Lời mở đầu
Lao động của con người theo Mác là một trong 3 yếu tố quan trọng và quyết định sự tồn tại của quá trình sản xuất, lao động giữ vai trò quan trọng và chủ chốt trong việc tái tạo ra của cải vật chất tinh thần cho xã hội. Lao động có năng suất, có chất lượng và đạt hiệu quả cao là nhân tố đảm bảo cho sự phồn thịnh của mọi quốc gia.
Trên thực tế người lao động chỉ phát huy hết khả năng của mình khi sức lao động của họ bỏ ra được đền bù xứng đáng. Đó là số tiền mà người sử dụng lao động
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Xí nghiệp Môi trường đô thị số 4, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trả cho người lao động để họ có thể tái sản xuất sức lao động, đồng thời có tích luỹ, được gọi là tiền lương. Tiền lương là một bộ phận của sản phẩm xã hội , nguồn khởi đầu của quá trình tái sản xuất tạo ra sản phẩm hàng hoá. Vì vậy việc hạch toán phân bổ chính xác tiền lương vào giá thành sản phẩm, tính đủ và thanh toán kịp thời tiền lương cho người lao động sẽ góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, đồng thời làm tăng năng xuất lao động, tăng tích luỹ, cải thiện đời sống cán bộ công nhân viên.
Chính sách tiền lương được vận dụng linh hoạt ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức quản lý, tổ chức kinh doanh và phụ thuộc vào tính chất công việc. Xí nghiệp môi trường đô thị số 4 là một thành viên của Trung Tâm Giống Cây Trồng với nhiệm vụ duy trì vệ sinh môi trường trên địa bàn hai quận Đống Đa và Thanh Xuân bảo tồn và phát triển vốn do ngân sách nhà nước cấp, thực hiện sản xuất kinh doanh có lãi nhằm đảm bảo đầy đủ việc làm và không ngừng nâng cao đời sống cho người lao động, hoàn thành nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước. Vì vậy, việc xây dựng một cơ chế trả lương phù hợp, hạch toán đủ và thanh toán kịp thời có 1 ý nghĩa to lớn về mặt kinh tế cũng như chính trị.
Một số vấn đề chung về chuyên đề
Sự cần thiết của chuyên đề được lựa chọn:
Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp bao giờ cũng phải kết hợp đồng thời ba yếu tố cơ bản đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động trong đố lao động là yếu tố cần thiết giữ vai trò quyết định đối với quá trình sản xuất.
Lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành những vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của xã hội. Xã hội ngày càng phát triển, tính chất quyết định của lao động con người đối với quá trình sản xuất, quá trình sáng tạo ra của cải vật chất biểu hiện rõ rệt. Theo Mác '' Sức lao động là xương là bắp của sản xuất '' có nghĩa là lao động không có giá trị riêng biệt mà lao động tạo ra giá trị. Cái mà người ta mua bán như hàng hoá không phải là lao động mà là sức lao động. Khi sức lao động trở thành hàng hoá thì giá trị của nó được đo bằng lao động thể hiện. Người công nhân, người bán sức lao động nhận được giá trị của sức lao động dưới hình thức tiền lương. Mặt khác để đảm bảo liên tục quá trình tái sản xuất trước hết cần phải tái sản xuất sức lao động nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động.
Tiền lương là một phạm trù kinh tế phức tạp mang tính lịch sử có ý nghĩa chính trị và xã hội to lớn. Ngược lại bản thân tiền lương cũng chịu tác động mạnh mẽ của xã hội và tư tưởng chính trị. ở nước ta sau khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định lại:" Nhà nước là người chủ đại diện cho toàn dân..." (Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 7). Như vậy người chủ sở hữu tư liệu sản xuất trong các doanh nghiệp Nhà nước là Nhà nước chứ không phải tập thể người lao động, người lao động chỉ có quyền sử dụng các tư liệu đó mà thôi. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến bản chất tiền lương, tiền lương đã thoát khỏi sự bao cấp và trở thành giá cả của sức lao động. Tiền lương là 1 phần giá trị mới sáng tạo ra của doanh nghiệp dùng để trả lương cho người lao động.
Mục đích của chuyên đề:
Tiền lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị của sản phẩm do vậy doanh nghiệp cần phải có sự quản lý chặt chẽ về công tác tiền lương. Về mặt chất lượng các doanh nghiệp hạch toán tiền lương trên cơ sở nhà nước ban hành các hình thức trả lương phù hợp đối với người lao động, phù hợp với trình độ, công việc của mỗi người và phải phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. Về mặt số lượng doanh nghiệp phải sử dụng lượng lao động hợp lý để từ đó tiết kiệm tiền lương và hạ giá thành sản phẩm. Điều này có ý nghĩa rất lớn và vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Quản lý lao động tốt không chỉ đem lại sự tiết kiệm trong chi phí tiền lương, không xảy ra hiện tượng hao phí thừa thãi lao động mà doanh nghiệp còn hạn chế được sự di chuyển, thay đổi lao động từ nơi này sang nơi khác nghĩa là những người lao động có tay nghề cao sẽ chuyển sang nơi làm việc có thu nhập lớn hơn, những lời mời hấp dẫn hơn. Từ đó mà có doanh nghiệp có số lao động tay nghề vững nhiều còn một số doanh nghiệp sẽ dần mất đi những người lao động giỏi nếu như không có sự quản lý chặt chẽ. Sự mất cân bằng, trong nội bộ doanh nghiệp bị phá vỡ, tiến trình sản xuất kinh doanh kém hiệu quả. Nếu công tác tổ chức kế toán tiền lương tại các doanh nghiệp được tổ chức khoa học, hợp lý giúp cho việc hạch toán kinh doanh của doanh nghiệp nói chung đi vào nề nếp nên từ giảm đưọc các khoản chi phí không cần thiết. Vì vậy vấn đề tiết kiệm chi phí sản xuất nói chung luôn được đặt trong mối quan hệ với các chi phí khác.
Hoàn thiện việc hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế đang tồn tại trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Đồng thời trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi cũng mạnh dạn đề xuất 1 số giải pháp nhằm góp phần vào việc Hoàn thiện công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở các doanh nghiệp nhà nước nói chung và ở Xí nghiệp môi trường đô thị số 4 nói riêng.
3. Phạm vi đề tài
Tiền lương có vai trò quan trọng trong Doanh nghiệp, nó là công cụ khuyến khích vật chất đối với người lao động, là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng của quá trình Sản xuất kinh doanh, là một bộ phận cấu thành nên chi phí sản xuất. Đây là một vấn đề nhạy cảm đối với mọi doanh nghiệp, bất kỳ một sai lầm dù nhỏ trong chính sách tiền lương của một doanh nghiệp cũng gây ra những tác hại mà hậu quả của nó đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp đó là không thể lường trước hết được.
Hoàn thiện công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương là vấn đề chính được đề cập trong chuyên đề này. Đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi do thực tiễn đặt ra hiện nay tại Xí nghiệp MTĐT số 4, việc hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương của phòng Tài chính Kế toán của Xí nghiệp đã có những bước đi thích hợp, mang lại những hiệu quả rõ rệt. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực mà Xí nghiệp đã đạt được trong công tác kế toán nói chung và hạch toán tiền lương nói riêng, xí nghiệp còn bộc lộ một số tồn tại cần giải quyết. Chuyên đề này chỉ mang tính chất nghiên cứu, xem xét, đánh giá và rút ra những tồn tại chung cần khắc phục và sửa chữa để hoàn chỉnh hơn công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Xí nghiệp MTĐT số 4.
Đề tài “ Hoàn thiện công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ” là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng, có liên quan đến nhiều lĩnh vực, khía cạnh của quá trình hoạt động của Xí nghiệp; Hơn nữa do thời gian thực tập tại Xí nghiệp có hạn nên tôi không có điều kiện chuyên sâu vào lĩnh vực chuyên môn. Chính vì vậy, bản chuyên đề này chắc chắn còn có những thiếu sót không thể tránh khỏi. Rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp của độc giả nhằm giúp cho bản chuyên để của tôi được hoàn thiện hơn.
4. Phương pháp Nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lý luận khoa học: Dựa vào những kiến thức đã thu nhận được trong quá trình học tập trên giảng đường, cũng như qua các sách báo tài liệu tham khảo cùng với sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo giảng dạy và các cán bộ chuyên môn có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Dựa vào tình hình hoạt đọng thực tế của Xí nghiệp MTĐT số 4, kết quả hoạt động của Xí nghiệp trong các năm qua, hoạt động của phòng Tài chính Kế toán của Xí nghiệp, các quy chế, nội quy, điều lệ của Xí nghiệp … cùng với sự vận dụng những kiến thức chuyên môn thu nhận được để đánh giá những ưu điểm và những tồn tại của Xí nghiệp đồng thời đề xuất một số giải pháp khắc phục.
