Lời mở đầu
Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng hội nhập với nền kinh tế thế giới.Các vấn đề về xuất nhập khẩu,về đầu tư nước ngoài đang là những chủ đIểm cho các cuộc hội thảo kinh tế ở Việt Nam .Làm sao để tăng cường giá trị xuất nhập khẩu ,thu hút đầu tư đó là những vấn đề đáng quan tâm cho những nhà hoạch định chính sách .
Nhìn nhận vấn đề xuất nhập khẩu ,đầu tư chúng ta không thể bỏ qua vấn đề về tỷ giá hối đoái, một thước đo giá trị của dồng tiền này bằng đồng tiền khác.Bạn có bao giờ
25 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán tỷ giá hối đoái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩ rằng tỷ giá sẽ ảnh hưỏng đến cuộc sống của bạn như thế nào chưa,giả sử bạn là một nhà xuất khẩu Việt nam bạn vay ngân hàng 1 triệu USD (=15 tỷ VND) để nhập khầu,khi bạn bán được hàng bạn thu được 16 tỷ VND tuy nhiên lúc này tỷ giá là 20000VND/1USD bạn đã bị lỗ ít nhất 3 tỷ đồng và đIều đó có thể khiến bạn trở thành kẻ đứng đường.Hiểu biết về tỷ giá và dự doán đúng sự biến động về tỷ giá là thành công của nhiều doanh nghiệp,bởi vậy mới hình thành các phòng kinh doanh ngoại tệ ở các ngân hàng.Vấn đề tỷ giá còn ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề xuất nhập khẩu.Nếu đồng tiền Việt nam mà lên giá sẽ bất lợi cho các nhà xuất khẩu bởi hàng hoá việt nam đã đắt lên một cách tương đối,ngược lại sẽ làm cho các nhà nhập khẩu bất lợi.
Từ thực tế trên em xin tìm hiểu đề tài về "Tỷ giá hối đoái và vấn đề tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay” nhằm giúp cho quá trình học tập và nghiên cứu sau này của bản thân và cho bạn bè quan tâm nắm rõ hơn về vấn đề này.
Trong quá trình thu thập thông tin còn nhiều hạn chế do vậy có thể còn nhiều sai sót mong các bạn thông cảm và trân thành góp ý.
Em xin cảm ơn TS Trần Đăng Khâm đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề án này !
Trang
Mụclục
1
Mở đầu
2
Nội dung
3
Chương I:
Tổng quan chung về hệ thống tỷ giá hối đoái
3
I.
Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm liên quan
3
1.
Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái
3
2.
Tỷ giá hối đoái thực tế
4
3.
Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái
4
II.
Các hệ thống tỷ giá
5
1.
Chế độ tỷ giá cố định
5
2.
Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods
6
3.
Sự can thiệp của nhà nước vào hệ thống tỷ giá hối đoái
10
Chương II:
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
14
I.
Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam Từ năm 1955 đến nay
14
II.
Vấn đề tỷ giá hiện nay
20
Chương III:
Những giả pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
I.
Những vấn đề tồn tại trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái trong thời gian qua
22
II.
Các giải pháp để hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái
23
Kết luận
27
Danh muc tài liệu tham khảo
28
Phần II: Nội dung
Chương I
tổng quan chung về hệ thống
tỷ giá hối đoái
I. Một
số vấn đề về tỷ giá hối đoái và các khái niệm có liên quan.
Để có thể đi sâu nghiên cứu tỷ giá hối đoái, trước hết chúng ta cần phải xem xét một số khái niệm có liên quan đến vấn đề này.
1. Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
Vì các nước khác nhau thì sử dụng những đồng tiền khác nhau hay những phương thức thanh toán khác nhau nên khi muốn mở rộng quan hệ thương mại quốc tế thì cần phải có một nơi để có thể trao đổi tiền giữa các nước với nhau, đó chính là thị trường ngoại hối. Như vậy thị trường ngoại hối là thị trường quốc tế trong đó đồng tiền quốc gia này có thể đổi lấy tiền của quốc gia khác.
Thông thường tỷ giá hối đoái được hiểu là số lượng đơn vị nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; là hệ số quy đổi của một đồng tiền này sang một đồng tiền khác được xác định bởi mối quan
hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Trong kinh tế học khi phân tích về tỷ giá hối đoái, người ta thường sử dụng các kí hiệu sau :
* e-Tỷ giá hối đoái của đồng nội tệ tính theo đồng tiền nước ngoài
* E-Tỷ giá hối đoái của đồng ngoại tệ tính theo đồng nội tệ
Chính sách tỷ gá hối đoái của mỗi quốc gia thường liên quan đến sức cạnh tranh quốc tế của quốc gia đó. Nếu e giảm tỷc là giá trị của đồng nội tệ giảm thì giá cả của hàng hoá trong nước sẽ rẻ tương đối so với giá cả của hàng hoá ở nước ngoài, vì thế xuất khẩu sẽ có xu hướng tăng, nhập khẩu có xu hướng giảm, khả năng cạnh tranh của quốc gia này tăng lên.
