Đặc điểm hoạt động kinh doanh thương mại.
Khái niệm:
Xu thế phát triển của thế giới ngày nay khuyến khích sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng, các quốc gia trên thế giới để phát triển kinh tế. Thế giới càng phát triển bao nhiêu thì sự giao lưu đó ngày càng trở nên cần thiết hơn, do đó hoạt động thương mại ngày càng phát triển và ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tiến triển của thế giới.
Theo định nghĩa một cách cụ thể: Hoạt động kinh doanh thương mại là hoạt động lưu thông,
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán tiêu thụ & xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá ở các doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân phối hàng hoá trên thị trường buôn bán của từng quốc gia riêng biệt hay giữa các quốc gia với nhau.
Theo định nghĩa này, hoạt động kinh doanh thương mại bao gồm hai lĩnh vực đó là ngoại thương và nội thương:
Ngoại thương là việc lưu chuyển hàng hoá giữa các quốc gia khác nhau thông qua hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
Nội thương là việc buôn bán hàng, lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến tiêu dùng trên cùng một quốc gia, lãnh thổ.
Hai lĩnh vực này thường xuyên hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên sự phát triển của mỗi quốc gia và tạo nên mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia vào nhau ngày một chặt chẽ.
Định nghĩa một cách khái quát thì hoạt động kinh doanh thương mại là khâu trung gian nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng thông qua hoạt động lưu thông, phân phối hàng hoá.
Trên thực tế sản xuất là để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Thế giới càng phát triển đòi hỏi chuyên môn hoá càng cao, người sản xuất chỉ sản xuất để có những sản phẩm tốt hơn. Vì vậy cần phải có một lực lượng mới thực hiện công tác phân phối hàng hoá đến nơi tiêu dùng - hoạt động kinh doanh thương mại ra đời.
Trên góc độ luật pháp, hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân và các bên có liên quan gồm việc mua bán, cung ứng dịch vụ và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
Từ các khái niệm trên có thể đi đến một khái niệm chung nhất cho hoạt động kinh doanh thương mại là: Hoạt động kinh doanh thương mại là quá trình lưu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng (cụ thể là người tiêu dùng).
1.2. Đặc điểm của hoạt động thương mại :
Xuất phát từ vai trò quan trọng của hoạt động kinh doanh thương mại trong nền kinh tế mỗi quốc gia nói riêng và thế giới nói chung, hoạt động này có các đặc điểm sau:
- Lưu chuyển hàng hoá trong kinh doanh thương mại bao gồm hai giai đoạn: Mua hàng và bán hàng không qua khâu chế biến làm thay đổi hình thái vật chất của hàng hoá.
- Đối tượng kinh doanh thương mại là các loại hàng hoá phân theo từng ngành hàng: + Hàng vật tư thiết bị
+ Hàng công nghệ phẩm tiêu dùng
+ Hàng lương thực, thực phẩm chế biến.
Quá trình lưu chuyển hàng hoá được thực hiện theo hai hình thức chủ yếu là bán buôn và bán lẻ.
- Bán buôn hoặc bán lẻ hàng hoá được thực hiện bằng nhiều hình thức: Bán thẳng, bán qua kho, bán trực tiếp và gửi bán qua đại lý ....
- Tổ chức kinh doanh thương mại có thể theo một trong các mô hình: Tổ chức bán buôn, tổ chức bán lẻ, chuyên doanh hoặc kinh doanh tổng hợp; hoặc chuyên môi giới..... ở các quy mô tổ chức: quầy hàng, cửa hàng, công ty, tổng công ty...
Như vậy, chức năng của thương mại là tổ chức và thực hiện việc mua bán, trao đổi hàng hoá, cung cấp các dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân .
1.2 Khái niệm tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá:
Các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm, chỉ khi sản phẩm đó được đưa ra tiêu thụ trên thị trường thì mới được gọi là hàng hoá. Và hàng hoá là các đối tượng của hoạt động kinh doanh thương mại.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, nó là quá trình các doanh nghiệp thực hiện việc chuyển hoá vốn sản xuất kinh doanh của mình từ hình thái vật chất sang hình thái tiền tệ và hình thành kết quả tiêu thụ. Thông qua quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, vòng luân chuyển vốn được hoàn thành, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung, đồng thời góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Tiêu thụ hàng hoá thông qua hoạt động chủ yếu là bán hàng.
