Lời mở đầu
Trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, cuộc đấu tranh gay gắt để giữ vững, giành lại thị trường đã và đang diễn ra thường xuyên, quyết liệt. Tiền lương luôn là vấn đề lớn, phức tạp đối với xã hội nói chung và các doanh nghiệp nói riêng.
Trong quá trình hoạt động , nhất là trong hoạt động kinh doanh, đối với các chủ doanh nghiệp, tiền lương là một phần chi phí cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh. Vì vậy tiền lương luôn được tính toán và quản lý chặt chẽ. Đối với người lao đ
69 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty sản xuất và Dịch vụ Dệt -May, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng, tiền lương là thu nhập từ quá trình lao động của họ, phần thu nhập chủ yếu đối với đại đa số lao động trõngh có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của họ. Phấn đấu nâng cao tiền lương là mục đích của mọi người lao động. Mục đích này tạo động lực để người lao động phát triển trình độ và khả năng của mình.
Vì vậy chính sách tiền lương phải đảm bảo được các nguyên tắc của chế độ tiền lương đồng thời phaỉ thu hút người lao động, kíc thích họ hăng say lao động. Đối với doanh nghiệp phải xác định các hình thức tiền lương hợp lý, đảm bảo trả lương công bằng, đảm bảo kết hợp hài hoà 3 loại lợi ích ( lợi ích cho xã hội, lợi ích cho doanh nghiệp và lợi ích cho người lao động) Để trả lương một cách đúng đắn và công bằng thì phải căn cứ vào cả hai mặt: số lượng và chất lượng của lao động. Hai mặt này gắn liền với nhau trong bất kỳ một quá trình lao động nào. Số lượng lao động thể hiện qua mức hao phí thời gian dùng để sản xuất ra sản phẩm trong một khoảng thời gian theo lịch nào đó như số giờ lao động trong ngày, số ngày lao động trong tuần hay trong tháng ... Đơn vị số lượng lao động chính là số thời gian lao động. Chất lượng lao động là trình độ lành nghề của người lao động được sử dụng trong quá trình lao động. Chất lượng lao động thể hiện ở trình độ giáo dục đào tạo, kinh nghiệm, kỹ năng. chất lượng lao động càng cao thì năng suất lao động và hiệu quả công việc càng cao.
Do đó em đã chọn đề tài: “Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Sản xuất và Dịch vụ Dệt -May “ làm đề tài cho báo cáo chuyên đề của mình. Trong thời gian thực tập tại công ty với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo P. Lan cùng sự giúp đỡ nhiệt tình của Giám đốc công ty và các cô trong phòng Kế toán em hoàn thành bản báo cáo này. Tuy nhiên do thời gian thực tập ngắn và tầm hiểu biết còn chưa sâu rộng nên bản báo cáo này không tránh khỏi những thiếu xót, kính mong các thầy cô và các bạn góp ý và bổ sung thêm để báo cáo này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên thực hiện
Lại Quý Linh
Mục lục
Phần I Cơ sở lý luận để quản lý hiệu quả quỹ tiền lương của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
A Bản chất kinh tế của tiền lương.
Thực chất tiền lương.
Khái niệm
Bản chất tiền lương.
Các yếu tố liên quan trực tiếp đến tiền lương.
Vai trò của tiền lương đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay.
Nguyên tắc hạch toán lao động và tiền lương.
Phân loại lao động hợo lý
Phân loại tiền lương phù hợp
Chế độ tiền lương.
Tiền lương theo thời gian.
Tiền lương theo cấp bậc.
Tiền lương theo sản phẩm.
Tiền lương khoán..
IV Quỹ tiền lương trong các doanh nghiệp.
Kết cấu quỹ lương của doanh nghiệp.
Quy trình chia lương.
Phương pháp chia lương cho cán bộ CNV.
V. Quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ.
Quỹ BHXH.
Quỹ BHYT
Quỹ KPCĐ
B Hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Thủ tục , chứng từ hạch toán
Trích trước tiền lương nghỉ phép của công nhân trực tiếp sản xuất.
Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương.
Tài khoản hạch toán.
Phương pháp hạch toán .
Phần II Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Sản xuất và Dịch vụ Dệt -May
A Đặc điểm chủ yếu về kinh tế, tổ chức ,kỹ thuật ảnh hưởng tới công tác kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Sản xuất và Dịch vụ Dệt -May .