2. Tỷ giá hối đoái thực tế.
Khả năng cạnh tranh còn gọi là tỷ giá hối đoái thực tế. Để hiểu được vấn đề này phải phân biệt được tỷ giá hối đoái danh nghĩa và tỷ giá hối đoái thực. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là một khái niệm tiền tệ phản ánh mức giá tương đối của hai đồng tiền trong khi tỷ giá hối đoái thực lại phản ánh mức giá tương đối giữa hai loại hàng hoá. Chính xác hơn, tỷ giá hối đoái thực là mức giá tương đối của những hàng hoá mậu dịch tương ứng với các hàng hóa phi mậu dịch. Như vậy điểm cân bằng của tỷ giá thực sẽ tương ứng với giá so sánh giữa hàng hoá thương mại hoá và hàng hoá không thương mại hoá đem lại đồng thời sự cân bằng nội và cân bằng ngọai. Cân bằng nội có nghĩa là thị trường hàng hoá không thương mại hoá được thanh toán liên tục, cân bằng ngoại có nghĩa là thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ một cách bền vững từ luồng vốn nước ngoài.
Một trong những nhân tố quan trọng nhất của tỷ giá hối đoái thực (RER) là vị trí cạnh tranh quốc tế của quốc gia có đồng tiền tương ứng. Tỷ giá hối đoái thực giảm xuống phản ánh mức tăng chi phí sản xuất của những hàng hoá mậu dịch trong nước. Nếu không có sự tăng giá tương ứng ở các quốc gia khác thì việc đó đồng nghĩa với việc suy giảm vị trí cạnh tranh đó : họ sản xuất hàng hoá mậu dịch kém hiệu quả hơn các nước khác.
3. Các nhân tố tác động lên quá trình hình thành tỷ giá.
Trên thực tế, sự hình thành quan hệ tỷ giá là tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp nghiên cứu, tiếp cận và đánh giá vai trò, tính chất, phương thức cường độ, tốc độ tác động của các yếu tố cụ thể, song nhìn chung có một số yếu tố quan trọng, trực tiếp cấu thành NP và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái, đó là:
-Sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước.
-Trạng thái cán cân thanh toán ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ, thông qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự dao động của tỷ giá lệch khỏi sức mua của đồng tiền.
-Chênh lệch mức giá giữa các nước, giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc tế.
-Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính, ngoại hối và các xu hướng nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá.
-Hệ số tín nhiệm đối với các đồng tiền trên thị trường Tài chính trong nước và quốc tế.
- Các phương thức, công cụ điều chỉnh, các chính sách can thiệp của Nhà nước.
- Các cú sốc kinh tế, chính trị xã hội và các chính sách lớn của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, tài chính tiền tệ.
II. Các hệ thống tỷ giá.
Tỷ hối đoái có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối tượng tham gia vào các giao dịch đối ngoại cho dù đó là nhà thương mại hay nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái cũng có vai trò trung tâm trong chính sách tiền tệ trong đó tỷ giá có thể là mục tiêu hay công cụ hay chỉ đơn thuần là một chỉ số... phụ thuộc vào cơ chế chính sách của mỗi quốc gia. Mức độ can thiệp khác nhau của nhà nước khác nhau đến tỷ giá hối đoái đã tạo nên những cơ chế tỷ giá hối đoái khác nhau giữa các quốc gia. Có hai cơ chế tỷ giá cơ bản là: cơ chế tỷ giá hối đoái cố định (vào vàng, vào một đồng tiền hay một nhóm đồng tiền) và cơ chế tỷ giá thả nổi (tỷ giá được xác định dựa vào cung cầu trên thị trường). Mỗi quốc gia trong một thời kì khác nhau có sự lựa chọn khác nhau về mức độ cố định thả nổi tỷ giá hối đoái hay có sự dung hoà nào đó về sự cố định hay thả nổi tỷ giá hối đoái. Điều này đã đưa đến các nguyên tắc khác nhau về điều hành tỷ giá hối đoái hay các chính sách có liên quan khác của mỗi quốc gia. Sự khác nhau đó đã tạo nên sự đa dạng về cơ chế tỷ giá hối đoái ở trên thế giới.
