LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau tới hệ thống tài chính. Ngân hàng với tư cách là một tổ chức tài chính quan trọng trong nền kinh tế, hoạt động dựa trên mục tiêu an toàn và sinh lời. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ở V
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt Nam, thời kỳ bao cấp được đánh dấu bằng các ngân hàng chuyên doanh. Thời kỳ đổi mới cơ chế, dưới ảnh hưởng của công nghệ và toàn cầu hoá, ngân hàng cần phải đa dạng các loại dịch vụ và mở rộng hoạt động bằng cách vươn tới các thị trường mới trong và ngoài nước. Với hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong ngân hàng và tiềm ẩn những rủi ro cho nên vấn đề đặt ra làm thế nào để hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các nhà quản lý ngân hàng quan tâm. Mỗi ngân hàng tìm ra những giải pháp khác nhau để hoàn thiện tốt hoạt động tín dụng. Trong quá trình thực tập tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh nhận thấy đây cũng là vấn đề vướng mắc cần được chú trọng. Vì vậy, đề tài “Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh ” được chọn làm chuyên đề thực tập.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
+ Chuyên đề thực tập trình bày trên cơ sở đưa ra những lý luận cơ bản về tín dụng, rủi ro tín dụng cùng với phân tích thực trạng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh, từ đó đánh giá những vấn đề vướng mắc còn tồn tại.
+ Đề xuất một số biện pháp và kiến nghị để hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng trong thời gian tới.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chuyên đề thực tập sử dụng có sự kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh…để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra. Ngoài ra, còn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật lịch sử.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
+ Đối tượng: Chuyên đề thực tập lấy vấn đề rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh làm đối tượng.
+ Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu được thu thập trong 3 năm: 2005,2006, 2007 tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh.
5. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề được chia làm 3 chương với nội dung như sau:
Chương 1: Rủi ro tín dụng đối với hoạt động ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Chương 3: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh
CHƯƠNG I
RỦI RO TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG
1.1.1 Khái niệm tín dụng
Thuật ngữ tín dụng (credit) xuất phát từ chữ Latinh là credo, có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm với nhau. Tín dụng được ra đời và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hoá. Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển thì tín dụng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong những trường hợp cụ thể, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo một nội dung riêng. Xét trong phạm vi quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu:
+ Là sự chuyển dịch quỹ cho vay từ người cho vay sang người đi vay
+Là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có sự hoàn trả cả gốc và lãi sau một thời gian nhất định giữa hai chủ thể
+Là số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng
Ở một số hoàn cảnh cụ thể, thuật ngữ tín dụng đồng nghĩa với cho vay
Đối với ngân hàng thương mại, tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó bên cho vay (ngân hàng) cung cấp tài sản (tiền hoặc hàng hoá) cho bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác) sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận và khi đến hạn thanh toán bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả cả vốn gốc và lãi cho bên cho vay.
Theo Luật Tổ chức tín dụng của Việt Nam năm 2004, sửa đổi năm 1997: “Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng” và “ tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của ngân hàng nhà nước”
Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả với các đặc trưng cơ bản:
+ Tài sản giao dịch bao gồm hai hình thức là cho vay bằng tiền và cho thuê (bất động sản và động sản). Những năm 60 về trước hoạt động tín dụng chỉ là cho vay bằng tiền, điều này là nguyên nhân mà từ tín dụng được coi là đồng nghĩa với cho vay. Tuy nhiên, từ những năm 70 đến nay các ngân hàng và định chế tài chính khác mở rộng cung cấp thêm cho thuê vận hành và cho thuê tài chính, bảo lãnh…cho khách hàng.
+ Là hoạt động chính, đem lại nguồn thu nhập quan trọng nhất cho ngân hàng
+ Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, nên người cho vay khi chuyển giao tài sản người đi vay phải chú ý đến cơ sở để người đi vay trả đầy đủ cả gốc và lãi vào đúng hạn. Điều này quan trọng trong việc quản trị rủi ro tín dụng vì đây là hoạt động chức nhiều rủi ro tiềm ẩn cao
+ Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện của bên đi vay đối với của bên cho vay khi đến hạn thanh toán
+ Người đi vay khi đến hạn thanh toán phải trả cho người cho vay một khoản lớn hơn lúc đi vay đó là lãi. Để thực hiện được nguyên tắc này, ngân hàng thương mại phải xác định được lãi suất thực dương (lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát) hay có nghĩa lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát.
1.1.2 Phân loại hình tín dụng
* Theo thời hạn tín dụng, tín dụng bao gồm:
Tín dụng ngắn hạn: nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của nhà nước, hộ sản xuất, doanh nghiệp. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì cho vay ngắn hạn là các khoản cho vay có thời hạn đến 12 tháng
Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm nhằm tài trợ cho tài sản cố định bao gồm: máy móc thiết bị, phương tiện vận tải…
Tín dụng dài hạn; có thời hạn trên 5 năm, tài trợ cho tài sản cố định với giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài
Với tính chất rủi ro cao, khan hiếm nên tín dụng trung và dài hạn chiếm tỷ lệ nhỏ so với tín dụng ngắn hạn ở các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, việc xác định thời hạn cũng mang tính tương đối.
Cách phân loại này giúp ngân hàng quản lý đảm bảo tính an toàn và sinh lời của tài sản.
* Theo mức độ rủi ro
Để tạo thuận lợi cho ngân hàng trong việc đánh giá lại khoản mục tín dụng, cũng như chất lượng tín dụng, dự trù quỹ cho các khoản tín dụng, ngân hàng phân loại tín dụng theo cách này
Tín dụng lành mạnh: là tín dụng có khả năng thu hồi cao
Tín dụng có vấn đề: là những khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh thể hiện như: khách hàng gặp bão lụt, thiên tai, khách hàng không thực hiện đúng kế hoạch, doanh thu của khách hàng bị giảm sút…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: là những khoản nợ tuy đã quá hạn với thời hạn ngắn nhưng khách hàng có biểu hiện tốt trong việc khả năng trả nợ, tài sản đem đảm bảo có giá trị lớn…
Nợ quá hạn khó đòi: là nợ quá hạn quá lâu, khách hàng không muốn trả nợ, khả năng hoàn trả kém, tài sản bảo đảm không có hoặc có giá trị thấp…
* Theo cách thức cho vay
Cho vay từng lần:
Đây là hình thức cho vay thông thường trong ngắn hạn, tương đối phổ biến của ngân hàng áp dụng cho khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên chỉ vay theo thời vụ. Ngân hàng không cho vay tất cả theo hợp đồng đã ký mà từng lần ký các hợp đồng cho vay theo hạn mức theo tiến độ giải ngân của dự án để tránh khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Nếu có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Khi khách hàng trả lãi cho ngân hàng thì tính theo hợp đồng ban đầu mà không tính theo số tiền thực sự nhận được.
Cho vay theo hạn mức:
Ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng được tính trên cơ sở nhu cầu vốn, nhu cầu vay vốn của khách hàng, kế hoạch sản xuất kinh doanh…Theo đó, khách hàng vay trả nhiều lần trong kỳ miễm là không vượt quá hạn mức trong kỳ. Hình thức cho vay này áp dụng cho những khách hàng vay mượn thường xuyên và vốn vay tham gia nhiều lần vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Thấu chi:
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép người đi vay được phép chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình tại ngân hàng đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi là hạn mức thấu chi nên hình thức này là một dạng cho vay hạn mức cấp trên tiền gửi thanh toán. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, phần lớn không có bảo đảm, chỉ áp dụng với khách hàng phải có tiền gửi thanh toán và có uy tín, độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kỳ thu nhập ngắn.
Cho vay luân chuyển:
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ mà ngân hàng cung cấp hạn mức động dựa trên giá trị hàng hoá luân chuyển. Thời gian trả nợ và cho vay không xác định trước mà phụ thuộc hoàn toàn vào sự luân chuyển hàng hoá. Cho vay luân chuyển giúp đỡ tích cực cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay trả góp:
Cho vay trả góp là hình thức cho vay mà trong thời hạn tín dụng khách hàng trả gốc và lãi theo định kỳ. Áp dụng cho việc tài trợ tài sản cố định, hàng hoá lâu bền. Cho vay trả góp có rủi ro cao nên lãi suất của cho vay trả góp là cao nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay hợp vốn:
Khoản cho vay được thực hiện bởi từ hai tổ chức cho vay trở lên để cho vay một dự án đầu tư với những điều kiện và điều khoản tương đương. Sử dụng hồ sơ chung và được quản lý bởi một nhà đầu mối chung. Tùy theo hợp đồng cho vay có giá trị lớn hay nhỏ mà bên tham gia có thể bao gồm: ngân hàng đứng đầu, ngân hàng tham chiếu, ngân hàng thành viên, ngân hàng quản lý, ngân hàng đại lý.
* Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, chiết khấu thương phiếu, cho thuê, bảo lãnh
+ Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu với giá trị của thương phiếu trừ đi khoản tiền mà ngân hàng được hưởng khi phải nắm giữ thương phiếu chưa đến ngày đáo hạn.
+ Cho vay là hoạt động dựa trên cơ sở cam kết trả gốc và lãi của khách hàng trong khoảng thời gian xác định mà ngân hàng đưa tiền cho khách hàng. Cho vay là hoạt động chiếm tỷ trọng lớn của hoạt động tín dụng.
+ Cho thuê tài sản trung và dài hạn (leasing)
Cho thuê tài sản trung và dài hạn là việc ngân hàng thương mại mua các tài sản theo yêu cầu của khách hàng để cho khách hàng thuê. Tài sản là thuộc sở hữu của ngân hàng nên ngân hàng có thể thu hồi để bán hoặc cho người khác thuê khi người thuê không trả được nợ. Cho thuê có hai hình thức chủ yếu là cho thuê nghiệp vụ và cho thuê tài chính mà trong hoạt động cho thuê của ngân hàng thương mại chủ yếu là cho thuê tài chính.
+ Bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của ngân hàng (bên bảo lãnh) với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả nợ cho ngân hàng số tiền đã được trả thay.
Bảo lãnh có nhiều loại: bảo lãnh trực tiếp, bảo lãnh gián tiếp, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu…
* Theo mức độ tín nhiệm khách hàng, tín dụng bao gồm:
+ Tín dụng cần tài sản bảo đảm: tức là ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của người thứ ba khi nhận tín dụng. Đối với khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay phải có sự đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thứ hai bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất thiếu chắc chắn.
+ Tín dụng không cần tài sản bảo đảm: thường được cấp cho khách hàng có uy tín, tình hình tài chính tốt, có quan hệ lâu năm với ngân hàng, quản trị có hiệu quả…thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Ngoài ra, tín dụng được phân theo phương thức hoàn trả nợ vay; theo mục đích (phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp, tiêu dùng cá nhân, bất động sản…); theo ngành kinh tế (nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp); theo hình thức giá trị tín dụng (tiền, tài sản)…
1.1.3 Vai trò tín dụng đối với ngân hàng
Tín dụng là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 70%) trong tổng tài sản của ngân hàng thương mại. Với quy mô như vậy, tín dụng ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động của ngân hàng như dự trữ, cho vay, đầu tư…Đồng thời đây là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.
Ngân hàng huy động vốn trong nền kinh tế chủ yếu dành cho hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng phụ thuộc vào khả năng nguồn huy động được của ngân hàng. Ngược lại, hoạt động tín dụng sẽ tác động trở lại hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Khi uy tín của ngân hàng bị giảm sút bởi các khoản nợ xấu thì hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng sẽ suy giảm, khả năng nhiều khách hàng đến rút tiền ồ ạt ở ngân hàng là rất lớn. Điều này khiến cho ngân hàng gặp khó khăn nhiều, nguy cơ phá sản có thể xảy ra. Tuy nhiên, có nhiều lúc do điều kiện chủ quan và khách quan mà nhu cầu tín dụng bị giảm sút, tình trạng ứ đọng vốn xảy ra. Vì thế, các ngân hàng cần phải có biện pháp để phát huy vai trò của hoạt động tín dụng.
1.2 RỦI RO TÍN DỤNG
1.2.1 Khái niệm và bản chất của rủi ro tín dụng
Đối với ngân hàng, rủi ro là mức độ không chắc chắn liên quan tới các hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng không tốt tới kết quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng kinh doanh lĩnh vực đặc biệt - kinh doanh tiền tệ nên gặp rất nhiều rủi ro như: rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái…Trong đó rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng - hoạt động tín dụng. Theo quy định của ngân hàng nhà nước, “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Tổn thất này có thể là mất gốc và /hoặc lãi, cùng với những tổn thất khác kèm theo: chi phí việc thẩm định dự án khách hàng, chi phí tìm kiếm thông tin về khách hàng, không thực hiện theo kế hoạch của mình…Khi quyết định cho vay, ngân hàng với một tin tưởng cao nhất là khả năng trả nợ của khách hàng là tốt hay rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Nhưng với những nguyên nhân khác nhau, khách hàng gặp khó khăn trong việc trả nợ. Ngoài ra, ngân hàng không thể chắc chắn dự đoán một cách chính xác tuyết đối rủi ro tín dụng được. Vì thế, trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng có thể hạn chế, đề phòng mà không thể loại trừ, nó tồn tại khách quan, không thể tránh khỏi.
1.2.2 Phân loại
* Theo nguyên nhân gây ra rủi ro:
Rủi ro do ngân hàng: là những rủi ro tín dụng xuất phát từ năng lực trình độ cán bộ ngân hàng thương mại kém, chính sách tín dụng và quy trình tín dụng, phẩm chất, đạo đức của cán bộ…
Rủi ro do khách hàng: là những rủi ro do người vay gây ra: như lừa đảo ngân hàng, cố tình chây ì không trả nợ, tình hình hoạt động kinh doanh sa sút…
Rủi ro từ nguyên nhân khác: đó là những rủi ro do sự thay đổi môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, tự nhiên, điều chỉnh chế độ chính sách.
* Theo cơ cấu loại hình rủi ro tín dụng
Theo cách này rủi ro tín dụng bao gồm: rủi ro tín dụng từ cho vay ngắn hạn, trung, dài hạn.
* Xuất phát từ hình thức tài trợ tín dụng: rủi ro tín dụng từ cho vay, bảo lãnh, cho thuê…
Ngoài ra, rủi ro tín dụng được phân loại do chế độ chính sách của nhà nước, rủi ro quốc gia, do việc thẩm định đánh giá của ngân hàng không đúng với thực trạng của khách hàng…
1.2.3 Dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Những dấu hiệu này được phát hiện rõ ràng khi ngân hàng gặp gỡ với người vay vốn: tham quan nhà xưởng, văn phòng, xem xét vật thế chấp…Cuộc gặp gỡ này giúp cán bộ ngân hàng biết cảm nhận phần lớn được điều gì đang diễn ra ở khách hàng. Dưới đây là biểu hiện xảy ra từ phía khách hàng cần được chú ý:
* Biểu hiện thông qua hoạt động giữa ngân hàng và khách hàng
- Xu hướng thanh toán khoản vay nợ gốc và lãi chậm
- Vay ngày càng nhiều
- Xuất hiện việc xin ngân hàng gia hạn, đảo nợ
- Khách hàng chấp nhận vay vốn với chi phí cao
- Biến động của số dư tài khoản tiền gửi là lớn
- Tín dụng thương mại được tăng lên, khi đến hạn thanh toán khả năng trả nợ không có
- Giá trị khoản vay lớn hơn nhu cầu vốn vay
- Nguồn trả nợ thiếu mức độ tin cậy, bảo đảm
* Biểu hiện liên quan đến việc điều hành công ty của khách hàng
- Cán bộ chủ chốt cao cấp thay đổi liên tục
- Sự bất đồng quan điểm, mất đoàn kết, tranh chấp giữa các thành viên trong công ty, điều hành theo ý chủ quan, không tạo ra được sự thống nhất giữa các thành viên
- Kém linh hoạt với sự thay đổi
- Chú trọng đến hình thức bên ngoài, thiếu sự quan tâm, nâng cấp chất lượng: máy móc, thiết bị quá xa xỉ, không phù hợp với tình hình công ty
* Biểu hiện từ tình hình kinh doanh
- Thay đổi loại hình, phạm vi kinh doanh
- Mất thị trường kinh doanh
- Bị ảnh hưởng, lệ thuộc quá lớn vào nhà cung ứng
- Tung ra sản phẩm không phù hợp, đúng lúc,
- Giảm lợi nhuận nhằm có được những hợp đồng lớn
- Năng lực sản xuất kinh doanh bị giảm sút
- Sản phẩm cung cấp chỉ mang tính thời vụ cao
- Hàng hoá tồn kho, lạc hậu, dự trữ lớn
* Biểu hiện thông qua tình hình tài chính kế toán
- Tiền mặt giảm
- Báo cáo tài chính không đầy đủ, số liệu không phù hợp, nộp báo cáo tài chính không kịp thời, trì hoãn.