I Một vài nét cơ bản về Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May.
Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp.
1. Mục đích thành lập công ty.
Quá trình hình thành và phát triển.
B Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương ở Công ty Sản xuất và Dịch vụ Dệt -May .
I. Các loại lao động và hình thức trả công.
II. Kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương .
Tổ chức hạch toán
Tài khoản sử dụng.
Phương pháp hạch toán.
Phần III Một số ý kiến nhận xét về công tác hạch toán tiền lương ở Công ty Sản xuất và Dịch vụ Dệt -May
Trang
Phần I
Cơ sở lí luận về quỹ tiền lương của doanh nghiệp
trong kinh tế thị trường
Khái niệm, bản chất kinh tế của tiền lương.
I Thực chất của tiền lương:
Khái niệm :
Trong kinh tế thị trường, sức lao động đã trở thành hàng hoá, người có sức lao động có thể tự do cho thuê (bán sức lao động của mình cho người sử dụng lao động : Nhà nước, chủ doanh nghiệp...) thông qua các hợp đồng lao động. Sau quá trình làm việc, chủ doanh nghiệp sẽ trả cho họ một khoản tiền có liên quan chặt chẽ với kết quả lao động của ngươì đó .
Về tổng thể, tiền lương có thể xem như một thành phần của quá trình trao đổi giữa doanh nghiệp và người lao động .
- Người lao động cung cấp cho doanh nghiệp thời gian, sức lao động, trình độ nghề nghiệp cũng như kĩ năng lao động của mình.
- Đổi lại, người lao động nhận từ doanh nghiệp tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp xã hội, những khả năng đào tạo và sự phát triển nghề nghiệp của mình.
Đối với thành phần kinh tế tư nhân, sức lao động đã trở thành hàng hoá vì người sử dụng tư liệu sản xuất không phải là chủ sở hữu tư liệu sản xuất. Họ là người làm thuê bán sức lao động cho người có tư liệu sản xuất. Giá trị của sức lao động thông qua sự thoả mãn của hai bên, căn cứ vào luật pháp hiện hành.
Đối với thành phần kinh tế mà tư liệu sản xuất là sở hữu nhà nước, tập thể lao động từ giám đốc đến công nhân đều là người cung ứng sức lao động và được Nhà nước trả công. Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng chứ không giao quyền sở hữu tư liệu sản xuất cho tập thể lao động. Giám đốc và công nhân viên chức là những người làm chủ được uỷ quyền không đầy đủ, và không phải tự quyền về tư liệu đó. Tuy nhiên, do những đặc thù riêng trong việc sử dụng lao động của từng khu vực kinh tế và quản lý mà các quan hệ thuê mướn, mua bán, hợp đồng lao động cũng khác nhau, các thoả thuận về tiền lương cũng được thể hiện theo những hình thức khác nhau.
Tiền lương là bộ phận cơ bản(hoặc duy nhất) trong thu nhập của người lao động, đồng thời là một trong các chi phí đầu vào của quá trình sản xuất _kinh doanh của doanh nghiệp.
Vì vậy có thể hiểu tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà người sử dụng(Nhà nước, chủ doanh nghiệp) phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo các nguyên tắc cung cầu, giá cả thị trường và pháp luật hiện hành.
Cùng với khái niệm tiền lương, tiền công là một biểu hiện một tên gọi khác của tiền lương. Tiền công gắn trực tiếp với các quan hệ thoả thuận, mua bán sức lao độngvà thường được sử dụng trong lĩnh vực sán xuất kinh doanh, các hợp đồng thuê lao động có thời hạn. Tiền công được hiểu là tiền trả cho một đơn vị thời gian lao độngcung ứng, tiền trả cho khối lượng công việc được thuê hiện phổ biến trong những thoả thuận thuê nhân công trên thị trường tự dovà có thể gọi là giá công lao động. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, khái niệm tiền lương và tiền công được xem là đồng nhất cả về bản chất kinh tế cả về phạm vi và đối tượng sử dụng. Nhưng ở các nước đang chuyển từ kinh tế mệnh lệnh sang kinh tế thị trường, khái niệm tiền lương thường được gắn với chế độ tuyển dụng suốt đời, hoặc một thỏa thuận hợp đồng dài hạn, ổn định.
Bên cạnh khái niệm tiền lương là một loạt các khía niệm: tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế, tiền lương tối thiểu, chế độ tiền lương, hình thức tiền lương ....