1. Chế độ tỷ giá cố định.
Mục đích của quan điểm giữ tỷ giá cố định là phải giữ tỷ giả hối đoái ổn định để kiềm chế lạm phát ở mức thấp và củng cố niềm tin của dân chúng vào đồng tiền nội địa. Khi sử dụng chế độ tỷ giá cố định người ta có thể sử dụng các hệ thống sau:
* Chế độ bản vị vàng :
Trong chế độ này chính phủ của mỗi quốc gia cố định giá vàng tính bằng tiền nước họ và duy trì khả năng chuyển đổi đồng tiền trong nước thành vàng chính phủ sẽ mua và bán vàng nhiều bằng mức mà nhân dân muốn giao dịch tại giá trị ngang giá này và chính phủ tuân theo quy tắc nhằm gắn liền đồng tiền trong nước với số vàng nhà nước có. Chính phủ chỉ có thể phát hành tiền bằng cách mua vàng của công chúng, tức là nếu công chúng chuyển đổi tiền giấy của họ thành vàng thì lượng tiền lưu hành sẽ giảm đi. Dưới chế độ bản vị vàng khả năng của chính phủ trong việc tăng mức cung tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chỉnh phủ phải nắm giữ một giá trị vàng tương đương trong kho bạc.
Chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền rất ít khi bị mất giá, việc thanh toán nợ nần giữa các quốc gia cũng được thực hiện bằng vàng như vậy nó thực sự đẩm bảo một cơ chế tự động điều chỉnh sự mất cân đối trong thương mại và thanh toán quốc tế. Vì vậy chế độ này đã được sử dụng hầu như suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 ở các nước. Bản vị vàng có một ưu điểm lớn và một nhược điểm đáng kể. Bằng cách gắn chặt, nếu không phải là hoàn toàn mức cung tiền nội địa với mức dự trữ vàng, bản vị vàng thực sự đã loại trừ việc phát hành tiền liên tục trên quy mô lớn và tỉ lệ lạm phát một cách thường xuyên cao. Tuy nhiên do cơ chế chủ yếu để phục hồi công ăn việc làm đầy đủ là sự giảm giá và tiền lương nội địa mà phải mất nhiều năm để điều chỉnh hoàn toàn theo mức giảm đáng kể về tổng cầu cho nên thời kì của bản vị vàng là thời kì trong đó các nền kinh tế riêng lẻ dễ bị tổn thương dẫn tới những giai đoạn suy thoái lâu dài và sâu sắc.
2. Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods :
Dưới chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái danh nghĩa được cố định một cách vô thời hạn. Bây giờ chúng ta sẽ bàn về hệ thống điều chỉnh hạn chế, trong đó các tỷ giá hối đoái thông thường được cố định nhưng một đôi lúc các nước được phép thay đổi tỷ giá hối đoái của mình. Hệ thống này được ra đời gần cuối thế chiến thứ hai trong một hội nghị đa quốc gia được tổ chức ở Brentton Woods New Hampshire để hoạch định" một hệ thống tỷ giá hối đoái có trật tự thuận lợi cho luồng thương mại tự do". Theo hệ thống này tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của đô la Mĩ (1 USD= 0,888671 gram vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng kí tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF vì thế hệ thống tỷ giá này còn được biết với đến với tên gọi bản vị đôla. Theo chế độ bản vị đô la, các đồng tiền được chuyển đổi theo đôla chứ không phải theo vàng. Tại mức tỷ giá hối đoái cố định, các ngân hàng trung ương cam kết mua hoặc bán đôla từ nguồn dự trữ ngoại hối hoặc lượng đôla hiện có của họ. Họ cam kết can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định theo đồng đôla.
Sự khác nhau căn bản giữa bản vị vàng và bản vị đôla là ở chỗ không còn sự đảm bảo đổi lại 100% đối với đồng tiền nội địa, các chính phủ có thể in thêm tiền để làm tăng sức cạnh tranh trong nước. Nếu tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài chính phủ phải dùng ngày càng nhiều dự trữ ngoại hối của mình để trang trải cho thâm hụt, thì cuối cùng đất nước sẽ cạn kiệt dự trữ ngoại hối, lúc đó nhà nước sẽ phải phá giá tỷ giá hối đoái của mình chuyển sang một nước giá trị ngang giá thấp hơn theo đôla để cố gắng tăng thường xuyên sức cạnh tranh và loại trừ sự mất cân đối cơ bản trong thanh toán quốc tế.