Phương pháp tư duy lozic: Chuyên đề này được xây dựng theo bố cục từ lý luận khoa học đến thực tiễn hoạt động; từ đó đưa ra những nhận xét và giải pháp dưới sự chỉ bảo tận tình của thày giáo hướng dẫn cũng như sự giúp đỡ, tạo điều kiện của các cô chú Cán bộ nhân viên hiện đang công tác tại Xí nghiệp MTĐT số 4.
5. Nôi dung chuyên đề :
Chuyên đề “ Hoàn thiện công tác hoạch toán tiền lương và các khoản phải trích theo lương ” gôm có 3 phần chính :
Phần I: Cơ sở Lý luận chung về công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở các Doanh nghiệp ( Bản chất, khái niệm, vai trò của tiền lương, các hình thức tiền lương ….)
Phần II: Thực trạng Công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Xí nghiệp MTĐT số 4 (Giới thiệu về Công ty MTĐT Hà nội, Xí nghiệp MTĐT số 4, Phòng Tài Chính Kế toán Xí nghiệp, phương pháp hoạch toán…)
Phần III: Một số đánh giá về công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương của Xí nghiệp MTĐT số 4 ( Nhận xét, Đánh giá, Biện pháp khắc phục …)
Phần thứ nhất
cơ sở lý luận chung về kế toán tiền lương và các khoản trích
theo lương ở trong các doanh nghiệp
I. lý luận chung trong công tác tổ chức công tác hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương
1. Bản chất, khái niệm tiền lương.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp đồng thời cũng là quá trình tiêu hao các yếu tố lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong đó, lao động với tư cách là hoạt động chân tay và trí óc của con người sử dụng các tư liệu lao động nhằm tác động, biến đổi các đối tượng lao động thành các vật phẩm có ích phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Để bảo đảm tiến hành liên tục quá trình tái sản xuất, trước hết cần phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động, nghĩa là sức lao động mà con người bỏ ra phải được bồi hoàn dưới dạng thù lao lao động.
Tiền lương( tiền công) chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng và chất lượng của họ đóng góp. Về bản chất tiền lương chính là biểu hiện bằng tiền của giá cả sức lao động. Bên cạnh đó tiền lương còn là đòn bẩy kinh tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm của người lao động đến kết quả công việc. Nói cách khác tiền lương chính là một nhân tố thúc đẩy năng suất lao động.
Tại các doanh nghiệp, hạch toán lao động và thù lao lao động là một bộ phận phức tạp trong việc hạch toán chi phí kinh doanh bởi vì cách trả thù lao lao động thường không thống nhất giữa các bộ phận, các thời kỳ, các đơn vị... Chi phí lao động là một bộ phận cấu thành nên giá trị của sản phẩm mà sản phẩm là cơ sở tạo ra nguồn thu nhập của doanh nghiệp. Chính vì điều đó mà yêu cầu quản lý chặt chẽ về công tác hạch toán tiền lương trên hai phương diện số lượng và chất lượng là việc bức thiết của doanh nghiệp, các đơn vị phải sử dụng lao động một cách có hiệu quả nhằm tiết kiệm chi phí, góp phần hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác tổ chức tốt hạch toán lao động và tiền lương của doanh nghiệp là một biện pháp cần thiết cho công tác quản lý lao động và tiền lương của doanh nghiệp đi vào nề nếp, thúc đẩy người lao động chấp hành kỷ luật lao động, tăng năng suất lao động và hiệu suất công tác. Đồng thời nó còn tạo cơ sở cho việc tính, trả lương theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động và là căn cứ để xác định các khoản nghĩa vụ phải nộp cho Ngân sách, cho các cơ quan phúc lợi xã hội.
b. Vai trò của tiền lương và các khoản trích theo lương.
Tiền lương có vai trò quan trọng trong doanh nghiệp, nó là công cụ khuyến khích vật chất đối với người lao động, là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh chất lượng của sản xuất kinh doanh, là một bộ phận cấu thành nên chi phí sản xuất.
Trên thực tế cái mà nguời lao động quan tâm không phải là khối lượng tiền lương mà là khối luợng tư liệu sinh hoạt mà họ nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế.
Tiền lương danh nghĩa là khối lượng tiền trả cho nhân viên dưới hình thức tiền tệ. Đó là số tiền thực tế người lao động nhận được.
Tiền lương thực tế được sử dụng để xác định số lượng hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ người lao động nhận được thông qua tiền lương danh nghĩa.
Về phương diện hạch toán tiền lương công nhân doanh nghiệp sản xuất được chia làm hai loại:
Tiền lương chính: Tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ chính của họ bao gồm: tiền lương trả theo cấp bậc và các khoản phụ cấp kèm theo (phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực...).
Tiền lương phụ: Tiền lương trả cho công nhân viên trong thời gian thực hiện nhiệm vụ khác ngoài nhiệm vụ chính của họ và thời gian công nhân viên nghỉ được hưởng lương theo quy định của chế độ (nghỉ phép, nghỉ vì ngừng sản xuất...).
Việc phân chia tiền lương thành lương chính, lương phụ có ý nghĩa quan trọng với công tác kế toán và phân tích tiền lương trong giá thành sản phẩm.
Ngoài tiền lương để tái sản xuất sức lao động và đảm bảo cuộc sống lâu dài cho người lao động, theo chế độ hiện hành thì doanh nghiệp còn phải trích vào chi phí sản xuất kinh doanh một bộ phận chi phí gồm các khoản trích bảo hiểm xã hội( BHXH ), bảo hiểm y tế( BHYT ) và kinh phí công đoàn( KPCĐ).
- BHXH được trích lập để tài trợ cho trường hợp CNV tạm thời hay vĩnh viễn mất sức lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, mất sức, nghỉ hưu ...
- BHYT để tài trợ cho việc phòng chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
- KPCĐ chủ yếu để cho hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp theo quy định.
Cùng với tiền lương, các khoản trích lập quỹ nói trên hợp thành khoản chi phí về lao động sống trong giá thành sản phẩm. Việc tính toán chi phí về lao động sống phải trên cơ sở quản lý và theo dõi quá trình huy động sử dụng lao động trong sản xuất kinh doanh, ngược lại việc tính đúng, thanh toán kịp thời đầy đủ tiền lương và các khoản liên quan cho người lao động, một mặt kích thích người lao động quan tâm đến thời gian, kết quả và chất lượng của lao động, mặt khác thúc đẩy việc sử dụng lao động hợp lý, có hiệu quả.
3. Nhiệm vụ của kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương. Kế toán là ngôn ngữ của kinh doanh, là nghệ thuật ghi chép, phân loại tổng hợp các cơ sở dữ liệu hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp thông tin kinh doanh cho các nhà quản lý, những người trực tiếp và gián tiếp có lợi ích từ đó.
Kế toán lao động tiền lương có chức năng cung cấp đầy đủ các số liệu cần thiết trong kỳ về việc tính toán phân bổ chính xác các khoản tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ góp phần trong việc tính toán tổng chi phí phát sinhtrong kỳ làm cơ sở hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng thu nhập cho người lao động và cho doanh nghiệp.
Để thực hiện chức năng kế toán trong việc điều hành, quản lý lao động của doanh nghiệp, góp phần tích cực quản lý lao động về tiền lương, BHXH, BHYT, KPCĐ kế toán lao động và tiền lương trong doanh nghiệp cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
a). Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp một cách trung thực, kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình hiện có và sự biến động về số lượng, chất lượng lao động, tình hình sử dụng thời gian lao động về kết quả lao động tính toán chính xác, kịp thời, nhanh chóng, đúng chế độ các khoản tiền lương, tiền thưởng, các khoản trợ cấp, phụ cấp cho người lao động. Đồng thời phải phản ánh đầy đủ, đáp ứng kịp thời, chính xác tình hình thanh toán các khoản trên cho người lao động và tình hình chấp hành các chinh sách chế độ về lao động tiền lương.
b). Tính toán phân bổ đúng đối tượng các khoản tiền lương và các khoản trích theo lương đồng thời phân bổ chi phí nhân công cho các đối tượng sử dụng lao động một cách chinh xác phục vụ cho việc tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm.
c). Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo luong thuộc trách nhiệm của kế toán. Đồng thời tiến hành tổ chức phân tích tình hình quản lý, sử dụng lao động, thời gian và kết quả lao động và tình hình quản lý tiền lương , quỹ BHXH, đề xuất các biện pháp khai thác có hiệu quả tiềm năng lao động sẳn có trong doanh nghiệp mình.
d). Phân loại lao động : Do lao động trong doanh nghiệp có nhiều khác nhau nên để cho việc quản lý và hoạch toán thuận lợi, cần thiết phải tiến hành phân loại. Phần loại lao động là việc sắp xếp lao động vào các nhóm khác nhau theo đặc trưng nhất định. Về mặt quản lý và hạch toán lao động thường được phân theo các tiêu thức sau:
* Phân theo thời gian lao động: Theo cách phân loại này lao động có thể chia thành lao động thường xuyên (bao gồm cả hợp đồng ngắn hạn và dài hạn) lao động tạm thời, mang tính thời vụ. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp dễ dàng nắm bắt được tổng số lao động của mình từ đó có kế hoạch sử dụng, bồi dưỡng, tuyển dụng và huy động khi cần thiết. Đồng thời xác định được các khoản nghĩa vụ với người lao động và với nhà nước được chính xác.
* Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất: Gồm hai loại
- Lao động trực tiếp sản xuất: chính là bộ phận công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ.
- Lao động gián tiếp sản xuất: chính là bộ phận lao động tham gia một cách gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thuộc bộ phận này bao gồm nhân viên kỷ thuật, nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính.
Với cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp đánh giá được tính hợp lý của cơ cấu lao động. Từ đó có biện pháp tổ chức, bố trí lao động phù hợp với yêu cầu công việc.
* Phân theo chức năng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh: Xét về chức năng, trong một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp có thể chia nhân công thành ba loại sau:
- Nhân công thực hiện chức năng sản xuất, chế biến: bao gồm nhân công trực tiếp sản xuất hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ như công nhân trực tiếp sản xuất, nhân viên phân xưởng ...
- Nhân công thực hiện chức năng lưu thông, tiếp thị: bao gồm bộ phận nhân công tham gia hoạt động bán hàng, tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, lao vụ dịch vụ như nhân viên bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu và tiếp cận thị trường ...
- Nhân công thực hiện chức năng quản lý hành chính: là bộ phận nhân công tham gia quá trình hoạt động quản trị kinh doanh và quản lý hành chính của doanh nghiệp như nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản lý hành chính ...
Phần thù lao lao động trả cho bộ phận nào sẽ hình thành nên chi phí của bộ phận đó do đó theo cách phân loại này giúp cho việc tập hợp chi phí lao động được chính xác, kịp thời, phân định được chi phí sản xuất và chi phí thời kỳ. Mặt khác giúp cho việc phân bổ chi phí nhân công đựơc chính xác thuận lợi, tạo điều kiện cho việc tính giá thành sản phẩm được nhanh chóng.
II. hình thức tiền lương, thu nhập khác và các khoản trích theo lương.
1. Các hình thức tiền lương
Thực chất của việc trả lương là các quy phạm được thừa nhận để xác định tiền lương phải trả cho người lao động dựa trên số lượng sức lao động dã hao phí.
Tiền lương của ngưòi lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động, nó cũng được trả theo năng suất lao động, chất lượng hiệu quả lao động. Mặt khác tiền lương có thể được trả theo thời gian làm việc(giờ, ngày, tuần, tháng) hoặc trả theo khối lượng công việc hoàn thành ... Kết hợp với chế độ phụ cấp, tiền lương, tiền làm ngoài giờ, trong chi phí nhân công có bộ phận thuộc chi phí trực tiếp, gián tiếp, có loại biến phí, có loại định phí ... Việc tính và trả chi phí lao động có thể thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích cuả chế độ tiền lương là nhằm quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thực tế ở Việt nam hiện nay các doanh nghiệp thường áp dụng các hình thức tiền lương sau:
+ Tiền lương theo thời gian
+ Tiền lương theo sản phẩm
+ Tiền lương khoán
1.1. Tiền lương theo thời gian: Đây là hình thức mà tiền lương được dựa trên khả năng, thao tác, trình độ kỷ thuật và thời gian làm việc thực tế. Hình thức này mang tính chất bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất, không đánh giá đúng kết quả lao động của mỗi người, không đảm bảo được nguyên tắc '' làm theo năng lực, hưởng theo lao động '' theo hình thức này thì:
Tiền lương thời gian Thời gian Đơn giá tiền lương
phải trả cho CNV = làm việc x theo thời gian
Hình thức lương này thường được áp dụng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, cho các lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ- kế toán ... Những nhân viên này không có điều kiện xác định được khối lượng công việc hoàn thành. Do những hạn chế trên mà hình thức này chỉ được áp dụng cho những công việc không thể xác định đưọc hao phí lao động đã tiêu hao vào đó.
Tuỳ theo điều kiện và trình độ quản lý, thời gian lao động có thể áp dụng hai hình thức trả lương đó là hình thức trả lương theo thời gian giản đơn và hình thức trả lương theo thời gian có thưởng.
* Hình thức trả lương theo thời gian giản đơn: Tiền lương theo thời gian giản đơn đó là số tiền trả cho người lao động căn cứ vào bậc lương và thời gian làm việc thực tế không xét đến thái độ lao động và kết quả công việc hoàn thành.
Lương tháng = Lương cơ bản + Phụ cấp (nếu có)
Lương ngày =x số ngày làm thực tế
Lương giờ: áp dụng cho những người làm việc tạm thời đối với từng công việc.
Mức lương giờ = x số giờ làm việc thực tế.
Hình thức này có ưu điểm là đơn giản dễ theo dõi nhưng bên cạnh đó chúng ta thấy tiền lương được tính theo cách trả lương này dựa trên mức lương cấp bậc mang tính bình quân vì thế nó không khuyến khích người lao động trong việc làm cũng như phát huy tính sáng tạo, nó không gắn bó quyền lợi cá nhân với quyền lợi tập thể.
* Hình thức trả lương theo thời gian có thưởng: Là tiền lương đã trả cho CNV căn cứ vào mức lương thời gian làm việc có kết hợp khen thưởng khi ddạt và vượt mức các chỉ tiêu quy định như : tiết kiệm thời gian lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng năng suất lao động, đảm bảo nhu cầu sản xuất ... thực chất của chế độ này là sự kết hợp giữa việc trả lương theo thời gian giản đơn và tiền thưởng khi công nhân vượt mức những chỉ tiêu chất lượng và số lượng quy định.
Tiền lương = mức lương theo thời gian + thưởng.
Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian giản đơn vừa phản ánh được thực tế vừa khuyến khích được người lao động có trách nhiệm trong công việc. Hình thức trả lương này là một trong những biện pháp kích thích vật chất đối với người lao động tạo cho họ gắn bó với công việc.
1.2. Hình thức trả lương theo sản phẩm:
Hình thức trả lương theo sản phẩm là hình thức tính theo khối lượng( số lượng ) sản phẩm, công việc hoàn thành đảm bảo yêu cầu chất lượng quy định và đơn giá tiền lương tính cho một đơn vị sản phẩm, công việc đó.
Tiền lương Khối lượng(số lượng) SP đơn giá
phải trả = công việc hoàn thành x tiền lương
CNV đủ tiêu chuẩn sản phẩm
việc xác định tiền lương sản phẩm phải dựa trên cơ sở các tài liệu hoạch toán kết quả lao động, chẳng hạn như phiếu xác nhận sản phẩm hoặc công việc hoàn thành và đơn giá tiền lương mà Doanh nghiệp áp dụng đối với từng loại sản phẫm, công việc . Đây là hình thức trã lương phù hợp với nguyên tắc, phân phối theo lao động, gắn chặt số lượng lao động với chất lượng lao động, khuyến khích ngưới lao động hăng say lao động, góp phần làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội. Trả lương theo sản phẩm là hình thức lương cơ bản đang áp dụng trong khu vực sản xuất vật chất hiện nay. Tiền lương mà công nhân nhận được phụ thuộc vào đơn giá để hoàn thành một đơn vị sản phẩm. Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời gian.
Trong việc trả lương theo sản phẩm đòi hỏi việc xây dựng cá định mức kinh tế kỷ thuật chính xác để làm cơ sở cho việc xây dựng đơn giá tiền lương đối với từng loại sản phẩm, từng công việc một cách hợp lý. Tuỳ theo yêu cầu kích thích người lao động để nâng cao chất lượng, năng suất lao động, sản lượng hay đẩy nhanh tiến độ sản xuất mà có thể áp dụng các đơn giá tiền lương sản phẩm khác nhau, do đó có các dạng tiền lương sản phẩm khác nhau.
- Tiền lương sản phẩm có thể áp dụng đối với lao động trực tiếp sản xuất gọi là tiền lương sản phẩm trực tiếp hoặc có thể áp dụng đối với người lao động gián tiếp phục vụ sản xuất sản phẩm gọi là tiền lương sản phẩm gián tiếp:
* Lương sản phẩm trực tiếp là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà công nhân đó hoàn thành trong thời gian làm việc và được xác định bằng số lượng sản phẩm đã sản xuất nhân với đơn giá mỗi đơn vị sản phẩm được trả. Trả lương sản phẩm trực tiếp cá nhân được áp dụng rộng rãi đối với công nhân trực tiếp sản xuất trong điều kiện quy trình lao động của người công nhân mang tính độc lập tương đối,
Tiền lương của
người công nhân = Đơn giá tiền lương x Mức sản lượng thực tế.
