hướng đi cho mình. Các hình thức tín dụng ngân hàng Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tín dụng chia theo thời gian Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân thành: Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống, tài trợ cho tài sản lưu động. Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn. Tín dụng dài hạn: trên 5 năm, tài trợ cho công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu. Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định được chính xác thời hạn. Tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tín dụng trung và dài hạn. Các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn,… Tín dụng chia theo hình thức tài trợ Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là tài sản lớn nhất trong khoản mục tín dụng. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị thương phiếu, trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. Cho thuê tài sản trung và dài hạn (Leasing) được ghi vào khoản mục tài sản theo giá trị tài sản cho thuê trừ đi phần tiền thuê ngân hàng đã thu được (dư nợ cho thuê). Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị mà ngân hàng cam kết trả thay khách hàng của mình. Phần bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện chi trả được ghi vào tài sản nội bảng (mục cho vay bắt buộc, tính vào nợ quá hạn). Tín dụng được chia theo hình thức bảo đảm Theo hình thức bảo đảm, tín dụng được chia thành tín dụng không có bảo đảm và có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp. Về nguyên tắc, mọi khoản tín dụng của ngân hàng đều có bảo đảm. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại bảo đảm mà ngân hàng có thể bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản của mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của nguời thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ‘ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng,…cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba,…) có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. Ngoài các cách phân loại trên, tín dụng còn có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác như theo ngành kinh tế, theo mục đích, theo đối tượng tín dụng,…. Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng và chuyên môn hóa trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Các phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. Rủi ro trong hoạt động của ngân hàng thương mại Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Phần lớn các nguồn tiền của ngân hàng là các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Quá trình gia tăng cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, giữa các ngân hàng với các định chế tài chính khác dưới hỗ trợ của công nghệ thông tin, cùng với quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa thị trường tài chính, nguồn tiền của các ngân hàng thương mại đang có thay đổi mạnh mẽ. Các nguồn tiền gửi của cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi cho một ngân hàng trong việc tìm kiếm các nguồn tiền song lại làm tăng tính kém ổn định của cả hệ thống. Tài sản của ngân hàng chủ yếu là các tài sản tài chính (các khoản cho vay, các chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng rất cao. Công nghệ ngân hàng cho phép ngân hàng có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng, các thị trường khác nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này một mặt cho phép ngân hàng giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hóa khách hàng, đa dạng hóa sản phẩm và thị trường, song mặt khác cũng làm tăng tính rủi ro do tính biến động lớn trên thị trường thế giới và khu vực,do thông tin sai lệch,… Trong lịch sử ngành ngân hàng đã từng ghi nhận những tổn thất của các ngân hàng trên thế giới như Ngân hàng Ilinois năm 1984, Ngân hàng BOA năm 1991 mất khả năng thanh toán do sự giảm sút lớn của tiền gửi; khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á 1997 hay gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã làm cho hàng trăm ngân hàng bị mất hàng tỷ USD,bị phá sản hoặc buộc phải sát nhập,… Trong các trường hợp trên, các trung gian tài chính đều thất bại trong quản lý rủi ro. Rủi ro ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có bản chất chung đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Có một số quan điểm cho rằng rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể xảy ra với ngân hàng. Một số quan điểm khác lại cho rằng, rủi ro chỉ là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự kiến. Ví dụ ngân hàng đang chuyển hóa từ nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn sẵn sàng chấp nhận chi phí nguồn vốn cao hơn khi lãi suất thay đổi để thu lãi cao hơn. Chỉ khi nào lãi suất tăng vượt dự kiến làm lợi nhuận của ngân hàng giảm sút thì lúc đó