- Doanh số bán hàng biến động, tăng giảm hoặc tăng nhưng lợi nhuận giảm
- Không thực hiện đúng mục đích kế hoạch đề ra
- Hoạt động thua lỗ xuất hiện
- Khả năng tín dụng kém, tình trạng nợ kéo dài
Việc xảy ra một trong các sự kiện trên thì không ảnh hưởng lớn lắm. Tuy nhiên, các sự kiện này đồng loạt đi cùng với nhau thì cán bộ tín dụng cần hết sức chú ý để có quyết định đúng trong hoạt động tín dụng.
1.2.4 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
1.2.4.1 Nguyên nhân chủ quan
Một là, trình độ cán bộ còn thấp, chưa cao. Điều này được thể hiện ở hiệu quả việc làm. Nếu như với kiến thức ít, kinh nghiệm làm việc còn thiếu thì việc phân tích khách hàng, thẩm định dự án đầu tư của khách hàng, xác định lãi suất cho vay, nhu cầu cho vay…sẽ không chính xác. Rủi ro tín dụng là chắc chắn xảy ra. Đồng thời, việc không chú trọng thực hiện đúng theo quy trình tín dụng của ngân hàng có khả năng sẽ làm mất vốn, như khi cán bộ tín dụng không cần kiểm tra thông tin về khách hàng, tình hình kinh doanh khách hàng mà đã quyết định cho vay. Bên cạnh đó, với phẩm chất đạo đức xấu, tình hình dễ bị lôi kéo, vì lợi ích bản thân mà lợi dụng tham ô, nhằm chiếm đoạt vốn của ngân hàng xẩy ra gây thiệt hại lớn đối với ngân hàng.
Hai là, ngân hàng dồn dập tín dụng quá mức. Khi đó sự lựa chọn khách hàng một cách ồ ạt, kém, không chú trọng đến công tác phân tích trước khi cho vay tạo ra sự lựa chọn đối nghịch. Với lượng khách hàng lớn, ngân hàng không thể đảm bảo được sự giám sát của cán bộ tín dụng đối với khách hàng là chặt chẽ được. Đây là cơ hội tốt cho những khách hàng muốn thực hiện ý đồ xấu của mình, rủi ro đạo đức từ phía người đi vay xảy ra. Khả năng thu hồi vốn của ngân hàng giảm xuống, ngân hàng dần dần mất vốn. Do đó, ngân hàng sẽ quyết định giảm hoạt động cho vay đồng thời tăng cường chặt chẽ quy trình cho vay. Thị phần của ngân hàng mất đi và trở nên ít hơn. Với tình trạng như vậy, ngân hàng tìm mọi cách để mở rộng điều kiện vay vốn góp phần tăng thị trường. Các hoạt động này tạo thành vòng quay khép kín, tổn thất cho tín dụng là khó tránh khỏi.
Ba là, do quy chế tín dụng chưa chặt chẽ. Các quy định trong quy chế tạo điều kiện cho ngân hàng và khách hàng thực hiện hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, thiếu sự logic, chặt chẽ trong quy chế tạo lỗ hổng, khe hở cho những hành động không tốt.
Bốn là, sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu hút khách hàng giữa các ngân hàng. Việc xác định lãi suất của ngân hàng làm sao để có được nhiều khách hàng hơn các ngân hàng khác trở nên đơn giản hơn, có thể chấp nhận lãi suất thấp hơn mặc dù không đủ để bù đắp chi phí khác. Do đó, trong một khoảng thời gian dài, lợi nhuận ngân hàng không nhưng giảm xuống mà kèm theo là rủi ro tín dụng.
Năm là, do ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận. Theo nguyên tắc đánh đổi rủi ro và lợi nhuận, khi lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng cao. Vì vậy, ngân hàng khi cho vay cần phải cân nhắc kỹ giữa lợi nhuận với rủi ro.
1.2.4.2 Nguyên nhân khách quan
* Nguyên nhân xuất phát từ người đi vay
Khi tình hình kinh doanh xấu đi, khả năng trả nợ của khách hàng hạn chế. Bên cạnh do sự yếu kém trong công tác tổ chức quản lý, nắm bắt thị trường kém, khả năng đối phó chậm trễ…Ngoài ra, chịu tác động của yếu tố bên ngoài như sự tăng lên giá cả các yếu tố đầu vào của qúa trình sản xuất (giá dầu thô, giá xăng dầu…) làm chi phí sản xuất tăng theo, lợi nhuận mà khách hàng thu được không ổn định, trả nợ tương đối khó khăn. Cũng như thị trường tiêu thị, nhu cầu về sản phẩm hạn hẹp, tình trạng sản phẩm tồn kho, lỗi thời nhiều, doanh thu thấp. Với lĩnh vực kinh doanh mạo hiểm nếu không đủ bản lĩnh, tầm nhìn thấp, sai sót trong phân tích, tính toán thì tổn thất đem lại cho khách hàng rất lớn. Khách hàng khi vay vốn được ngân hàng không thực hiện theo mục đích hợp đồng tín dụng gây rủi ro đạo đức cho ngân hàng, vì lợi ích cá nhân tìm mọi cách lừa đảo chiếm đoạt vốn ngân hàng. Tuy nhiên, có những khách hàng với hoạt động kinh doanh tốt, thu lãi cao nhưng vẫn cố tình không trả nợ, kéo dài thời gian sử dụng.
* Nguyên nhân xuất phát từ môi trường
Một là, do chịu ảnh hưởng các chính sách. Mỗi một chính sách đưa ra nhằm tác động đến những đối tương nhất định. Sự thay đổi các chính sách nhanh chóng, sự mâu thuẫn của các chính sách làm ngân hàng cũng như doanh nghiệp không dễ dàng để tuân thủ kịp thời, đúng. Hoạt động của họ mất ổn định, gặp khó khăn.
Hai là, do sự thay đổi của nền kinh tế, chính trị, xã hội. Chỉ cần một trong ba yếu tố này biến động tác động ngay đến hoạt động của ngân hàng đặc biệt là hoạt động tín dụng. Với xã hội phát triển, chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng nhu cầu đầu tư tăng lên, hoạt động tín dụng diễn ra thuận lợi. Ngược lại nền kinh tế có lạm phát có thể kèm theo tình hình sản xuất kinh doanh trì trệ, thua lỗ, khả năng trả nợ của khách hàng giảm, hoạt động tín dụng gặp rủi ro.
Ba là, do ảnh hưởng môi trường tự nhiên. Thiệt hại gây ra bởi thiên tai, lũ lụt, hạn hán…với ngân hàng từ khách hàng rất lớn đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh trong nông nghiệp.
1.2.5 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với hoạt động ngân hàng
Trong những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất…thì rủi ro tín dụng ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động ngân hàng, biểu hiện:
Lợi nhuận của ngân hàng giảm sút. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng gặp khó khăn trong thu hồi gốc và/hoặc lãi ngoài ra còn phải trả những khoản chi phí để thực hiện hợp đồng tín dụng: chi phí tìm hiểu khách hàng, trả lãi cho nguồn huy động vốn, chi phí quản lý tài sản bảo đảm, chi phí giám sát…sự mất cân đối thu chi, lợi nhuận giảm, nguồn vốn ngân hàng không có hoặc tiền lương giảm, phải chuyển đổi công tác…
Rủi ro tín dụng có thể kéo theo rủi ro về thanh khoản. Khi không đủ tiền để đáp ứng nhu cầu của người gửi cũng như cho vay tiền của khách hàng tốt, ngân hàng sẽ mất khách hàng; sự sụt giảm về lợi nhuận xảy ra. Ngân hàng tìm cách để có nguồn huy động: trên thị trường liên ngân hàng, tiền gửi của người dân tất nhiên kèm theo lãi suất cao, chi phí phát sinh cao. Nếu ngân hàng không có phương án giải quyết kịp thời, tính toán cẩn thận mà để tình hình kéo dài, ngân hàng buộc phải đóng cửa, phá sản.
Sức mạnh cạnh tranh và uy tín của ngân hàng trên thị trường bị ảnh hưởng. Khách hàng mất đi niềm tin vào ngân hàng, số tiền của khách hàng có ý định gửi hoặc đang gửi tại ngân hàng sẽ thay đổi sang ngân hàng khác. Những người đi vay cũng không muốn vay tại ngân hàng để đi đầu tư các dự án tốt. Hoạt động của ngân hàng trở nên phức tạp, biến động rất mạnh.
Ngoài ra, vì ngân hàng là một bộ phận rất quan trọng trong nền kinh tế. Sự thay đổi của ngân hàng tác động rất lớn đến nền kinh tế. Phản ứng dây chuyền trong hệ thống ngân hàng khi có một ngân hàng sụp đổ dễ xẩy ra. Nền kinh tế không phát triển, kém năng động, tác động tâm lý của người dân không tin tưởng vào chính phủ, đất nước.