+ Ưu điểm người lao động xác định được ngay tiền lương của mình vì vậy khuyến khích họ quan tâm đến năng suất chất lượng sản phẩm.
+ Nhược điểm: Tinh thần tương trợ lẫn nhau trong sản xuất kém.
* Lương sản phẩm gián tiếp là tiền lương trả cho CNV phụ, cùng tham gia sản xuất với công nhân chính đã hưởng lương theo sản phẩm được xác định căn cứ vào hệ số giữa mức lương của công nhân phụ sản xuất ra với sản lượng sản phẩm đã định mức cho công nhân chính và nhân với sản phẩm công nhân chính sản xuất ra. Hoặc trên cơ sở thang lương và bậc lương của công nhân phụ trả theo tỷ lệ phần trăm( % ) hoàn thành các định mức sản xuất quy định cho công nhân chính. Trả lương theo sản phẩm gián tiếp áp dụng cho những công nhân phụ mà công việc của họ có ảnh hưởng nhiều đến kết quả lao động của công nhân chính, hưởng lương theo sản phẩm.
Tiền lương = Tiền lương của x mức độ hoàn thành
công nhân phụ kế hoạch của công nhân chính.
+ Ưu điểm: Cách trả lương này khuyến khích công nhân phục vụ tốt hơn cho công nhân chính.
+ Nhược điểm do phụ thuộc vào kết quả của công nhân chính nên việc trả lương chưa thật chính xác.
- Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá tiền lương cố định thường được gọi là tiền lương sản phẩm giản đơn.
- Trả lương theo sản phẩm tập thể: hình thức trả lương này áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công nhân thực hiện, lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận làm việc theo dây chuyền.
+ Ưu điểm khuyến khích công nhân trong tổ nâng cao trách nhiệm.
+ Nhược điểm sản lượng của từng công nhân không trực tiếp quyết định tiền lương của họ do vậy ít kích thích công nhân nâng cao năng suất cá nhân.
- Tiền lương sản phẩm giản đơn kết hợp với tiền thưởng về năng suất nâng cao chất lượng sản phẩm ... gọi là tiền lương sản phẩm có thưởng, là tiền lương trả cho công nhân lao động căn cứ vào số lượng sản phẩm đã sản xuất ra theo đơn giá mỗi đơn vị sản phẩm kết hợp với một hình thức tiền thưởng khi hoàn thành (hoặc hoàn thành vượt mức). Các dữ liệu quy định như : tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm ... Thực chất của chế độ này là sự hoàn thiện hơn của chế độ sản phẩm trực tiếp, công nhân theo chế độ này ngoài tiền lương được lĩnh theo đơn giá sản phẩm trực tiếp người công nhân được hưởng thêm một khoản lương nhất định căn cứ vào trình độ hoàn thành các chỉ tiêu tiền thưởng.
- Tiền lương sản phẩm tính theo đơn giá sản phẩm tăng dần (luỹ tiến) áp dụng theo mức độ hoàn thành vượt khối lượng sản phẩm đựoc gọi là tiền lương sản phẩm luỹ tiến. Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến áp dụng để trả lương cho công nhân làm việc ở khâu trọng yếu. Tiền lương sản phẩm được tính theo đơn giá lượng sản phẩm tăng dần (luỹ tiến). Những sản phẩm nằm trong định mức lao động được trả lương theo đơn giá cố định, những sản phẩm vượt mức sẽ được trả theo đơn giá luỹ tiến. Hình thức trả lương này có tác dụng khuyến khích nâng cao năng suất lao động và thường áp dụng đối với những nơi sản xuất còn chậm, nhằm tăng sản lượng sản phẩm đó.
1.3. Hình thức trả lương khoán: Tiền lương khoán là hình thức trả lương cho người lao động theo khối lượng và chất lượng công việc mà họ hoàn thành. Hình thức này được áp dụng cho những công việc nếu chỉ giao chi tiết bộ phận sẽ không có lợi bằng giao toàn bộ khối lượng cho công nhân hoàn thành trong một thời gian nhất định. Hình thức này thường được áp dụng trong xây dựng cơ bản, một số việc trong nông nghiệp và sửa chữa tháo lắp nhanh một số thiết bị để vào sản xuất.
+ Ưu điểm: Với hình thức trả lương khoán, người lao động biết trước khối lượng tiền lương mà họ sẽ nhận được sau khi hoàn thành công việc và thời gian hoàn thành công việc. Do đó họ chủ động trong công việc được giao. Còn người giao khoán thì yên tâm về khối lượng công việc được hoàn thành.
+ Nhược điểm: Để đảm bảo thời gian hoàn thành dễ gây ra hiện tượng làm bừa làm ẩu không đảm bảo chất lượng, do vậy công tác nghiệm thu sản phẩm phải được tiến hành chặt chẽ.
Như vậy, hình thức tiền lương sản phẩm rất có ưu điểm đó là đảm bảo được nguyên tắc phân phối theo lao động, tiền lương gắn chặt với số lượng, chất lượng lao động, do đó kích thích người lao động quan tâm đến kết quả lao động và chất lượng lao động của mình. Thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng sản phẩm cho xã hội. Vì vậy hình thức tiền lương sản phẩm được áp dụng rộng rãi. Song điều cần chú ý là hình thức trả lương theo sản phẩm tập thể (sản phẩm công việc do nhóm, tổ lao động cùng tạo ra) thì cần vận dụng cách tính chia lương phù hợp, đó là chia theo thời gian làm việc và cấp bậc kỷ thuật kết hợp bình điểm hoặc phân loại A, B, C ... Trong các nghành thương nghiệp, dịch vụ có thể chia lương theo khoản tỷ lệ doanh thu bán hàng, hình thức này sẽ tạo cho CNV năng động tìm nguồn hàng nhạy bén với thị trường. Hình thức trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm là hai hình thức chủ yếu được áp dụng cho các doanh nghiệp hiện nay. Hai hình thức này có thể áp dụng kết hợp hoặc riêng lẻ tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất, cơ chế trình độ quản lý ở từng đơn vị.
1.2. Các khoản trích theo lương:
a). Bảo hiểm xã hội:
Nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất việc hoặc gặp các khó khăn khác. Mọi người lao động có tham gia đóng BHXH đều ._.có quyền hưởng BHXH. Chính sách BHXH được áp dụng đối với tất cả các thành viên trong xã hội, đối với tất cả người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế. Việc quản lý và sử dụng quỹ BHXH phải thống nhất theo chế độ Tài chính của nhà nước và theo nguyên tắc hạch toán độc lập.
Theo chế độ hiện hành, quỹ BHXH tại doanh nghiệp bằng 20% so với tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp thường xuyên của người lao động thực tế. Trong đó cơ cấu nguồn quỹ được quy định như sau:
- Nguồn sử dụng lao động đóng bằng 15% tổng quỹ tiền lương của người tham gia BHXH trong doanh nghiệp và được tính vào chi phí SXKD
trong đó 10% chi các chế độ hưu trí, tử tuất.
5% chi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động.
- còn 5% trên tổng quỹ lương tháng do người lao động trực tiếp đóng góp ( trừ trực tiếp vào thu nhập của người lao động).
b). BHYT
Thực chất là sự trợ cấp về y tế cho người tham gia bảo hiểm nhằm giúp đỡ họ một phần nào đó trang trải tiền khám, chữa bệnh; tiền viện phí, thuốc men. Mục đích của BHYT là tạo lập một mạng lưới bảo vệ sức khoẻ cho toàn cộng đồng, không kể đến địa vị xã hội hay mức thu nhập cao hay thấp. BHYT áp dụng cho những người có tham gia đóng BHYT thông qua việc mua thẻ BHYT.
Quỹ BHYT được hình thành bằng cách trích 3% từ trên cơ sở thu nhập tạm tính của người lao động, trong đó:
- Người sử dụng lao động phải chịu 2% từ quỹ lương thực tế của doanh nghiệp và được tính vào chi phí SXKD.
- Người lao động đóng góp 1% từ lương của mình.
Quỹ BHYT do cơ quan BHYT thống nhất quản lý và tự cấp cho người lao động thông qua mạng lưới y tế. Vì vậy, khi tính được mức trích BHYT các nhà doanh nghiệp phải nộp toàn bộ cho cơ quan y tế.
c). Kinh phí công đoàn
Công đoàn là một tổ chức đoàn thể đại diện cho người lao động nói lên tiếng nói chung của người lao động, đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Đồng thời, công đoàn cũng là người hướng dẫn , điều chỉnh thái độ của người lao động đối với công việc, với người sử dụng lao động.