mới nảy sinh rủi ro lãi suất. Như vậy, rủi ro của ngân hàng phải gắn liền với sự giảm sút thu nhập ngoài dự kiến. Các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM: Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Rủi ro hối đoái: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro lãi suất: là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng. Rủi ro thanh khoản: là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến, làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh khoản hoặc là cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Rủi ro tồn đọng vốn: là rủi ro xảy ra khi vốn bị tồn đọng lớn không cho vay và đầu tư được làm cho thu nhập của ngân hàng bị giảm sút. Các rủi ro khác: là khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán, hỏa hoạn,… Rủi ro tín dụng và hậu quả của rủi ro tín dụng Trong nền kinh tế thị trường, cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vậy Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ dự kiến ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý. Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, khách hàng là con nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của ngân hàng. Đây còn gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người cho vay sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung, ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Tuy nhiên không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hà có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ ngân hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế chứ không thể loại trừ. Chính vì vậy, rủi ro dự kiến luôn luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng. Tác động của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng: Rủi ro tín dụng làm suy giảm uy tín của ngân hàng: Ngân hàng có rủi ro tín dụng lớn chứng tỏ ngân hàng hoạt động không tốt. Điều này sẽ làm mất lòng tin của khách hàng và ngân hàng sẽ mất đi những kênh huy động vốn. Rủi ro tín dụng làm cho khả năng thanh toán của ngân hàng giảm sút: Trong trường hợp ngân hàng không thu hồi lại được các khoản tiền mặt trong ngân hàng sẽ giảm sút. Mặt khác ngân hàng phải thanh toán các khoản tiết kiệm cho khách hàng khi đến hạn, chính điều này gây khó khăn trong khâu thanh toán cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng làm cho lợi nhuận của ngân hàng suy giảm: Rủi ro dẫn đến những mất mát thiệt hại về tài chính, ngân hàng gặp khó khăn trong việc mở rộng hoạt động, thu nhập thấp và kết quả là lợi nhuận của ngân hàng sụt giảm. Rủi ro tín dụng có thể làm cho ngân hàng bị phá sản: Nếu ngân hàng không thu hồi được các khoản nợ, không có tiền trong ngân hàng trong khi đó khách hàng lại đổ xô đi rút tiền ngân hàng, làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản, dẫn tới phá sản. Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Bao gồm: Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ, tỷ lệ nớ khó đòi trên nợ quá hạn. Nợ quá hạn thông thường (có khả năng thu hồi cao). Tốc độ tăng, giảm của các tỷ lệ trên: tỷ lệ càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi ro cao và có xu hướng tăng và ngược lại. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng hoặc ngân hàng phát hiện khách hàng sử dụng sai mục đích, hoặc tài sản đảm bảo bị giảm giá trị, hoặc khách hàng phá sản,… Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một thời gian nhất định theo quy định của ngân hàng, hoặc khách hàng có dấu hiệu lừa đảo, phá sản,… Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản, chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng, hy vọng thu lại tiền vay trở nên mong manh hơn, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Nợ có vấn đề (có khả năng trở thành nợ quá hạn) Tỷ lệ nợ có vấn đề càng cao, tốc độ tăng cho thấy rủi ro cao và có xu hướng tăng. Nhiều khoản cho vay tuy chưa xếp vào nợ quá hạn nhưng ngân hàng nhận thấy rủi ro đang gia tăng (có các dấu hiệu không tốt như doanh thu sụt giảm, chi phí gia tăng,…) Tình hình tài chính và phương án của người vay (các yếu tố của người vay), môt trường hoạt động của người vay Nếu tình hình tài chính của người vay tốt, phương án có hiệu quả cao và môi trường hoạt động thuận lợi thì rủi ro tín dụng sẽ thấp. Khi những yếu tố này xấu đi sẽ cấu thành các khoản nợ có vấn đề. Đảm bảo tiền vay Nhiều trường hợp ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi uy tín của người vay không cao hoặc hoạt động nhiều rủi ro. Như vậy, tài sản đảm bảo càng cao trên tổng dư nợ cho thấy ngân hàng đang cấp tín dụng cho những khách hàng có rủi ro cao. Tuy nhiên, tài sản đảm bảo sẽ góp phần làm giảm tổn thất cho ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ. Vì vậy, khi xem xét yếu tố tài sản đảm bảo phải chú ý tới từng trường hợp cụ thể. Một số ngân