Tiền lương danh nghĩa là khái niệm chỉ số lượng tiền tệ mà người sử dụng sức lao động căn cứ vào hợp đồng thỏa thuận giữa hai bên trong việc thuê lao động. Trên thực tế, mọi mức trả lương cho người lao động đều là tiền lương danh nghĩa. Song bản thân tiền lương danh nghĩa lại chưa thể cho ta nhận thức đầy đủ về mức trả công thực tế cho người lao động. Lợi ích mà người cung ứng sức lao động nhận dược ngoài việc phụ thuộc vào mức lương danh nghĩa còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ và số lượng thuế mà người lao động sử dụng tiền lương để mua sắm hoặc đóng thuế.
Tiền lương thực tế là số lượng tư liệu sinh hoạt và dịch vụ mà người lao động có thể mua sắm được bằng tiền lương của mình, sau khi đã đóng các khoản thuế theo quy định của Chính phủ. Chỉ số tiền lương thực tế tỷ lệ nghịch với chỉ số giá cả và tỷ lệ thuận với chỉ số tiền lương danh nghĩa tại thời điểm xác định.
Với một mức tiền lương nhất định, nếu giá cả hàng hoá trên thị trường tăng thì chỉ số tiền lương thực tế giảm xuống và ngược lại. Nếu giá cả thị trường ổn định, tiền lương danh nghĩa tăng tức làm cho tiền lương thực tế tăng. Nếu cùng một lúc, tiền lương danh nghĩa và giá cả hàng hoá thị trường cùng tăng hoặc cùng giảm, thì đại lượng nào có tốc độ tăng hoặc giảm lớn hơn sẽ quyết định chỉ số tiền lương thực tế. Đối với người lao động mục đích cuối cùng của việc cung ứng sức lao động là tiền lương thực tế chứ không phải tiền lương danh nghĩa, vì tiền lương thực tế quyết định khả năng tái sản xuất sức lao động, quyết định các lợi ích trực tiếp của họ.
Tiền lương tối thiểu (mức lương tối thiểu) có thể hiểu là tiền lương thấp nhất để từ đó xây dựng các mức lương khác, tạo thành hệ thống tiền lương của một ngành nào đó, hoặc hệ thống tiền lương chung thống nhất của một nước, là căn cứ để định chính sách tiền lương. Với quan niệm như vậy, mức lương tối thiểu dược coi là yếu tố rất quan trọng của một số chính sách tiền lương, nó liên quan chặt chẽ với 3 yếu tố :
Mức sống trung bình của dân cư một nước.
Chỉ số giá cả hàng hoá sinh hoạt.
Loại lao động và điều kiện lao động.
Mức lương tối thiểu đo lường giá trị sức lao động thông thường trong điều kiện làm việc bình thường, yêu cầu một kỹ năng dơn giản với một khung giá các tư liệu sinh hoạt hợp lý. Nghị định 197/CP ngày 31-12-1994 về việc thi hành bộ luật lao động, đã ghi “Mức lương tối thiểu ....là mức lương để trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất (không qua đào tạo) với điều kiện lao động và môi trường lao động bình thường”.
Tiền lương kinh tế là một khái niệm của kinh tế học. Các doanh nghiệp muốn có được sự cung ứng sức lao động đạt yêu cầu, cần phải trả mức lương cao hơn so với tiền lương tối thiểu. Như vậy, tiền lương kinh tế chính là tiền trả thêm vào tiền lương tối thiểu để đạt được yêu cầu sự cung ứng sức lao động, hay có thể hiểu tiền lương kinh tế giống như tiền lương thuần tuý cho những người đã hài lòng cung ứng sức lao động cho doanh nghiệp nào đó, với các điều kiện mà người thuê lao động yêu cầu.
Cả tiền lương tối thiểu và tiền lương kinh tế, đều thuần tuý xét theo cơ chế diều tiết của thị trường. Tác nhân chủ yếu hình thành mức lương tối thiểu và mức lương kinh tế là quan hệ cung - cầu của thị trường. Mặt khác, mức lương này cũng ảnh hưởng trở lại đối với hành vi và động cơ của doanh nghiệp khi thuê mướn lao động, ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa các đại lượng : mức sản lượng - mức thuê lao động- mức lương - lợi nhuận có thể đạt được trong sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp đó.