Theo chế độ hiện hành thì kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ 2% trên tổng quỹ lương phải trả cho người lao động và người sử dụng lao động phải chịu khoản chi phí này, khoản này được tính vào chi phí SXKD. Thông thường, khi xác định được mức trích kinh phí công đoàn trong kỳ thì 50% doanh nghiệp phải nộp lên công đoàn cấp trên; 50% còn lại thì được dùng để chi tiêu cho các hoạt động của Công đoàn tại cơ sở.
3. Nội dung ý nghĩa của các thu nhập khác.
3.1. Lương nghỉ phép: Theo chế độ hiện hành khi người lao động nghỉ phép thì được trả lương 100% tiền lương theo cấp bậc. Tiền lương nghỉ phép là tiền lương phụ của người lao động.
Trong 1 năm người lao động được nghỉ phép 12 ngày, nếu làm việc 5 năm thì được tính thêm 1 ngày vào thời gian nghỉ phép. Nếu Doanh nghiệp không thể bố trí cho người lao động nghỉ phép ổn định đều đặn giữa các tháng trong năm, Doanh nghiệp cần phải trích trước tiền lương nghỉ phép để đảm bảo chi phí ổn định giữa các tháng trong năm.
3.2 Chế độ phụ cấp :
Theo điều 4 nghị định 26/CP ngày 23 - 5 - 1995 có 7 loại phụ cấp:
- Phụ cấp khu vực được trả cho những người làm việc ở những vùng xa xôi hẻo lánh.
- Phụ cấp có điều kiện được trả cho những người làm việc trong môi trường độc hại nhưng chưa được xác định trong mức lương.
- Phụ cấp ca 3: được trả cho những người làm việc ban đêm từ 22h đến 6 h sáng.
- Phụ cấp thu hút: được trả cho những người làm việc tại những vùng kinh tế mới xa đất liền.
- Phụ cấp đắt đỏ: trả cho những người sống tại những vùng có chỉ số sinh hoạt lớn hơn chỉ số giá cả bình quân chung cả nước 10%.
- Phụ cấp lưu động: trả cho những người thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc nơi ở.
3.3. Chế độ thưởng:
- Thực chất là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động, tiền lương là một phần có tính cố định thường xuyên, thưởng chỉ là một phần thêm và phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Cơ chế:
+ Từ quỹ khen thưởng và phúc lợi, trích từ lợi nhuận theo thông tư số 25/LĐ - TT ngày 26 - 10 - 1992 của Bộ lao động được gọi là chế độ thưởng đột xuất.
+ Từ quỹ tiền lương được tính vào chi phí được gọi là thưởng thường xuyên.
III. Quản lý tiền lương và các khoản liên quan.
1. Quỹ tiền lương:
Quỹ tiền lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương mà doanh nghiệp phải trả cho tất cả lao động thuộc doanh nghiệp quản lý.
Thành phần quỹ tiền lương bao gồm nhiều khoản như lương thòi gian( tháng, ngày, giờ) lưong sản phẩm, phụ cấp( cấp bậc, khu vực, chức vụ ...) tiền thưỏng trong sản xuất. Quỹ tiền lương bao gồm nhiều loại tuy nhiên về mặt hạch toán có thể chia tiền lương lao động trực tiếp và gián tiếp, trong đó chi tiết theo tiền lương chính và tiền lương phụ.
- Tiền lương chính là toàn bộ các khoản tiền trả theo cấp bậc, chức vụ và các khoản phụ cấp có tính chất như lương mà doanh nghiệp trả cho công nhân viên trong thời gian tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh theo nhiệm vụ được giao.
- Tiền lương phụ là khoản lương, phụ cấp trợ cấp trả cho ngưòi lao động trong thời gian làm việc khác nhưng vẫn được hưởng lương theo quy định.
Việc phân chia quỹ lương thành lương chính, lương phụ như trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác hạch toán tiền lương, phân tích các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm, trong chi phí quản lý và trong chi phí bán hàng.
Chúng ta có thể hiểu rằng: Tiền lương chính của công nhân có quan hệ trực tiếp với khối lượng sản phẩm dịch vụ sản xuất ra, với năng suất lao động. Còn tiền lương phụ của công nhân viên được hạch toán phân bổ gián tiếp vào chi phí sản xuất mà không gắn với năng suất lao động.
Quản lý quỹ tiền lương thực chất là việc xác định mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Các cơ quan chủ quản của doanh nghiệp là những người trực tiếp kiểm tra đối chiếu thường xuyên quỹ tiền lương thực tế và quỹ tiền lương kế toán của doanh nghiệp, phải thấy được tính hợp lý trong cơ cấu trả lương, phát hiện xử lý kịp thời các khoản lương bất hợp lý đã phát sinh trong kỳ. Thêm vào đó quản lý quỹ tiền lương phải đảm bảo được nguyên tắc: '' Bảo đảm quyền tự chủ của doanh nghiệp, kết hợp với việc quản lý thống nhất của nhà nước về chế độ tiền lương trên cơ sở gắn thu nhập người lao động với kết quả sản xuất, đồng thời kết hợp hài hoà các lợi ích ''.
Trong cuộc sống thường nhật, con người chúng ta phải đoàn kết nhau lại, giúp đỡ nhau lúc hoạn nạn, khó khăn, những lúc gặp rủi ro để cùng nhau vượt qua những vẫn đề cấp bách về kinh tế, cùng nhau đối mặt với cuộc sống không phải đơn giản diễn ra hàng ngày. Chính từ nhu cầu đó mà trong xã hội nẳy sinh nhiều hình thức bảo hiểm tạo nguồn tài chính, các quỹ này có được chính từ việc tính trích một phần tiền lương của người lao động và chúng là các khoản trích theo lương.
2. Các khoản trích theo lương:
Ngoài tiền lương người lao động còn dược hưởng các khoản trợ cấp thuộc phúc lợi xã hội trong đó bao gồm trợ cấp bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
a. Quỹ bảo hiểm xã hội( BHXH ): Được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số quỹ lương cấp bậc hệ số chênh leẹch bảo lưu(nếu có) và các khoản phụ cấp(cấp bậc, chức vụ, khu vực, đắt đỏ, thâm niên) của CNV thực tế phát sinh trong tháng. Theo chế độ hiện hành, tỷ lệ trích BHXH là 20%, trong đó 15% do đơn vị hoặc người sử dụng lao động nộp, được tính vào chi phí kinh doanh, 5% do người lao động đóng góp và được tính trừ vào thu nhập hàng tháng. Quỹ BHXH được chi tiêu trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, quỹ này do cơ quan BHXH quản lý.
b. Quỹ BHYT: Được sử dụng để thanh toán các khoản tiền khám, chữa bệnh, viện phí, thuốc thang ... cho người lao động trong thời gian ốm đau, sinh đẻ. Quỹ được trích theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương của CNV thực tế phát sinh trong tháng giống như quỹ BHXH. Tỷ lệ trích là 3% trong đó 2% do chủ sử dụng lao động đóng, còn lại do người lao động đóng góp.
c. Kinh phí công đoàn: Để có nguồn chi phí cho hoạt động công đoàn, hàng tháng doanh nghiệp còn phải tríchtheo một tỷ lệ quy định với tổng số quỹ tiền lương, tiền công và phụ cấp (phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đắt đỏ, phụ cáp đặc biệt, phụ cấp độc hại, nguy hiểm, phụ cấp lưu động, thâm niên, phụ cấp phục vụ quốc phòng, an ninh) thực tế phải trả cho người lao động kể cả lao động hợp đồng tính vào chi phí kinh doanh để hình thành kinh phí công đoàn. Tỷ lệ trích KPCĐ theo chế độ là 2%.
3. Các khoản thu nhập cá nhân người lao động
Đây là khoản thu nhập thêm ngoài tiền lương chính của người lao động. Khoản này có thể là tiền thưởng, phụ cấp; có thể là chế độ Bảo hộ lao động như Quần áo, mũ, găng tay, thuốc men... Ngoài ra còn có một khoản có thể coi là thu nhập vô hình của người lao động, đó là Bảo hiểm thân thể 24/24. Số tiền này đươc tính vào Chi phí quản lý và là 1 khoản trợ giúp cho người lao động trong trường hợp bị tai nạn.
Đối với người lao động, các khoản này làm tăng thêm thu nhập hàng tháng, góp phần cải thiện mức sống. Còn đối với Doanh nghiệp, nó là hình thức khuyến khích người lao động trong công việc, từ đó nâng cao hiệu quả SXKD. Vì vậy, việc đưa ra 1 chế độ thưởng, phụ cấp hợp lý sẽ khuyến khích người lao động trong Sản xuất.