hàng sử dụng phương pháp chấm điểm tín dụng (xếp hạng tín nhiệm) để phản ánh rủi ro tín dụng Đây là phương pháp đo lường rủi ro tín dụng hiện đại, đòi hỏi ngân hàng phải có phần mềm quản lý tập trung. Khách hàng vay vốn sẽ được chấm điểm dựa trên các yếu tố tài chính và phi tài chính (tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ với ngân hàng và tính sòng phẳng,…) Sau đó, khách hàng sẽ được xếp hạng. Hạng càng cao (hạng A) rủi ro càng thấp và ngược lại. Tính đa dạng hóa trong tài sản của ngân hàng Bên cạnh nợ quá hạn, nhà quản lý ngân hàng còn sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng rủi ro, đặt giá đối với các khoản cho vay,… Nguyên nhân của rủi ro tín dụng 1.3.3.1 Nguyên nhân khách quan Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định P Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới : Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,…vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Điển hình như ngành Dệt may, Thuỷ sản gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua, về vệ sinh an toàn thực phẩm,... làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng của ngân hàng nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. P Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các những khách hàng của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. P Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành : Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hoá lao động, sự bất lực trong vai trò của các Hiệp hội và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành, dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi P Sự kém hiệu quả của các cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều Luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, Luật và các Văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về cưỡng chế thu hồi nợ. Những Văn bản này đều có quy định : Trong trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý TSĐB nợ vay để thu hồi nợ. Trên thực tế, các NHTM không làm được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là cơ quan quyền lực Nhà nước, không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao TSĐB cho ngân hàng để xử lý hoặc việc chuyển TSĐB nợ vay để Toà án xử lý qua con đường tố tụng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng NHTM không giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. P Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN: Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ hoạt động thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo cách xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe doạ sự an toàn của cả hệ thống lẽ ra có thể đã được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và xử lý sớm hơn. P Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin của các ngân hàng. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay P Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên, những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các khách hàng khác P Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi khách hàng vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít khách hàng nào dám mạnh dạng đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kết toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. P Tình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé là đặc điểm chung của hầu hết các khách hàng vay vốn Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các khách hàng tuân thủ nghiêm chỉnh và trun._.g thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các khách hàng cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các khách hàng cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. 1.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan : P Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian ví nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới. P Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. P Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này do một phần yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh của các khách hàng quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. P Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thật sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể trách khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do yêu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. Sự cần thiết phải phòng ngừa rủi ro tín dụng Đối với ngân hàng Các nhà kinh tế thường gọi ngân hàng là “Ngành kinh doanh rủi ro” và thực tế đã chứng minh không một ngành nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như trong king doanh lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng phải gánh chịu những rủi ro không những do nguyên nhân chủ quan của mình mà còn gánh chịu những rủi ro