LờI NóI ĐầU
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã định ra phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế nước ta: chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.Các doanh nghiệp từ chỗ thực hiện sản xuất theo kế hoạch: lãi Nhà nước thu, lỗ Nhà nước bù, đã tạo thành thói quen ỷ lại, không thực sự quan tâm đến kết quả kinh doanh, không chú ý cải tiến sản xuất để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp giá thành, đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng. Để th
83 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán nguyên liệu, vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sư dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh tại Công ty TNHH Gốm sứ Bát Tràng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực hiện được mục tiêu đổi mới nền kinh tế, đòi hỏi phải tổ chức lại quy trình sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, sao cho đạt được mức lợi nhuận tối ưu, đảm bảo cuộc sống của người lao động. Câu hỏi này luôn được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đặc biệt quan tâm. Trong nền kinh tế thị trường không thể không có sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp với mục tiêu cuối cùng là tiêu thụ sản phẩm để thu lợi nhuận. Để đứng vững trong cạnh tranh và không ngừng phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp không những sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm với chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng mà còn phải đặc biệt quan tâm đến các khâu trong quá trình sản xuất kể từ khi bỏ vốn ra cho đến khi thu được vốn về sao cho với chi phí bỏ ra ít nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất. Đây là mục tiêu cuối cùng thúc đẩy doanh nghiệp gia tăng doanh số bán ra, tăng nhanh vòng quay của vốn. Từ đó có thể tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, mở rộng quy mô kinh doanh. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải thực hiện tốt công tác quản lý con người, tiền vốn và chi phí mà trong đó chi phí đóng vai trò hết sức quan trọng: “ Cần quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm một cách chặt chẽ trong đó phải đặc biệt coi trong khâu quản lý chi phí NVL”. Để tối đa hoá lợi nhuận, nhất thiết các doanh nghiệp phải giảm chi phí NVL một cách hợp lý. Chính vì vậy công tác tổ chức quản lý NVL luôn được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Vì đây là bộ phận cốt lõi trong các doanh nghiệp sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một phần thể hiện ở hệ thống cơ cấu tổ chức quản lý NVL hợp lý mà trong đó kế toán đóng vai trò quan trọng. Điều này không chỉ đúng cho những doanh nghiệp tham gia cạnh tranh trên thị trường mà còn đúng cả trong những doanh nghiệp sử dụng vốn ngân sách nhà nước và kinh doanh độc quyền. Xuất phát từ vai trò này, việc tổ chức hạch toán NVL hợp lý sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp nói chung và vốn lưu động nói riêng. Do vậy, việc tổ chức công tác kế toán NVL là một tất yếu của quản lý. Các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ NVL từ khâu thu mua, bảo quản, đến khâu sử dụng để vừa đáp ứng đầy đủ nhu cầu của sản xuất, vừa chống thất thoát vốn trong kinh doanh, tránh tình trạng ứ đọng NVL dẫn đến ứ đọng vốn hoặc không cung cấp đầy đủ NVL cho quá trình sản xuất , vừa là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho việc tính đúng giá thành sản phẩm. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng triệt để các biện pháp quản lý mà kế toán là một công cụ quản lý đắc lực, có hiệu quả cả về mặt hiện vật và giá trị.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng là doanh nghiệp Nhà nước, thành lập từ khi cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường. Ngay từ đầu, Công ty đã xác định rõ: tổ chức kế toán NVL là một vấn đề quan trọng, cơ bản để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động, nâng cao công tác quản lý sản xuất và kinh doanh của Công ty.
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn trên, trong thời gian thực tập tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng, nhờ sự giúp đỡ của ban Giám đốc Công ty, lãnh đạo, chuyên viên phòng Kế toán- Tài chính, các phòng ban chức năng cũng như các đơn vị sản xuất trong Công ty cùng với sự hướng dẫn chu đáo tận tình của các thầy cô giáo khoa kế toán tài chính Trường Đại học Kinh tế quốc dân mà trực tiếp hướng dẫn là thầy giáo TS Nguyễn Năng Phúc, cùng với sự nỗ lực của bản thân em đã đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu đề tài:
“Hoàn thiện hạch toán nguyên liệu, vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động trong sản xuất kinh doanh tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng ”.
Nội dung cơ bản của chuyên đề gồm những phần sau:
Lời nói đầu
- Phần I: Những vấn đề lý luận chung về hạch toán nguyên liệu, vật liệu trong các doanh nghiệp.
- Phần II: Thực tế tổ chức hạch toán nguyên liệu, vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
- Phần III: Ưu nhược điểm của công tác tổ chức kế toán nguyên liệu, vật liệu tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên liệu, vật liệu tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
Kết luận.
Do trình độ và thời gian có hạn nên nội dung trong đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự giúp đỡ, góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được hoàn thiện và thiết thực hơn.
PHầN I: những Lý LUậN CHUNG Về hạch TOáN NGUYÊN liệu,vậT LIệU TRONG CáC DOANH NGHIệP.
I- Đặc điểm của nguyên liệu, vật liệu và nhiệm vụ hạch toán nguyên liệu, vật liệu:
1- Định nghĩa, vai trò, đặc điểm của NVL trong sản xuất:
NVL là đối tượng lao động- một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, là cơ sở vật chất cấu thành nên thực thể sản phẩm.
Trong quá trình tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, NVL bị tiêu hao toàn bộ giá trị một lần vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Trong doanh nghiệp sản xuất, chi phí về các loại đối tượng lao động thường chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ chi phí và giá thành sản phẩm. Do vậy tăng cường công tác quản lý, công tác kế toán NVL đảm bảo việc sử dụng hiệu quả, tiết kiệm vật liệu nhằm hạ thấp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có ý nghĩa hết sức quan trọng.
NVL là những đối tượng lao động đã qua chế biến và được thể hiện dưới dạng vật hoá như: sắt, thép trong doanh nghiệp cơ khí chế tạo, da trong doanh nghiệp đóng giày...
NVL chiếm một tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu giá thành sản phẩm và là bộ phận dự trữ quan trọng của doanh nghiệp. Khác với tài sản cố định, NVL có đặc điểm là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất nhất định, giá trị của nó chuyển hết một lần vào giá thành sản phẩm làm ra. Dưới tác động của lao động, chúng bị tiêu hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu để tạo nên thực thể vật chất của sản phẩm. Như vậy, NVL thuộc tài sản lưu động, giá trị NVL thuộc vốn lưu động dự trữ của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm luôn được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chất lượng sản phẩm quyết định sự thành công hay thất bại của sản phẩm. Đây là một tất yếu khách quan của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phát triển của loài người. Sản phẩm có giá trị cao khi yếu tố đầu vào( chủ yếu là NVL) tốt. Điều này sẽ kích thích tiêu dùng, làm tăng doanh số bán ra, đồng thời kéo theo sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất ra NVL khác, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Hiện nay Việt Nam đang tiếp tục mở rộng các hoạt động thương mại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới tức là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách đố đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải có kế hoạch dự trữ NVL, không làm gián đoạn quá trình sản xuất, tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
Do NVL có vai trò quan trọng trong sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp cần phải tổ chức việc quản lý hợp lý trong các khâu: thu mua, vận chuyển, bảo quản, dự trữ và sử dụng NVL. Đây là yếu tố không thể thiếu được để thúc đẩy việc cung cấp kịp thời, đồng bộ vật tư cần thiết cho sản xuất, để kiểm tra giám sát việc chấp hành các quy định dự trữ, ngăn ngừa hiện tượng hư hao, mất mát, lãng phí NVL qua các khâu của quá trình sản xuất.
Để giúp các doanh nghiệp đảm bảo cung cấp đầy đủ NVL cho quá trình sản xuất, Đảng và Nhà nước cần phải có chủ trương khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp cung cấp NVL nhanh chóng, đầy đủ, kịp thời bằng nhiều biện pháp như: giúp đỡ các doanh nghiệp sản xuất giảm bớt các thủ tục phiền hà khi nhập NVL từ nước ngoài, hỗ trợ về tài chính- tín dụng; tạo điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất quan hệ với các nhà cung cấp nước ngoài nhằm tiếp thu khoa học, kỹ thuật mới.
2. Yêu cầu quản lý nguyên vật liệu:
Nguyên liệu,vật liệu là tài sản dự trữ cho sản xuất kinh doanh, nó thường xuyên biến động và chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản xuất ra sản phẩm. Cần phải quản lý chặt chẽ có hiệu quả đối với NVL ở tất cả các khâu thu mua, bảo quản, sử dụng NVL đảm bảo hạ thấp mức tiêu hao NVL. Để có hiệu quả cần phải có những điều kiện nhất định như sau:
- Trước hết trong khâu thu mua: các doanh nghiệp thường xuyên phải tiến hành mua NVL để đáp ứng kịp thời cho quá trình sản xuất sản phẩm và phục vụ cho các nhu cầu khác của doanh nghiệp. Khi thu mua NVL phải được đảm bảo đúng quy cách, chất lượng, chủng loại, tránh va đập gây thiệt hại.