1.2.6 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng
Tuy rủi ro tín dụng là hiện tượng khách quan, song trong công tác quản trị ngân hàng cố gắng hạn chế thấp nhất tổn thất rủi ro tín dụng gây ra. Ngân hàng thường đưa ra các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng để làm căn cứ cho việc quản lý đem lại kết quả tốt hơn. Tuỳ thuộc vào mỗi ngân hàng mà các chỉ tiêu được đưa ra là khác nhau, về cơ bản bao gồm:
Nợ quá hạn
Nợ quá hạn là những khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Nợ quá hạn có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: nguyên nhân chủ quan từ phía doanh nghiệp, hay nguyên nhân khách quan…cho dù nguyên nhân gì nữa thì nợ quá hạn đều làm giảm lợi nhuận của ngân hàng
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ tín dụng
Đây là một chỉ tiêu quan trọng thường được sử dụng trong đánh giá hiệu quả tín dụng. Tỷ lệ nợ quá hạn cao phản ánh chát lựng tín dụng thấp, rủi ro trong hoạt động nhiều. Nợ quá hạn hiện nay đang là vấn đề bức xúc cần giải quyết của nhiều ngân hàng, vì nó làm giảm lợi nhuận và gây nhiều khó khăn (cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, đôn đốc, nhắc nhở khách hàng trong việc hoàn trả vốn vay và lãi). Nợ quá hạn làm tăng rủi ro lãi suất khi khách hàng không trả được nợ, trong khi ngân hàng vẫn phải tiếp tục trả lãi tiền huy động cho các tổ chức kinh tế và dân cư. Ngân hàng vẫn tiếp tục bị thua thiệt.
Ngoài ra, còn có thể xét đến nợ khó đòi, tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ tín dụng, tỷ lệ nợ khó đòi trên nợ quá hạn, nợ quá hạn thông thường (có khả năng thu hồi cao); và tốc độ tăng giảm của các tỷ lệ trên.
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Khi nợ khó đòi phát sinh đồng nghĩa với việc ngân hàng gặp rủi ro thất thoát vốn, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển. Tỷ lệ nợ khó đòi cao thể hiện hoạt động cho vay hiệu quả kém và hiệu quả tín dụng thấp. Ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp để thu hồi nợ quá hạn và nợ khó đòi, song diều này có thể tồn nhiều chi phí và làm giảm uy tín.
Các khoản cho vay có vấn đề
Đó là các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán và chưa được coi là nợ quá hạn. Tuy nhiên, khi kiểm tra tình hình cán bộ tín dụng xem xét đây là khoản nợ đang dần có biểu hiện của sự kém lành mạnh, nguy cơ có thể dẫn đến thành nợ quá hạn (gây ra rủi ro đạo đức, cố tình chiếm đoạt vốn…). Tuỳ thuộc vào quyết định từng ngân hàng mà nợ có vấn đề được xây dựng.
Tài sản bảo đảm
Thông thường khi cho vay ngân hàng yêu cầu khách hàng cần có tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm được coi là nguồn trả nợ thứ hai của khách hàng khi không có nguồn thu nợ thứ nhất từ khách hàng. Do đó, tài sản đảm bảo là cách hạn chế rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Khi khách hàng có tài sản bảo đảm, ngân hàng sẽ đem đánh giá giá trị tài sản bảo đảm và quyết định cho vay theo một tỷ lệ nhất định nào đó trên giá trị tài sản đảm bảo. Cũng có những trường hợp với tài sản đảm bảo mà giá trị của nó trên thị trường biến động mạnh (giảm mạnh) so với giá trị lúc đánh giá ban đầu thì thiệt thòi cho ngân hàng là lớn nếu khách hàng không thực hiện trả nợ.
Mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng
Những khách hàng nào có uy tín cao đối với ngân hàng, mối quan hệ tín dụng lâu năm tốt thì việc rủi ro tín dụng xảy ra mức độ thấp hơn, có thể không có.
Khả năng thanh toán nợ của khách hàng
Ngân hàng khi quyết định cho vay trước hết cần phải theo dõi tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng, tính khả thi của dự án đầu tư…Như vậy mới dự đoán phần nào chính xác rủi ro tín dụng, biết hạn chế tối đa rủi ro.
Đa dạng hoá của tín dụng
Đa dạng hoá được coi là một trong những biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng. Sự thay đổi trong chu kỳ của khách hàng là khó tránh khỏi. Nếu ngân hàng chỉ tập trung thực hiện hoạt động tín dụng đối với một loại người vay, một vùng, một ngành nào đó…thì tổn thất do rủi ro gây ra rất lớn.
Môi trường của người đi vay
Chính sách thường xuyên thay đổi, lũ lụt hạn hán, chính trị mất ổn định, kink tế lạm phát…đều gây nên mất ổn định kết quả kinh doanh xấu đến người vay, tình hình trả được nợ là không có, rủi ro tín dụng là xảy ra.
1.3 YẾU TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là không thể tránh khỏi, là khách quan. Các ngân hàng khác nhau sẽ tìm ra những biện pháp để khắc phục, hạn chế tình hình rủi ro tín dụng tại ngân hàng mình. Tuy nhiên, việc khắc phục tình hình rủi ro tín dụng mang lại kết quả như thế nào phụ thuộc nhiều ở ngân hàng. Dưới đây là một số yếu tố chủ yếu tác động hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.1 Chính sách tín dụng và quy trình tín dụng
Chính sách tín dụng là tập hợp các quy định, quy tắc, chủ trương, phương hướng của ngân hàng đối với hoạt động tín dụng được xây dựng và hoàn thiện qua nhiều năm. Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, là cơ sở hướng dẫn cho nhân viên tín dụng làm việc, tạo sự chuyên môn hoá trong quá trình phân tích tín dụng đồng thời tạo ra sự thống nhất trong quá trình hoạt động tín dụng. Chính sách tín dụng với mục đích là mở rộng tín dụng, ngoài ra nhằm hạn chế rủi ro để nâng cao thu nhập cho ngân hàng. Chính sách tín dụng đề cập đến hầu hết tất cả vấn đề liên quan đến cấp tín dụng: quy mô, lãi suất, đảm bảo, kỳ hạn, phạm vi, các khoản tín dụng có vấn đề, nhu cầu vay vốn, đối tượng vay vốn…
Một chính sách tín dụng được xây dựng phù hợp đầy đủ, khoa học chắc chắn sẽ giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro tín dụng và đồng thời tạo ra được nhiều cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, với những chính sách tín dụng thiếu chặt chẽ không chi tiết, không có sự phù hợp, chỉ mang tính áp đặt là chính thì rủi ro đối với tín dụng là tất yếu xảy ra. Điều này cũng cho thấy rõ ở các ngân hàng hiện nay là ngân hàng nào xây dựng chính sách tín dụng hoàn thiện, phù hợp thì hoạt động tín dụng ở ngân hàng đó mang lại kết quả tốt.
Quy trình tín dụng được xây dựng nhằm chi tiết hóa chính sách tín dụng. đó là các bước, nội dung công việc mà cán bộ tín dụng ngân hàng, các cán bộ có liên quan phải đáp ứng khi quyết định cho vay. Những nội dung công việc bao gồm: phân tích trước khi cấp tín dụng, xây dựng và ký kết._. hoạt hợp đồng tín dụng, giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới…việc thực hiện đúng quy trình tín dụng cũng như quy trình tín dụng được xây dựng một cách đầy đủ logic, cụ thể sẽ góp phần hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.2 Chất lượng cán bộ tín dụng và trình độ quản lý nhân sự
Cho dù khoa học hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hoá trong nhiều lĩnh vực, song nhân tố con người vẫn luôn giữ vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt động của ngân hàng. Hoạt động cho vay xuất phát từ quyết định của cán bộ tín dụng cho nên việc làm thế nào để hạn chế của tín dụng thì vấn đề nhân lực ở ngân hàng cũng phải được tính đến. Con người được xem xét trên nhiều góc độ: năng lực, trình độ, nghiệp vụ, sức khoẻ, phẩm chất, đạo đức, tác phong kỷ luật lao động…Với những con người được đào tạo ở môi trường chính quy, tinh thần trách nhiệm tốt, năng lực nghề nghiệp cao thì hoạt động tín dụng đem lại chất lượng cao. Ngược lại, sự thiếu kiến thức, trình độ còn hạn chế, sức khoẻ yếu ắt hẳn rủi ro tín dụng xảy ra. Điều này thể hiện rõ trong thực tế, ngân hàng với đội ngũ nhân viên tín dụng trình độ chuyên môn vững vàng, khả năng học hỏi tốt, đồng thời biết tu dưỡng phẩm chất đạo đức chắc chắn hoạt động tín dụng sẽ đem lại thu nhập cao cho ngân hàng. Nhờ đó ngân hàng vẫn có thể tồn tại và phát triển được, cho dù phải cạnh tranh với những đối thủ có tiềm lực mạnh hơn về công nghệ, trang thiết bị kỹ thuật. Vì vậy đối với ngân hàng vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ tín dụng cần được chú trọng. Bên cạnh chất lượng nhân lực thì công tác quản lý nhân lực cũng cần đặc biệt chú ý, bởi lẽ không phải có cán bộ tín dụng giỏi là hạn chế được rủi ro tín dụng. Mỗi cán bộ tín dụng có những điểm mạnh và điểm yếu riêng. Điều quan trọng là phải bố trí, sắp xếp công việc sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế điểm yếu của mỗi người, đồng thời có thể đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm. Tạo sự phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa các thành viên trong một guồng máy thống nhất, cùng hướng tới một mục tiêu chung là hạn chế rủi ro tín dụng.