Tỷ giá hối đoái cố định, nếu bền vững hay được coi là bền vững thì sẽ tạo cho các doanh nghiệp có cơ sở để lập kế hoạch và tính toán giá, như vậy sẽ thúc đẩy đầu tư và thương mại quốc tế; tỷ giá hối đoái cố định tạo ra sự hạn chế đối với chính sách tiền tệ trong nước vì do tỷ giá hối đoái cố định nên không khuyến khích sự luân chuyển vốn vào hay ra khỏi quốc gia và do đó không cần thiết phải có sự quan tâm thường xuyên của ngân hàng trung ương. Tỷ giá hối đoái cố định sẽ là tối ưu nếu các ngân hàng trung ương có thể thực hiện được sự điều chỉnh cho tới mức tỷ giá tương đối cân bằng và thực hiện việc cố định tỷ giá ở mức đó; cơ chế tỷ giá cố định trực tiếp đặt ra sự tuân thủ đối với chính sách tiền tệ và có thể được coi là phù hợp trong tình huống các công cụ tài chính và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mức cho sự vận hành của chính sách tiền tệ theo cơ chế thị trường.
Tuy nhiên tỷ giá hối đoái cố định trong trường hợp thiếu tin cậy sẽ bị ảnh hưởng rất lớn của đầu cơ, điều này có thể dẫn tới sự phá vỡ hoàn toàn sự ổn định tiền tệ, ổn định kinh tế hay ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối; tỷ giá hối đoái cố định có thể làm người ta phải từ bỏ đầu cơ, do đó thị trường sẽ buồn tẻ, khó có thể xác định đâu là tỷ giá hối đoái tối ưu, hay hợp lý cho một nền kinh tế, mặc dù cả chính phủ và nhân hàng trung ương đều cần thiết phải hiểu hơn ai hết đâu là mức cân bằng. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa cố định có thể là quan trọng nhưng nó không quyết định tỷ giá hối đoái thực tế mà nó chỉ được coi là chỉ số hay mục tiêu quan trọng mà thôi. Duy trì tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi ngân hàng trung ương phải luôn sẵn sàng can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo mức tỷ giá hối đoái cố định.Tuy nhiên, khó có thể đưa ra về mức độ cần can thiệp như thế nào để tác dộng vào nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu can thiệp. Ngân hàng trung ương cần thiết phải duy trì một mức nhất định về dự trữ ngoại hối, như vậy chi phí về quản lý tài sản sẽ lớn. Tỷ giá hối đoái này cũng phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của quốc gia khác, và đó là điều đôi khi gây bất lợi do việc gắn đồng tiền bản tệ vào một đồng ngoại tệ nào đó.
* Tỷ giá hối đoái thả nổi:
Là tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở diễn biến cung cầu. Có hai loại tỷ giá thả nổi là thả nổi tự do và thả nổi có quản lý. Chúng ta biết rằng nền kinh tế cân bằng dài hạn là phải cân đối cả bên trong lẫn bên ngoài (tức là đầy đủ việc làm, xuất khẩu ròng bằng không và tài khoản vãng lai cân bằng) Nhu cầu nhập khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng trong nước và tỷ giá hối đoái thực tế. Nhu cầu xuất khẩu phụ thuộc vào mức sản lượng ở nước ngoài và tỷ giá hối đoái thực tế. Do đó khi nền kinh tế trong nước và nước ngoài đều ở trong tình trạng cân đối hoặc ở mức sản lượng tiềm năng,thì chỉ có một tỷ giá chính thức duy nhất đồng thời tương ứng với sự cân bằng bên ngoài.ở bầt kì mức tỷ giá hối đoái nào cao hơn nền kinh tế nội địa cũng có sức cạnh tranh kém hơn. Nhập khẩu sẽ cao hơn và xuất khẩu sẽ thấp hơn, nền kinh tế sẽ bị thâm hụt trong tài khoản vãng lai. Ngược lại ở bất kì một mức tỷ giá hối đoái thực tế nào thấp hơn với xuất khẩu cao hơn và nhập khâủ thấp hơn, nền kinh tế nội địa sẽ có một khoản thặng dư trong vãng lai. Chỉ có một tỷ giá hối đoái thực tế duy nhất tương ứng với sự cân đối bên trong và bên ngoài.