Theo định nghĩa của liên đoàn kế toán quốc tế ( IFAC ), khái niệm bán hàng được hiểu như sau:
Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu của sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng đồng thời thu được tiền hàng hoặc được quyền thu tiền. Số tiền thu được do bán hàng, bán sản phẩm hoặc dịch vụ được gọi là doanh thu bán hàng. Doanh thu có thể được ghi nhận trước, trong hoặc sau kỳ mà tổ chức thu được tiền. Như vậy, có hai phưong thức bán hàng:
+ Bán hàng thu tiền trực tiếp: theo phương thức này, các hàng hoá, sản phẩm đã chuyển quyền sở hữu hay dịch vụ đã thực hiện cùng với việc nhận được tiền hàng. Doanh thu bán hàng và tiền hàng được ghi nhận cùng một kỳ.
+ Bán chịu: là việc hàng hoá, sản phảm đã chuyển quyền sở hữu hay dịch vụ đã thực hiện, khách hàng đã chấp nhận thanh toán nhưng đơn vị chưa thu được tiền, khi đó phát sinh quyền được thu tiền nhưng đơn vị chưa thu được tiền. Trường hợp này doanh thu được ghi nhận trước kỳ thu tiền.
Tiêu thụ có thể được phân loại theo các phương thức bán hàng:
+ Bán buôn: Là bán hàng cho mạng lưới phân phối và hàng hoá vẫn còn trong quá trình luân chuyển
+ Bán lẻ: Là bán hàng tới người tiêu dùng cuối cùng, khi đó giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện
+ Bán đại lý ký gửi: Thông qua đại lý để bán hàng cho người tiêu dùng.
Tiêu thụ còn có thể được phân theo hình thức thanh toán:
+ Bán hàng thanh toán ngay
+ Bán hàng trả chậm
+ Bán hàng trả góp...
Tiêu thụ còn có thể được phân loại theo phạm vi tiêu thụ:
+ Tiêu thụ ngoài đơn vị: là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc các cá nhân trong và ngoài đơn vị.
+ Tiêu thụ nội bộ: là việc bán hàng cho các đơn vị trực thuộc trong cùng một đơn vị , một công ty, tổng công ty .... hạch toán toàn ngành.
Quá trình tiêu thụ là quá trình chuyển giao hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng. Thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Nói cách khác, thời điểm ghi nhận doanh thu là thời điểm người mua trả tiền hay chấp nhận thanh toán cho lượng hàng hoá được người bán chuyển giao. Hạch toán tiêu thụ hàng hoá đồng thời là quá trình ghi nhận doanh thu bán hàng và thực hiện việc xác định kết quả kinh doanh.
Liên quan đến tiêu thụ hàng hoá còn có các chỉ tiêu sau:
- Doanh thu bán hàng: là tổng giá trị được thực hiện do việc bán hàng hoá, sản phẩm, cung cấp lao vụ, dịch vụ cho khách hàng. Tổng doanh thu bán hàng là số tiền ghi trên hoá đơn bán hàng , trên hợp đồng cung cấp sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ.
- Doanh thu thuần: là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và các khoản giảm trừ: giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, chiết khấu thương mại.
Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì ngoài các khoản được khấu trừ như trên, trong doanh thu thuần không bao gồm thuế GTGT đầu ra phải nộp.
Đối với các doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, trong doanh thu vẫn bao gồm cả thuế GTGT đầu ra phải nộp.
- Giá bán (giá đơn vị hàng hoá): Là căn cứ ghi doanh thu bán hàng thực hiện trong kỳ là giá bán thực thế tức,là giá căn cứ trên hoá đơn bán hàng tiêu thụ bao gồm cả thuế.
- Giảm giá hàng bán là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do cácb nguyên nhân đặc biệt như: hàng hoá kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian địa điểm quy định trong hợp đồng.
- Hàng bán bị trả lại là số hàng đã được coi là tiêu thụ nhưng bị người mua từ chối, trả lại do không tôn trọng hợp đồng kinh tế như đã ký kết.
- Chiết khấu thanh toán là khoản tiền thưởng của doanh nghiệp dành cho khách hàng tính trên số tiền hàng mà họ đã thanh toán trước thời hạn quy định.
- Chiết khấu thương mại là khoản tiền doanh nghiệp thưởng cho khách hàng do khách hàng mua hàng với khối lượng lớn trong một khoảng thời gian nhất định và thường được tính giảm giá bán đơn vị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ.
- Giá vốn hàng bán: là trị giá vốn của hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ bao gồm trị giá mua của hàng tiêu thụ và chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
- Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trong kỳ như: chi phí tiền lương nhân viên bán hàng, chi phí bao bì đóng gói, chi phí quảng cáo, chi phí dịch vụ bán hàng.....