- Doanh nghiệp cần phải có hệ thống kho tàng bến bãi để bảo quản NVL. Tại kho phải trang bị đầy đủ các phương tiện bảo quản, cân đong đo đếm cần thiết.
- Về nhân sự: phải có đầy đủ các nhân viên bảo vệ và thủ kho có nhiệm vụ thích hợp với công việc, nắm vững và thực hiện tốt việc hạch toán ban đầu tại kho.
- NVL phải được sắp xếp gọn gàng trong kho, đảm bảo yêu cầu về công tác bảo quản và kỹ thuật cho phép nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập- xuất kho NVL và công tác kiểm tra.
3. Nhiệm vụ của kế toán nguyên liệu, vật liệu.
Xuất phát từ vị trí và yêu cầu quản lý NVL trong các doanh nghiệp sản xuất, xuất phát từ vị trí kế toán trong quản lý kinh tế: phải thu thập và cung cấp thông tin hoàn chỉnh kịp thời, chính xác về số lượng và giá trị NVL, kiểm soát được mọi hoạt động nhập xuất NVL tại đơn vị, ta thấy được nhiệm vụ của kế toán trong doanh nghiệp sản xuất như sau:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh, tổng hợp số liệu về tình hình thu mua vận chuyển, bảo quản NVL. Đây là nhiệm vụ cơ bản và quan trọng nhất trong kế toán NVL. Thông qua việc phản ánh của kế toán các nhà quản lý doanh nghiệp có thể nắm bắt được toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kiểm tra, đánh giá được tình hình thực hiện kế hoạch, từ đó đề ra các biện pháp nhằm tiết kiệm chi phí, đảm bảo thu lợi nhuận cao.
- Kế toán phải giám sát, phản ánh tình hình công nợ và thanh toán công nợ với nhà cung cấp NVL. Vấn đề cấp bách và quan trọng nhất trong doanh nghiệp là vốn do đó các doanh nghiệp không thể tránh khỏi tình trạng chiếm dụng vốn của các doanh nghiệp khác và bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn. Nếu các doanh nghiệp sản xuất lạm dụng lòng tin của nhà cung cấp NVL, vô ý hoặc cố ý chiếm dụng vốn của nhà cung cấp quá nhiều sẽ dẫn đến tình trạng các nhà cung cấp NVL dừng bán NVL làm quá trình sản xuất kinh doanh ngừng trệ, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Cần áp dụng đúng đắn các phương pháp về kỹ thuật hạch toán NVL, hướng dẫn kiểm tra các bộ phận, đơn vị trong xí nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán ban đầu về vật liệu (lập chứng từ, luân chuyển chứng từ), mở các sổ, thẻ hạch toán chi tiết, thực hiện hạch toán đúng chế độ, đúng phương pháp quy định nhằm đảm bảo thống nhất trong công tác kế toán, tạo điều kiện cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo trong toàn bộ ngành kinh tế.
- Kiểm tra việc chấp hành chế độ về bảo quản, dự trữ và sử dụng NVL, phát hiện ngăn ngừa NVL thiếu, ứ đọng, kém phẩm chất. Tính toán xác định chính xác số lượng, giá trị NVL thực tế đưa vào sử dụng và tiêu hao trong quá trình SXKD, phân bổ chính xác giá trị NVL vào các đối tượng sử dụng (tính vào chi phí sản xuất kinh doanh của các bộ phận, đơn vị sử dụng vật liệu).
- Dựa vào tình hình thực tế và kinh nghiệm vốn có, kế toán nên xây dựng định mức dự trữ, xác định lượng dự trữ cần thiết tối đa, tối thiểu cho sản xuất, xây dựng định mức hao hụt hợp lý trong vận chuyển và bảo quản. Định mức dự trữ phải phù hợp nếu không sẽ gây ứ đọng lượng vốn lớn trong kho không tham gia vào quá trình sản xuất. Lượng vốn ứ đọng này là lượng “vốn chết” không sinh lợi nhuận.
- Kế toán phải thực hiện đầy đủ các quy định về lập sổ danh điểm NVL, thủ tục luân chuyển chứng từ, mở các sổ hạch toán chi tiết, tổng hợp NVL theo đúng chế độ quy định. Thực hiện tốt việc kiểm tra, kiểm kê, đối chiếu NVL, xây dựng chế độ trách nhiệm vật chất trong công tác quản lý và sử dụng NVL trong toàn doanh nghiệp và các đơn vị trực thuộc.
- Thường xuyên tiến hành kiểm kê và đánh giá lại NVL theo chế độ Nhà nước quy định. Lập các báo cáo về NVL phục vụ cho công tác lãnh đạo và quản lý, tiến hành quản lý và phân tích kinh tế tình hình thu mua, bảo quản, dự trữ NVL nhằm phục vụ công tác quản lý NVL hợp lý từng hoạt động từ đầu kỳ, hạ thấp chi phí kinh doanh.
- Xác định chính xác giá trị thực tế của NVL xuất kho và NVL nhập kho.
Xuất phát từ sự đổi mới của cơ chế quản lý, các đơn vị có quyền tự chủ về tài chính cũng như các hoạt động kinh doanh của mình trên nguyên tắc đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi. Điều này đòi hỏi các đơn vị phải xác định chính xác giá trị của NVL gồm giá mua không thuế GTGT, các khoản chi phí vận chuyển bốc dỡ, thuế phải nộp ở khâu mua (nếu có). Nếu việc xác định tổng chi phí quá nhỏ so với mức chi phí thực tế sẽ dẫn đến “ lãi giả”, chi phí thực tế “ăn vào vốn” làm vốn kinh doanh không được bảo toàn. Nếu xác định tổng chi phí quá lớn sẽ ảnh hưởng đến việc xác định kết quả SXKD.
II. Phân loại và tính giá nguyên vật liệu.
1. Phân loại nguyên vật liệu.
NVL là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. NVL sử dụng trong các doanh nghiệp có rất nhiều loại với quy cách, phẩm chất, công dụng kinh tế, mục đích sử dụng, nguồn hình thành khác nhau. Để tổ chức tốt công tác quản lý nhất thiết chúng ta phải phân loại NVL nghĩa là phải xắp xếp NVL cùng loại với nhau theo đặc trưng nhất định nào đó tạo thành từng nhóm để thuận lợi cho việc theo dõi.
Ta có thể phân loại NVL như sau:
- NVL chính: là những loại NVL sau khi tham gia vào quá trình sản xuất sẽ cấu thành cơ sở vật chất chủ yếu của sản phẩm.
- NVL phụ: là những vật liệu phụ chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với NVL chính để hoàn thiện và nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm hoặc để phục vụ nhu cầu kỹ thuật, nhu cầu quản lý.
- Nhiên liệu: là những thứ dùng để tạo ra nhiệt năng như than đá, than bùn, xăng dầu...Thực chất nhiên liệu là một loại vật liệu phụ nhưng được tách ra thành một loại riêng do vai trò quan trọng của nó trong nền KTQD.
- Bao bì đóng gói: là các loại vật phẩm dùng để bao gói, buộc sản phẩm để tạo ra thành phẩm hoàn chỉnh như chai đựng nước, hộp đựng thực phẩm...
- Phế liệu: là những thứ bị loại ra trong quá trình sản xuất, sử dụng tài sản, có thể sử dụng lại hoặc bán ra ngoài.
- Phụ tùng thay thế: là những loại phụ tùng cần dự trữ để sửa chữa, thay thế các bộ phận của máy móc, thiết bị sản xuất...
- Thiết bị xây dựng cơ bản: là loại vật liệu phục vụ cho quá trình xây dựng cơ bản như trang thiết bị điện, đường ống...
Trong thực tế, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, yêu cầu quản lý của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể phân loại NVL sao cho dễ quản lý.
Ngoài ra còn một số cách phân loại khác như: NVL có thể được phân loại theo nguồn hình thành:
+ NVL mua ngoài.
+ NVL thu được từ hoạt động gia công tự chế.
+ NVL thu được từ hoạt động góp vốn liên doanh.
+ NVL thuê ngoài gia công.
+ NVL thu hồi được từ quá trình sản xuất.
Trong ngành xây dựng có thể phân loại NVL như sau: Vật liệu xây dựng; vật kết cấu; thiết bị xây dựng.
Việc phân loại NVL như trên giúp cho kế toán tổ chức tài khoản, tiểu khoản để phản ánh tình hình hiện có và sự biến động của các loại NVL trong quá trình sản xuất, giúp cho doanh nghiệp biết rõ nội dung kinh tế, vai trò, chức năng của từng loại NVL. Từ đó doanh nghiệp có những biện pháp thích hợp trong quản lý và sử dụng có hiệu quả các loại NVL như: kế toán có thể chia NVL thành từng loại giao cho mỗi nhân viên kế toán phụ trách một hoặc một số loại NVL nếu điều kiện doanh nghiệp cho phép có từ hai nhân viên kế toán trở lên. Việc phân loại này còn tạo điều kiện cho các nhân viên kế toán kiểm tra kho dễ dàng.
Phân loại NVL cho phép kế toán bao quát được toàn bộ chủng loại NVL nói chung, tạo điều kiện và khả năng xem xét, phân tích có hệ thống toàn bộ danh mục NVL, đánh giá tình hình cơ cấu NVL theo từng nhóm, từng loại, trong từng mặt nhu cầu để có biện pháp xử lý sao cho phù hợp.