Hiện nay, các Doanh nghiệp đang đặt ra các danh hiệu thi đua như: Cá nhân lao động giỏi, Tổ lao động giỏi ... nhằm khuyến khích đến từng cá nhân trong đơn vị. Hàng năm Giám đốc doanh nghiệp ký Quyết định khen thưởng thi đua. Dựa vào danh sách những người được khen thưởng, Thủ quỹ xuất tiền mặt phát trực tiếp cho người lao động . Số tiền thưởng này được hạch toán vào Sổ chi tiết TK 431.
Hàng năm các doanh nghiệp chi hàng chục triệu cho chế độ BHLĐ.Theo chế độ này, công nhân sẽ được phát : Quần áo bảo hộ, găng tay, ủng cao su, khẩu trang ... Khoản chi này được hạch toán vào TK 627.
Hàng năm các doanh nghiệp ký Hợp đồng bảo hiểm với các Công ty Bảo hiểm với giá trị hàng chục triệu đồng. Hợp đồng này có trách nhiệm với người lao động trong những trường hợp sau:
- Bảo hiểm trong trường hợp chết hoặc thương tật thân thể do tai nạn.
- Bảo hiểm trợ cấp nằm viện, phẫu thuật.
Ngoài khoản Bảo hiểm tính vào Chi phí Sản xuất theo quy định trong Nghị định 12 CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 . Khoản BH nói trên được coi là trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người lao động và được hạch toán trực tiếp vào TK 642. Khi phát sinh các khoản này sẽ được hạch toán vào sổ sách liên quan.Các khoản phát sinh ở TK 642 sẽ được tập hợp vào tờ kê khai phát sinh TK 642 để từ đó làm cơ sở xác định kết quả.
Như vậy tất cả các khoản đã trình bày ở trên tạo nên bảng thu nhập cho người lao động. Vấn đề đặt ra trong việc hạch toán kế toán nói chung, kế toán tiền lương nói riêng là phải hạch toán như thế nào cho đúng tỷ lệ quy định, nhanh chóng kịp thời đưa ra các thông tin hữu ích về lao động.
IV. Tổ chức kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
1. Thủ tục, chứng từ hạch toán.
Để thanh toán tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp, trợ cấp cho người lao động hàng tháng kế toán phải lập '' Bảng thanh toán tiền lương '' cho từng tổ, đội, phân xưởng sản xuất và các phòng ban kết quả căn cứ vào kết quả tính lương cho từng người. Để lập được bảng tính lương này thì yêu cầu đối với kế toán tiền lương phải căn cứ vào chứng từ hạch toán thời gian lao động và kết quả lao động.
- Thủ tục chứng từ thanh toán lương thời gian, chứng từ ban đàu làm cơ sở cho việc trả lương là bảng chấm công, dùng để theo dõi công đi làm thực tế, công phi sản xuất như : ốm đau, thai sản, nghỉ phép...Bảng chấm công do cán bộ phụ trách hoặc tổ trưởng ghi theo quy định, chấm công cuối tháng căn cứ vào thời gian làm việc thực tế quy ra công và những ngày nghỉ được hưởng theo chế độ quy định để trả lương.
- Thời gian làm thêm giờ, phụ cấp ca đêm ghi vào Bảng thanh toán làm thêm giờ và phụ cấp ca đêm để thanh toán.
- Thủ tục chứng từ để thanh toán lương sản phẩm đó là" Bảng kê khối lượng sản phẩm hoặc công việc hoàn thành ", " Bảng giao, nhận sản phẩm ", " Doanh số bán hàng ngày ", bảng này được ghi chi tiết theo từng đối tượng trả lương theo sản phẩm có xác nhận của người kiểm tra nghiệm thu.
Trên bảng tính lương cần ghi rõ từng khoản tiền lương( tiền trả sản phẩm, tiền lương thời gian ), các khoản phụ cấp, trợ cấp, các khoản khấu trừ và số tiền người lao động còn được lĩnh. Sau khi kế toán trưởng kiểm tra, xác nhận và ký, giám đốc duyệt y " Bảng thanh toán lương " sẽ được làm căn cứ để thanh toán lương cho người lao động. Khi đã tính toán tổng hợp tiền lương thực tế phải trả cho người lao động xong, kế toán căn cứ vào bảng tính toán này ra ngân hàng rút tiền về quỹ tiền mặt để trả cho người lao động. Thông thường tại các doanh nghiệp việc thanh toán lương được thực hiện hàng tháng và chia làm hai kỳ :
+ Kỳ I : Tạm ứng
+ Kỳ II : Nhận số tiền còn lại sau khi đã trừ các khoản khấu trừ vào lương
Các khoản thanh toán lương, bảng kê danh sách những người chưa lĩnh lương cùng với các chứng từ và báo cáo thu, chi tiền mặt phải chuyển kịp thời cho phòng kế toán để kiểm tra, ghi sổ.
2. Trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân sản xuất trực tiếp: Tại các doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vụ, để tránh sự biến động của giá thành sản phẩm, kế toán thường áp dụng phương pháp trích trước chi phí nhân công trực tiếp sản xuất, đều đặn dựa vào giá thành sản phẩm coi như một khoản chi phí phải trả.
Việc áp dụng phương pháp này giúp doanh nghiệp tránh được những sự biến động lớn trong chi phí tiền lương khi có sự biến động của thị trường về giá cả, ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập người lao động.
Cách tính toán như sau :
Mức trích trước Tiền lương chính thực tế Tỷ lệ
tiền lương phép = phải trả công nhân trực x lương trích
kế hoạch tiếp trong tháng trước
Trong đó:
Tỷ lệ Tổng số lương phép kế hoạch năm
trích của công nhân trực tiếp SX trong tháng
trước = x 100
Tổng số lương chính kế hoạch năm của
công nhân trực tiếp sản xuất
Cũng có thể trên cơ sở nhiều năm, doanh nghiệp tự xác định một tỷ lệ trích trước tiền lương nghỉ phép kế hoạch của nhân công trực tiếp sản xuất một cách hợp lý.
3. Hạch toán tổng hợp tiền lương và các khoản trích theo lương.
3.1 Chứng từ và tài khoản kế toán sử dụng.
a. Chứng từ kế toán:
Các chứng từ về kế toán tiền lương, tiền thưởng, BHXH và thanh toán tiền lương, BHXH như :
- Bảng thanh toán tiền lương ( mẫu số 02 - LĐTL )
- Bảng thanh toán tiền thưởng ( mẫu số 05 - LĐTL )
- Bảng thanh toán BHXH ( mẫu số 04 - LĐTL )
- Các phiếu thu, phiếu chi các chứng từ tài liệu về các khoản khấu trừ trích nộp ... liên quan. Các chứng từ này được sử dụng làm căn cứ ghi sổ kế toán trực tiếp hoặc để hạch toán tổng hợp tiền lương.
b. Tài khoản kế toán:
Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương sử dụng chủ yếu các tài khoản sau:
- TK 334 " phải trả CNV "
- TK 338 " phải trả, phải nộp khác "
* Tài khoản 334 " phải trả công nhân viên "
Dùng để thanh toán các khoản thanh toán với công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương, tiền công, phụ cấp, bảo hiểm xã hội, tiền thưởng và các khoản khác thuộc về thu nhập của công nhân viên.
Kết cấu và nội dung phản ánh của TK 334
Bên nợ:
- Phản ánh các khoản tiền lương, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác đã trả cho CNV.
- Các khoản khấu trừ vào tiền lương, tiền công của CNV.
- Kết chuyển tiền lương của CNV chưa lĩnh vào tài khoản thích hợp.
Bên có:
- Tiền lương, tiền công và các khoản khác còn phải trả cho CNV.
Dư có:
- Tiền lương, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác phải trả cho CNV.
Dư nợ: Trong trường hợp cá biệt số dư bên nợ (nếu có)
- Phản ánh số tiền đã trả quá số phải trả về tiền lương, tiền công, tiền thưởng, BHXH và các khoản khác cho CNV.
Tài khoản 334 hạch toán chi tiết theo hai nội dung:
TK 334.1: Thanh toán tiền lương
TK 334.2: Thanh toán các khoản khác
* Tài khoản 338 " phải trả, phải nộp khác "
Dùng để phản ánh các khoản phải trảvà phải nộp cho cơ quan pháp luật, cho các tổ chức, đoàn thể xã hội, cho cấp trên về kinh phí công đoàn, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, các khoản khấu trừ vào lương theo quyết định của toà án (tiền nuôi con khi ly dị, nuôi con ngoài giá thú, án phí...) giá trị tài sản thừa chờ xử lý, các khoản vay mượn tạm thời, nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn, các khoản thu hộ, giữ hộ ...
Kết cấu và nội dung TK 338:
Bên nợ:
- Các khoản đã nộp cho cơ quan quản lý các quỹ.
- Các khoản đã chi về kinh phí công đoàn.
- Xử lý giá trị tài sản thừa.
- Kết chuyển doanh thu nhận trước vào doanh thu bán hàng trong kỳ.