2.Bản chất của tiền lương.
2.1.Quan điểm chung về tiền lương
Qua các thời kỳ khác nhau, quan điểm về tiền lương cũng được hiểu theo những cách khác nhau.
Xã hội loài người đã trải qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội khác nhau, phản ánh trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan niệm sản xuất .Một trong những đặc điểm của quan hệ sản xuất là hình thức phân phối. Phân phối là một trong bốn khâu quan trọng của tái sản xuất và trao đổi đến lượt nó cũng có tác dụng trở lại sản xuất ,trao đổi ! Như vậy,trong quá trình sản xuất thì sản xuất dóng vai trò quyết định phân phối và các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất và do sản xuất quyết định nhưngcó ảnh hưởng trực tiêp tích cực trở lại đối với sản xuất .
Tổng sản phẩm xã hội do xã hội tạo ra được đem phân phối cho tiêu dùng cá nhân, tích luỹ để tái sản xuất mở rộng và tiêu dùng công cộng .Hình thức phân phối vật phẩm cho tiêu dùng cá nhân dưới chủ nghĩa xã hội được tiến hành được theo nguyên tắc : “Làm theo năng lực,hưởng theo lao động”.Bởi vậy “phân phối theo lao động là một quy luật kinh tế”Phân phối theo lao động dưới CNXH chủ yếu là tiền lương, tiền thưởng.Tiền lương phân phối dưới CNXHvề bản chất khác hẳn so với tiền lương dưới chế độ TBCN.
Tiền lương dưới chế độ CNXH hiểu theo cách đơn giản nhất ,đó là: số tiền mà người lao động nhận được sau một thời gian lao động nhất định hay sau khi đã hoàn thành một công việc nào đó .Còn theo nghĩa rộng thì tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được Nhà nước phân phối có kế hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao động của mỗi người đã cống hiến.
Như vậy, nếu xét theo quan điểm sản xuất, tiền lương là khoản đãi ngộ của sức lao động đã được tiêu dùng để làm ra sản phẩm. Trả lương thoả đáng cho người lao động là một nguyên tắc bắt buộc nếu muốn đạt hiệu quả kinh doanh cao.
Nếu xét trên quan điểm phân phối thì tiền lương là phần tư liệu tiêu dùng cá nhân dành cho người lao động, được phân phối dựa trên cơ sở cân đối giữa quỹ hàng hoá xã hội với công sức đóng góp của từng người. Nhà nước điều tiết toàn bộ hệ thống các quan hệ kinh tế: sản xuất, cung cấp vật tư, tiêu hao sản phẩm, xây dựng giá cả và ban hành chế độ, trả công lao động . Trong lĩnh vực trả công lao động Nhà nước cũng quản lý tập trung: quy định mức lương tối thiểu, ban hành hệ thống thang bảng lương và phụ cấp. Trong thực tế, hệ thống lương là chính sách của Nhà nước quy định riêng cho khu vực quốc doanh và được áp đặt từ trên xuống. Sở dĩ như vậy bởi xuất phát từ nhận thức tuyệt đối hoá quy luật phân phối theo lao động và phân phối quỹ tiêu dùng cá nhân trên phạm vi toàn xã hội .
Những quan niệm trên đây về tiền lương đã bị coi là xơ cứng, không phù hợp với điều kiện của một nền sản xuất hàng hàng hoá.
2.2.Bản chất của phạm trù tiền lương theo cơ chế thị trường.
Trong nhiều năm qua, công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Song tình hình thực tế cho thấy rằng sự đổi mới một số lĩnh vực xã hội còn chưa theo kịp với công cuộc đổi mới chung của đất nước. Vấn đề tiền lương cũng chưa tạo được động lực phát triển kinh tế xã hội.
Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau về tiền lương song quan niệm thống nhất đêù coi sức lao động là hàng hoá. Mặc dù không được công nhận chính thức, thị trường sức lao động đã được hình thành từ lâu ở nước ta và hiện vẫn đang tồn tại khá phổ biến ở nhiều vùng đất nước.