NVL được phân loại sẽ tạo điều kiện cho các nhà quản lý khái quát, phân tích yêu cầu chất lượng NVL , đưa ra những biện pháp cần thiết nhằm bảo quản NVL theo từng chủng loại.
Ngoài ra phân loại NVL còn đảm bảo tính trật tự, tính hệ thống hợp lý trong kết cấu danh mục NVL, tạo thuận lợi để hợp lý hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh như tổ chức bố trí cơ sở sản xuất, tổ chức NVL, tổ chức mua bán NVL, bảo quản, vận chuyển NVL... đưa lại hiệu quả chung cho kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm.
Nói chung việc phân loại NVL đúng sẽ có tác dụng tích cực đến nhiều mặt hoạt động của xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng cụ thể như: nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, lưu thông, tiêu dùng cũng như hoạt động quản lý.
Tuy nhiên để đảm bảo nhu cầu NVL cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp tiến hành thường xuyên, liên tục và quản lý NVL một cách chặt chẽ cần phải nhận biết được một cách cụ thể số hiện có, tình hình biến động của từng thứ NVL. Bởi vậy các loại NVL như đã nêu trên cần phân chia một cách cụ thể chi tiết, tỉ mỷ hơn theo tính năng lý hoá, theo quy cách phẩm chất của NVL. Việc tiến hành phân chia một cách tỉ mỷ NVL trong doanh nghiệp được thực hiện trên cơ sở xây dựng và lập các sổ danh điểm NVL. Ta có thể chia NVL thành các loại, nhóm, thứ. Mỗi loại, nhóm, thứ được sử dụng một ký hiệu riêng bằng hệ thống chữ số thập phân để thay thế tên gọi, nhãn hiệu, quy cách vật liệu. Ký hiệu này được gọi là số danh điểm NVL và được sử dụng thống nhất trong phạm vi toàn doanh nghiệp nhằm bảo đảm cho các bộ phận trong doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý.
Mỗi loại NVL sử dụng một hoặc một số trang trong sổ danh điểm NVL để ghi đủ các nhóm, thứ vật liệu (danh điểm NVL) thuộc loại vật liệu đó. Sổ danh điểm NVL được xây dựng trên cơ sở số hiệu của các loại vật liệu, nhóm vật liệu và đặc tính thứ vật liệu mà xây dựng số hiệu gồm 1, 2 hoặc 3 chữ số. Số lượng dưới 10 thì sử dụng 1 chữ số; số lượng dưới 100 thì sử dụng 2 chữ số...
2. Tính giá nguyên vật liệu.
- Xác định chính xác giá trị thực tế của NVL xuất kho và NVL nhập kho.
Xuất phát từ sự đổi mới của cơ chế quản lý, các đơn vị có quyền tự chủ về tài chính cũng như các hoạt động kinh doanh của mình trên nguyên tắc đảm bảo lấy thu bù chi và có lãi. Điều này đòi hỏi các đơn vị phải xác định chính xác giá trị của NVL gồm giá mua không thuế GTGT, các khoản chi phí vận chuyển bốc dỡ, thuế phải nộp ở khâu mua (nếu có). Nếu việc xác định tổng chi phí quá nhỏ so với mức chi phí thực tế sẽ dẫn đến “ lãi giả”, chi phí thực tế “ăn vào vốn” làm vốn kinh doanh không được bảo toàn. Nếu xác định tổng chi phí quá lớn sẽ ảnh hưởng đến việc xác định kết quả sản xuất kinh doanh.
Việc đánh giá NVL thực chất là xác định trị giá NVL nhập- xuất- tồn. Việc đánh giá này phải đảm bảo đúng nguyên tắc giá phí và nguyên tắc nhất quán có nghĩa là mọi tài sản phải được xác định trên chi phí trực tiếp tạo ra tài sản đó. Kế toán phải thống nhất đảm bảo từ đầu đến cuối về các nội dung và chỉ tiêu. Nếu có sự thay đổi phải giải trình.
Trong thực tế giá trị NVL mua vào trên thị trường luôn có sự thay đổi kéo theo sự thay đổi về giá trị NVL tồn kho. Thực tế này đã gây khó khăn cho công tác quản lý vốn lưu động của doanh nghiệp đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn có giá trị NVL tồn kho cao. Nếu giá NVL trên thị trường tăng quá cao, vì lợi nhuận kinh tế một số người sẽ đầu cơ tích trữ NVL kiếm lời trong tương lai sẽ dẫn đến hiện tượng khan hiếm giả tạo, hậu quả làm ngưng trệ sản xuất, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất của doanh nghiệp. Theo chế độ kế toán hiện hành tại VN, giá trị NVL tồn kho không được phản ánh theo giá trị thị trường điều này không phản ánh chính xác chi phí sản xuất thực tế, không phản ánh đúng kết quả kinh doanh thật sự, gây thiệt hại cho Nhà nước. Để đánh giá đúng giá trị NVL tồn kho theo giá thị trường, ở nước ta hiện nay chế độ kế toán cho phép lập “quỹ dự phòng giảm giá hàng tồn kho”, quỹ này được đưa vào tài khoản 159 nhưng chỉ khắc phục được phần nhỏ sự biến động. Nếu nền kinh tế có sự đột biến- có thể do thể chế chính trị thay đổi, cơ chế đầu tư thông thoáng hơn kích thích các doanh nghiệp cung cấp NVL cạnh tranh, hạ giá thành NVL làm giá trên thị trường giảm mạnh khi đó quỹ dự phòng trở nên kém tác dụng, doanh nghiệp phải chịu thiệt hại đáng kể do sự tác động của các yếu tố này. Mặt khác nếu giá thị trường tăng thì doanh nghiệp hoàn toàn không được hưởng lợi từ phần chênh lệch. Với cách hạch toán này theo tôi chưa phản ánh chính xác giá trị thực tế NVL tồn kho của doanh nghiệp, gây khó khăn cho ban lãnh đạo trong việc đưa ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh.
Để đưa ra được kế hoạch sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản lý cần nắm rõ tình hình thực tế tài sản của doanh nghiệp mình. Muốn vậy các chuyên gia kế toán tại VN nên nghiên cứu cách hạch toán cho phù hợp, tránh thiệt thòi cho các doanh nghiệp. Theo tôi, để nắm được giá trị thực tế của NVL tồn kho khi giá NVL trên thị trường giảm, kế toán nên có sổ riêng theo dõi chi tiết từng loại NVL, ghi sổ giảm theo giá thị trường vào cuối tháng. Cuối kỳ, kế toán phải tập hợp toàn bộ giá trị giảm. Khoản này được đưa vào chi phí bất thường. Nếu giá trị NVL tồn kho trên thị trường tăng, kế toán không thừa nhận.
Theo chế độ kế toán các doanh nghiệp hiện nay đang áp dụng phương pháp tính giá NVL nhập- xuất kho như sau:
* Giá thực tế nhập kho :
+ Đối với NVL mua ngoài:
Gía Giá mua Thuế phải nộp CF mua Chiếtkhấu,
nhập kho = (chưa thuế + trong khâu + (vận chuyển, - giảm giá
NVL VAT) mua bốc dỡ...)
+ Đối với NVL tự gia công chế biến:
Giá Giá NVL Chi phí CF vận chuyển
nhập kho = khi giao + gia công + (cả đi và về nếu thuê
NVL gia công ngoài gia công)
+ Đối với NVL nhận góp vốn liên doanh:
Giá nhập kho NVL = Giá do hội đồng liên doanh đánh giá
+ Đối với phế liệu thu hồi:
Giá nhập kho phế liệu = giá ước tính có thể sử dụng được hoặc bán được
* Gía thực tế xuất kho NVL:
Khi xuất NVL cho sản xuất, kế toán phải tính được trị giá vốn của NVL xuất kho. Hiện nay các doanh nghiệp thường áp dụng các phương pháp sau để tính trị giá NVL xuất kho:
+ Phương pháp đơn giá bình quân gia quyền: giá thực tế NVL được tính trên cơ sở số lượng NVL xuất dùng và đơn giá bình quân NVL tồn đầu kỳ.
Trị giá NVL xuất kho = số lượng xuất x đơn giá bình quân đầu kỳ
Trong đó:
Trị giá NVL tồn đầu kỳ
Đơn giá bình quân đầu kỳ =
Số lượng NVL tồn đầu kỳ
+ Phương pháp đơn giá bình quân gia quyền: về cơ bản phương pháp này giống như phương pháp trên nhưng đơn giá NVL được tính bình quân cho cả số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ. Phương pháp này tương đối hợp lý, không phụ thuộc vào số lần nhập kho nhiều hay ít. Nhưng phương pháp này chỉ tiến hành vào cuối kỳ hạch toán nên sẽ gây khó khăn cho kế toán vì công việc tăng lên nhiều.
+ Phương pháp hệ số giá: doanh nghiệp sử dụng giá hạch toán để theo dõi giá trị của NVL, đến cuối tháng điều chỉnh theo giá thực tế.