1.3.3 Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ công nghệ ngân hàng
Cơ sở vật chất chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng song nó cũng có vai trò góp phần làm giảm rủi ro tín dụng. Đối với khách hàng, cơ sở vật chất được coi là bộ mặt của ngân hàng và dường như các ngân hàng có cơ sở vật chất lớn thì có uy tín hơn so với ngân hàng có cơ sở vật chất ít. Đứng ở góc độ ngân hàng, cơ sở vật chất với trang thiết bị hiện đại sẽ thuận lợi hơn trong việc thu hút khách hàng, tạo điều kiện đơn giản các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng từ đó tránh được rủi ro từ phía khách hàng đem lại.
Sự hỗ trợ của các phương tiện, kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu nhập thông tin nhanh chóng, chính xác, tăng giảm thiểu sai sót giúp công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng có hiệu quả hơn. Cụ thể như là thông tin tìm kiếm về khách hàng kịp thời, nhanh, nhiều nguồn, hơn nữa là thang điểm chấm cho khách hàng ít sai sót, mắc lỗi, bên cạnh đó, cán bộ cấp trên dễ dàng biết được thông tin một cách nhanh nhất tại ngân hàng mình. Vì vậy, với vai trò trên thì với cơ sở vật chất công nghệ hiện đại ắt hẳn giúp ngân hàng vừa hạn chế rủi ro đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng.
1.3.4 Thông tin thị trường
Thông tin luôn là yếu tố cơ bản cần thiết cho công tác quản lý dù ở bất cứ lĩnh nào, đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng vì hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng, trước hết phải có thông tin về dự án, về khách hàng đó. Để làm tốt công tác giám sát sau khi cho vay cũng cần phải có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời thì càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cuối cùng, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ của khách hàng. Điều này còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế.
Với vai trò quan trọng của thông tin, làm thế nào để phát huy tối đa vai trò của nó là câu hỏi đặt ra cho các ngân hàng. Đặc biệt, hiện nay trong quá trình hội nhập ngày càng phát triển thì tính minh bạch tài chính được các ngân hàng đề cao. Có nghĩa là không chỉ các khách hàng mà các ngân hàng cần thiết công khai, nêu rõ tình hình tài chính, phương án sản xuất kinh doanh…trên các phương tiện thông tin đại chúng một cách rộng rãi. Có như vậy mới tạo điều kiện cho khách hàng đến vay vốn tại các ngân hàng đủ tiềm lực, khả năng về vốn tránh gây ra rủi ro đạo đức cũng như các ngân hàng tìm kiếm được khách hàng đầy tiềm năng, phù hợp chiến lược của mình. Tất cả góp phần giảm rủi ro tín dụng.
1.3.5 Chính sách quản lý rủi ro tín dụng
Trong hoạt động tín dụng các ngân hàng không những thực hiện đúng và đầu đủ các quy định chung của ngân hàng nhà nước về quy chế cho vay, tài sản bảo đảm, trích lập dự phòng…mà còn phải chú ý đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Có những ngân hàng thiết lập riêng cho mình một chính sách quản lý rủi ro tín dụng. Với chính sách này nhằm hạn chế phần nào tổn thất rủi ro tín dụng mang lại đồng thời ngày càng nâng cao khả năng phòng chống rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả và phù hợp. Chính sách này đưa ra bao gồm các nội dung phù hợp từng khoản mục tín dụng, trước, sau và trong quá trình thực hiện hoạt động tín dụng. Những vấn đề mà chính sách quản lý rủi ro tín dụng đề cập có thể đó là: môi trường hoạt động của ngân hàng đem lại khó khăn và thuận lợi gì; những khách hàng và nhóm khách hàng nào cần phải hạn chế cho vay, nằm trong tầm kiểm soát, nghi ngờ; ngành, lĩnh vực nào cần hạn chế…Bên cạnh đó, những biện pháp hữu hiệu nhằm hạn chế rủi ro cũng được nêu ra. Như vậy, với những trường hợp rủi ro tín dụng như thế nào thì chính sách quản lý rủi ro tín dụng cũng góp phần không nhỏ trong công tác hạn chế rủi ro tín dụng. Do đó, mỗi ngân hàng cần xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng hiệu quả, chi tiết, phù hợp.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH - HÀ TĨNH
2.1 GIỚI THIỆU VỀ CHI NHÁNH NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH - HÀ TĨNH
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh được hình thành trên nền tảng của NHNN Nghệ Tĩnh. Do cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, không phù hợp đã ảnh hưởng làm giảm vai trò đòn bẩy của ngân hàng và trở nên suy yếu, nền kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, lạm phát ngày càng tăng cao. Để khắc phục tình trạng trên, Đảng và Nhà nước đã có nhiều giải pháp trong lĩnh vực phân phối lưu thông mà khâu đột phá là cải cách giá, lương, tiền…Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), đã nêu ra đường lối đổi mới toàn diện đối với nền kinh tế đó là chuyển dần từ tập trung bao cấp sang hoạch toán kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Ngày 26/03/1988, Hội đồng bộ trưởng (này là Chính phủ) ra quyết định số 53/HĐB tách ngân hàng thành hai cấp: quản lý và kinh doanh. Do đó, ngày 26/03/1988, NHPTNo Việt Nam được thành lập cùng với toàn hệ thống NHPTNo toàn quốc.
Ngày 1/10/1988 NHPTNo Nghệ Tĩnh được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Ngày 24/05/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành 2 pháp lệnh về Ngân hàng, đây là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự chuyển đổi mạnh mẽ hoạt động ngân hàng sang cơ chế mới phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với 2 pháp lệnh được công bố, NHPTNo Việt Nam được đổi tên thành NHNo&PTNT Việt Nam theo quyết định số 400/HĐBT ngày 14/11/1990 và quyết định số 66/QĐ/NHNN của Thống đốc NNHN.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về việc chia tách tỉnh Nghệ Tĩnh, ngày 24/08/1991 Thống đốc NHNN ra quyết định số 115/QĐ/NHNN-quyết định thành lập NHNo&PTNT Hà Tĩnh với 8 chi nhánh trực thuộc trong đó có chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh bắt đầu hoạt động từ ngày đó. Sau khi chia tách tỉnh hầu như cơ sở vật chất hạ tầng chưa có gì, cán bộ vừa thiếu vừa yếu: thiếu trình độ, yếu về năng lực hoạt động kinh doanh. Cán bộ lúc đó có 45 người có 6% trình độ đại học chuyển từ bao cấp sang. Hoạt động kinh doanh gặp rất nhiều khó khăn. Vốn huy động năm 1991 trên địa bàn là 1,2tỷ đồng,dư nợ chỉ có 800 triệu chủ yếu là nợ khê đọng, khó đòi của các tổ chức hợp tác xã tan rã. Kỳ Anh là một huyện nghèo của Hà Tĩnh, tình trạng đói giáp hạt, bán lúa non, cho vay nặng lãi khá phổ biến, trình độ dân trí không đồng đều, các xã vùng sâu, vùng xa tiếp nhận thông tin còn hạn chế. Nền sản xuất mang tính tự cung, tự cấp…Thực trạng đó đặt ra cho NHNo&PTNT Kỳ Anh nhiệm vụ hàng đầu là nhanh chóng ổn định công tác tổ chức, chuyển đổi cơ chế hoạt động kinh doanh, huy động vốn và cho vay phải được mở rộng. Từ năm 1996 trở lại đây ngân hàng hoạt động có phần phát triển và khá ổn định. Từ chỗ làm ăn thua lỗ, cán bộ không đủ lương đến năm 1996 là đơn vị đứng thứ 2 toàn tỉnh, giữ vững phong trào từ đó đến nay Chi nhánh NHNo&PTNT Kỳ Anh luôn luôn là một trong ba ngân hàng dẫn đầu toàn tỉnh.