Sức lao động là yếu tố quyết định trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, nên tiền lương, tiền công là vốn đầu tư ứng trước quan trọng nhất, là giá cả sức lao động và là phạm trù của sản xuất. Vì vậy, việc trả công lao động được tính toán một cách chi tiết trong hạch toán kinh doanh của các đơn vị cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế. Mặt khác tiền lương còn phản ánh quan hệ phân phối sản phẩm giữa toàn thể xã hội do Nhà nước đại biểu là mỗi người lao động. Cơ sở để xác định mức tiền lương chủ yếu là dựa trên trình độ phát triển của sản xuất xã hội, yêu cầu phát triển người lao động theo từng thời kỳ và giới hạn của việc tăng tiền lương (mức tăng năng suất lao động).
Tiền lương, tiền công phải được xác định trên cơ sở tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động dựa trên hao phí và hiệu quả lao động. Đó là giá trị các yếu tố đảm bảo quá trình sản xuất sức lao động, thoả mãn yêu cầu tối thiểu của cuộc sống (ăn, ở, mặc, học hành, đi lại ....) và những nhu cầu cao hơn nữa. song nó cũng luôn phải chịu sự tác động của các quy luật kinh tế thị trường.
Quan điểm mới về tiền lương được thể hiện trong các chính sách sẽ làm cho tiền lương thực hiện được chức năng đánh giá lao động xã hội và phân phối theo lao động .
3. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến tiền lương.
Tiền lương được hình thành dựa vào nhiều yếu tố và mức độ phụ thuộc của tiền lương vào từng yếu tố khác nhau, trong những điều kiện cụ thể về công nghệ, tổ chức sản xuất và tổ chức lao động .
3.1 Độ phức tạp của lao động .
“Lao động phức tạp là bội số của lao động dơn giản”. Độ phức tạp của lao động là yếu tố quyết định sự khác biệt của tiền lương. Bởi độ phức tạp của lao động là những đặc trưng của lao động cụ thể, biểu hiện khả năng thực hiện một công việc hoặc một nhóm công việc nào đó.
Lao động phức tạp là lao động phải qua đào tạo, phải tiếp thu được các hiểu biết chuyên môn. Mức độ phức tạp của lao động ngày càng cao thì khả năng đóng góp lao động vào quá trình sản xuất càng lớn. Để nguồn lao động có thể tái sản xuất được các chi phí cần thiết phải bỏ ra, khuyến khích họ nâng cao trình độ nghề nghiệp, cần thiết phải xác lập quan hệ hợp lý về tiền lương giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn.
3.2 Mức độ phức tạp, điều kiện môi trường.
Việc đánh giá độ nặng nhọc của lao động là rất phức tạp bởi mỗi quá trình lao động khác nhau sẽ biểu hiện mức độ nặng nhọc của lao động khác nhau trong điều kiện lao động cơ bắp là chủ yếu thì độ nặng nhọc của lao động tường được đánh giá vào mức tiêu hao năng lượng được tính theo calo theo 1 đơn vị thời gian.
Trong diều kiện lao động cơ giới hoá, tự động hoá lại được đánh giá dựa trên những phản ứng về tâm lý, giác quan, thần kinh. Lao động nặng nhọc yêu cầu bù đắp tiêu hao năng lượng lớn. Vì vậy, tiền lương đối với lao động nặng nhọc phải cao hơn tiền lương của lao động giản đơn.
3.3 Kết quả lao động .
Đánh giá kểt quả lao động là cơ sở của tổ chức tiền lương. Để khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả hoạt động phải gắn trực tiếp tiền lương với hao phí lao động được biểu hiện thông qua kết quả lao động .
3.4 Các nhân tố không liên quan trực tiếp đến hao phí lao động .
Tình hình biến động giá cả các mặt hàng tiêu dùng cho sinh hoạt của người lao động, các yếu tố nhằm khuyến khích và thu hút lao động vào một số ngành nghề kém hấp dẫn hoặc khó khăn nguy hiểm là những yếu tố không liên quan trực tiếp đến hao phí lao động nhưng ảnh hưởng đến tiền lương. Một số yếu tố khác nhau như quan hệ cung cầu về mức lao động trên thị trường đối với từng ngành nghề, trình độ phát triển kinh tế xã hội và mức sống của xã hội cũng ảnh hưởng đến tiền lương.