Hệ Trị giá NVL thực tế tồn ĐK + Trị giá NVL thực tế nhập trong kỳ
số =
giá Trị giá NVL tồn đầu kỳ + Trị giá NVL nhập trong kỳtheogiá
theo giá hạch toán hoạch toán
Khi điều chỉnh:
Trị giá NVL xuất kho = Trị giá NVL xuất kho x Hệ số giá
(điều chỉnh) trong kỳ
+ Phương pháp đích danh: giá trị thực tế NVL xuất kho được xác định căn cứ vào đơn giá thực tế NVL nhập kho theo từng lô, từng lần nhập và số lượng xuất kho theo từng lần.
+ Phương pháp nhập trước- xuất trước: theo phương pháp này cần xác định gía thực tế nhập kho từng lần nhập. Sau đó tính theo đơn giá thực tế nhập trước đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập trước, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế các lần nhập sau. Phương pháp này được thực hiện thường xuyên nên việc tính giá là tương đối hợp lý. Kế toán phải tiến hành theo dõi chi tiết nhiều , tiến hành công phu.
+ Phương pháp nhập sau- xuất trước: xác định đơn giá của từng lần nhập nhưng khi xuất sẽ căn cứ vào số lượng xuất và đơn giá thực tế nhập kho lần cuối sau đó mới lần lượt đến các lần nhập trước để tính giá thực tế xuất kho. Công việc tính toán trong phương pháp này khá đơn giản, không bị phụ thuộc vào số lần nhập- xuất NVL nhiều hay ít. Nhưng nếu giá cả NVL biến động mạnh thì phương pháp này tỏ ra thiếu tính chính xác.
Để đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất không chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh như thế nào mà còn phải xét cả kế hoạch đặt ra xem có sát với thực tế hay không, có khả năng thực thi hay không.
Muốn kế hoạch đặt ra sát với thực tế, vấn đề cơ bản đòi hỏi người lập kế hoạch phải dựa trên cơ sở các kết quả đạt được, phân tích xem kết quả đó đạt được ở mức độ nào, do nguyên nhân chủ quan khách quan nào tác động. Để việc phân tích được tỉ mỉ, chi tiết có tác dụng cao nhất cho việc lập kế hoạch cho kỳ tới cần phải có nguồn thông tin đầy đủ, chính xác và toàn diện nhất. Kế toán phải cung cấp thông tin cần thiết để người quản lý có thể xây dựng được kế hoạch cho các kỳ sau.
Như vậy, kế toán trưởng đóng vai trò quan trọng đối với công tác quản lý kinh tế. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự đổi mới sâu sắc của cơ chế quản lý kinh tế đòi hỏi công tác kế toán nói chung và công tác kế toán NVL nói riêng phải không ngừng được cải thiện để đáp ứng tốt yêu cầu của quản lý kinh tế.
III- Tổ chức hạch toán chi tiết nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp.
1- Sự cần thiết phải tổ chức hợp lý quá trình hạch toán NVL trong doanh nghiệp:
Để quản lý có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn ở các đơn vị, các nhà quản lý cần phải nắm được các thông tin về các hoạt động kinh tế bao gồm những thông tin về chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, thông tin về hiệu quả của quá trình kinh doanh, thông tin về sử dụng tài sản, vật tư, tiền vốn trong quá trình kinh doanh. Tất cả những thông tin đó chỉ có thể nhận biết được thông qua hạch toán kế toán. Các hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị dù xảy ra ở bất kỳ thời gian nào, địa điểm nào cũng đều được kế toán hạch toán thông qua việc sử dụng hệ thống các phương pháp khoa học của mình để thu nhận một cách kịp thời, đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và chính xác. Việc thu thập, kiểm tra các thông tin này là cơ sở giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những quyết định đúng đắn chỉ đạo hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Chính vì vậy, hạch toán là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, kế toán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế tài chính, đảm nhiệm hệ thống tổ chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế. Để phát huy vai trò quan trọng của kế toán, yêu cầu đặt ra cho các doanh nghiệp là tổ chức thật khoa học và hợp lý công ttác hạch toán kế toán trong doanh nghiệp mình.
Tổ chức công tác kế toán bao gồm việc tổ chức hệ thống chứng từ, luân chuyển chứng từ, tổ chức hệ thống sổ sách và tổ chức bộ máy kế toán nhằm mục tiêu thực hiện nhiệm vụ kế toán.
Tổ chức công tác hạch toán kế toán là một vấn đề cấp bách có tính chất thời sự trong mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, đặc biệt trong điều kiện đổi mới sâu sắc cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta.
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế, hệ thống kế toán VN đã được thay đổi để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và các thông lệ Quốc tế. Song với sự phát triển kinh tế khá nhanh là các nghiệp vụ kế toán phát sinh trong doanh nghiệp ngày càng nhiều và phức tạp đòi hỏi công tác quản lý kinh tế cao. Vì vậy công tác tổ chức hạch toán kế toán phải ngày càng hoàn thiện hơn nhằm tăng hiệu lực của thông tin kế toán, tăng cường vai trò của hạch toán kế toán trong quản lý kinh tế của doanh nghiệp.
Kế toán NVL là việc ghi chép, phản ánh thường xuyên liên tục, có hệ thống tình hình nhập- xuất- tồn kho các loại NVL, thành phẩm hàng hoá...về giá trị, số lượng, chất lượng của NVL theo từng kho, từng người phụ trách. Đồng thời phản ánh và truy cứu trách nhiệm. đôn đốc sử lý kịp thời các trường hợp thừa thiếu, tổn thất NVL trong quá trình mua bán dự trữ NVL theo đúng chế độ quy định.
Tổ chức đúng đắn và hợp lý công tác kế toán NVL sẽ tạo ra một hệ thống chứng từ sổ sách vận động phù hợp với những biến động về mặt chất lượng và số lượng của NVL phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng những yêu cầu về cung cấp thông tin kịp thời, chính xác toàn diện cho quản lý và giám đốc đầu vào của quá trình sản xuất. Hơn nữa việc tổ chức đúng đắn công tác kế toán hoạt động nhập, xuất NVL còn tạo ra sự vận hành của toàn bộ hệ thống kế toán một cách nhịp nhàng, ăn khớp và đạt hiệu quả cao trong doanh nghiệp.
Xét về yếu tố thực tiễn ta thấy trong tình hình hiện nay, công tác kế toán ở các doanh nghiệp mặc dù đã cố gắng sửa đổi bổ sung theo những quy định của Bộ tài chính song còn nhiều tồn tại và vướng mắc cả ở khâu tổ chức và nghiệp vụ hạch toán: tính trung thực, chính xác của số liệu kế toán chưa cao, chưa đảm bảo độ tin cập để đánh giá đúng thực trạng tài chính, thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp... Thông thường hiện nay trong các doanh nghiệp Nhà nước nói chung và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nói riêng vẫn tồn tại hinh thức hai sổ kế toán nhằm mục đích gian lận kinh tế. Việc tổ chức công tác kế toán NVL trong các doanh nghiệp sản xuất còn chưa thống nhất. Hệ thống chứng từ sổ sách, tài khoản sử dụng chưa đáp ứng được nhu cầu phân cấp quản lý, chưa cung cấp kịp thời thông tin cho quản lý, tạo nên sự khập khiễng trong việc đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: hạch toán NVL sai, việc tập hợp CFSX sẽ sai và ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, tạo nên môi trường cạnh tranh không lành mạnh, đẩy một số DNSX vào tình trạng tài chính khó khăn.
Xuất phát từ vấn đề lý luận thực tiến trên, chúng ta có thể nói rằng: việc tổ chức hợp lý, đúng đắn công tác hạch toán NVL là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những nhược điểm của công tác tổ chức kế toán, phục vụ yêu cầu quản lý.
Tổ chức hợp lý công tác kế toán NVL là việc tổ chức bộ máy kế toán sao c._.ho mọi hoạt động của công tác kế toán được thực hiện nhanh chóng, chính xác, thông suốt, cung cấp đầy đủ các số liệu làm cơ sở cho việc kiểm tra giám sát chi phí SXKD và kết quả hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Để công tác kế toán được tổ chức khoa học, hợp lý cần đáp ứng những yêu cầu sau:
- Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với môi trường sản xuất kinh doanh, điều kiện hiện có của doanh nghiệp.
- Công tác kế toán phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm hoạt động SXKD, phù hợp với bộ máy quản lý kinh tế, bộ máy sản xuất của doanh nghiệp.
- Trên cơ sở những kiến thức vốn có cần xây dựng cơ cấu kế toán phù hợp với năng lực, trình độ của đội ngũ nhân viên kế toán và những điều kiện cơ sở vật chất có thể có.
- Sự phát triển với tốc độ cao của công nghệ thông tin, tuỳ thuộc điều kiện của doanh nghiệp mà doanh nghiệp dần dần tin học hoá công tác kế toán nhằm giảm bớt khối lượng công việc của kế toán, hệ thống sổ sách được thu gọn, kế toán có thể tra cứu thông tin nhanh chóng nhất.
- Đảm bảo hiệu quả kinh tế với chi phí thấp nhất đạt hiệu quả cao nhất trong kế toán.