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là những khoản chi phí có liên quan đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng cho bất kỳ một hoạt động nào. Chi phí quản lý doanh nghiệp gồm nhiều loại như: chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính, chi phí chung liên quan đến cả doanh nghiệp.
- Kết quả hoạt động tiêu thụ hàng hoá là chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả hoạt động lưu chuyển hàng hoá. Nó là phần chênh lệch giữa doanh thu thuần với tổng chi phí kinh doanh gồm: chi phí giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Từ tầm quan trọng của kết quả tiêu thụ hàng hoá, việc xác định kết quả tiêu thụ và hạch toán kế toán kết quả đó là cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
3. Vị trí, vai trò của hoạt động tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá trong kinh doanh thương mại.
Tiêu thụ là khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh, là cơ sở để xác định kết quả kinh doanh. Nó có vai trò quan trọng không chỉ đối với mỗi đơn vị kinh tế mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Tiêu thụ hàng hoá mang lại doanh thu cho doanh nghiệp đồng thời, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Thông qua tiêu thụ, giá trị hàng hoá được thực hiện, các vấn đề liên quan đến hàng hoá được xác định như: số lượng, chất lượng, chủng loại, thời gian phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Tiêu thụ xét trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân là điều kiện cần thiết để tái sản xuất suất xã hội. Đảm bảo tiêu thụ là đảm bảo duy trì sự liên tục của hoạt động kinh tế, đảm bảo mối quan hệ mật thiết giữa các khâu trong quá trình tái sản xuất.
Kết quả tiêu thụ hàng hoá có tỷ trọng không nhỏ trong kết quả kinh doanh. Nó là một phần cấu thành của kết quả kinh doanh ngược lại kết quả kinh doanh là căn cứ quan trọng để đưa ra các quyết định về tiêu thụ hàng hoá. Nói cách khác, kết quả kinh doanh là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp còn tiêu thụ hàng hoá là phương thức để hoàn thành mục tiêu đó.
Việc xác định đúng kết qủa tiêu thụ giúp cho việc xác định đúng kết quả kinh doanh, thể hiện chính xác năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Như vậy, tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá có một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh thương mại. Vì vậy, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá cũng như hoàn thiện hạch toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết qủa tiêu thụ hàng hoá là điều hết sức cần thiết.
II. Yêu cầu quản lý và nhiệm vụ hạch toán kế toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá.
1. Yêu cầu quản lý:
Quản lý nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại là quá trình quản lý hàng hoá về số lượng, chất lượng, trị giá hàng hoá bán ra bao gồm quản lý từ khâu mua, khâu bán, từng mặt hàng từng nhóm hàng cho đến khi thu được tiền hàng, nội dụng như sau:
- Quản lý về số lượng, trị giá hàng xuất bán, bao gồm: việc quản lý từng người mua, từng lần gửi hàng, từng nhóm hàng
- Quản lý về giá cả bao gồm: việc lập dự định và theo dõi thực hiện giá đưa ra kế hoạch cho kỳ tiếp theo.
- Quản lý việc thu hồi tiền bán hàng và xác định kết quả kinh doanh .
Quản lý tiêu thụ hàng hoá tốt sẽ tạo điều kiện cho quản lý việc xác điịnh kế quả kinh doanh tốt, từ đó hạn chế rủi ro trong kinh doanh cũng như ngăn chặn nguy cơ thất thoát hàng hoá, đảm bảo tính chính xác của các số liệu đưa ra.
2. Nhiệm vụ hạch toán tiêu thụ và xác định kết quả tiêu thụ hàng hoá:
Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá có các nhiệm vụ sau:
- Ghi chép, phản ánh kịp thời khối lượng hàng hoá tiêu thụ, ghi nhận doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu liên quan khác của khối lượng hàng bán (giá bán, doanh thu thuần..)
- Phân bổ chi phí mua hàng cho số hàng đã bán trong kỳ và lượng hàng tồn cuối kỳ.
- Kế toán quản lý chặt chẽ tình hình biến động và dự trữ kho hàng hoá , phát hiện, xử lý kịp thời hàng hoá ứ đọng.
- Lựa chọn phương pháp và xác định đúng giá vốn hàng bán để đảm bảo độ chính xác của chỉ tiêu lãI gộp hàng hoá.