4. Vai trò của tiền lương đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp hiện nay.
4.1 Tiền lương với tư cách là nguồn thu nhập chủ đạo đảm bảo ổn định đời sống của người lao động.
Trong cơ chế thị trường, tiền lương được coi là giá cả sức lao động và lượng tiền tệ hàng hoá, chịu sự chi phối và tác động của giá cả thị trường do quan hệ cung cầu về sức lao động, về giá cả hàng hoá, dịch vụ. Vì vậy nó là nguồn sống chủ yếu của người lao động, là một trong những yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh, nên mức tiền lương sẽ dược hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động (bao gồm cả tái sản xuất giản đơn tức là khôi phục lại sức lao động và tái sản xuất mở rộng tức là vừa khôi phục lại sức lao động vừa phải bồi dưỡng làm tăng thêm số lượng, chất lượng lao động). Điều này có nghĩa là: Với tiền lương nhận được người lao động không chỉ có đủ điều kiện sinh hoạt mà còn để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân và con cái họ, thậm chí một phần để tích luỹ. Bởi sức lao động là một dạng công năng, sức của cơ bắp và thần kinh tồn tại trong cơ thể con người là một trong các yếu tố đầu vào của sản xuất. Trong quá trình lao động, sức lao động bị hao mòn dần, cùng với quá trình tạo ra sản phẩm.
Để thu hút động viên nguồn lực của xã hội vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội .một mặt Nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để người lao động có việc làm đồng thời có cơ chế ,chính sách đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động .
Tiền lương là thước đo mức độ cống hiến của người lao động ,do vậy thực hiện trả lương theo việc không trả lương theo người đó là sự biểu hiện của quy kuật phân phối theo lao động .Tiền lương giúp cho người lao động coi đó là một trong những nhân tố để lựa chọn việc làm xứng đáng với họ.Họ dùng tiền lương để thanh toán các khoản chi tiêu hàng ngày ,giúp cho người lao động tự tính toán các khoản xem hết bao nhiêu để họ tự điều chỉnh ,cân đối chi tiêu như thế nào là hợp lý với số tiền mà họ nhận được khi kết thúc một quá trình lao động .Đồng thời tiền lương cũng là một công cụ để tăng cường kỷ luật đối với người lao động .Cụ thể nó vừa mang tính khuyến khích lại vừa mang tính ràng buộc. Buộc người lao động phải thi hành luật lao động của doanh nghiệp,nếu không họ sẽ bị đào thải .
4.2.Tiền lương với tư cách là đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích tăng năng suất lao động .
Lợi ích kinh tế là một hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế của một chế độ kinh tế xã hội nhất định,là động cơ thúc đẩy hoạt động kinh tế của con người .Trong quá trình lao động chung,lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ của tiến bộ kinh tế xã hội.Vệc giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích sẽ giải phóng mọi vấn đề tiềm năng của mỗi người trong quá trình phát triển kinh tế .
Trong 3 loại lợi ích : xã hội , tập thể người lao động thì lợi ích cá nhân người lao động là động lực trực tiếp và quan trọng đối với sự phát triển kinh tế .
Nguồn lao động là nguồn lực của sản xuất ,chính sách tiền lương đúng dắn là động lực to lớn nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội .Vì vậy tổ chức tiền lương phải nhằm thúc đẩy và khuyến khích người lao động nâng cao năng suất,chất lượng và hiệu quả lao động .Thực sự khuyến khích người lao động có tài năng và hoàn thành tốt công việc nhằm đảm bảo sự công bằng và bình đẳng xã hội ,trên cơ sở hoàn toàn thực hiện cơ chế trả lương bằng tiền,có cơ cấu và quan hệ hợp lý ,có phụ cấp kích thích và thu hút lao động .Đồng thời cần mở rộng và sử dụng linh hoạt các hình thức tiền thưởng.
Như vậy,tiền lương là đòn bẩy kinh tế để thu hút người lao động làm việc, làm cho họ nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm tăng năng suất lao động ,gắn trách nhiệm cá nhân đối với tập thể.
4.3.Vai trò tiền lương với hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Tiền lương được coi là một yếu tố của chi phí sản xuất,nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của một doanh nghiệp.Do vậy vai trò của tiền lương được biểu hiện như sau:
Xét về mặt kinh tế :tiền lương sẽ đóng một vai trò quyết định việc ổn định và phát trển của một gia đình .Nếu tiền lương không đủ trang trải, mức sống của người lao động sẽ bị giảm sút, họ phải tìm kiếm việc làm thêm ngoài doanh nghiệp. Ngược lại, sẽ tạo ra điều kiện cho người lao động yên tâm, phấn khởi làm việc nên dân giàu nước mạnh.