- Các khoản đã trả, đã nộp khác.
Bên có:
- Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định.
- Tổng số doanh thu nhận trước phát sinh trong kỳ.
- Các khoản phải trả, phải nộp hay thu hộ.
- Giá trị tài sản thừa chờ xử lý.
- Số đã nộp, đã trả lớn hơn số phải nộp, phải trả được hoàn lại.
Dư nợ:(nếu có)
- Số trả thừa, nộp thừa, vượt chi chưa được thanh toán.
Dư có:
- Số tiền còn phải trả, phải nộp và giá trị tài sản thừa chờ xử lý.
Việc phản ánh tình hình và thanh toán các khoản được chi tiết trên 6 tiểu khoản:
- TK 338.1: Tài sản thừa chờ xử lý
- TK 338.2: Kinh phí công đoàn
- TK 338.3: Bảo hiểm xã hội
- TK 338.4: Bảo hiểm y tế
- TK 338.7: Doanh thui nhận trước
- TK 338.8: Phải nộp khác
Ngoài các TK334, TK338 kế toán còn sử dụng các tài khoản liên quan trong quá trình hạch toán như : TK 622 "chi phí nhân công trực tiếp", TK 627 "chi phí sản xuất chung", TK 641 "chi phí bán hàng", TK 642 "chi phí quản lý doanh nghiệp", và các tài khoản 111, 112, 138...
3.2. Hạch toán lao động về mặt số lượng, thời gian và kết quả lao động.
Mục đích hạch toán lao động trong doanh nghiệp, ngoài việc giúp cho công tác quản lý lao động còn bảo đảm tính lương chính xác cho từng người lao động. Nội dung của hạch toán lao động bao gồm hạch toán số lượng lao động, thời gian lao động và kết quả lao động.
a). Hạch toán số lượng lao động:
Để quản lý lao động về mặt số lượng, doanh nghiệp sử dụng "Sổ sách theo dõi lao động của doanh nghiệp" thường do phòng HCTC theo dõi. Sổ này hạch toán về mặt số lượng từng loại lao động theo nghề nghiệp, công việc và trình độ tay nghề (cấp bậc kỹ thuật) của CNV. Phòng lao động có thể lập sổ chung cho toàn doanh nghiệp và lập riêng cho từng bộ phận để nắm chắc tình hình phân bổ, sử dụng lao động hiện có trong doanh nghiệp.
b). Hạch toán thời gian lao động:
Thực chất là hạch toán việc sử dụng thời gian lao động đối với từng CNV ở từng bộ phận trong doanh nghiệp. Chứng từ sử dụng ở đây là "Bảng chấm công" để ghi chép thời gian lao động và có thể sử dụng tổng hợp phục vụ trực tiếp kịp thời cho việc quản lý tình hình huy động sử dụng thời gian CNV tham gia lao động. Bảng chấm công được lập riêng cho từng tổ sản xuất do tổ trưởng hoặc trưởng các phòng ban ghi hàng ngày. Cuối tháng bảng chấm công được sử dụng làm cơ sở để tính lương đối với bộ phận lao động hưởng lương theo thời gian.
c). Hạch toán kết quả lao động.
Mục đích của hạch toán này là theo dõi, ghi chép kết quả lao động của CNV biểu hiện bằng số lượng (khối lượng công việc đã hoàn thành) của từng người hay từng tổ, nhóm lao động. Để hạch toán, kế toán sử dụng các loại chứng từ ban đầu khác nhau tuỳ theo loại hình và đặc điểm sản xuất ở từng doanh nghiệp. Mặc dù sử dụng các mẫu chứng từ khác nhau nhưng các chứng từ này đều bao gồm các nội dung cần thiết như tên công nhân, tên công việc, thời gian lao động, số lượng công việc hoàn thành nghiệm thu, kỳ hạn chất lượng công việc hoàn thành... Các chứng từ này là "Phiếu xác nhận sản phẩm và công việc hoàn thành", "Bảng ghi năng suất cá nhân", "Hợp đồng làm khoán", "Bảng kê khối lượng công việc hoàn thành"... Chứng từ hạch toán kết quả lao động do người lập ký, cán bộ kỹ thuật xác nhận, lãnh đạo (quản đốc phân xưởng hoặc trưởng bộ phận) duyệt y. Đây là cơ sở để tính tiền lương cho người lao động hay bộ phận lao động hưởng lương theo sản phẩm.
3.3 Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương:
Các nghiệp vụ kinh tế về tiền lương, BHXH, BHYT và KPCĐ được phản ánh vào sổ kế toán theo từng trường hợp sau:
1. Hàng tháng trên cơ sở tính thù lao, lao động phải trả cho công nhân viên trực tiếp sản xuất kế toán ghi:
Nợ TK 622: Thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất
Nợ TK 627: Thù lao phải trả cho công nhân quản lý phân xưởng
Nợ TK 641: Thù lao phải trả cho nhân viên bán hàng tiêu thụSP
Nợ TK 642: Thù lao phải trả cho bộ phận quản lý doanh nghiệp
Có TK 334: Tổng số thù lao lao động phải trả trong tháng
2. Số tiền thưởng phải trả cho CNV từ quỹ khen thưởng: Nợ TK 431(1): Thưởng thi đua từ quỹ khen thưởng, phúc lợi Nợ TK 142(2): Các khoản thu nhập khác
Nợ TK 622,627,641,642: Thưởng trong SXKD
Có TK 334: Tổng số tiền thưởng phải trả CNV
3. Khi trích BHXH, BHYT và KPCĐ tính vào chi phí sản xuất kinh doanh:
Nợ TK 622, 627(1), 641(1), 642(1): phần tính vào chi phí KD(19%)
Nợ TK 334: Phần trừ vào thu nhập của CNV(6%)
Có TK 338(338.2, 338.3, 338.4): Tổng số BHXH, BHYT và KPCĐ phải trích
4. Tính số BHXH phải trả cho CNV trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động...
Nợ TK 338: Phải trả, phải nộp khác
Có TK 334: Phải trả CNV
5. Các khoản khấu trừ vào lương như tiền tạm ứng, tiền bồi thường, tiền điện nước...
Nợ TK 334: Tổng số các khoản khấu trừ
Có TK 333(333.8): Thuế thu nhập phải nộp
Có TK 141: Số tạm ứng trừ vào lương
Có TK 138: Các khoản bồi thường vật chất, thiệt hại...
6. Chi trả lương và các khoản phải trả CNV:
Nợ TK 334: Các khoản đã thanh toán
Có TK 111, 112: Thanh toán bằng tiền mặt, TGNH
Có TK 511: Thanh toán bằng sản phẩm, hàng hoá
7. Khi doanh nghiệp chuyển tiền nộp BHXH, BHYT và KPCĐ cho cơ quan chuyên môn quản lý:
Nợ TK 338(338.2, 338.3, 338.4)
Có TK liên quan 111, 112
8. Chi tiền kinh phí công đoàn(phần để lại ở doanh nghiệp): Nợ TK 338 (338.2)
Có TK liên quan 111, 112
9. Cuối kỳ kế toán kết chuyển số tiền CNV đi vắng chưa lĩnh:
Nợ TK 334
Có TK 338(338.8)
10. Trường hợp số đã trả, đã nộp về KPCĐ, BHXH(kể cả số vượt chi) lớn hơn số phải trả, phải nộp,khi được cấp bù ghi:
Nợ TK 111, 112: Số tiền được cấp bù đã nhận
Có TK 338(338.2, 338.3): Số tiền được cấp bù
11. Tính lương nghỉ phép thực tế phải trả cho CNV:
- Hàng tháng hay định kỳ trích trước tiền lương CN sản xuất đi phép
Nợ TK 622: Chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 335: Chi phí phải trả
- Tiền lương nghỉ phép thực tế phải trả trong tháng(hay kỳ)
Nợ TK 335
Có TK 334
Sơ đồ hạch toán tiền lương, BHXH, BHYT và KPCĐ
Các khoản khấu trừ vào thu nhập của CNVC.
Phần tính vào chi phí SXKD.
Lương phép thực tế phải trả (với SX thời vụ).
Trích trước lương phép (với SX thời vụ).
Tiền thưởng từ quỹ Khen thưởng.
BHXH phải trả trực tiếp cho CNVC.
Trích KPCĐ, BHXH, BHYT tính vào Chi phí.
Số chi hộ, chi vượt được hoàn lại, được cấp.
Nộp KPCĐ,BHXH,BHYT cho cơ quan quản lý và các khoản chi tiêu kinh phí công đoàn tại cơ sở.
Các khoản thanh toán cho CNVC
BHXH,BHYT do CNVC đóng góp.