- Xác định kết quả bán hàng và thực hiện chế độ báo cáo bán hàng, báo cáo hàng hoá.
- Theo dõi và thanh toán kịp thời công nợ với nhà cung cấp và khách hàng.
III. Hạch toán tiêu thụ hàng hoá.
Các phương pháp tính giá vốn hàng tiêu thụ:
Giá vốn hàng tiêu thụ là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh trị giá mua của hàng hoá đã tiêu thụ cùng với chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ đó trong kỳ báo cáo và được xác định:
Trị giá vốn hàng tiêu thụ trong kỳ
=
Trị giá mua của hàng tiêu thụ trong kỳ
+
Chi phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ
1.1 Các phương pháp xác định trị giá mua của hàng hoá tiêu thụ:
Việc xác định đúng trị giá mua của hàng hoá tiêu thụ rất quan trọng và tuỳ theo đặc điểm của từng doanh nghiệp, vào yêu cầu quản lý và trình độ của các cán bộ kế toán có thể sử dụng một trong các phương pháp tính sau đây:
Phương pháp tính giá theo giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá mua thực tế hàng hoá xuất kho được tính theo giá trị bình quân, có thể là bình quân cả kỳ dự trữ (bình quân gia quyền) bình quân cuối tháng trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập.
Trị giá mua của hàng hoá xuất kho
=
Số lượng hàng hoá xuất kho
x
Giá mua đơn vị bình quân
Trong đó giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ có thể tính theo các cách sau:
Tính theo giá bình quân cả kỳ dự trữ (bình quân gia quyền).
Giá đơn vị thực tế bình quân cả kỳ dự trữ
Số lượng hàng hoá nhập trong kỳ
Số lượng hàng hoá tồn đầu kỳ
Trị giá thực tế của hàng hoá tồn kho đầu kỳ
Trị giá mua thực tế của hàng hoá nhập trong kỳ
=
+
+
Giá bình quân hàng hoá nhập kho trong tháng được tính theo công thức sau:
Phương pháp này tuy đơn giản, tốn ít công sức nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc lại tồn vào cuối tháng nên gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán nói chung.
Tính theo giá thực tế bình quân cuối kỳ trước:
Theo phương pháp này trị giá mua thực tế hàng xuất kho tiêu thụ kỳ này được tính theo giá mua đơn vị bình quân cuối kỳ trước. Công thức tính :
Giá mua đơn vị thực tế bình quân cuối kỳ trước
=
Trị giá mua thực tế hàng hoá tồn kho đầu kỳ (hoặc cuối kỳ trước)
Số lượng hàng hoá tồn kho đầu kỳ ( hoặc cuối kỳ trước)
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản dễ làm, dễ thao tác, đảm bảo tính kịp thời cả việc ghi sổ kế toán. Tuy nhiên, chỉ tính thích hợp và hiệu qủa nhất trong điều kiện ít có biến động về giá cả vì nếu giá cả giữa hai kỳ biến động lớn thì giá hàng xuất bán sẽ thiếu độ chính xác.
Tính theo giá bình quân sau mỗi lần nhập :
Phương pháp này, khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp trên, đảm bảo tính chính xác, cập nhật. Tuy nhiên do đặc điểm giá được tính lại sau mỗi lần nhập xuất nên những đơn vị có số lần nhập trong kỳ nhiều thì sẽ mất nhiều công sức và thời gian, khối lượng tính toán lớn nên thường áp dụng ở những doanh nghiệp áp dụng kế toán máy.
b. Phương pháp nhập trước, xuất trước ( FIFO).
Theo phương pháp này, giả thiết rằng số hàng nào nhập kho trước thì sẽ được xuất trước, xuất hết số hàng nhập trước mới đến số hàng nhập sau theo giá mua thực tế của từng số hàng xuất. Như vậy cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của hàng mua trước sẽ được dùng làm giá thực tế của hàng xuất trước, do vậy giá mua hàng hoá tồn kho cuối kỳ là giá mua thực tế hàng hoá mua sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá ổn định và có xu hướng giảm.
c. Phương pháp nhập sau xuất trước(LIFO)
Phương pháp này giả định những hàng hoá mua vào sau cùng sẽ được xuất đầu tiên ngược lại so với phương pháp FIFO và thường áp dụng trong tình hình hàng hoá nhập vào có xu hướng tăng giá.
d. Phương pháp tính giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này hàng hoá nhập kho theo giá nào thì xuất kho theo giá đó. Hàng hoá được xác định theo đơn chiếc từng lô và giữ nguyên giá cho đến lúc xuất bán ( trừ trường hợp điều chỉnh).