Chương II
Hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
I. Sơ lược về hệ thống tỷ giá hối đoái ở Việt Nam từ năm 1955 đến nay.
Trong giai đoạn từ năm 1955 đến 1989, mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế thả nổi và thả nổi có quản lý, nhưng các nước xã hội chủ nghĩa, với cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi mặt hoạt động kinh tế, thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại, và phát huy tác dụng, thay vào đó là tỷ giá cố định, Việt Nam cũng không nằm ngoài khuôn khổ đó. Tỷ giá chính thức của VND được công bố vào ngày 25 / 11 / 1955, là tỷ giá giữa VND và đồng nhân dân tệ trung quốc là 1NDT =1470 VND và giữa đồng Việt Nam với đồng Liên Xô là 1 Rúp bằng 735 đồng Việt Nam. Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh khác giữa hai nước nhằm giả quyết nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống Pháp. Sau đó các tỷ giá giữa đồng Việt Nam với các nước khác được thiết lập dựa trên tỷ giá đó. Bên cạnh tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch), nhà nước còn đưa ra hai loại tỷ giá khác là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ (tỷ giá giữa các đơn vị có thu chi ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương). Như vậy hệ thống tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn này là chế độ đa tỷ giá, tỷ giá được xác định trên ý đồ phục vụ kế hoạch của nhà nước, các quyết định này không xuất phát từ nhu cầu thực tại của nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước, tỷ giá giữ vai trò thụ động, chưa phải là công cụ điều chỉnh kinh tế vĩ mô thực sự. Chính vì vậy, hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho việc quản lý đều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính, tiền tệ, kinh tế đối ngoại, đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì một số nguyên nhân, thứ nhất là do việc sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ trong quản lý ngân sách nhà nước làm cho việc tính toán và thu chi ngân sách bị sai lệch nghiêm trọng, công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn, làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân sách nhà nước. Từ năm 1970 đến 1980 hàng năm Liên Xô viện trợ cho nước ta khoảng 15 % thu nhập của cả nước, bình quân từ 1,2 đến 1,5 tỉ rúp trong 1 năm nếu tính theo tỷ giá kết toán nội bộ thì số viện trợ này khoảng 1/3 tổng thu ngân sách, nhưng nếu tính sức mua trên thị trường của đồng rúp thì tỉ trọng này vào khoảng 60–70 %. Vì vậy nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng,đổi mới lĩnh vực tài chính tiền tệ nói chung, trở thành vấn đề cấp bách vì nếu để tỷ giá cũ làm cho việc bù lỗ nhập khẩu vượt mức chịu đựng của ngân sách nhà nước, thủ tiêu động lực xuất khẩu.
Sau đại hội toàn quốc lần thứ VI, nhà nước bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, từng bước xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển dần sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đây là thời kì có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư duy quản lý và diều hành kinh tế của nhà nước, nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Tỷ giá hối đoái, khâu đột phá có vai trò cực kì quan trọng trong cải cách được đặc biệt quan tâm. Tháng 3/1989 Nhà nước chính công bố xoá bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, xoá bỏ mội chế độ trợ giá cho các hoạt động ngoại thương. Tỷ giá chính thức đuợc Ngân hàng nhà nước chính thức công bố căn cứ vào chỉ số lạm phát, lãi suất trên thị trường, cán cân thanh toán, tham khảo diễn biến giá trên thị trường tự do và giá vàng trên thị trường quốc tế và trong nước. Trên cơ sở tỷ giá này, các ngân hàng thương mại xây dựng cho mình một tỷ giá dùng để giao dịch hàng ngày với biên độ giao động cho phép. Nhìn chung những giải pháp trên đã góp phần cải thiện phần nào tình hình trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ tình trạng bất hợp lý trong mua bán thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực nhập khẩu.
Sau năm 1990, tuy đã có những cải cách nhất định về mặt tỷ giá nhưng tỷ giá vẫn có những biến động mạnh mà điển hình là cơn sốc tỷ giá vào năm 1991, đồng Việt Nam bị mất giá 60 % so với đôla Mĩ. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng của tình hình cán cân thanh toán quốc tế, sự thâm hụt tài chính của chính phủ và mức độ lạm phát nặng nề ở Việt Nam. chính vì vậy vào cuối năm 1991 đầu năm 1992 chính phủ đã can thiệp để nâng giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại tệ. Sự can thiệp này có mục đích chống lạm phát bằng cách giữ cho hàng nhập khẩu được ổn định vì từ năm 1990 trở lại đây, Việt Nam đã nhập khẩu một số lượng lớn lượng nguyên, nhiên vật liệu để đáp ứng nhu cầu phát triển và mở rộng sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm của nông nghiệp. Nếu để giá của đồng nội tệ tiếp tục giảm tất yếu sẽ làm cho giá thành sảm phẩm sản xuất trong nước tăng bởi vì các yếu tố đầu vào đã tăng. Trong điều kiện nền kinh tế có nhiều nhân tố gây bất ổn địnhkhác thì việc giá thành hàng hoá nhập khẩu tăng cao sẽ là nhân tố kích thích lạm phát.