5
6
7
8
9
10
11
4
3
1
TK 335
Tổng số các khoản phải trả CNVC thực tế trong các kỳ
TK 141,138 …
TK 622,627,642 …
TK 3382,3383,3384
TK 141,138 …
TK 111,112,511
TK 431
TK 111,112
TK 334
2
Phần II. Thực trạng công tác hoạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại Xí nghiệp môi trường đô thị số 4
i. Khái quát chung về xí nghiệp MTĐT số 4
1. Sơ lược chung về công ty môi trường đô thị Hà Nội.
Tên công ty: Công ty môi trường đô thị Hà Nội.
Tên giao dịch : URBAN ENVIROMENT COMPANY.
Trụ sở giao dịch: 18 Cao Bá Quát - Ba Đình - Hà Nội.
Điện thoại: 8453982 - 8232565.
Giấy phép kinh doanh: 109381.
Ngành nghề kinh doanh:
- Thu gom, vận chuyển, xử lý rác phế thải trên địa bàn thành phố Hà Nội.
- Quản lý, kinh doanh các công trình vệ sinh công cộng.
- Thiết kế, sửa chữa, chế tạo các xe chuyên dùng.
- Thiết kế các công trình vệ sinh môi trường, xây dựng cải tạo, sửa chữa các công trình môi sinh, dịch vụ phục vụ công tác môi trường đô thị.
Công ty môi trường đô thị Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số 2183/QĐ - TCCQ ngày 29 - 10 - 1991 của UBND thành phố Hà Nội và được chuyển sang doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích kể từ ngày 1 - 12 - 1997 theo quyết định số 4219/QĐUB ngày 1 - 11 - 1997 của UBND thành phố Hà Nội. Hiện nay công ty là đơn vị thành viên trực thuộc Sở giao thông công chính Hà Nội.
2. Khái quát chung về xí nghiệp môi trường số 4.
Tên giao dịch: Xí nghiệp môi trường đô thị số 4.
Địa chỉ: số 56 ngõ 212 đường Đê La Thành - Đống Đa - Hà Nội.
Điện thoại: 8516819.
Xí nghiệp môi trường đô thị số 4 được thành lập theo quyết định của Giám đốc Sở giao thông công chính Hà Nội, được sự phê chuẩn của UBND thành phố Hà Nội. Xí nghiệp môi trường đô thị số 4 là đơn vị trực thuộc sự quản lý trực tiếp của công ty môi trường đô thị Hà Nội, được giao nhiệm vụ vận chuyển thu dọn địa bàn hai quận Đống Đa và Thanh Xuân:
- Tổ chức thu gom và vận chuyển các chất phế thải trên địa bàn 32 phường thuộc 2 quận Đống Đa (gồm 21 phường) Thanh Xuân gồm 11 phường, theo quy định của thành phố đến nơi xử lý rác của thành phố, đảm bảo mọi yêu cầu về giữ gìn sạch đẹp theo sự chỉ đạo của công ty và hợp đồng của khách hàng.
- Vận chuyển chất thải theo kế hoạch sản xuất kinh doanh công ty giao.
- Phục vụ, quét dọn, duy trì bảo dưỡng thường xuyên các nhà VSCC ( theo các điểm kế hoạch Công ty giao).
- Thực hiện Hợp động Dịch vụ: Thu vận chuyển rác ( Bằng xe thô sơ và cơ giới ) đến nơi xử lý rác Nam Sơn.
- Phối hợp với các cấp chính quyền địa phương và các tổ chức XH có liên quan trên địa bàn, tuyên truyền vận động, hướng dẫn nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về trật tự VSMT.
- Tổ chức thu dịch vụ vệ sinh theo quy định của UBND Thành phố ( thực hiện phục vụ dân, thu rác đến đâu, thu phí đến đó) theo sự uỷ quyền của Giám đốc Công ty.
- Thực hiện các nhiệm vụ đột xuất mà Công ty giao.
Với tư cách là 1 đơn vị kinh tế cơ sở phục vụ lợi ích công cộng, Xí nghiệp MTĐT số 4 được hạch toán kinh phí nội bộ theo phương thức Kinh doanh bao thầu, được mở tài khoản chuyên chi tại Ngân hàng và có con dấu riêng theo quy định của Nhà nước, thực hiện các nhiệm vụ do Giám đốc Công ty giao.
Đồng thời, XN MTĐT số 4 là 1 tập thể lao động, thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chủ của mình trong quản lý, thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương chính sách kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước, là nơi tổ chức đời sống và các hoạt động xã hội.
2.1 Nguyên tắc hoạt động:
Xí nghiệp hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Giám đốc Công ty, Giám đốc Xí nghiệp, chịu sự quản lý trực tiếp của Công ty MTĐT Hà nội, sự quản lý thống nhất của nhà nước về Pháp luật.
Xí nghiệp tổ chức quản lý theo chế độ 1 thủ trưởng, trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động.
Xí nghiệp MTĐT số 4 có tư cách pháp nhân không đầy đủ và thực hiện hạch toán nội bộ trong Công ty MTĐT Hà nội theo quy định của Giám đốc Công ty, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích XH, lợi ích tập thể và lợi ích người lao động - trong đó lợi ích của người lao động là động lực trực tiếp.
Xí nghiệp phối hợp cùng chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan trong công tác giữ gìn trật tự VSMT và thi hành các chính sách, Pháp luật của Nhà nước.
Xí nghiệp chịu sự chỉ đạo của Công ty MTĐT Hà nội hướng dẫn kiểm tra, kiểm soát thực hiện kế hoạch và các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
2.2 Cơ cấu tổ chức:
Tập thể lao động tại Xí nghiệp bao gồm toàn bộ những người lao động làm việc thường xuyên tại Xí nghiệp cùng chung mục đích là lao động sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng vệ sinh.
Tổng số Cán bộ công nhân viên hiện đang công tác, làm việc tại Xí nghiệp gồm có 680 lao động. Trong đó :
Khối văn phòng : 34 người.
Khối thu gom thủ công: 555 người.
Khối thu gom cơ giới: 91 người.
Xí nghiệp MTĐT số 4 được tổ chức hoạt động theo sơ đồ sau:
Công ty MTĐT Hà nội
Giám đốc XN MTĐT số 4
PGĐ phụ trách SXKD
PGĐ phụ trách đội xe
Phòng KHVT
Phòng KTGS
Phòng TC - KT
Phòng TC - HC
Bch
đôi xe
Tổ thu gom + VSCC
Đội xe
2.3. Các phòng ban chức năng trong xí nghiệp:
1. Phòng tài chính kế toán: Tham mưu cho giám đốc về công tác tài chính kế toán; đảm bảo cân đối nguồn tài chính xí nghiệp và thu chi đúng nguyên tắc; đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu về hoạt động tài chính của xí nghiệp.
2. Phòng tổ chức hành chính: Là phòng chuyên môn nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức sản xuất, công tác quản lý lao động, công tác quản trị cơ sở vật chất, công tác chăm lo sức khoẻ đời sống CBCNV và bảo quản tài sản giữ gìn an ninh trật tự và an toàn xã hội.
3. Phòng kế hoạch vật tư: Là phòng chuyên môn nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc về công tác kế hoạch vật tư, kỹ thuật.
4. Phòng kiểm tra giám sát: Là phòng chuyên môn nghiệp vụ giám sát kiểm tra việc thực hiện quy trình công nghệ, nội quy lao động của công ty trong công tác đảm bảo vệ sinh môi trường trên địa bàn xí nghiệp quản lý.
5. Văn phòng điều hành đội xe: Thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chất thải bằng cơ giới theo kế hoạch sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được công ty giao.
2.4. Kết quả hoạt động năm 2000 của xí nghiệp.
- Xí nghiệp đã được bổ sung diện tích duy trì vệ sinh trên địa bàn hai quận, nhất là trong các khu tập thể, ngõ xóm, cụm dân cư được đô thị hoá; các đường phố nút giao thông được cải tạo nhằm đảm bảo chất lượng duy trì vệ sinh trên địa bàn. Năm 2000 đưa vào duy trì thêm đường phố ngõ xóm 2,181km.
- Tăng cường công tác thu gom vận chuyển rác thải, phối hợp với UBND hai quận tập trung nhiều đợt tổng vệ sinh để thu dọn vận chuyển hết các điểm đọng rác thải trong ngõ xóm và bờ sông Tô Lịch với khối lượng là 1.110,64m3.
- Đảm bảo duy trì vệ sinh ban ngày trên các đường phố được công ty giao, ngoài ra xí nghiệp còn tăng cường công tác duy trì vệ sinh thu nhặt rác, thùng rác trên đường phố, khu tập thể, đảm bảo đường phố luôn được sạch sẽ.
- Duy trì quét dọn các nhà vệ sinh công cộng được công ty giao quản lý, đáp ứng tốt nhu cầu vệ sinh cho nhân dân. Tổ chức kiểm tra lậ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32250.doc