Phương pháp nàyphản ánh chính xác giá trị của từng lô hàng xuất nhưng công việc rất phức tạp đòi hỏi thủ kho phải nắm được chi tiết từng lô hàng của mỗi lần nhập do đó các doanh nghiệp có nhiều mặt hàng, nhiều nghiệp vụ xuất nhập hàng hoá không nên sử dụng.
e. Phương pháp giá hạch toán
Phương pháp giá hạch toán dựa trên nguyên tắc doanh nhiệp tự đặt ra một mức giá cho toàn bộ hàng hoá biến động trong kỳ và áp dụng cho cả kỳ hạch toán. Giá này gọi là giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định trong kỳ ). Theo phương pháp này để tính giá trị giá mua thực tế của hàng hoá bán ra trong kỳ, kế toán phải mở sổ kế toán chi tiết, phản ánh sự biến động của hàng hoá nhập xuất trong kỳ theo giá hạch toán. Giá hạch toán chỉ để dùng để ghi sổ kế toán hàng ngày không có ý nghĩa thanh toán.
Trị giá hạch toán hàng hoá xuất kho
=
Số lượng hàng hoá xuất kho
x
Đơn giá hạch toán
Đến cuối kỳ hạch toán, kế toán tính toán để xác định giá mua thực tế hàng xuất bán trong kỳ. Bao gồm hai bước công việc :
Bước 1: xác định hệ số giá mua thực tế và giá mua hạch toán của hàng hoá luân chuyển trong kỳ.
Hệ số giá
=
Trị giá mua thực tế hàng hoá tồn đầu kỳ
+
Trị giá mua thực tế hàng hoá nhập trong kỳ
Trị giá hạch toán hàng hoá tồn đầu kỳ
+
Trị giá hạch toán hàng hoá nhập trong kỳ
Bước 2 : Tính trị giá mua thực tế của hàng hoá xuất bán trong kỳ :
Trị giá mua thực tế hàng hoá xuất bán trong kỳ
=
Trị giá hạch toán
hàng hoá xuất bán trong kỳ
x Hệ số giá
Phương pháp này có ưu điểm là ổn định, có thể sử dụng lâu dài để hạch toán hàng nhập xuất tồn kho trong khi chưa tính được giá thực tế. Mặt khác giảm được tương đối khối lượng công việc của kế toán, công việc tính giá không phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng hóa, số lượng nhập xuất của mỗi loại nhiều hay ít. Do đó nó thích hợp với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng hoá. Tuy nhiên, độ chính xác của phương pháp này không cao.
Phương pháp phân bổ chi phí thu mua cho hàng hoá tiêu thụ:
Chi phí thu mua là chi phí liên quan đến giai đoạn mua hàng bao gồm: Chi phí vận chuyển, bảo quản trong giai đoạn mua hàng, chi phí thuê kho bãi, hoa hồng cho môi giới, đơn vị uỷ thác...
Công thức phân bổ chi phí thu mua hàng hoá cho hàng tiêu thụ:
Phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ
Tổng tiêu thức phân bổ của hàng tiêu thụ trong kỳ và tồn cuối kỳ
Chi phí mua hàng phân bổ cho hàng tồn đầu kỳ và chi phí mua hàng phát sinh trong kỳ
Phí thu mua hàng tồn đầu kỳ và phát sinh trong kỳ
=
*
1.3 Kế toán chi tiết hàng hoá
Hạch toán chi tiết hàng hoá là việc ghi chép kịp thời , chính xác tình hình biến động của hàng hoá về mặt giá trị và hiện vật cho từng loạI hàng hoá. Như vậy, hạch toán chi tiết hàng hoá bao gồm hai công việc là nhập hàng và xuất hàng- liên quan đến nghiệp vụ mua và bán hàng hoá. Công việc hạch toán chi tiết hàng hoá được thực hiện ở cả hai nơi : kho và phòng kế toán.
Về phương pháp kế toán chi tiết, có thể thực hiện theo 3 phương pháp sau: phương pháp thẻ song song, phương pháp sổ số dư và phương pháp đối chiếu luân chuyển.
2. Phương thức tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại.
Phương thức tiêu thụ hàng hoá là cách mà các doanh nghiệp áp dụng để bán được số hàng hoá của mình. Vì vậy, phương thức tiêu thụ hàng hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1. Bán buôn.