khách hàng gây ra. Vì vậy “ rủi ro tín dụng của ngân hàng không những là cấp số cộng mà có thể là cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế”. Khi những rủi ro xảy ra, trước tiên lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể bù đắp bằng khoản dự phòng rủi ro và bằng vốn tự có. Tuy nhiên nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, nếu rủi ro xảy ra ở mức độ lớn, nguồn vốn của ngân hàng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng tất nhiên sẽ giảm sút, có thể dẫn tới phá sản ngân hàng. Vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là một việc làm cần thiết đối với ngân hàng thương mại. Đối với nền kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của ngân hàng liên quan đên rất nhiều các thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho đến các tổ chưc tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và khách hàng. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác, hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. Do đó, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng không những là vấn đề sống còn với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế, góp phần vào sự ổn định và phát triển của toàn xã hội. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH LÀO – VIỆT CHI NHÁNH HÀ NỘI 2.1 Khái quát về Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt Chi nhánh Hà Nội 2.1.1 Sơ lược về quá trình hình thành phát triển Ngân hàng Liên doanh Lào - Việc ra đời là kết quả của quá trình hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Lào; là bước đi cụ thể nhằm hiện thực các cam kết hợp phát triển quan hệ kinh tế xứng tầm với quan hệ chính trị, lịch sử gắn bó giữa hai nước. Trước sự chứng kiến của các vị lãnh đạo cao cấp của hai Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, ngày 22/06/1999 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại Thương Lào (BCEL) đã ký kết thoả thuận hợp tác thành lập Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt (Lao – Viet Bank) với số vốn góp của hai bên là 10 triệu USD, với trụ sở chính tại thủ đô Viêng Chăn, Lào. Ngày 22/06/2001 thành lập Chi nhánh Chăm Pa Sak, ngày 23/04/2003 thành lập chi nhánh TP Hồ Chí Minh. Ngày 26/03/2000, Ngân hàng Liên doanh Lào-Việt, Chi nhánh tại Hà Nội đã được thành lập. Ngày 27/03/2000, Phó Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm và Phó thủ tướng Chính phủ nước CHDCND Lào, Somsavath Lengsavat đã cùng mở bảng khai trương Chi nhánh tại Hà Nội. Kể từ đó, ngày 27 tháng 03 trở thành mốc lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển của hệ thống LVB, đồng thời là một điểm nhấn trong chiều dài lịch sử hợp tác toàn diện, đặc biệt hai nướcViệt - Lào; là sự tiếp nối sự nghiệp vẻ vang do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvyhane khởi xướng và được các thế hệ người Việt Nam và Lào dày công vun đắp. Số vốn được cấp: 3.750.000 USD (Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn Đô la Mỹ chẵn) do Ngân hàng Liên doanh Lào - Việt cấp. Năm 2000 được cấp vốn 2.500.000USD. Năm 2005, được phép tăng vốn điều lệ lên 3.750.000USD. Là chi nhánh đầu tiên của hệ thống LVB, Chi nhánh Hà Nội đã chính thức tạo thành một cầu nối thanh toán giữa hai nước, đáp ứng lòng mong mỏi của cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh Việt – Lào, các cá nhân học tập, công tác tại hai nước. 2.1.2 Mô hình tổ chức BAN GIÁM ĐỐC Văn phòng Tổ kiểm tra kiểm soát nội bộ Phòng Kế hoạch Tài chính Phòng Tín dụng Phòng Kế hoạch kinh doanh đối ngoại 2.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của LVB Chi nhánh Hà Nội 2.2.1 Hoạt động huy động vốn Thông qua việc áp dụng mức lãi suất cạnh tranh, biểu phí hợp lý, cải tiến chất lượng phục vụ, mở rộng các hình thức huy động, giao chỉ tiêu huy động tới từng cán bộ, nhân viên, tăng cường công tác marketing, quảng cáo trên các phương tiện báo, đài phát thanh..., Chi nhánh đã tự huy động được một lượng vốn phục vụ hoạt động kinh doanh, đáp ứng một phần nhu cầu vay vốn cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động theo mô hình Chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, hoạt động huy động vốn, đặc biệt là huy động tiền gửi dân cư của Chi nhánh gặp rất nhiều khó khăn. Sức cạnh tranh yếu, không có hệ thống mạng lưới... tình hình huy động vốn dân cư của chi nhánh còn rất hạn chế. Biểu đồ 2.1:Nguồn vốn huy động của LVB Chi nhánh Hà Nội năm 2007-2009 Đơn vị: Triệu USD Năm 2007, nguồn vốn huy động đạt 41.6 triệu USD (tăng 36%), trong đó tiền gửi thanh toán và tiền gửi có kì hạn của TCTD và cá nhân đạt 3,9 triệu USD (tăng 37% so với đầu năm), tiền gửi tiết kiệm dân cư đạt gần 12.6 triệu USD, bằng 3,9 lần so với đầu năm chiếm 23,4% nguồn vốn huy động tại chỗ. Đến 31/12/2008, tổng số dư tiền gửi của các TCTD tại Chi nhánh là 73,2 