Cuối năm 1992, nguồn ngoại tệ do ngoại kiều gửi về Việt Nam khá lớn làm tăng cung về ngoại tệ, mặt khác ngân hàng nhà nước kiên trì quan điểm ổn định tỷ giá bằng cách can thiệp vào thị trường ngoại tệ, nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp cơ bản được đáp ứng, lạm phát gần như được chặn lại, tạo lòng tin cho dân chúng và sự ổn định của đồng tiền Việt Nam, giải toả được tâm lý đầu cơ. đó là những nguyên nhân cơ bản nhất khiến cho xu hướng lên giá của đồng Đô la sẽ bị chặn lại, tỷ giá VND/USD không những không tăng mà còn giảm xuống. Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại trong viêc điều chỉnh này về tỷ giá hối đoái quá mạnh đã gây sức rất ép lớn đối với sản xuất công nghiệp và nông nghiệp. Trung Quốc là một bạn hàng quan trọng của Việt Nam và là một thị trường vừa lớn lại vừa gần. TÛ giá hối đoái do thị trường quy định của Trung Quốc đã bị phá giá mạnh kể từ giữa năm 1991, biến động khoảng từ 6-8 NDT / 1 đô la và có thời gian ngắn lên 10 NDT
Như vậy, trong cùng điểm thời gian (tháng 8/1991) khi đồng Việt Nam lần đầu tiên đạt mức tỷ giá danh nghĩa như năm 1991 thì đồng Nhân dân tệ bị phá giá 50%. Trong khi đó mức lạm phát ở Việt Nam là 67%, còn tại Trung Quốc là 25%, do đó mức tăng trong sức cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc là rất đáng kể và các nhà máy Việt Nam đã phải vất vả vì tình trạng này.
Nhà nước đã đối phó với tình trạng này bằng cách vẫn giữ ổn định tỷ giá và phát động chống buôn lậu đồng thời đề ra cơ chế quản lý nhập khẩu bằng hạn nhập (Quota), cấm nhập khẩu cũng như hạn chế cấp tín dụng cho nhập khẩu cùng với một số chính sách ưu đãi đối với nhà xuất khẩu như : Giảm thuế, bảo hiểm giá đối nông sản xuất khẩu, trợ giá đối với những sản phẩm xuất khẩu mới... Nhưng do biên giới với Trung Quốc rất dài, dễ qua lại và do việc buôn lậu mang lại rất nhiều lợi nhuận nên hầu như không thể ngăn chặn việc buôn bán tại vùng này tuy có thể làm cho những hoạt động đó mang lại ít lợi nhuận hơn. Tất nhiên những biện pháp này sẽ không giúp được gì cho các nhà xuất khẩu do họ sản xuất lại tụt xuống (nếu mức giá bằng USD vẫn không thay đổi).
Diễn biến cụ thể của tỷ giá hối đoái trong 2 năm 1991, 1992 như sau
Năm 1991 :
Tháng
12/90
1/91
3/91
6/91
12/91
VNĐ/USD
7400
7900
8830
10050
12550
VNĐ/USD
1350
1370
1460
1850
2350
Du
Năm 1992 :
Tháng
12/91
1/92
3/92
6/92
9/92
12/92
1/93
VND/USD
12.900
11.800
11.550
10.285
10.950
10.720
10.500
Đến cuối năm 1992, đồng Việt Nam tăng 20 % so với đồng đô la vì thế vào năm 1993, sức cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường sẽ bị giảm mạnh. Sau đó Nhà nước lại tăng giá đồng đô la trong cuối quý I năm 1993 là cho đồng Nhân dân tệ tăng gía, sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc trên thị trường Việt Nam giảm
Tỷ giá năm 1993 của đồng Việt Nam so với đô la là
Tháng
12/92
1/93
3/93
6/93
7/93
9/93
12/93
VND/USD
10.720
10.500
10.500
10.580
10.680
10.750
10.835
Trong năm 1993, tỷ giá VNĐ/USD có xu hướng ổn định, Ngân hàng Nhà nước đã thành công trong việc giữ cho đồng Việt Nam không lên giá, điều này giúp cho hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh được, kích thích xuất khẩu được giúp Việt Nam có thể hạn chế được ảnh hưởng của đồng đô la với nền ngoại thương của mình
Ngày 20/09/1994, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ban hành quyết định số 203 / QĐ - NH9 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước thực hiện vai trò là người mua bán cuối cùng trong ngày. Tỷ giá chính thức vẫn được Ngân hàng Nhà nước công bố, chỉ có biên độ dao động là thay đổi. Trong 3 năm 93–96, đồng đô la hầu như không tăng theo giá trị thực của nó trên thị trường, trong khi thị trường dường như được thả nổi theo cung cầu. Nguyên nhân của tình trạng trên là lượng vốn của nước ngoài đầu tư vào Việt Nam trong thời kỳ này tăng rất nhanh, chính sách thắt chặt tiền tệ của chính phủ đã kiềm chế được lam phát ở mức vừa phải và do chênh lệch lãi xuất giữa VNĐ và USD quá lớn nên rất nhiều nhà đầu tư đã bán đô la để lấy VNĐ gửi tiết kiệm lấy lãi