Bán buôn hàng hoá là việc bán hàng hoá cho mạng lưới bán lẻ, cho sản xuất, cho xuất khẩu. Đặc điểm của bán buôn là bán hàng hoá với khối lượng lớn , hàng hoá thường phong phú đa dạng như trong bán lẻ. Hàng hoá sau khi bán vẫn nằm trong lưu thông và chưa đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
*Bán buôn qua kho: Hàng hoá được tập trung tại kho của doanh nghiệp trước khi tiêu thụ. Bán buôn hàng hoá qua kho được thực hiện bằng hai hình thức:
Bán buôn theo hình thức giao hàng trực tiếp cho khách hàng: khách hàng đến tận kho công ty để nhận hàng.
Bán buôn theo hình thức chuyển gửi hàng: công ty sẽ chuyển hàng đến cho khách hàng theo yêu cầu.
*Bán buôn hàng hoá vận chuyển thẳng: doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng mua không đưa về nhập kho mà chuyển thẳng cho bên mua. Bán buôn vận chuyển thẳng có thể thực hiện dưới hai hình thức:
- Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: doanh nghiệp thực hiện đồng thời hai quá trình chuyển giao quyền sở hữu cho hàng hoá và nghĩa vụ thanh toán với cả hai đối tượng: khách hàng và nhà cung cấp.
Bán buôn vận chuyển thẳng không tham gia thanh toán:
Trong trường hợp này, doanh nghiệp đóng vai trò là trung gian trong mối quan hệ giữa bên cung cấp và bên mua. Thực sự doanh nghiệp không phát sinh các nghiệp vụ mua, bán hàng mà chỉ là trung gian môi giới và được hưởng hoa hồng do một hoặc cả hai bên trả .
2.2. Bán lẻ:
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình lưu thông hàng hoá. Hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng do đó giá trị sử dụng của hàng hoá được thực hiện.
Hàng hoá bán lẻ thường có khối lượng nhỏ, khách hàng thường thanh toán ngay bằng tiền mặt nên không nhất thiết phải lập chứng từ cho từng lần bán.
+ Bán hàng thu tiền trực tiếp: Theo hình thức này nhân viên bán hàng hoàn toàn chịu trách nhiệm vật chất về số lượng hàng đã nhận để bán ở quầy hàng. Nhân viên này trực tiếp thu tiền của khách hàng và giao hàng cho cho khách hàng. Nghiệp vụ bán lẻ hàng hoá thường không lập chứng từ riêng biệt. Tuỳ thuộc vào yêu cầu quản lý hàng hoá, hàng bán lẻ ở quầy có thể được kiểm kê định kỳ hoặc hàng ngày, lập báo cáo bán hàng theo từng mặt hàng....Tiền bán hàng sẽ được nhân viên bán hàng nộp theo quy định cho thủ quỹ của công ty.
+ Bán lẻ thu tiền tập trung: Theo hình thức này, việc thu tiền của người mua và việc giao hàng cho khách hàng được tách rời nhau. Nhân viên thu tiền có nhiệm vụ thu tiền , viết hoá đơn cho khách hàng còn nhân viên bán hàng có nhiệm vụ giao hàng. Định kỳ, thực hiện kiểm kê hàng hoá và lập báo cáo bán hàng, nhân viên thu tiền nộp tiền cho thủ quỹ công ty.
+ Bán hàng tự chọn: Theo hình thức này, khách hàng tự chọn hàng hoá ở các quầy hàng và thanh toán tại quầy thu tiền. Nhân viên thu tiền sẽ có nhiệm vụ tập hợp tiền và nộp tiền cho thủ quỹ.
3.3. Bán hàng qua đại lý ký gửi:
- Đối với bên giao đaị lý: Hàng giao cho đơn vị đại lý vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và chưa xác nhận là hàng đã bán.
Chỉ khi bên nhận đại lý thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì bên giao đại lý mới được ghi nhận doanh thu.
Doanh nghiệp có trách nhiệm nộp thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) trên tổng giá trị hàng gửi bán đã tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa hồng đã trả cho bên nhận đại lý. Khoản hoa hồng doanh nghiệp đã trả được coi là chi phí bán hàng và hạch toán vào chi phí bán hàng trong kỳ.
- Đối với bên nhận đại lý: Số hàng nhận đại lý không thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo quản, giữ gìn, bán hộ và được hưởng hoa hồng bán hàng hộ của doanh nghiệp.