triệu USD quy đổi, gấp 2,9 lần so với năm 2007. Trong đó, tiền gửi của BIDV là 43,5 triệu USD quy đổi, của LVBH.O là 16,7 triệu USD quy đổi, tiền gửi đối ứng cho vay uỷ thác là trên 8 triệu USD quy đổi. Tỷ lệ tiền gửi liên ngân hàng sử dụng tài trợ cho hoạt động tín dụng giảm thấp, chỉ còn 22%/tổng dư nợ thương mại. Đến năm 2009, tổng nguồn vốn của Chi nhánh huy động đạt 970,682 triệu VND, tăng 36% so với năm 2008, TGTT của TCTD khác đạt 129,004 triệu VND chiếm 12,04% tổng ngồn vốn huy động và tăng 107% so với năm 2008, TG có kì hạn của TCTD 168,815 triệu VND chiếm 14% của tổng nguồ vốn huy động và tăng 70,8% so với năm 2008,TGTT của tổ chức kinh tế cá nhân đạt 4078,038 triệu VND chiềm 9,05% tổng nguồn vốn huy động tăng 56,038 so với năm 2008, TGTK của dân cư dạt 159,764 triệu VND chiếm 30,41% tổng nguồn vốn huy động giảm 2,47% so với năm 2008, và tiền gủi của BIDV là 393,036 triệu VND chiếm 34,47% tổng nguồn vốn huy động và tăng 25,2% so với năm 2008. 2.2.2 Hoạt động tín dụng, bảo lãnh Bảng 2.1: Hoạt động bảo lãnh tại LVB chi nhánh Hà Nội.        Đơn vị: Triệu USD Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số  tiền Tỷ lệ  (%) Số tiền Tỷ lệ  (%) So với năm 2007 Số tiền Tỷ lệ  (%) So với năm 2008 Số  tiền (+) (-) Tỷ lệ % Số tiền (+) (-) Tỷ lệ % Tổng dư nợ 36,6 100 41,5 100 4,9 13,3 51,4 100 9,9 24 Số dư bảo lãnh 1,26 3,44 8,3 20 7,04 6,6 lần 11,1 21,5 2,8 33,7 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 – 2009) Bảng 2.2: Dư nợ cho vay tại Ngân hàng LVB Chi nhánh Hà Nội Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Số  tiền Tỷ lệ  (%) Số tiền Tỷ lệ  (%) So với năm 2007 Số tiền Tỷ lệ  (%) So với năm 2008 Số  tiền (+) (-) Tỷ lệ % Số tiền (+) (-) Tỷ lệ % Tổng dư nợ 36,6 100 41,5 100 4,9 13.3 51,4 100 9,9 24 Ngắn hạn 24,8 67,7 29,7 71,6 4,9 20 36,9 71,7 7,2 24 Trung - dài hạn 11,8 32,3 11,8 28,4 0 0 14,5 28,3 2,7 23 Đơn vị: Triệu USD (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 – 2009) Năm 2007, tổng dư nợ của Chi nhánh đạt 36,6 triệu USD quy đổi, tăng 28,8% so với đầu năm và bằng 105% kế hoạch giao. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 24,8 triệu USD, tăng 29,2% so với đầu năm và chiếm 67,7% tổng dư nợ; cho vay trung dài hạn đạt 11,8 triệu USD, tăng 28,1 so vời đầu năm và chiếm 32,3 tổng dư nợ, doanh số thu nợ đạt 41,7 triệu USD quy đổi (tăng 17% so năm 2006). Dư bảo lãnh các loại đến thời điểm 31/12/2007 đạt gần 1,26 triệu USD quy đổi, bằng 98% so với thời điểm cuối năm 2006. Doanh số bảo lãnh trong năm 2007 đạt 11,3 triệu USD quy đổi, bao gồm: 41,6 tỷ đồng và 8,7 triệu USD. Năm 2008, tổng dư nợ đạt được 41,5 triệu USD quy đổi, tăng 13,3% so với đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 29,7 triệu USD quy đổi (tăng 20% so cuối năm 2007, và chiếm 71,6% tổng dư nợ và dư nợ cho vay trung và dài hạn 11,8 triệu USD bằng mức cuối năm 2007, doanh số thu nợ đạt gần 39,6 triệu USD tăng 17,5% so với cả năm 2007. Số dư bảo lãnh thời điểm 31/12/2008 đạt 8,3 triệu USD quy đổi, gấp 6,6 lần năm 2007. Doanh số bảo lãnh đạt gần 12 triệu USD quy đổi, bao gồm 135,9 tỷ VND và 4,24 triệu USD, tăng 6% so với năm 2007. Thu phí bảo lãnh năm 2008 đạt 85,3 nghìn USD, gấp 2,3 lần năm 2007, đóng góp 31,8% tổng thu dịch vụ ròng năm 2008. Tại thời điểm 31/12/2009 tổng dư nợ tín dụng đạt gần 51,4 triệu USD quy đổi, tăng 24% so với đầu năm và bằng 95% giới hạn khống chế dư nợ tối đa do Tổng Giám đốc giao. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 36,9 triệu USD quy đổi, tăng 24% so với đầu năm và chiếm 71,7% tổng dư nợ; cho vay trung dài hạn đạt 14,5 triệu USD quy đổi, tăng 23% so với đầu năm và chiếm 28,3%/ tổng dư nợ. Trong tổng dư nợ tại Chi nhánh thì tổng dư nợ thương mại là gần 42 triệu USD quy đổi, phần dư nợ còn lại là 170 tỷ đồng (tương đương 9,5 triệu USD quy đổi) cho vay uỷ thác từ các tổ chức tín dụng khác (Chi nhánh hầu như không chịu rủi ro tín dụng). Dư nợ bằng Đồng Việt Nam đến 31/10/2009 là 779,4 tỷ đồng, tăng 17% so với đầu năm và chiếm tới 84%/ tổng dư nợ. Dư nợ bằng ngoại tệ mặc dù có tỷ lệ tăng trưởng cao song mới chỉ đạt gần 8 triệu USD, gấp 2,4 lần so với đầu năm nhưng chỉ mới chiếm 16%/ tổng dư nợ. Về cơ cấu tín dụng theo lĩnh vực, ngành nghề, tính đến 31/12/2009 dư nợ của các doanh nghiệp xây lắp là 3,5 triệu USD quy đổi, chiếm 6,8% trên tổng dư nợ; lĩnh vực vận tải thuỷ là 8,2 triệu USD quy đổi, chiếm 15,9% tổng dư nợ; lĩnh vực thương mại, dịch vụ là 18,5 triệu USD quy đổi, chiếm 36% tổng dư nợ; cho vay sản xuất là 19,5 triệu USD quy đổi, chiếm 38% tổng dư nợ; cho vay tiêu dùng và các lĩnh vực khác là 1,7 triệu USD quy đổi, chiếm hơn 3,3% tổng dư nợ. 2.2.3 Các hoạt động khác Về hoạt động thanh toán quốc tế: Năm 2007, tổng doanh số thanh toán quốc tế đạt gần 19,1 triệu USD, bằng 138% so với cả năm 2006, trong đó doanh