2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh là chi nhánh cấp 2, lại hoạt động trên một địa bàn nhỏ, kinh tế có nhiều khó khăn nên cơ cấu tổ chức khá đơn giản được thể hiện ở sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức bộ máy chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh
Ban giám đốc
Phòng hành chính nhân sự
Phòng kế toán ngân quỹ
Phòng tín dụng
Chi nhánh ngân hàng cấp III
(loại 4)
Hiện nay, chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh có 52 cán bộ, có độ tuổi trung bình là 38 tuổi trong đó:
+ Trình độ đại học 50%
+ Trình độ cao đẳng 20%
+ Trình độ trung học 30%
Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh - Hà Tĩnh hoạt động với chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau:
Là tổ chức tài chính với hoạt động cơ bản là nhận tiền gửi và cho vay
Là nơi cung cấp dịch vụ thanh toán, thông qua dịch vụ này ngân hàng có thể thanh toán hộ khách hàng trên tiền gửi tài khoản, trả tiền lương…
Hoạt động theo sự chỉ đạo của NNHNo&PTNT Việt Nam.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
2.2.1 Hoạt động huy động vốn
Nguồn vốn là cơ sở xác định tính an toàn của mỗi tổ chức tín dụng trong quá trình đầu tư vào nền kinh tế. Xác định được tầm quan trọng của nó, trong những năm qua Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh đã chủ động tìm mọi biện pháp tích cực để huy động và đạt được kết quả khá.
Trong công tác kinh doanh của ngân hàng muốn mở rộng đầu tư phát triển kinh tế thì giải pháp hàng đầu là phải tạo vốn. Thực hiện phương châm “đi vay để cho vay” NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh đã thường xuyên quan tâm đẩy mạnh công tác huy động vốn, đa dạng hoá các hình thức huy động như: tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, 24 tháng, tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm gửi góp, tiền gửi tiết kiệm bậc thang, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm dự thưởng, tạo điều kiện tốt nhất cho người gửi tiền và người rút tiền…Ngoài ra, còn đi vay vốn của các tổ chức kinh tế và các tổ chức tín dụng ngoài địa bàn. Bên cạnh đó, tổ chức giao dịch làm ngoài giờ, làm thêm ca tạo thuận lợi cho người gửi tiền. Với lãi suất linh hoạt trên cơ sở đảm bảo bù đắp chi phí, giải quyết đầu ra dưới lãi suất trần cho phép, chăm lo công tác thanh toán đổi mới công nghệ, phong cách giao dịch, thanh toán nhanh nhẹn kịp thời. Mởi rộng mạng lưới hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng gửi, rút tiền dễ dàng, thuận tiện để thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
Hiện nay tại Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh thường quản lý và huy động các nguồn vốn dưới các hình thức:
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của các hộ gia đình và các tổ chức chính trị, đoàn thể xã hội.
- Tiền gửi dưới hình thức huy động kỳ phiếu theo từng mục đích nhất định.
- Tiền gửi tiết kiệm kỳ không kỳ hạn của các hộ sản xuất, các tổ chức đoàn thể xã hội.
- Số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của các hộ sản xuất, các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp.
- NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh tranh thủ xây dựng các đề án về trồng rừng, trồng cây ăn quả, nơi trồng thuỷ sản…để xin vốn uỷ thác đầu tư của NHNo&PTNT Việt Nam như vốn ADB, WB, AFD…Đây là nguồn vốn uỷ thác NHNo&PTNT Việt Nam vay nước ngoài. NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh đã nhận được một số lượng vốn lớn đến nay đã 40 tỷ, có lãi suất đầu vào thấp, thời gian dài, việc trích rủi ro do ngành quản lý điều hành qua lãi suất cho vay.
Có thể nói huy động vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chủ yếu quyết định quy mô hoạt động, quy mô tín dụng mà còn quyết định đến khả năng thanh toán và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Trong các năm qua ngân hàng đã huy động một khối lượng vốn như sau:
Bảng 2.1 Kết quả huy động vốn tại NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh 2005 – 2007
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số
tiền
%
2006/2005
2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
Tiền gửi của TCTK
- VND
- USD
8430
850
14,7
1,5
9260
1290
11,5
1,6
9500
1570
9,1
1,5
830
440
9,9
51,8
240
280
2,6
21,7
TGTK
- VND
- USD
29546
4036
51,4
7,0
50763
4539
63
5,6
70400
3409
67,2
3,2
21217
503
71,8
12,5
19637
-1130
38,7
-25
Phát hành giấy tờ có giá (VND)
249
0,4
420
0,5
450
0,4
171
68,7
30
7,1
Tiền gửi củaKBNN
13950
24,3
13713
17
18440
17,6
-237
-1,7
4727
34,5
Tiền gửi của TCTD
400
0,7
645
0,8
1050
1,0
245
61,3
405
62,8
Tổng
57461
100
80630
100
104819
100
23169
40,3
24189
30
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp năm 2005 – 2007
Nhìn vào bảng số liệu trên (Bảng 2.1), ta thấy nguồn vốn huy động được của ngân hàng liên tục tăng qua các năm: năm 2006 tăng 23169 triệu đồng, tương ứng tăng 40,3% so với 2005; năm 2007 tăng 24189 triệu đồng, tương ứng tăng 30% so với năm 2006.
Nhìn thấy rõ nguồn vốn huy động được thông qua biểu đồ sau:
Xét về cơ cấu nguồn vốn huy động, tiền gửi tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn, quá nửa tổng nguồn vốn huy động, và có xu hướng tăng qua các năm.
Có được kết quả trên là do sự nỗ lực trong công tác huy động của ngân hàng, ngân hàng đã thực hiện đa dạng hoá hình thức tiền gửi tiết kiệm: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, kỳ phiếu…đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho người gửi tiền; đặc biệt là sự khuyến khích bằng vật chất đối với người gửi tiền lớn. Thực hiện dịch vụ chuyển tiền nhanh, mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ nên đã thu hút nhiều khách hàng. Từ năm 2000 trở về trước chưa khách hàng nào có tài khoản tiền gửi ngoại tệ thì 2005 là 1490 khách hàng, giữa 2006 lên tới 1655 khách hàng, đã phục vụ được nhu cầu khách hàng nhận tiền gửi của người đi xuất khẩu lao động gửi về. Giao khoán chỉ tiêu huy động vốn cho cán bộ nhân viên, ngoài ra có chế độ thưởng cho nhân viên nào huy động được nhiều.
Bảng 2.2 Kết quả huy động vốn theo kỳ hạn ( 2005 – 2007)
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số
tiền
%
2006/2005
2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
Tiền gửi
không kỳ hạn
7901
13,8
9770
12,1
13100
12,5
1869
23,7
3330
34
Tiền gửi
kỳ hạn
dưới 12
tháng
44500
77,4
63600
78,9
84860
81
19100
43
21260
33,4
Tiềngửi cókỳ hạn
từ 12
tháng trở
lên
5060
8,8
7260
9
6859
6,5
2200
43,5
-401
-5,5
Tổng
57461
100
80630
100
104819
100
23169
40,3
24189
30
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp năm 2005 – 2007
Qua kết quả huy động vốn theo kỳ hạn ở bảng 2.2 ta thấy: đối với nguồn có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng lớn và tăng qua các năm. Năm 2006 đạt 63600 triệu đồng tăng 43% so với năm 2005 (tương ứng tăng 19100 triệu đồng); năm 2007 tăng 33,4% so với năm 2006 (tương ứng tăng 21260 triệu đồng); tức là huy động được 84860 triệu đồng.
Đối với nguồn không kỳ hạn, mặc dù tỷ trọng không ổn định nhưng tăng qua các năm: năm 2006 đạt 9770 triệu đồng, tăng 23,7% so với năm 2005; năm 2007 đạt 13100 triệu đồng và tăng 34%so với năm 2006.
Cuối cùng là tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên: về tỷ trọng chiếm tỷ lệ nhỏ (< 10%) và không ổn định, năm 2006 tăng 43,5% so với năm 2005 thì năm 2007 giảm 5,5% so với năm 2006.