3.4. Phương thức bán hàng trả góp:
Đây là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần. Khách hàng sẽ thanh toán lần đầu ngay tại thời điểm mua một phần số tiền mua hàng, số tiền còn lại khách hàng sẽ chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường, số tiền hàng phải trả ở các kỳ tiếp theo bằng nhau, trong đó bao gồm một phần doanh thu gốc (tính theo giá trị một lần) và phần lãi trả chậm tính vào doanh thu của hoạt động tài chính. Vì vậy, giá bán theo phương thức trả góp bao giờ cũng cao hơn giá bán thông thường. Theo phương thức này, khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao về mặt hạch toán đã được coi là tiêu thụ nhưng về thực chất chỉ khi nào người mua thanh toán hết tiền hàng thì doanh nghiệp doanh nghiệp mơí mất quyền sở hữu.
3.5. Phương thức tiêu thụ nội bộ:
Tiêu thụ nội bộ là phương thức tiêu thụ mà việc mua bán hàng hoá, dịch vụ diễn ra giữa đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một doanh nghiệp thương mại. Tiêu thụ nội bộ còn bao gồm các khoản hàng hoá, dịch vụ biếu tặng, xuất trả lương, thưởng, xuất dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với các phương thức tiêu thụ hàng hoá, các doanh nghiệp còn phải quan tâm đến các hình thức thanh toán để đạt được những kết quả mong muốn. Các hình thức thanh toán được sử dụng trong các giao dịch tiêu thụ hàng hoá là:
- Thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt:
Là hình thức thanh toán trực tiếp giữa người mua và người bán. Khi nhận được hàng hoá thì bên mua xuất tiền mặt ở quỹ trả trực tiếp cho bên bán. Thanh toán trực tiếp giữa người bán và người mua có thể tín hành bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc đá quý.
- Thanh toán không dùng tiền mặt:
Là hình thức thanh toán thực hiện bằng hình thức chuyển tiền từ tài khoản của doanh nghiệp hoặc bù trừ giữa các doanh nghiệp thông qua cơ quan trung gian là ngân hàng. Doanh nghiệp có thể chọn một trong các hình thức sau để thanh toán:
. Thanh toán bằng séc
. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi
. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu
. Thanh toán bù trừ
. Thanh toán bằng thư tín dụng và tài khoản đặc biệt.
- Thanh toán bằng nghiệp vụ ứng trước tiền hàng: khách hàng chuyển tiền cho nhà cung cấp trước khi thanh toán tiền hàng. Trường hợp này xảy ra khi nhà cung cấp có gặp khó khăn về tài chính hoặc hàng hoá này thực sự khan hiếm và có vị trí trên thị trường.
Ngoài ra, nếu đơn vị sử dụng phương pháp hàng đổi hàng thì số hàng đơn vị đem ra trao đổi cũng chính là một phương tiện thanh toán cho số hàng đổi về. Đây là hình thức thanh toán bằng hàng hoá có thể tạo ra doanh thu (khi trao đổi không ngang giá) hoặc không tạo ra doanh thu khi trao đổi ngang giá. Tuy nhiên hình thức này ít được sử dụng.
4. Hạch toán tiêu thụ hàng hoá theo các phương thức bán hàng:
Trong hạch toán tiêu thụ hàng hoá kế toán có thể tiến hành theo hai phương pháp là: Phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ. Nội dung và trình tự hạch toán đựoc trình bày như sau:
4.1. Hạch toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi, phản ánh thường xuyên, liên tục, có hệ thống tình hình nhập, xuất, tồn kho hàng hoá trên sổ kế toán.
Để phục vụ cho hạch toán quá trình tiêu thụ, doanh nghiệp thương mại sử dụng các chứng từ sau:
-Các chứng từ bán hàng: Các chứng từ bán hàng là cơ sở ghi sổ doanh thu và các sổ kế toán có liên quan đến đơn vị bán. Gồm:
+ Hoá đơn bán hàng.
+ Hoá đơn thuế GTGT.
+ Hoá đơn kiêm phiếu xuất kho.
+ Bảng thanh toán tiền hàng đại lý ( Ký gửi ).
+ Thẻ quầy hàng.
- Chứng từ về hàng tồn kho :
Chứng từ hàng tồn kho thường sử dụng ttrong quá trình tiêu thụ là: Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ, thẻ kho, Bảng kiểm kê vật tư, sản phẩm hàng hoá.
- Chứng từ kế toán tiền mặt: Theo dõi tình hình thu chi, tồn quỹ của các loại tiền mặt, các khoản tạm ứng nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho kế toán và quản lý các đơn vị trong lĩnh vực tiền tệ. Gồm: Phiếu thu, Phiếu chi, Biên lai thu tiền, Bảng kiểm kê quỹ.