số thanh toán Việt – Lào chiếm 75% trên tổng doanh số thanh toán quốc tế, tức là bằng 14,6 triệu USD, gấp 2,4 lần so với năm 2006. Trong đó, doanh số chuyển tiền đi Lào đạt gần 7,6 triệu USD, bao gồm: 32 tỷ VND, 3,7 triệu USD và 18,1 tỷ LAK; doanh số chuyển tiền từ Lào về đạt gần 7 triệu USD, bao gồm: 4,6 tỷ VND, 6,3 triệu USD và 4 tỷ LAK. Năm 2008, tổng doanh số thanh toán quốc tế qua đạt gần 17,8 triệu USD, bằng 93,2% so với năm 2007, trong đó doanh số thanh toán Việt – Lào chiếm 70% trên tổng doanh số thanh toán quốc tế, tức là đạt được hơn 12,5 triệu USD.Thu từ dịch vụ thanh toán quốc tế của chi nhánh đạt 607 triệu đồng, tăng 16% so với cả năm 2007, chiếm 12% tổng thu dịch vụ tại chi nhánh. Bên cạnh công tác thanh toán hai chiều Việt – Lào là nhiệm vụ xuyên suốt, Chi nhánh luôn tích cực đẩy mạnh hoạt động thanh toán quốc tế với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, bằng nhiều phương thức thanh toán quốc tế như: L/C, nhờ thu, chuyển tiền điện... Trong năm 2009 doanh số thanh toán quốc tế hai chiều đạt mức tăng trưởng mạnh, đạt 34 triệu USD quy đổi, bằng 191% so với cả năm 2008, trong đó: 52,4 tỷ VND, 16,6 tỷ LAK, 28,7 triệu USD, 54 ngàn EUR và 350 ngàn JPY. Thu từ dịch vụ thanh toán quốc tế của Chi nhánh đạt 796 triệu đồng, tăng 31% so với cả năm 2008, chiếm 12%/ tổng thu dịch vụ tại Chi nhánh. Thanh toán trong nước: Với hệ thống thanh toán CI-TAD với Ngân hàng Nhà nước và Homebanking với SGD BIDV hoạt động thanh toán qua Chi nhánh luôn nhanh chóng, kịp thời, đáp ứng tốt nhu cầu thanh toán của khách hàng cũng như yêu cầu của giao dịch vốn liên ngân hàng giữa Chi nhánh và các TCTD khác, nâng cao uy tín của Chi nhánh trên thị trường tiền tệ. Tổng doanh số thanh toán trong nước cả năm 2009 đạt 145,3 triệu USD quy đổi, tăng 8,1% so với cả năm 2008, trong đó: thanh toán VND đạt 2.237 tỷ đồng, bằng 101% so với năm 2007; thanh toán ngoại tệ đạt 20,6 triệu USD, gấp 3 lần cả năm 2008. Thu từ dịch vụ thanh toán trong nước của Chi nhánh đạt 288 triệu đồng, tăng 20% so với cả năm 2008, chiếm 4,4%/ tổng thu dịch vụ tại Chi nhánh. Về hoạt động kinh doanh ngoại tệ Do ảnh hưởng của tình hình chính trị trên thế giới, thị trường tiền tệ của Việt Nam biến động mạnh; đặc biệt là đối với thị trường USD tỷ giá biến động bất thường. Tuy nhiên với sự cố gắng tích cực, Chi nhánh đã đạt được những kết quả sau: Năm 2007, doanh số mua bán ngoại tệ của Chi nhánh đạt 24 triệu USD quy đổi, bằng 165% so với năm 2006; trong đó: 33,3 tỷ LAk, 20,3 triệu USD, 24 ngàn EUR và 13 triệu Yên Nhật. Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt gần 211 triệu đồng chiếm 16% tổng lợi nhuận ngoại tệ tại Chi nhánh. Năm 2008, doanh số mua bán ngoại tệ của chi nhánh đạt được là 80,9 triệu USD quy đổi, gấp 3,4 lần so với doanh số cả năm 2007, trong đó: 121,4 tỷ LAK; 59,8 triệu USD;4,17 triệu EUR và 9,2 triệu JPY. Lãi ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ năm 2008 đạt 3,54 tỷ đồng (tương đương 203 ngàn USD quy đổi), gấp 2,7 lần so với cả năm 2007. Tình hình lạm phát tăng cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu về ngoại tệ của Việt Nam trong năm 2008 là rất trầm trọng. Hiện tượng thiếu hụt ngoại tệ tiếp tục kéo dài trong những tháng đầu năm 2009, một phần do xuất khẩu giảm mạnh dẫn đến tình trạng nhập siêu quay trở lại, nguy cơ lạm phát vẫn còn tiềm ẩn, một phần do hiện tượng găm giữ ngoại tệ của các Doanh nghiệp xuất khẩu nhằm gây sức ép tăng giá ngoại tệ. Do đó, tỷ giá VND/USD diễn biến phức tạp và luôn đối diện với sức ép tăng lên. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp như nới rộng biên độ tỷ giá từ 1% lên 3% rồi 5%, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM cũng như các đại lý thu đổi ngoại tệ, song tình trạng căng thẳng về ngoại tệ vẫn không có dấu hiệu giảm bớt. Trong bối cảnh đó, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh trong năm 2009 gặp rất nhiều khó khăn do không tự cân đối được nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, lãi kinh doanh ngoại tệ đạt được ở mức khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc chuyển lợi nhuận năm 2008 về Hội sở chính theo tỷ giá tại thời điểm 31/12/2008 cũng đã làm giảm lãi kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh khoảng 480 triệu đồng. Đến 31/12/2009 doanh số mua bán ngoại tệ của Chi nhánh đạt 58,2 triệu USD quy đổi, chỉ bằng 72% so với doanh số cả năm 2008, trong đó: 121,3 tỷ LAK, 35,2 triệu USD, 10,2 triệu EUR và 700 ngàn JPY. Lãi ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ cả năm 2009 đạt 2,6 tỷ đồng (tương đương 145 ngàn USD quy đổi), bằng 73% so với cả năm 2008 và chiếm 29%/ tổng thu dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ ròng. Về tổng doanh thu. Trong năm 2007 Tổng doanh thu của Chi nhánh đạt 68,8 tỷ đồng (tương đương 