Tình trạng giá trị đồng nội tệ cao đã làm cho vào năm 1996, mức thâm hụt cán cân thương mại nước ta lên đến 16 %, cao gấp rưỡi so với các nước có mức độ nhập siêu cao nhất thế giới, nhu cầu về USD lại tăng gây sức ép giảm giá VND
Như vậy có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước từ 1990 đến trước tháng 3 / 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá cố định có điều tiết nhẹ của Nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VNĐ theo USD qua 1 tổ ngoại tệ hẹp (chủ yếu qua đô la Mỹ, DM, bảng Anh,...) trong đó đôla Mỹ chiếm tỉ trọng lớn. Thực tiễn đã chứng minh chính sách này chỉ phù hợp với giai đoạn tiền tệ còn chưa ổn định, xuất khẩu còn yếu, nhập khẩu khá ồ ạt, dự trữ ngoại tệ quốc gia mỏng. Xu hướng của tỷ giá trong thời gian này là tăng quá chậm so với tốc độ tăng trưởng lạm phát (tính theo chỉ số liên hoàn qua nhiều năm), VND được đánh giá quá cao so với giá trị thực của nó. Từ năm 1992–1996, tỷ giá tăng khoảng 5,2 % trong khi lạm phát tăng 40%). Yêu cầu chuyển sang giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hướng mạnh vào xuất khẩu trong điều kiện tiền tệ khá ổn định (lạm phát thấp, lãi suất giảm, cán cân thanh toán tổng thể có bội chi nhỏ, dự trữ ngoại tệ khá hơn...) buộc chính sách tỷ giá hối đoái phải điều chỉnh lại, vì thế đến năm 1997, Ngân hàng Nhà nước có quyết định để thay đổi biên độ giao dịch: Ngân hàng Nhà nước nới rộng biên độ giao dịch hối đoái cho các Ngân hàng thương mại so với tỷ giá chính thức do Ngân hàng Nhà nước công bố, lần lượt là 5% vào tháng 3/1997 rồi đến 10% vào tháng 10/1997, từ mức 0,5 - 1 % được áp dụng trong suốt 2 năm 1995, 1996
Trong thời kỳ 1997 - 1998, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD xích lại gần nhau. Thời gian này diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, về cuộc khủng hoảng này, nhiều nhà kinh tế cho rằng một trong những nguyên nhân gây ra khủng hoảng là ở Thái Lan đã duy trì một cơ chế gắn đồng Bath vào đồng đô la một cách rất cứng nhắc của Ngân hàng Trung ương Thái Lan trong nhiều năm. Sau cuộc khủng hoảng này, hầu hết các đồng tiền của các nước trong khu vưc giảm giá (tiền Indonexia mất giá 130 %, đồng Thái Lan mất giá 100 %, đồng Malaixia mất giá 60 %...) đồng thời lượng vốn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam giảm sút. Xu hướng rút tiền đồng Việt Nam để chuyển sang ngoại tệ tăng lên. Hơn nữa do năm 1996 khối lượng L/c trả chậm khá lớn và phần lớn đến hạn trả vào năm 1997, do vậy làm tăng nhu cầu mua ngoại tệ trong nước để trả nợ đến hạn. Tất cả các điều kiệ trên gây áp lực giảm giá VNĐ. Trước tình hình đó chính phủ đã thực hiện phá giá từ 11113VND/ USD năm 1996 lên 13980 VND/ USD năm 1998
Việc điều chỉnh tỷ giá lần này là một quyết định kịp thời. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, việc cố định một tỷ giá được coi là cao hơn tỷ giá thực tế là một rủi ro quá lớn cho nền kinh tế Việt Nam, không những nó cản trở xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế" khả năng đề kháng” của nền kinh tế Việt Nam. Nhiều chuyên gia tỷ giá cho rằng, mức tỷ giá đó là phù hợp trong giai đoạn đó. Việc tăng tỷ giá đã góp phần giảm tỉ nhập siêu từ 20,3 % năm 1997 xuông 17,6 % năm 98
Ưu và nhược điểm của việc phá giá trong giai đoạn này: Nó làm cho tốc độ xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm, do vậy tỉ lệ nhập siêu giảm xuống song" độ nhạy” giữa việc thay đổi tỷ giá với việc thay đổi xuất nhập khẩu là thấp. Bởi vì để đẩy mạnh xuất khẩu ngoài việc phụ thuộc vào tỷ giá còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như chất lượng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thủ tục về xuất nhập khẩu... mà ở Việt Nam vấn đề này còn rất bức xúc và thức tế đã chứng tỏ điều đó.