Các tài khoản được sử dụng trong phương pháp này gồm :
ỹTài khoản 156 – Hàng hoá: Phản ánh giá trị thực tế hiện có và tình hình biến động của các loại hàng hoá của doanh nghiệp, bao gồm hàng hoá tại các kho quầy, chi tiết theo từng kho, quầy, từng loại, nhóm hàng hoá.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên Nợ:
+ Trị giá mua, nhập kho của hàng hoá nhập kho trong kỳ
+ Trị giá hàng thuê gia công chế biến, nhập kho
+ Chi phí thu mua hàng hoá
Bên Có:
+ Trị giá xuất kho của hàng hoá gồm: Xuất bán, xuất giao đại lý, xuất thuê chế biến, xuất góp liên doanh, xuất sử dụng.
+ Trị giá hàng hoá xuất trả lại người bán.
+ Giảm giá hàng mua được hưởng.
+ Trị giá hàng hoá thiếu hụt coi như xuất.
Dư Nợ:
+ Trị giá thực tế mua vào của hàng tồn kho.
+ Chi phí thu mua hàng tồn kho.
Tài khoản 156 chi tiết thành :
TK 1561- Giá mua hàng hoá.
TK 1562- Chi phí thu mua hàng hoá
ỹTài khoản 157 – Hàng gửi bán: dùng để phản ánh trị giá mua của hàng hoá gửi bán, ký gửi, đại lý chưa được chấp nhận thanh toán. Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên Nợ:
+ rị giá hàng hoá đã gửi cho khách hàng hoặc nhờ bán đại lý, ký gửi.
+ Trị giá lao vụ, dịch vụ đã thực hiện với khách hàng nhưng chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán.
Bên Có:
+ Trị giá hàng hoá đã gửi đi bị khách hàng trả lại.
+ Trị giá hàng hoá đã được khách hàng chấp nhận thanh toán hoặc đã được thanh toán.
Dư Nợ: Trị giá hàng hoá đã gửi đi nhưng chưa được khách hàng chấp nhận thanh toán.
ỹTài khoản 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Phản ánh tổng số doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ thực tế của doanh nghiệp và các khoản giảm trừ doanh thu. Từ đó tính ra doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên Nợ:
+ Số thuế phải nộp (thuế tiêu thụ đặc biết, thuế xuất khẩu) tính trên doanh số bán trong kỳ.
+ Trị giá hàng bán bị trả lại.
+ Khoản giảm giá hàng bán phát sinh trong kỳ.
+Kết chuyển doanh thu thuần vào tài khoản xác định kết quả kinh doanh.
Bên Có:
+ Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kỳ.
+ Trợ cấp, Trợ giá Nhà nước cấp.
TK511 không có số dư và được chi tiết thành:
TK 5111: Doanh thu bán hàng hoá.
TK 5112: Doanh thu bán thành phẩm.
TK 5113: Doanh thu cung cấp dịch vụ.
TK 5114: Doanh thu trợ cấp, trợ giá.
ỹTK 512- Doanh thu bán hàng nội bộ: Phản ánh doanh thu của hàng hoá tiêu thụ nội bộ giữa các đơn vị ttrực thuộc trong cùng một công ty, tổng công ty. Kết cấu và nội dung của TK 512 tương tự như TK 511, cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 3 tiểu khoản:
TK 5121- Doanh thu bán hàng hoá.
TK 5122- Doanh thu bán thành phẩm.
TK 5123- Doanh thu cung cấp dịch vụ.
ỹTK 531- Hàng bán bị trả lại: Phản ánh số doanh thu của hàng hoá đã tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên Nợ: Tập hợp các khoản doanh thu của số hàng tiêu thụ bị trả lại. Bên Có: Kết chuyển doanh thu của số hàng đã tiêu thụ bị trả lại trừ vào doanh thu trong kỳ.
TK531 không có số dư cuối kỳ.
ỹTK 532 – Giảm giá hàng bán: Phản ánh các khoản giảm giá hàng bán cho khách theo giá bán đã thoả thuận.
Tài khoản này có kết cấu như sau:
Bên Nợ: Tập hợp các khoản giảm giá hàng bán chấp nhận cho người mua trong kỳ.
Bên Có: Kết chuyển số giảm giá hàng bán trừ vào doanh thu.
TK532 không có số dư cuối kỳ.
ỹTK632 – Giá vốn h._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K0534.doc