4,3 triệu USD), tăng 30% so với doanh thu năm 2006. Trong đó, thu từ lãi cho vay đạt 3,46 triệu USD quy đổi, tăng 23,7% so với năm 2006; thu lãi tiền gửi đạt 450 ngàn USD, tăng 87% so với năm 2006. Thu nhập thuần từ hoạt động dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ của Chi nhánh đạt 225 ngàn USD, chiếm 33,4% trên chênh lệch thu chi trước trích dự phòng rủi ro và vượt 13% kế hoạch được giao. Quỹ dự phòng rủi ro Chi nhánh đến 31/12/2007 đạt 24,3 tỷ đồng (tương đương 1,52 triệu USD), tăng 20% so với đầu năm. Trong đó: - Dự phòng cụ thể đạt 22,7 tỷ đồng, tương đương 1,42 triệu USD. - Dự phòng chung đạt 1,62 tỷ đồng, tương đương 100 ngàn USD . Năm 2008 tổng doanh thu của Chi nhánh đạt 135,4 tỷ đồng (tương đương 7,78 triệu USD quy đổi), gấp gần 2 lần tổng doanh thu cả năm 2007. Trong đó, thu từ lãi cho vay đạt hơn 5 triệu USD quy đổi, chiếm 64% tổng doanh thu, tăng 45% so với năm 2007; thu lãi tiền gửi đạt 1,79 triệu USD quy đổi, gấp gần 4 lần cả năm 2007, chiếm 23% tổng doanh thu. Tổng thu dịch vụ và kinh doanh ngoại tệ ròng cả năm đạt 469 ngàn USD quy đổi, chiếm 32% chênh lệch thu chi trước trích dự phòng rủi ro, gấp 2,1 lần cả năm 2007 và đạt 156% so với kế hoạch được giao. Trong năm 2008 Chi nhánh đã trích được 873 nghìn USD dự phòng rủi ro. Quỹ dự phòng rủi ro của Chi nhánh đến 31/12/2008 đạt 39,5 tỷ đồng (tương đương 2,27 triệu USD quy đổi), trong đó: dự phòng chung là 4,5 tỷ đồng, dự phòng cụ thể là 35 tỷ đồng; đưa tỷ lệ quỹ dự phòng trên tổng dư nợ lên 5,46%, và chiếm 6,8%/ dư nợ thương mại. Sau 10 năm hoạt động, hệ thống Ngân hàng Lào - Việt nói chung và Chi nhánh Hà Nội nói riêng đã thiết thực góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, điển hình là việc triển khai nhanh, có hiệu quả chủ trương của Chính phủ về thực hiện thanh toán chuyển tiền bằng đồng Việt Nam và Kíp Lào; bước đầu làm tốt vai trò trung tâm thanh toán, tháo gỡ khó khăn, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hai nước trong thanh toán; phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng tiên tiến, đáp ứng các nhu cầu đa dạng của khách hàng; hoạt động kinh doanh an toàn và có hiệu quả; làm tốt nhiệm vụ ngân hàng đại lý tiếp nhận và giải ngân các dự án sử dụng vốn theo Hiệp định của Chính phủ hai nước và mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng trong và ngoài nước để từng bước hội nhập và phát triển. 2.3 Thực trạng rủi ro tín dụng tại LVB Chi nhánh Hà Nội 2.3.1 Nhận dạng rủi ro tín dụng tại LVB Chi nhánh Hà Nội Rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của ban lãnh đạo Ngân hàng Liên doanh Lào – Việt Chi nhánh Hà Nội vì đây là loại rủi ro luôn đi kèm với hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng có nguy cơ xảy ra bất cứ lúc nào do vậy ngân hàng phải tiến hành các biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Là một tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, do đó Chi nhánh LVB tại Hà Nội phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành ngày 22/04/2005. Tại Điều 6, Quyết định 493 quy định: 1. Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau: Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều này. Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; Các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều này. Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều này. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày; Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và 4 Điều này. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý; Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 và 4 Điều này. 2. Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1. 3. Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ nào bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro. 4. Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá lại khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro. 5. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại khoản 1, Điều này như sau: Nhóm 1: 0% Nhóm 2: 5% Nhóm 3: 20% Nhóm 4: 50% Nhóm 5: 100%. Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng 2.3.2 Phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại LVB Chi nhánh 2.3.2.1 Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn luôn là một chỉ tiêu quan trọng hàng đầu để giúp các nhà quản trị ngân hàng đánh giá được rủi ro tín dụng mà ngân hàng có thể gặp phải. Và từ những đánh giá này mà các nhà quản trị có thể xác định được những biện pháp thích hợp để phòng ngừa và hạn chế rủi ro một cách hiệu quả. Bảng 2.3: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ Đơn vị: triệu USD Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Dư nợ tín dụng 36,6 41,5 51,4 Nợ quá hạn 2,615 1,787 0,759 Tỷ lệ nợ quá hạn (%) 7,14% 4,3% 1,47% (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 – 2009) Bảng số liệu cho ta cái nhìn khả quan về tình hình nợ quá hạn của chi nhánh. Năm 2007, tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động trong đó có nhiều yếu tố tác động ngoài dự kiến như giá cả tăng nhanh, dịch bệnh, thiên tai diễn ra liên tục,…Đặc biệt, giá xăng dầu, vàng, Dolla Mỹ và một số mặt hàng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu biến động phức tạp ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó năm 2007 cũng là năm đầu tiên mà Việt Nam có những thay đổi về cơ chế chính sáchtrong lĩnh vực tài chính ngân hàng theo lộ trình cam kết khi gia nhập WTO đòi hỏi các NHTM phải có những đổi mới quyết liệt hơn nữa nhằm tiệm cận gần hơn nữa với những tiêu chuẩn ngân hàng quốc tế. Đồng thời, sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng trên địa bàn cũng gây ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của chi nhánh vì những cản trở về mạng lưới, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng,…Do những nguyên nhân trên mà trong tổng dư nợ tín dụng là 36,6 triệu USD quy đổi thì nợ quá hạn chiếm 7,14% tương đương 2,615 triệu USD quy đổi. Đây là một tỷ lệ khá cao đối với hoạt động chung của ngân hàng thương mại. Môi trường kinh doanh trong nước năm 2008 có những biến động hết sức phức tạp trong điều kiện kinh tế thế giới được cho là đã rơi vào trạng thái khủng hoảng. Trước những thách thức to lớn đó, TW Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã áp dụng nhiều gói giải pháp linh hoạt, mạnh mẽ. Mặc dù còn nhiều bất cập nhưng về cơ bản các giải pháp đã mang lại kết quả tích cực giúp đưa đất nước vượt ra khỏi tình trạng lạm phát tăng cao và giảm thiểu những tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tận dụng những điều kiện và ưu đãi đó, năm 2008 nợ quá hạn của Chi nhánh chỉ là 1,787 triệu USD quy đổi, chiếm 4,3% tổng dư nợ, giảm 31, 66% so với năm 2007. Năm 2009 là năm Việt Nam khắc phục những ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tháng 2/2009, Chính phủ bắt đầu triển khai gói kích cầu, trong đó chính sách hỗ trợ lãi suất là một trọng tâm. Đây cũng là hoạt động nổi bật của các ngân hàng trong năm 2009. Ngân hàng đón chính sách hỗ trợ lãi suất hồ hởi, nhưng triển khai thận trọng. Đây là chính sách chưa có trong tiền lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tiếp cận khách hàng và tăng trưởng tín dụng tốt hơn (lãi suất thấp, khả năng trả nợ của doanh nghiệp tốt hơn). Do vậy, nợ quá hạn của Chi nhánh giảm đáng kể chỉ còn 0,759 triệu USD quy đổi, chiếm 1,47% tổng dư nợ - một tỷ lệ khá an toàn cho hoạt động ngân hàng. 2.3.2.2 Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ được coi là chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng chính xác nhất. Khi tỷ lệ này tăng đồng nghĩa với chất lượng tín dụng của ngân hàng trở nên xấu đi, và ngược lại tỷ lệ này càng thấp thì hoạt động tín dụng của ngân hàng có chất lượng cao.Tình hình nợ xấu của Chi nhánh được thể hiện trong bảng số liệu dưới đây Bảng 2.4: Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ tín dụng Đơn vị: triệu USD Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Dư nợ tín dụng 36,6 41,5 51,4 Nợ xấu 5,23 3,276 1,88 Tỷ lệ nợ xấu (%) 14,3% 7,89% 3,65% (Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2007 – 2009) Qua bảng số liệu ta nhận thấy rằng, tình hình nợ xấu của Chi nhánh dần dần được cải thiện. Đến 31/12/2007, tỷ lệ nợ xấu của Chi nhánh là 5,23 triệu USD quy đổi, chiếm 14,3% tổng dư nợ. Trong năm 2008, bên cạnh việc tăng trưởng dư nợ ở mức hợp lý, Chi nhánh luôn chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hoạt động tín dụng bằng nhiều biện pháp quyết liệt. Chính vì vậy, Chi nhánh đã thu hồi được 26,7 tỷ đồng nợ xấu, chiếm 32% tổng số nợ xấu tại thời điểm đầu năm, qua đó giảm tỷ lệ nợ xấu từ 14,3% thời điểm đầu năm xuống dưới 8%/tổng dư nợ đến cuối năm 2008, bằng mức kế hoạch mà Hội Sở chính giao; số lãi dự thu giảm mạnh ở thời điểm cuối năm, chỉ còn hơn 4,8 tỷ đồng, chiếm 3,6%/ tổng doanh thu và chiếm 5,6%/ tổng thu lãi cho vay của Chi nhánh. Sang năm 2009 Chi nhánh đã thu được 2,13 tỷ đồng nợ xấu (tương đương 119 ngàn USD quy đổi), tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2009 là 1,88 triệu USD quy đổi, chiếm 3,65%/ tổng dư nợ (thời điểm cuối năm 2008 là 7,89%). Biểu đồ 2.2 : Nợ xấu tại LVB Chi nhánh Hà Nội 2007 – 2009 Đơn vị: Triệu USD 2.3.2.3 Trích lập dự phòng rủi ro Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN quy định: Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện đúng nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm dự phòng cụ thể và dự phòng chung. Dự phòng cụ thể là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra. Dự phòng chung là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25579.doc
Tài liệu liên quan