2 . Tổ chức hợp lý công tác hạch toán ban đầu:
Hạch toán ban đầu làm cơ sở cho hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp. Hạch toán ban đầu là công việc khởi đầu của toàn bộ công việc ghi chép kế toán, nhưng lại không do cán bộ kế toán trực tiếp thực hiện mà đại bộ phận công việc hạch toán ban đầu do cán bôn kế toán quản lý kho thực hiện theo sự hướng dẫn của kế toán NVL.
Vì vậy phòng kế toán của doanh nghiệp phải lựa chọn đúng cán bộ kế toán thông hiểu việc quản lý NVL phong phú đa dạng, có trách nhiệm hướng dẫn kiểm tra việc hạch toán ban đầu với các cán bộ quản lý kho, cần thu thập, kiểm tra chứng từ ban đầu và luân chuyển chứng từ ban đầu kịp thời để đảm bảo ghi sổ kế toán nhanh chóng.
Yêu cầu của việc lập chứng từ ban đầu và hạch toán ban đầu phải phản ánh trung thực nội dung các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hoàn thành chính xác các chỉ tiêu về số lượng, giá trị mà các nghiệp vụ này có tác động trực tiếp đến CFSX của doanh nghiệp.
Do chủng loại NVL trong các doanh nghiệp sản xuất thường lớn, đa dạng vì vậy việc hạch toán NVL là công việc có khối lượng lớn, là khâu hạch toán khá phức tạp trong doanh nghiệp. Để tổ chức hợp lý hạch toán ban đầu cần phải đạt được những yêu cầu sau:
- Hoàn thiện chứng từ: tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong doanh nghiệp luôn đi kèm với chứng từ. Chứng từ kế toán là cơ sở đầu tiên ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Mỗi bản chứng từ cần chứa đựng tất cả các chỉ tiêu đặc trưng cho nghiệp vụ kinh tế đó về nội dung, quy mô, thời gian, địa điểm xảy ra nghiệp vụ kinh tế cũng như người chịu trách nhiệm về nghiệp vụ và người lập bản chứng từ... Ngoài các yêu cầu cơ bản mà chứng từ cần phải có, để hoàn thiện chứng từ theo tôi những người sử dụng chứng từ cần phải đặc biệt chú ý đến sổ danh điểm nguyên vật liệu và những điều sau:
+ Các chỉ tiêu trên chứng từ cần phải ghi rõ ràng, số phát sinh của các nghiệp vụ kinh tế phải ghi chính xác, cụ thể trong chứng từ, không tẩy xoá con số đã ghi. Nếu các loại NVL thuộc loại đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng phải đảm bảo ghi đầy đủ phần giá NVL chưa có thuế, thuế VAT và tổng giá thanh toán của NVL. Đối với những doanh nghiệp hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp sổ số dư có sử dụng phiếu giao nhận chứng từ, thông thường người giao chứng từ là thủ kho, người nhận chứng từ là kế toán. Phiếu xuất (hoặc nhập) kho phải có đầy đủ ba chữ ký của người có trách nhiệm liên qua theo yêu cầu, theo tôi nên thêm phần người nhận chứng từ ký nhận vào phiếu xuất (hoặc nhập) kho khi đó sẽ không phải lập phiếu giao nhận chứng từ. Điều này không những làm đơn giản hoá cho kế toán trong doanh nghiệp áp dụng kế toán chi tiết theo phương pháp sổ số dư mà còn nâng cao trách nhiệm của nhân viên kế toán bởi tính pháp lý thể hiện qua chữ ký của họ.
+ Chứng từ được lập cần đảm bảo tính pháp lý, đảm bảo đúng thời gian và địa điểm phát sinh nghiệp vụ kinh tế. Cần phải bố trí khoa học sao cho số lượng chứng từ ít nhưng phải phản ánh được thông tin nhiều nhất.
+ Tổ chức chỉ đạo, hướng dẫn việc thực hiện chế độ ghi chép ban đầu cho từng bộ phận trong đơn vị giúp cho họ có thể ghi chép chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
+ Trong cơ chế thị trường, Nhà nước đang dần hướng các doanh nghiệp Nhà nước thành các tập đoàn kinh tế có thế mạnh, hoạt động theo mô hình Tổng công ty 90, 91. Do đó để đảm bảo cho yêu cầu quản lý ngày càng mang tính phức tạp, nên tiêu chuẩn hoá chứng từ có nghĩa tạo ra các chứng từ tiêu chuẩn chuyên dùng cho từng ngành, từng loại hình đơn vị quản lý và kinh doanh, từng thành phần kinh tế.
Tóm lại, các chứng từ được lập phải thoả mãn yêu cầu có tính nguyên tắc trong việc biểu hiện sự hài hoà giữa hai mặt: gọn (dễ lưu trữ, dễ luân chuyển, dễ sử dụng cho máy tính); rõ ràng( diễn đạt rõ ràng, chuẩn xác nội dung, nghiệp vụ kinh tế và các bên chịu trách nhiệm liên đới).
- Hoàn thiện quá trình luân chuyển chứng từ: luân chuyển chứng từ là sự vận động liên tục, kế tiếp nhau từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Nó được xác định từ khâu lập( hoặc tiếp nhận từ bên ngoài) đến khâu lưu trữ. Hoàn thiện luân chuyển chứng từ là việc xác định các khâu tiếp nhận, xử lý chứng từ sao cho giảm tới mức thấp nhất việc ghi chép sổ kế toán, không bị trùng lắp mà lượng thông tin vẫn đầy đủ đảm bảo cho quản lý, tiện cho kiểm tra đối chiếu.
Tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp cụ thể, với quy mô, chức năng nhiệm vụ khác nhau mà sự vận động của chứng từ qua các khâu là khác nhau. Đối với NVL, thông thường số lượng chứng từ nhiều, lập tại các địa điểm với thời gian khác nhau nhưng chủng loại chứng từ không nhiều, đơn giản( phiếu nhập, phiếu xuất, một số chứng từ dẫn chiếu như giấy xin cấp vật tư...). Do vậy yêu cầu đặt ra là phải quản lý chặt chẽ về số lượng chứng từ, tính hợp pháp của chứng từ, làm cơ sở căn cứ tập hợp chi phí tính giá thành sản phẩm.
3. Xây dựng danh mục các tài khoản và vận dụng hệ thống tài khoản kế toán do Bộ Tài chính ban hành cho phù hợp với DNSX:
Với chức năng quản lý nền tài chính của một quốc gia, Bộ Tài chính đã đưa ra một chế độ kế toán linh hoạt áp dụng cho toàn bộ các doanh nghiệp thuộc lãnh thổ VN. Trong chế độ kế toán có hệ thống tài khoản kế toán thống nhất được xây dựng để phản ánh toàn bộ hoạt động kinh tế tài chính của các ngành KTQD. Trong từng ngành kinh tế có thể căn cứ vào hệ thống tài khoản để xây dựng hệ thống tài khoản thống nhất trong ngành.
Hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp được ban hành theo quyết định số 1141TC/ QĐ/ CĐKT ngày 1/ 11/ 1995 và bổ sung thêm một số tài khoản theo thông tư số 10/ TT/ CĐKT ngày 20/ 3/ 1997; thông tư số 100/ 1998/ TT- BTC ngày 15/ 7/ 1998 để sử dụng cho mọi doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Hệ thống tài khoản kế toán hiện nay gồm 75 tài khoản cấp I, ngoài ra còn có các tài khoản cấp II và 7 tài khoản ngoài bảng cân đối. Các tài khoản trong hệ thống tài khoản được đánh số hiệu theo các mã số thuận tiận cho việc sử dụng máy vi tính. Tài khoản cấp I và tài khoản cấp II do Bộ Tài chính hoặc ngành chủ quản được sự thoả thuận của Bộ Tài chính ban hành. Các doanh nghiệp căn cứ vào yêu cầu quản lý cụ thể để mở các tài khoản cấp III và IV... nhằm phản ánh chi tiết các chỉ tiêu cần quản lý phục vụ cho việc cung cấp các thông tin quản trị.
Đơn vị phải căn cứ vào nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của mình và hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của ngành xác định danh mục các tài khoản kế toán tổng hợp, các tài khoản cấp II cần sử dụng để phản ánh toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Ngoài ra cần phải xác định toàn bộ các tài khoản chi tiết phải mở nhằm phục vụ yêu cầu quản lý tài sản, vật tư, tiền vốn của đơn vị phục vụ yêu cầu phân cấp quản lý KTTC trong nội bộ doanh nghiệp.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý và đặc điểm SXKD các DNSX sử dụng các tài khoản chủ yếu sau để hạch toán tổng hợp sự biến động của NVL:
TK 152: “ ” tài khoản này sử dụng để phản ánh số hiện có và tình hình biến động của NVL tồn kho trong doanh nghiệp. TK152 có các TK cấp II để kế toán chi tiết NVL theo từng loại, nhóm, thứ NVL như sau:
TK 1521: NVL chính
TK 1522: NVL phụ
TK 1523: Nhiên liệu
TK 1524: Phụ tùng thay thế
TK 1525: Thiết bị XDCB
TK 1528: Phế liệu
TK 331: “ phải trả người bán” phản ánh mối quan hệ thanh toán giưã doanh nghiệp với nhà cung cấp.