2.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Với nền tảng chiến lược huy động nguồn lực tại chỗ có hiệu quả, chi nhánh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh thực hiện hoạt động tín dụng trong 3 năm như sau:
Bảng 2.3 D ư nợ cho vay theo thời hạn ( 2005 – 2007)
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
2006/2005
2007/2006
Số tiền
%
Số
tiền
%
Ngắn hạn
28056
25,6
56772
38,4
148654
57
28716
102
91882
162
Trung
h ạn
81540
74,4
91072
61,6
112143
43
9532
11,7
21071
23,1
Tổng
109596
100
147844
100
260797
100
38248
34,9
112953
76,4
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp năm 2005 - 2007
Nhìn vào bảng số liệu 2.3 ta thấy, tổng dư nợ tín dụng tăng liên tục qua các năm: năm 2006 tăng 34,9% tương ứng 38248 triệu đồng so với năm 2005; năm 2007 tăng 112953 triệu đồng (tương ứng 76,4%) so với năm 2006. Ngân hàng chỉ có dư nợ ngắn hạn, trung hạn mà không có dư nợ dài hạn, trong đó dư nợ trung hạn chiếm tỷ trọng lớn trong 2 năm 2005, 2006 thì đến năm 2007 dư nợ ngắn hạn tăng lên quá nửa (57%). Tuy nhiên, tốc độ tăng của dư nợ ngắn hạn nhanh hơn dư nợ trung hạn. Cụ thể: năm 2006, dư nợ trung hạn là 91072 triệu đồng, tăng 9532 triệu đồng (tăng 11,7%) so với năm 2005; dư nợ ngắn hạn đạt 56772 triệu đồng, tăng 28716 triệu đồng (tăng 102%) so với năm 2005. Đến năm 2007, dư nợ trung hạn tăng 21071 triệu đồng (tăng 23,1%) thì dư nợ ngắn hạn tăng 91882 triệu đồng (tăng 162%) so với năm 2006.
Nguyên nhân của kết quả trên là do: đặc điểm sản xuất kinh doanh trên địa bàn là sản xuất theo thời vụ chuyển sang trồng cây công nghiệp dài ngày để phục vụ các nhà máy chế biến nguyên liệu sắp thành lập và các hộ nông dân có nhu cầu phát triển trang trại để chăn nuôi (bò, dê, lợn, trâu…) nên nhu cầu nguồn vốn trung hạn là chủ yếu. Ngoài ra ngân hàng còn cho vay trung dài hạn chủ yếu là cho vay đời sống, cho vay tiêu dùng vì hiện nay mức sống của nhân dân trên địa bàn ở thị trấn đang ngày càng được nâng lên rõ nét, nhu cầu tiêu dùng rất lớn.
Xét theo thành phần kinh tế: dư nợ cho vay được chia theo thành phần cá nhân, hộ sản xuất hoạt động trong ngành nông nghiệp nông thôn và các thành phần khác. Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.4 Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế (2005 - 2007)
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Số
tiền
%
2006/2005
2007/2006
Số tiền
%
Số
tiền
%
Cánhân, hộ sản xuất
104774
95,6
136460
92,3
237352
91
31686
30,2
100865
74
Vay
khác
4822
4,4
11384
7,7
23472
9
6562
136
12088
106
Tổng
109596
100
147844
100
260797
100
38248
34,9
112953
76,4
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp năm 2005 - 2007
Qua bảng 2.4 ta thấy ở NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cho vay hộ sản xuất, cá nhân hoạt động trong ngành nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng lớn. Khi vay vốn ở ngân hàng họ trả nợ đúng hạn, linh hoạt trong những ngành sản xuất kinh doanh mới, đạt hiệu quả. Trên địa bàn huyện có 5 doanh nghiệp nhà nước và 25 doanh nghiệp tư nhân nhưng hầu hết không có quan hệ tín dụng với ngân hàng. Nguyên nhân đối với doanh nghiệp nhà nước đó là do sự thay đổi chính sách của nhà nước không phân biệt cách thành phần kinh tế, làm ăn không hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu của ngân hàng. Còn đối với doanh nghiệp tư nhân thì họ không đủ hồ sơ pháp lý về theo dõi quyết toán hàng tháng, quý, năm theo chế độ quy định nên việc cho vay không có.
Đi cùng với công tác tăng dư nợ cho vay NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh cũng thực hiện tốt công tác thu nợ, đẩy nhanh vòng quay vốn tín dụng và được thể hiện qua bảng doanh số cho vay và doanh số thu nợ như sau:
Bảng 2.5 Doanh số cho vay và doanh số thu nợ ( 2005 – 2007 )
Đơn vị : Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số
tiền
Số
tiền
Số
tiền
2006/2005
2007/2006
Số
tiền
%
Số
tiền
%
Doanhsố cho vay
84650
120580
230324
35930
42,4
109744
91
Doanh số
thu nợ
72340
109324
208687
36984
51
99363
91
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp năm 2005 - 2007
Nhìn vào bảng số liệu 2.5, doanh số cho vay và doanh số thu nợ đều tăng qua các năm. Doanh số thu nợ năm 2006 tăng 51% so với năm 2005, năm 2007 tăng 91% so với 2006. Doanh số cho vay năm 2006 đạt 102589 triệu đồng tăng 42,4% (tương ứng 35930 triệu đồng) so với năm 2005; còn năm 2007 doanh số cho vay đạt 230324 triệu đồng tăng 91% (tương ứng 109744 triệu đồng) so với năm 2006.
Doanh số cho vay trong năm 2006 tăng nhanh, có được kết quả này là do chiến lược kinh doanh của ngân hàng, ngân hàng đã mạnh dạn đầu tư cho vào các dự án, mua máy móc phục vụ ngành nông nghiệp; máy xay xát, máy cày bừa…mua xe công nông, xe bò lốp. Ngoài ra, cho vay để phát triển đàn trâu bò, loại gia súc, gia cầm ở các hộ có điều kiện phát triển chăn nuôi tốt. Đồng thời, ngân hàng cho cán bộ, hưu trí vay làm nhà cửa mua phương tiện đi lại, đồ dùng sinh hoạt…
Doanh số thu nợ qua các năm tăng đều, do ngân hàng đầu tư đúng hướng, nền kinh tế trên địa bàn trong những năm qua phát triển khá, nhân dân có cuộc sống đầy đủ hơn, có thu nhập đều để trả nợ cho ngân hàng. Ngân hàng đã thực hiện nghiêm túc quá trình cho vay, thẩm định kỹ các dự án, phương án sản xuất kinh doanh, thường xuyên quan tâm theo dõi khách hàng sau khi cho vay. Do đó, nắm chắc được tình hình biến động của khách hàng từ đó có biện pháp xử lý kịp thời, góp phần nâng cao khả năng thu hồi vốn, ngoài ra, ngân hàng coi trọng công tác phân tích nợ theo mặt bằng dư nợ, nợ đến hạn, quá hạn, trên cơ sở đó phân loại và xác định khả năng thu hồi nợ cũng như nguồn trả nợ của từng người đi vay, đồng thời tăng cường công tác thanh tra, kiểm soát để kịp thời phát hiện những sai sót từ đó có biện pháp xử lý kịp thời. Hơn nữa ngân hàng còn phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để tăng cường công tác đôn đốc thu nợ.
Trong 3 năm qua kết quả hoạt động tín dụng của ngân hàng đã thực hiện được những thành công nhất định đó là: đáp ứng được 89% nhu cầu vay vốn để mở rộng phát triển ngành nghề, sản xuất kinh doanh, dịch vụ. Với việc mở rộng hình thức cho vay tiêu dùng và đời sống đã làm đời sống của người dân, nhiều gia đình thay đổi: xây dựng được nhà cửa đàng hoàng, mua sắm được đồ dùng đắt tiền như xe máy, ti vi…cho vay để đi xuất khẩu lao động đã góp phần giải quyết việc làm cho con em trong huyện và cải thiện đời sống nhân dân, đến nay ngân hàng đã cho hơn 3500 hộ vay vốn đi xuất khẩu lao động. Với kết quả đó, cho thấy NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh đã góp phần tích cực vào việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển xã hội trên địa bàn huyện. Đặc biệt trong việc thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, ổn định chính trị, từng bước cải thiện đời sống, giải quyết việc làm, góp phần hạ tỷ lệ đói nghèo trong huyện.
2.2.3 Công tác kế toán, thanh toán và ngân quỹ
Về công tác kế toán, thanh toán:
Mặc dù trình độ khoa học công nghệ và thông tin còn nhiều bất cập, khối lượng khách hàng tăng, khối lượng công việc nhiều song cán bộ kế toán cố gắng tìm tòi học hỏi, hăng say với công việc đáp ứng yêu cầu cập nhật thông tin báo cáo hàng ngày, thực hiện giao dịch 100% công việc trên máy. Thực hiện đầy đủ chính xác các nghiệp vụ phát sinh, chấp hành tốt chế độ hạch toán kế toán, thu chi tài chính, quản lý tốt quỹ an toàn chi trả, đảm bảo khả năng chi trả, đảm bảo khả năng thanh toán. Thực hiện có hiệu quả chuyển tiền điện tử, từ đó thu hút được khách hàng mở tài khoản, tăng tiền gửi và tăng thu dịch vụ. Năm 2004, số khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán khoảng 1500, đến năm 2006 đã tăng lên 2650, đặc biệt là tiền gửi thanh toán ngoại tệ năm 2004 dịch vụ này mới bắt đầu phát sinh đến năm 2006 đã có gần 980 tài khoản tiền gửi thanh toán ngoại tệ.