Về chính trị sản xuất : Có thể nói la tiền lương là nhân tố quan trọng nhất. Nếu tiền lương cao sẽ ảnh hưởng tích cực, ngược lại họ sẽ không tha thiết với doanh nghiệp, chán nản công việc, oán trách xã hội, mất lòng tin vào chế độ ....
Để phát huy được tác dụng đòn bẩy kinh tế của tiền lương ,các doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề cơ bản sau:
-Xác định hợp lý quỹ tiền lương doanh nghiệp trong năm.
- Xác định mức lương bình quân của mỗi công nhân viên/năm.
-Đề ra biện pháp làm tăng quỹ tiền lương và tiền lương bình quân trên cở sở tăng khả năng tạo nguồn tiền lương.
-Xác định phương thức phân phối tiền lương theo nội bộ,căn cứ vào nguyên tắc phân phối theo lao động .
Bốn vấn đề trên đây phải được tiến hành trong một thể thống nhất các lợi ích của doanh nghiệp, của người lao động và của toàn xã hội.
II Nguyên tắc hạch toán lao động và tiền lương.
Tại các doanh nghiệp sản xuất, hạch toán chi phí về lao động là một bộ phận công việc phức tạp trong việc hạch toán chi phí kinh doanh, bởi vì cách trả thù lao lao động thường không thống nhất giữa các bộ phận, các đơn vị, các thời kỳ .... Việc hạch toán chính xác chi phí về lao động có vị trí quan trọng, là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm và giá bán sản phẩm. Đồng thời, nó còn là căn cứ để xác định các khoản nghĩa vụ phải nộp cho Ngân sách, cho các cơ quan phúc lợi xã hội. Vì thế, để đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời cho quản lý, đòi hỏi hạch toán lao động và tiền lương phải quán triệt các nguyên tắc sau:
1 Phải phân loại lao động hợp lý:
Do lao động trong doanh nghiệp có nhiều loại khác nhau nên để thuận lợi cho việc quản lý và hạch toán, cần phải tiến hành phân loại. Phân loại lao động là việc sắp xếp lao động vào các nhòm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Về mặt quản lý và hạch toán, lao động thường được phân theo các tiêu thức sau:
ọPhân theo thời gian lao động
Theo thời gian lao động, toàn bộ lao động có thể chia thành lao động thường xuyên, trong danh sách (gồm cả số hợp đồng ngắn hạn và dài hạn) và lao động tạm thời, mang tính thời vụ. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp nắm được tổng số lao động của mình, từ đó có kế hoạch sử dụng, bồi dưỡng, tuyển dụng và huy độnh khi cần thiết. Đồng thời, xác định các khoản nghĩa vụ với người lao động và với Nhà nước được chính xác.
ọPhân theo quan hệ với quá trình sản xuất.
ố Lao động trực tiếp sản xuất: Lao động trực tiếp sản xuất chính là bộ phận công nhân trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Thuộc loại này bao gồm những người điều khiển thiết bị, máy móc để sản xuất sản phẩm (kể cả cán bộ kỹ thuật trực tiếp sử dụng), những người phục vụ quá trình sản xuất ( vận chuyển, bốc dỡ nguyên, vật liệu trong nội bộ; sơ chế nguyên, vật liệu trước khi đưa vào dây truyền sản xuất ....).
ố Lao động gián tiếp sản xuất: Đây là bộ phận lao động tham gia một cách gián tiếp vào quá trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Thuộc bộ phận này bao gồm nhân viên kỹ thuật ( trực tiếp làm công tác kỹ thuật hoặc tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn kỹ thuật), nhân viên quản lý kinh tế ( trực tiếp lãnh đạo, tổ chức, quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh như giám đốc, phó giám đốc kinh doanh, cán bộ các phòng ban kế toán, thống kê, cung tiêu ....), nhân viên quản lý hành chính ( những người làm công tác tổ chức, nhân sự ....).
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp đánh giá được tính hợp lý của cơ cấu lao động. Từ đó có biện pháp tổ chức, bố trí lao động phù hợp với yêu cầu công việc, tinh giản bộ máy gián tiếp.
ọPhân theo chức năng của lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Theo cách này, toàn bộ lao động trong doanh nghiệp có thể chia làm 3 loại:
ố Lao động thực hiện chức năng sản xuất, chế biến: Bao gồm những lao động tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ như công nhân trực tiếp sản xuất, nhân viên phân xưởng ....