TK 133: “ thuế giá trị gia tăng được khấu trừ” phản ánh số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, đã khấu trừ và còn được khấu trừ.
Ngoài ra còn sử dụng một số tài khoản có liên quan như sau:
TK 154: chi phí SXKD dở dang
TK 111: tiền mặt
TK 112: tiền gửi ngân hàng
TK 3381: tài sản thừa chờ giải quyết
TK 1381: tài sản thiếu chờ giải quyết
TK 412: chênh lệch đánh giá lại tài sản
Bên cạnh đó còn sử dụng một số tài khoản sau: TK 621; TK 627; TK 641; TK 642; TK 411...
4. Các phương pháp hạch toán chi tiết NVL:
Hạch toán chi tiết NVL là việc ghi chép, theo dõi về mặt giá trị, số lượng, chất lượng của từng thứ, từng loại NVL theo tưng kho, từng người phụ trách.
Hạch toán chi tiết NVL là công việc có khối lượng lớn và là khâu hạch toán khá phức tạp trong doanh nghiệp. Công việc hạch toán chi tiết NVL được tiến hành cả ở trong kho và ở phòng kế toán. Trong thực tế hiện nay, tuỳ theo điều kiện kinh doanh cụ thể, tuỳ theo trình độ quản lý và hạch toán mà ở các doanh nghiệp đang áp dụng một trong ba phương pháp kế toán chi tiết NVL sau:
* Phương pháp thẻ song song:
Nội dung phương pháp này được khái quát bởi sơ đồ sau:
SƠ Đồ HạCH TOáN CHI TIếT NVL THEO PHƯƠNG PHáP
THẻ SONG SONG
Bảng tổng hợp nhập, xuất tồn kho vật liệu
Kế toán tổng hợp
Phiếu xuất kho
Phiếu nhập kho
Thẻ kho
Thẻ hoặc sổ chi tiết vật liệu
Ghi chú
Ghi hàng ngày
Quan hệ đối chiếu
Ghi cuối tháng
Với những doanh nghiệp có ít chủng loại NVL, mật độ xuất lớn, cần giám sát thường xuyên, hệ thống kho tàng tập trung, kế toán có thể kiểm tra đối chiếu liên tục( 3- 5 ngày), có điều kiện về lao động kế toán NVL để kiểm tra đối chiếu ghi sổ và yêu cầu quản lý phải thường xuyên cung cấp các chỉ tiêu hiện vật cũng như giá trị cho từng kho, từng chủng loại vật tư. Hạch toán chi tiết NVL theo phương pháp này đơn giản, dễ kiểm tra, đối chiếu nhưng việc ghi chép giữa kho và phòng kế toán còn bị trùng lắp về chỉ tiêu số lượng. Hơn nữa việc kiểm tra, đối chiếu chủ yếu tiến hành vào cuối tháng, do vậy hạn chế chức năng của kế toán.
* Phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển:
Phương pháp này được hình thành trên cơ sở cải tiến một bước phương pháp thẻ song song. Nội dung sơ đồ tổ chức hạch toán như sau:
SƠ Đồ HạCH TOáN CHI TIếT NVL THEO PHƯƠNG PHáP Sổ ĐốI CHIếU LUÂN CHUYểN
Chứng từ nhập
Bảng kê nhập
Thẻ kho
Sổ đối chiếu luân chuyển
Kế toán tổng hợp
Chứng từ xuất
Bảng kê xuất
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Với phương pháp hạch toán này khối lượng ghi chép của kế toán được giảm bớt do chỉ ghi một lần vào cuối tháng. Nhưng việc ghi sổ vẫn bị trùng lắp( phòng kế toán vẫn theo dõi cả chỉ tiêu hiện vật và giá trị). Việc kiểm tra đối chiếu giữa kho và phòng kế toán chỉ tiến hành vào cuối tháng nên hạn chế tác dụng kiểm tra trong công tác quản lý.
Phương pháp này chỉ nên áp dụng với các doanh nghiệp có khối lượng nghiệp vụ nhập xuất không nhiều, không bố trí riêng nhân viên kế toán chi tiết NVL do đó không có điều kiện ghi chép, theo dõi kế toán tình hình nhập- xuất hàng ngày.
* Phương pháp sổ số dư:
Đây là bước cải tiến căn bản trong việc hạch toán chi tiết NVL. Đặc điểm nổi bật của phương pháp này là kết hợp chặt chẽ việc hạch toán nghiệp vụ của thủ kho với việc ghi chép của phòng kế toán. Trên cơ sở đó ở kho chỉ hạch toán về số lượng, phòng kế toán hạch toán về giá trị NVL, xoá bỏ ghi chép trùng lặp giữa kho và phòng kế toán, tạo điều kiện kiểm tra thường xuyên, có hệ thống của kế toán đối với thủ kho.
SƠ Đồ HạCH TOáN CHI TIếT NVL THEO PHƯƠNG PHáP
Sổ Số DƯ
Thẻ kho
Phiếu xuất kho
Sổ số dư
Phiếu giao nhận chứng từ nhập
Phiếu giao nhận chứng từ xuất
Kế toán tổng hợp
Phiếu nhập kho
Bảng luỹ kế nhập, xuất, tồn kho vật liệu
Ghi chú
Ghi cuối ngày Quan hệ đối chiếu
Ghi cuối tháng
Phương pháp sổ số dư được áp dụng tại những doanh nghiệp có chủng loại NVL phong phú, mật độ nhập- xuất tồn lớn nhưng hệ thống kho tàng phân tán, nhân viên kế toán không đủ để thực hiện đối chiếu, kiểm tra thường xuyên.
IV. Hạch toán tổng hợp tình hình luân chuyển nguyên vật liệu.
Vật liệu là tài sản lưu động, thuộc nhóm hàng tồn kho của doanh nghiệp. Việc mở các tài khoản tổng hợp, ghi chép sổ kế toán và xác định giá trị hàng tồn kho, giá trị hàng bán ra hoặc xuất dùng tuỳ thuộc vào việc kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên và phương pháp kiểm kê định kỳ.
Xuất phát từ yêu cầu quản lý và đặc điểm sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp sản xuất sử dụng chủ yếu các tài khoản sau để hạch toán tổng hợp sự biến động nguyên vật liệu.
Sơ đồ hạch toán tổng quát vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên (tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ)
TK 621
TK627,641,642...
TK154
TK 641,3381
Xuất NVL góp vốn liên doanh
TK1381, 642
Tăng do mua ngoài
Xuất để chế tạo sản phẩm
TK 152
TK 331,111,
112,141,311
TK1331
Thuế VAT được khấu trừ
TK151
Hàng đi đường kỳ trước
Nhận cấp phát tặng thưởng,
vốn góp liên doanh...
Thừa phát hiện khi kiểm kê
TK411
TK128, 222
Nhận lại vốn góp liên doanh
Xuất cho chi phí sản xuất
chung,bán hàng, quản lý
TK128, 222
Xuất thuê ngoài gia công chế biến
Phát hiện thiếu khi kiểm kê
TK 412
Đánh
giá giảm
Đánh giá tăng
Sơ đồ hạch toán tổng quát vật liệu theo phương pháp kê khai thường xuyên (tính thuế VAT theo phương pháp trực tiếp)
TK331,111,112,1141,331
TK 152
TK 621
TK 151,411,222...
TK 627,641,642...
Tăng do mua ngoài(Tổng giá thanh toán)
Xuất để chế tạo sản phẩm
Xuất chu nhu cầu khác
ở PX, xuất phục vụ bán hàng, quản lý, XDCB
Vật liệu tăng do các
các nguyên nhân khác
Sơ đồ hạch toán tổng hợp vật liệu, dụng cụ theo phương pháp kiểm kê định kỳ (tính thuế VAT theo phương pháp trực tiếp)
TK 611
TK 151
152, 153
TK151
152, 153
TK111,112
,331,411
TK111,112,331
TK 621,
627,641,642
Giá trị vật liệu, dụng cụ
tồn đầu kỳ, chưa sử dụng
DĐK
Giá trị vật liệu, dụng cụ
tăng thêm trong kỳ
(Tổng giá thanh toán)
Giá trị vật liệu, dụng cụ
Giá thực tế vật liệu xuất dùng
Chiết khấu, giảm giá,
hàng bị trả lại
tồn cuối kỳ
Sơ đồ hạch toán tổng hợp vật liệu, dụng cụ theo phương pháp kiểm kê định kỳ( tính thuế VAT theo phương pháp khấu trừ)
TK621,627,641,642
TK111,112,331
TK 151 152,153
TK411
TK 412
Giá trị vật liệu, dụng cụ
Chiết khấu, giảm giá được
TK 111,112,331
TK 151 152,153
TK 611
TK1331
tồn đầu kỳ chưa sử dụng
Giá trị vật liệu, dụng
cụ mua vào trong kỳ
Thuế VAT được khấu trừ
Nhân vốn góp liên doanh
cấp phát, tặng thưởng...