Công tác ngân quỹ:
Tổng thu tiền mặt trong năm 2007 là 126 tỷ đồng, tăng 28% so với năm 2006
Tổng chi tiền mặt 2007 là 96,3 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2006
Khối lượng thu chi tiền mặt qua quỹ là rất lớn, đặc biệt khi chi tiền mặt cho kho bạc, bảo hiểm, chi cho vay hộ nghèo, chi cho các dự án tài trợ…Song vẫn đáp ứng đầy đủ kịp thời cho khách hàng không thất thoát. Phát huy truyền thống tốt đẹp và đạo đức của người cán bộ ngân hàng, cán bộ ngân quỹ đã thực hiện đầy đủ chế độ đảm bảo an toàn tài sản kho quỹ, đã thực hiện được bản chất liêm khiết, tận tuỵ trong công việc, trả lại tiền thừa cho khách hàng.
2.2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh
Trong 3 năm qua, chi nhánh đã đạt kết quả kinh doanh hết sức khả quan, thể hiện:
Bảng 2.6 Kết quả kinh doanh NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh (2005 – 2007)
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
S ố tiền
%
S ố tiền
%
S ố tiền
%
Thu lãi cho vay
21467
95,2
25060
93,1
29637
93,8
Thu về dịch vụ
812
3,6
1025
3,8
1060
3,3
Thu khác
273
1,2
836
3,1
902
2,9
Tổng
22552
100
26921
100
31599
100
Chi phí
16106
19199
22666
Lãi trước thuế
6446
7722
8933
Nguồn: Báo cáo tổng kết của NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh (2005 - 2007)
Qua bảng số liệu 2.6 ta thấy lợi nhuận của ngân hàng tăng đều qua các năm. Năm 2006 tăng 1276 triệu đồng so với năm 2005 tương ứng là 18,9 %; năm 2007 tăng 121 triệu đồng so với năm 2006, tương ứng là 15,68%. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu của ngân hàng từ hoạt động cho vay có tăng nhưng chậm. Nguyên nhân là do trong năm 2005, 2006 ngân hàng bàn giao các khoản cho vay hộ nghèo cho ngân hàng chính sách xã hội nên nguồn thu từ dịch vụ ngân hàng nghèo giảm xuống một cách đáng kể. Kết quả tài chính của ngân hàng đạt khá, đảm bảo quỹ tiền lương và ăn ca theo chế độ, ổn định và từng bước cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách và nộp đầy đủ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo quy định, đồng thời tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động kinh doanh, tạo kinh doanh phục vụ khách hàng tốt hơn.
2.3 THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH NHNo&PTNT HUYỆN KỲ ANH
Rủi ro tín dụng là hoạt động đem lại thu nhập lớn nhất nhưng chứa đựng rủi ro. Đánh giá rủi ro tín dụng tại ngân hàng không phải chỉ quan tâm đến dư nợ cơ cấu dư nợ, mà cần coi ngân hàng thu hồi lại được bao nhiêu vốn cho vay, mất vốn bao nhiêu…Tại NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh khi xem xét rủi ro tín dụng người tài chính dùng chỉ tiêu nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ để đo lường mức độ rủi ro. Đồng thời việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh tuân theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.
Bảng 2.7 Nợ quá hạn (2005 – 2007)
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Số tiền
Số tiền
2006/2005
(%)
Số tiền
2007/2006
(%)
Nợ quá hạn
1640
2513
53,2
6520
159,5
Tổng dư nợ
109596
147844
34,9
260797
76,4
Nợ quá hạn Tổng dư nợ
1,5%
1,7%
2,5%
Nguồn: bảng cân đối kế toán tổng hợp (2005-2007)
Nhìn vào bảng số liệu (bảng 2.7) ta thấy không những dư nợ tín dụng mà cả nợ quá hạn cũng có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2006, nợ quá hạn là 2513 triệu đồng với tỷ lệ nợ quá hạn là 1,7%, tương ứng tăng 52,3% so với năm 2005 tức là năm 2005 nợ quá hạn là 1640 triệu đồng. Năm 2007, nợ quá hạn là 6520 triệu đồng ; tỷ lệ nợ quá hạn là 2,5%.
Với tỷ lệ nợ quá hạn trên cho thấy dấu hiệu của hoạt động tín dụng có xu hướng ngày càng đi xuống. Mặc dù tỷ lệ này vẫn chưa nằm vào dấu hiệu xấu của ngân hàng (thường là 7% đến 8%) tuy nhiên, tình trạng trên đặt ra cho ngân hàng cần có biện pháp kịp thời để khắc phục. Nguyên nhân của nợ quá hạn tăng nhanh là do: từ năm 2005 khi phân loại nợ theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN thì ngoài có sự tăng lên nợ quá hạn trong năm đó còn có nợ quá hạn của những năm trước chưa thu hồi được cơ cấu lại kỳ hạn chuyển sang năm tiếp; những khoản nợ trong hạn nhưng tiềm ẩn rủi ro. Đứng về phía khách hàng, do thua lỗ trong sản xuất kinh doanh mà không có khả năng trả nợ hoặc có những khách hàng vẫn có khả năng trả nợ tuy nhiên với khoản lãi phạt của ngân hàng nhỏ so với lãi do sử dụng vốn vay ngân hàng đem lại thì họ vẫn chấp nhận trả lãi phạt.
Xét theo thời gian, nợ quá hạn tại chi nhánh thể hiện qua bảng:
Bảng 2.8 Nợ quá hạn theo thời gian
Đơn vị: triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
Chênh lệch
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
2006/2005
2007/2006
Số tiền
%
Số tiền
%
NQH<90 ngày
1150
70,1
1809
72
4760
73
659
57,3
2951
163
NQH từ
90 đến
180ngày
246
15
337
13,4
965
14,8
91
37
628
186
NQH từ 181 đến 360 ngày
130
7,9
163
6,5
326
5
33
25,4
163
100
NQH trên
360 ngày
114
7
204
8,1
469
7,2
90
79
265
130
Tổng
1640
100
2513
100
6520
100
873
53,2
4007
159,4
Nguồn: Bảng cân đối kế toán tổng hợp(2005-2007)
Nhìn vào bảng số liệu 2.8 ta thấy nợ quá hạn tại NHNo&PTNT huyện Kỳ Anh chiếm tỷ trọng lớn ở nợ quá hạn < 90 ngày.
Đối với nợ quá hạn < 90 ngày: luôn chiếm quá nửa tổng nợ quá hạn. Năm 2005 là 1150 triệu đồng, chiếm 70,1% nợ quá hạn. Năm 2006 là 1809 triệu đồng tăng 659 triệu đồng, tương ứng tăng 57,3 triệu đồng so với năm 2005. Đặc biệt năm 2007 nợ quá hạn là 4760 triệu đồng tăng 163%, tương ứng 2951 triệu đồng.
Đối với nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày: chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 trong tổng nợ quá hạn. Năm 2006 là 337 triệu đồng tăng 91% so với năm 2005. Năm 2007, so với nợ quá hạn < 90 ngày thì tốc độ tăng của nhóm này nhanh hơn: nợ quá hạn < 90ngày tăng 163% còn nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày tăng 186%.
Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày: tỷ trọng qua các năm có xu hướng giảm dần, tương ứng qua 3 năm 2005, 2006, 2007 là 7,9%; 6,5%; 5%. Tuy nhiên, vẫn tăng qua các năm: năm 2006 đạt 163 triệu đồng tăng 33% so với năm 2005; năm 2007 đạt 326 triệu đồng tăng 100% so với năm 2006.
Nợ quá hạn trên 360 ngày: chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trên tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Kết quả này không phải do nỗ lực của ngân hàng trong công tác thu hồi nợ, mà do ngân hàng có sự điều chỉnh trong hoạt động tín dụng đó là ngân hàng đã cho khách hàng tiếp tục vay nợ hoặc gia hạn nợ để giúp khách hàng cải thiện tình hình sản xuất kinh doanh thay vì chuyển thành nợ quá hạn, khách hàng thu được lãi, có điều kiện tr._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33193.doc