Mặt khác việc tăng tỷ giá sẽ làm giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp tăng giảm sức cạnh tranh và đến lượt nó lại là yếu tố cản trở tăng xuất khẩu và làm cho nợ nần của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các nhà đầu tư tăng lên. Trong năm 1998,sau khi nới rộng biên độ giao dịch, cầu ngoại tệ trên thị trường rất cao nên hầu như việc mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại thường xuyên bám sát mức trần cho phép. Mặc dù vậy nhưng giá trên thị trường tự do còn cao hơn nhiều, có lúc lên đến 14000 VND/ 1 USD, đây chính là hậu quả của tình trạng găm giữ ngoại tệ do lo ngại về khả năng khủng hoảng của VND. Đứng trước tình hình này, những tháng đầu năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một loạt các biên pháp nhằm ổn định thị trường như : Quy chế về giao dịch ngoại hối, các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mới, quy định về trạng thái ngoại tệ, trạng thái tiền đồng, đối với các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đặc biệt là 2 lần chủ động điều chỉnh tỷ giá: lần thứ nhất vào 16/02/1998, Ngân hàng Nhà nước(NHNN) quyết định nâng tỷ giá từ 11175 VND/1 USD lên 11800 VND/ 1 USD làm tỷ giá trao đổi của các ngân hàng thương mại(NHTM) xấp xỉ với tỷ giá trên thị trường tự do. Lần thứ hai diễn ra vào ngày 07/8/1998, tỷ giá chính thức được nâng từ 11888 VND/ 1 USD lên 11.998VND/ 1 USD, tăng 16,3 %, bên cạnh đó, biên độ giao dịch cũng được thu hẹp lại còn 7 % chứ không phải là 10 % như trước đây nữa. Việc chủ động điều chỉnh tăng tỷ giá của NHNN đã làm thu hẹp khoảng cách giữa tỷ giá trên thị trường tự do và tỷ giá của các NHTM. Vào những tháng cuối năm 1998, tỷ giá của hai thị trường này thường xuyên sấp xỉ nhau
Tuy nhiên để xoá bỏ hiện tượng găm giữ, đầu cơ ngoại tệ và tập trung hơn nữa ngoại tệ vào sự quản lý của Nhà nước, ngày 12/09/1998, Chính phủ ban hành quyết định số 173/ QĐ-TTG về mua và bán ngoại tệ đã mang lại một số kết quả khả quan. Suốt quý IV năm 1998, doanh số mua bán ngoại tệ tăng liên tục. Quan hệ cung cầu ngoại tệ được cải thiện đáng kể đã góp phần nhằm ổn định tốt hơn tỷ giá hối đoái. Tỷ giá giao dịch của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được duy trì trong biên độ quy định, khoảng cách chênh lệch về tỷ giá giữa thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do là khá thấp (< 1 %).
II.Vấn đề tỷ giá hiện nay.
Từ ngày 01 /01/1999, sự kiện ra đời chính thức đồng Euro đã đem đến cho khu vực này một chế độ không có tỷ giá hối đoái hay cũng có thể gọi là" cơ chế tỷ giá cố định tuyệt đối”. ở Việt Nam nhiều quan điểm cho rằng, cần giảm bớt sự quản lý đối với tỷ giá bằng cách mở rộng biên độ giao dịch để thực hiện cơ chế tỷ giá linh hoạt, có quan điểm lại cho rằng cần duy trì tỷ giá hối đoái ổn định hơn nữa. Do cần phải thực hiện điều chỉnh tỷ giá sao cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường, NHNN đã đưa ra hai quyết định số 64 và 65 ngày 26/02/99, tiếp tục hoàn thiện chính sách tỷ giá trên cơ sở bám sát các nguyên tắc điều hành tỷ giá được nêu trong" điều hành tỷ giá linh hoạt theo cung cầu phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền Việt Nam trên cơ sở đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và chủ động xử lý có hiệu quả tỷ giá hối đoái...” Thực chất hai quyết định đã nêu hoàn toàn không đề cập đến điều chỉnh mức tỷ giá đã hoàn thành ổn định trong thời gian này. Thế nhưng đây là dấu hiệu cho thấy xu hướng tự do hoá rõ rệt hơn tỷ giá hối đoái có sự điều tiết của Nhà nước. Tỷ giá thực tế ở thời điểm có quyết định mới (26/02/1999) có nhiều biểu hiện phù._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8896.doc