Đánh giá tăng vật liệu,dụng cụ
Giá trị vật liệu,dụng cụ
tồn cuối kỳ
hưởng và giá trị hàng trả lại
Giá trị thiếu hụt,mất mát
TK1421
Giá trị dụng cụ
Xuất dùng lớn
Phân bổ dần
Giá trị vật liệu, công
cụ xuất dùng nhỏ
TK138,334,821,642
Hệ thống sổ kế toán sử dụng để ghi chép, hệ thống hoá và tổng hợp số liệu từ các chứng từ kế toán theo một trình tự và phương pháp ghi chép nhất định. Việc tổ chức hệ thống sổ kế toán gồm số lượng các loại sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp, kết cấu sổ, mối quan hệ kiểm tra đối chiếu giữa các sổ kế toán, trình tự và phương pháp ghi chép các sổ kế toán và việc tổng hợp số liệu để lập báo cáo.
Từng đơn vị phải căn cứ vào nội dung và đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, căn cứ vào trình độ, khả năng của đội ngũ cán bộ kế toán hiện có để lựa chọn hình thức kế toán sử dụng ở đơn vị cho thích hợp nhằm tổ chức hệ thống sổ kế toán đầy đủ hợp lý.
Trong chế độ sổ kế toán ban hành theo quyết định QĐ 1141/ TC/ CĐKT ngày 1/ 11/ 1995 của Bộ Tài chính đã quy định rõ việc mở, ghi chép, quản lý, lưu trữ và bảo quản sổ kế toán. Hiện nay trong các DNSX áp dụng các hình thức sổ kế toán sau:
* Hình thức sổ kế toán " Nhật ký sổ cái"
Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức Nhật ký sổ cái như sau:
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Bảng tổng hợp chứng từ gốc
Bảng tổng hợp chi tiết
Nhật ký- Sổ cái
Báo cáo tài chính
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng, hoặc định kỳ
Quan hệ đối chiếu
Hình thức ghi sổ này dễ ghi chép, đối chiếu, kiểm tra số liệu. Việc hạch toán NVL dễ dàng vì hệ thống TK sử dụng ít. Hình thức này phù hợp với doanh nghiệp có quy mô nhỏ, không áp dụng cho doanh nghiệp có quy mô lớn, nghiệp vụ kinh tế phức tạp, sử dụng nhiều TK, khó phân công lao động kế toán.
* Hình thức ghi sổ Nhật ký chung:
Trình độ ghi sổ theo hình thức Nhật ký chung như sau:
Chứng từ gốc
Sổ, thẻ kế toán chi tiết
Báo cáo tài chính
Sổ nhật ký đặc biệt
Sổ cái
Bảng cân đối số phát sinh
Sổ nhật ký
chung
Bảng tổng hợp chi tiết
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng, hoặc định kỳ
Quan hệ đối chiếu
Cách hạch toán này ghi chép đơn giản nhưng rất khó phân công lao công tác. Việc tổng hợp số liệu lập báo cáo chậm vì vậy chỉ nên áp dụng với những doanh nghiệp trang bị phương tiện kỹ thuật tính toán và thông tin ở mức độ cao.
* Hình thức Nhật ký chứng từ:
Trình tự ghi sổ hình thức Nhật ký chứng từ: ( trang sau)
Hình thức này tương đối đơn giản, dễ làm, dễ đối chiếu, kiểm tra, dễ phân công công tác, thích hợp với nhiều loại hình doanh nghiệp. Tuy vậy, việc ghi chép còn nhiều trùng lặp, dễ nhầm lẫn. Công việc tuy dàn đều trong tháng nhưng lại phải tật trung đối chiếu vào cuối tháng nên ảnh hưởng đến tiến độ lập báo cáo.
Mỗi hình thức ghi sổ đều có ưu nhược điểm và phạm vi áp dụng riêng cho từng loại hình doanh nghiệp. Tuỳ từng đặc điểm, quy mô hoạt động của doanh nghiệp mà doanh nghiệp tự tìm cho mình một hình thức thích hợp để có thể quản lý tốt hơn.
Chứng từ gốc và các bảng phân bổ
Bảng kê
Nhật ký chứng từ
Thẻ và sổ kế toán chi tiết
Sổ cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo tài chính
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
* Hình thức chứng từ ghi sổ:
Chứng từ gốc
Sổ quỹ
Bảng tổng hợp chứng từ gốc
Thẻ và sổ kế toán chi tiết
Sổ cái
Bảng tổng hợp chi tiết
Báo cáo tài chính
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Bảng cân đối số phát sinh
Chứng từ ghi sổ
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng
Đối chiếu kiểm tra
V.Tổ chức hạch toán với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
1. Nguyên vật liệu và vốn lưu động.
Vốn lưu động là một bộ phận quan trọng của vốn trong sản xuất kinh doanh. Vốn lưu động có thể nằm trong bộ phận dự trữ sản xuất dưới dạng , công cụ dụng cụ...hay cũng có thể nằm trong lưu thông dưới dạng thành phẩm, vốn bằng tiền và vốn trong thanh toán. Do vậy có thể thấy rõ ảnh hưởng của việc sử dụng vốn lưu động tới kết quả kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Nguồn vốn lưu động của doanh nghịêp có thể huy động từ các nguồn sau: nguồn vốn pháp định, nguồn vốn tự bổ sung, nguồn vốn liên doanh, nguồn vốn tín dụng ngắn hạn.
Hiệuquả sử dụng vốn lưu động được thể hiện qua hiệu quả sử dụng của từng bộ phận. Một trong những bộ phận của vốn lưu động là .
Là đối tượng lao động chính trong các doanh nghiệp sản xuất. Còn người với sức lao động của mình dùng tư liệu lao động tác động để tạo ra sản phẩm. Dự trữ trở thành khâu quan trọng nhất, điểm bắt đầu của một quy trình sản xuất.
2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Nguyên vật liệu là đối tượng lao động chính trong các doanh nghiệp sản xuất. Hiệu quả sử dụng được thể hiện từ khâu thu mua đến khâu bảo quản, dự trữ. Trong khâu thu mua, doanh nghiệp phải thường xuyên bám sát thị trường, tìm hiểu nguồn hàng khác nhau để có thể mua được theo đúng kế hoạch với giá rẻ hơn và chất lượng cao hơn, điều này giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động có hiệu quả hơn trong thanh toán. Trong khâu dự trữ, doanh nghiệp phải xem xét sức sản xuất của mình để xác định mức dự trữ sao cho không gây ứ đọng vốn, nhưng không ít quá để xảy ra sự ngừng trệ trong sản xuất kinh doanh.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động trước hết cũng được xem xét trên mức độ sinh lời. Doanh nghiệp luôn muốn biết mình sẽ thu được bao nhiêu lợi nhuận khi bỏ ra một đồng vốn. Để phân tích vấn đề này, người ta thường sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Lợi nhuận bình quân
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Tổng doanh thu thuần
Sức sinh lợi của vốn =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biêt một đồng vốn lưu động làm ra mấy đồng lợi nhận thuần(hay lãi gộp trong kỳ).
Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn tăng vă ngược lại.
Thời gian của kỳ phân tích
Thời gian của một vòng luân chuyển =
Số vòng quay của vốn lưu động
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn
Vốn lưu động bình quân
Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động =
Tổng doanh thu thuần
Phần II : Thực tế tổ chức hạch toán nguyên liệu, vật liệu với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
- Ngày 24 tháng 7 năm 1987, theo Quyết định số 302/QĐTC của Chủ tịch UBND Thành phố Hà Nội. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng từ đó cũng được mở rộng bao gồm sản xuất các loại sản phẩm gốm sứ và một số mặt hàng khác.
- Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty :
Giám đốc
Phó giám đốc XDCB
Phó giám đốc SX
Phó giám đốc KT
Phòng tổng hợp
Phòng sản xuất kinh doanh
Phòng kế toán
Phòng chất lượng kỹ thuât
Theo mô hình bộ máy quản lý của Công ty ta thấy: Bộ máy quản lý của Công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến; Ban giám đốc là người đại diện pháp lý của Công ty, có chức năng điều hành mọi hoạt động của Công ty. Đồng thời, Ban giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trước các cơ quan quản lý Nhà nước về mọi hoạt động của Công ty. Các phòng ban được lãnh đạo bởi trưởng phòng, phó phòng để thực hiện những chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng phòng như sau:
-Phòng tổng hợp: Chịu trách nhiệm về công tác hành chính quản trị, soạn thảo văn bản, công văn đối nội , đối ngoại. Phụ trách công tác tuyển dung lao động, theo dõi tình hình thanh toán tiền lương cho công nhân viên. Tổ chức thực hiện công tác quản lý lao động, tư vấn cho giám đốc Công ty về các định mức lao động tiền lương. Trực tiếp quản lý bộ phận y tế và bộ phận bảo vệ của Công ty.
- Phòng sản xuất kinh doanh: Tham mưu giúp giám đốc Công ty xây dựng các kế hoạch sản xuất kinh doanh trung và dài hạn, điều độ hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch. Tổ chức lập kế hoạch thực hiện và cung ứng vật tư cho cho sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra .
Đến nay Công ty đã có hơn 210 cán bộ công nhân viên, trong đó có 20 người là lao động gián tiếp, còn lại là công nhân sản xuất trực tiếp. Sản lượng sản phẩm sản xuất hàng năm của Công ty không những tăng trong những năm gần đây, cụ thể là:
Kết quả hoạt động kinh doanh năm 1999 của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng
TT
Chỉ tiêu
Số báo cáo
Số kiểm tra
Đơn vị tính: đồng ( chênh lệch)
1
Tổng doanh thu
2.712.750.700
2.712.750.700
Trong đó :
-Doanh thu SX xuất khẩu
2.690.684.700
2.681.312.100
-Doanh thu SX bán nội địa
22.066.000
31.438.600
2
Tổng chi phí
2.660.103.990
2.483.206.300
+176.897.690
Trong đó :
-Khấu hao tài sản cố định
120.000.000
120.000.000
-74.950.000
-Nguyên vật liệu
1.312.192.870
1.237.242.870
-11.113.000
-Tiền lương
583.983.550
572.870.550
-98.234.000
-Chi phí khác
643.850.570
545.616.570
+3.154.610
-Thuế gián thu
77.000
3.231.610
+2.304.610
-Thuế doanh thu
77.000
2.381.610
+850.000
-Thuế môn bài
850.000
-Thuế nộp thay
4.244.700
+4.244.700
3
Lợi tức chịu thuế
52.646.710
229.544.400
+176.897.690
4
Lợi tức chịu thuế phụ
5
Tổng lợi tức chịu thuế
52.646.710
229.544.400
6
Lợi tức phải nộp theo luật
18.426.350
80.340.540
7
Lợi tức được miễn giảm (50%)
40.170.270
8
Thuế lợi tức còn phải nộp
40.170.270
Giải trình số liệu chênh lệch phát hiện qua kiểm tra
-Chênh lệch giảm chi phí nguyên vật liệu : 74.980.000đ. Đó là đơn vị hạch toán khoản chi phí vận chuyển nguyên vật liệu không có chứng từ hợp lệ vào giá vốn nguyên vật liệu nhập kho.
-Chênh lệch giảm chi phí khác : 98.234.000đồng là do đơn vị có một số chứng từ chi không hợp lệ ( Chi ủng hộ, chi phí vận chuyển đóng gói hàng hoá )
-Chi phí tiền lương giảm : 11.113.000 đồng là do tổ kiểm tra loại khoản chi phục cấp doanh nghiệp tính vào lương.
- Thuế doanh thu tăng : 2.304.610 đồng là do tính thuế lại doanh thu
( Trong đó : + Doanh thu sản xuất bản nội địa tăng : 9.372.600đồng; Thuế doanh thu tăng : 9.372.6000* 4% = 374.904đồng
+ Tính thuế doanh thu của hàng hoá xuất khẩu, nhưng hàng hoá do đơn vị đưa nguyên liệu cho cơ sở khác gia công sau đó xuất khẩu hàng hoá này.
( Theo mục C khoản 3 điều II phần A. Thông tư 97TC/TCT ngày 30/12/1995 của Bộ Taì Chính ) : Thuế doanh thu = 112.406.600 đồng * 1% = 1.124.066 đồng
+ Thuế doanh thu đơn vị kê khai thiếu : 850.640đồng ( Số thuế này đơn vị kê khai nộp thuế hàng tháng năm 1998 )
-Thuế nộp tháng tăng : 4.244.700 là do đơn vị nộp thay thuế cho người bán số nguyên liệu mua không có hoá đơn do Bộ Tài Chính phát hành : 106.117.500 đồng* 4% = 4.244.700đồng
( trong đó : thuế doanh thu : 106.117.500* 1% = 3.183.525đồng )
-Thuế môn bài đơn vị tính vào chi phí khác
-Lợi tức chịu thuế và lợi tức tăng là do nguyên nhân
2. Cơ cấu tổ chức kinh doanh của Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng.
Do hạn chế về nhiều mặt cũng như sự phân công lao động Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng chỉ tiến hành sản xuất một số mặt hàng nhất định. Công ty tiến hành tổ chức hệ thống các phân xưởng sản xuất theo trình tự các bước sản xuất công nghệ sản phẩm.
Phân xưởng đúc
Phân xưởng trộn
Phân xưởng in
Phân xưởng in gạch men
Phân xưởng lò nung
Nguyên liệu bao gồm các loại các thép tấm, thép ống tuýp... được đưa qua bước cắt, tiện, phay, bào...để tạo thành các phôi, khuôn mẫu đầu tiện của sản phẩm. Kết quả của bước đầu tiên này được chuyển qua bước công nghệ thứ hai để tiến hành cắt, nguội, rũa, đột, lắp ráp...và tạo thành một số chi tiết hoàn chỉnh như mayer, đèo hàng, yên, ghiđông. Riêng các loại ống tuýp và đầu gá khung được chuyển sang bước tiếp theo để tiến hành lắp ghép, hàn , rũa khung và tạo thành khung mộc. Khung mộc được chuyển qua bước sơn khung và tạo thành khung xe hoàn chỉnh. Khung xe cùng với nửa thành phẩm mua ngoài, tự sản xuất được lắp ráp thành xe đạp hoàn chỉnh các loại và được nhập kho thành phẩm để bảo quản.
2.2 Tổ chức quy trình sản xuất kinh doanh .
Dựa trên quy trình công nghệ sản xuất xe đạp như trên, Công ty tiến hành tổ chức hệ thống các phân xưởng sản xuất theo trình tự các bước công nghệ sản xuất sản phẩm.
Sau nhiều lần thay đổi cơ cấu tổ chức sản xuất, hiện nay Công ty đã có 6 phân xưởng sản xuất . Nhiệm vụ của từng phân xưởng như sau.
- Phân xưởng gia công áp lực: Thực hiện các thao tác cắt, tiện, phay, bào các để tạo thành các phôi, khuôn mẫu.
-Phân xưởng phụ tùng: Tiến hành cắt, nguội, rũa...sản phẩm của phân xưởng gia công áp lực chuyển sang và tạo ra một số chi tiết hoàn chỉnh và phôi khung xe.
-Phân xưởng khung: lắp ráp, hàn và hoàn chỉnh khung mộc.
-Phân xưởng sơn: Sơn các chi tiết cần thiết để tạo thành các chi tiết hoàn chỉnh.
-Phân xưởng lắp ráp: Lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩn xe đạp các loại từ các chi tiết Công ty sản xuất được và mua ngoài.
-Phân xưởng cơ điện: Đây là phân xưởng phụ có chức năng phục vụ cho các phân xưởng khác.
Toàn bộ quy trình công nghệ và cơ cấu tổ chức sản xuất của Công ty được mô tả theo sơ đồ sau
Phân xưởng đúc
Phân xưởng trộn
Phân xưởng in
Phân xưởng in men
Phân xưởng Lò nung
Phân xưởng hoàn chỉnh
Phân xưởng cơ điện
II.Tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán của Công ty
Như đã đề cập ở trên, Công ty trách nhiệm hữu hạn Gốm sứ Bát Tràng chỉ tiến hành sản xuất một số mặt hàng, khối lượng nghiệp vụ phát sinh không nhiều và do yêu cầu quản lý tập trung của Công ty nên công tác kế toán của Công ty được thực hiện theo hình thức tập trung. Công ty chỉ bố trí 2 nhân viên kinh tế làm nhiệm vụ hướng dẫn hạch toán ban đầu, thu thập, kiểm tra chứng từ và định kỳ gửi về phòng kế toán. Theo hình thức tổ chức kế toán tập trung, cơ cấu bộ máy kế toán của Công ty được thực hiện theo sơ đồ sau :
Kế toán trưởng
Kế toán TSCD
Kế toán vật tư hàng hoá
Kế toán tiền lương, Bảo hiểm,
CPCD
Kế toán tập hợp chi phí SX và tính giá thành SP
Kế toán bán hàng và kế toán thanh toán
Thủ quỹ
Nhân viên kinh tế tại các phân xưởng
Để tổ chức hệ thống sổ kế toán phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, phục vụ cho việc điều hành quản lý kinh doanh Công ty đã sử dụng hệ thống sổ kế toán theo hình thức nhật ký chứng từ.
Hàng ngày, kế toán căn cứ vào chứng từ để lập ghi sổ (Công việc này được tiến hàng trên giấy).Chứng từ ghi sổ có kèm theo một hoặc nhiều chứng từ gốc được chuyển cho kế toán trưởng kiểm tra sau đó chuyển cho kế toán tổng hợp. Kế toán tổng hợp căn cứ vào chứng từ ghi sổ để vào nhật ký chứng từ , sau đó số liệu được ghi vào sổ cái.
Với những tài khoản cần mở sổ và thẻ kế toán chi tiết thì căn cứ vào chứng từ ghi sổ, chứng từ gốc và bảng tổng hợp chứng từ gốc để ghi vào sổ thẻ kế toán chi tiết có liên quan.
Cuối tháng, cộng sổ cái tính ra số dư, số phát sinh trong tháng của từng tài khoản, lấy kết quả lập bảng cân đối số phát sinh. Cộng số tiền phát sinh trong tháng trên nhật ký chứng và đối chiếu với bảng cân đối số phát sinh. Tổng số tiền phát sinh trên nhật ký chứng từ phải bằng tổng số phát sinh có và bằng tổng số phát sinh nợ của tất cả các tài khoản trong bảng cân đố._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36875.doc