ố Lao động thực hiện chức năng bán hàng: Là những lao động tham gia hoạt động tiêu thu sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ như nhân viên bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu thị trường ....
ố Lao động thực hiện chức năng quản lý: Là những lao động tham gia hoạt động quản trị kinh doanh và quản lý hành chính của doanh nghiệp như các nhân viên quản lý kinh tế, nhân viên quản ký hành chính ....
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho việc tập hợp chi phí lao động được kịp thời, chính xác, phân định được chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Phân loại tiền lương một cách phù hợp
Do tiền lương có nhiều loại với tính chất khác nhau nên cần phân loại tiền lương theo tiêu thức phù hợp. Trên thực tế có rất nhiếu cách phân loại tiền lương như phân loại tiền lương theo cách thức trả lương ( lương sản phẩm, lương thời gian), phân theo đối tượng trả lương ( lương gián tiếp, lương trực tiếp), phân theo chức năng tiền lương (lương sản xuất, lương bán hàng, lương quản lý) ....Mỗi một cách phân loại đều có những tác dụng nhất định trong quản lý. Tuy nhiên, để thuận lợi cho công tác hạch toán nói riêng và quản lý nói chung, xét về mặt hiệu quả, tiền lương được chia làm hai loại là tiền lương chính và tiền lương phụ.
Tiền lương chính là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế làm việc bao gồm cả tiền lương cấp bậc, tiền thưởng và các khoản phụ cấp có tình chất tiền lương. Ngược lại, tiền lương phụ là bộ phận tiền lương trả cho người lao động trong thời gian thực tế không làm việc nhưng được chế độ quy định như nghỉ phép, hội họp, học tập, lễ, tết, ngừng sản xuất ....Cách phân loại này không những giúp cho việc tính toán, phân bổ chi phí tiền lương được chính xác mà còn cung cấp thông tin cho việc phân tích chi phí tiền lương .
III Các chế độ tiền lương.
Việc tính và trả chi phí lao động có thế thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đặc điểm hoạt động kinh doanh, tính chất công việc và trình độ quản lý của doanh nghiệp. Mục đích của chế độ tiền lương là quán triệt nguyên tắc phân phối theo lao động. Trên thực tế, thường áp dụng các hình thức (chế độ) tiền lương theo thời gian,tiền lương theo sản phẩm và tiền lương khoán.
Tiền lương theo thời gian
Thường áp dụng cho lao động làm công tác văn phòng như hành chính quản trị, tổ chức lao động, thống kê, tài vụ-kế toán .... Trả lương theo thời gian là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào thời gian làm việc thực tế. Tiền lương theo thời gian có thể chia ra:
-Tiền lương tháng: tiền lương tháng là tiền lương trả cố định hàng tháng trên cơ sở hợp đồng lao động hoặc trả lương theo thời gian lao động thực tế dựa vào mức lương ngày của người lao động được quy định trong Nghị định 25-26CP. Có thể tính theo công thức:
Lt = Ln ẹ Snlvtt
Trong đó:
Lt : Mức tiền lương tháng
Ln: Mức tiền lương ngày
Snlvtt : Số ngày làm việc thực tế trong tháng
-Tiền lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc được xác định trên cơ sở :
trong đó:
Ltuần : tiền lương một tuần được lĩnh
-Tiền lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc và được xác định bằng cách:
-Tiền lương giờ: là tiền lương trả cho một giờ làm việc và được xác định bằng cách lấy tiền lương ngày chia cho số giờ tiêu chuẩn theo quy định cuả Luật Lao động (không quá 8 giờ / ngày).
+ Ưu điểm cơ bản của hình thức trả lương theo thời gian là phù hợp với những công việc không thể định mức hoặc không nên định mức mặt khác tính toán đơn giản, dễ hiểu.
+ Nhược điểm cơ bản của hình thức trả lương này là làm suy yếu vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương và duy trì chủ nghĩa bình quân trong tiền lương ....Vì vậy, cần thực hiện một số biện pháp phối hợp như khuyến khích vật chất, kiểm tra việc chấp hành kỷ luật lao động.
Do những hạn chế nhất định của hình thức trả lương theo thời gian( mang tính bình quân, chưa thực sự gắn với kết quả sản xuất) nên để khắc phục phần nào hạn c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6547.doc