Phần I: Mở đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới và phát triển. Nền kinh tế cả nước đang chuyển mình theo guồng máy của cơ chế thị trường. Cùng với xu hướng phát triển của đất nước thì ngành XDCB giao thông là một trong những ngành có tốc độ phát triển nhanh, đã góp phần quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế quốc dân, hàng năm chiếm tỷ trọng lớn vốn đầu tư của đất nước. Không giống như các ngành sản xuất khác, ngành XDCB giao thông sản phẩm thường
74 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán giá thành công trình và một số giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành công trình ở Công ty Công trình Giao thông I -Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là các công trình giao thông với đặc điểm là thời gian thi công dài, phức tạp, vốn lớn... ngày nay không còn là độc quyền của doanh nghiệp Nhà nước mà đã được mở thầu với các tổ chức, cá nhân, đơn vị liên doanh... tham gia đấu thầu công trình. Nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý vốn có hiệu quả, hạn chế tối đa tình trạng thất thoát và lãng phí vốn trong quá trình thi công, để giảm chi phí, hạ giá thành công trình là trách nhiệm của ngành Giao thông nói chung và của Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình nói riêng.
Với đặc thù riêng, Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình có nhiệm vụ chủ yếu là nâng cấp và làm mới các công trình giao thông. Nên việc tính đúng, tính đủ giá thành một công trình là trách nhiệm chính trị của mỗi một người kế toán nhằm hạch toán đầy đủ, chính xác, hợp lý các chi phí phát sinh tại công trình đó. Yêu cầu hạch toán giá thành đề ra một số giải pháp nhằm tối thiểu hóa chi phí, từ đó hạ giá thành công trình mà công trình đó vẫn đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật đề ra. Đó là điều kiện quan trọng để Công ty cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài tỉnh tạo điều kiện tiền đề trong đấu thầu công trình.
Qua quá trình thực tập, về nhận thức tôi đã thông cảm nỗi trăn trở này. Do vậy, qua tìm hiểu nghiệp vụ hạch toán tại Công ty tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: "Hạch toán giá thành công trình và một số giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành công trình ở Công ty Công trình Giao thông I -Thái Bình ".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Hạch toán chi phí, tính giá thành công trình và một số giải pháp chủ yếu nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành công trình, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận về hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm, về tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
- Vận dụng cơ sở lý luận vào thực tế hạch toán chi phí và tính giá thành công trình tại Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình.
- Trên cơ sở phân tích giá thành, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán và hạ giá thành công trình, nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty.
1.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Phạm vi về nội dung : Hạch toán chi phí và tính giá thành công trình, những giải pháp nhằm hạ giá thành công trình tại Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình.
- Về không gian : Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình.
- Về thời gian : Từ ngày 10/2/2003 đến ngày 10/6/2003.
Phần II: Cơ sở lý luận về hạch toán chi phí tính giá thành công trình
2.1. Đặc điểm của ngành XDCB giao thông
XDCB là ngành sản xuất vật chất độc lập, có chức năng tái sản xuất tài sản cố định cho tất cả các ngành trong nền kinh tế quốc dân tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, tăng tiềm lực kinh tế của đất nước. Đặc biệt ngành XDCB Giao thông với đặc điểm sản phẩm của ngành là tạo cơ sở vật chất, đẩy nhanh quá trình lưu thông hàng hóa và phục vụ đắc lực cho nền kinh tế xã hội cả nước ngày càng phát triển. Riêng Thái Bình là địa phương đầu tiên được nhà nước công nhận là địa phương hoàn thành nhiệm vụ phát triển và hoàn thiện mạng lưới giao thông nông thôn, góp phần vào vinh dự và tự hào đó có công sức của CBCNV Công ty công trình giao thông I- Thái Bình.
Không giống như sản phẩm các ngành khác, sản phẩm của ngành XDCB giao thông là những công trình giao thông (đường, cầu, hầm...) có đặc điểm là thời gian thi công từ khi khởi công xây dựng cho đến khi công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường lâu dài chưa kể thời gian khảo sát thiết kế thi công, nó phụ thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia làm nhiều giai đoạn và mỗi giai đoạn bao gồm nhiều công việc khác nhau đòi hỏi có sự kết hợp của rất nhiều bộ phận sản xuất thi công như sản xuất, cung ứng NVL, công tác giải phóng mặt bằng, tiến độ thi công và bố trí lao động sống và lao động vật hóa... Các công việc trong quá trình thi công diễn ra ngoài trời nên chịu tác động trực tiếp của thời tiết, khí hậu làm ảnh hưởng tới tiến độ và kỹ thuật thi công. Hơn nữa sản phẩm của ngành không cố định tại một nơi. Để tiến hành quá trình sản xuất thi công phải di chuyển theo vị trí công trình cụ thể luôn nảy sinh những trở ngại mới phải khác phục. Do đó, quá trình và điều kiện thi công không có tính ổn định, nó luôn biến đổi theo vị trí và theo từng giai đoạn thi công. Vì thế mà công tác quản lý gặp nhiều khó khăn.
Các công trình giao thông là sản phẩm có kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, chi phí thi công có nội dung và cơ cấu không đồng nhất. Vì vậy, việc tổ chức quản lý và chỉ đạo nhất thiết phải có các dự toán thiết kế thi công, đòi hỏi kế toán phải tính đến việc hạch toán chi phí, tính giá thành và kết quả thi công cho từng công trình riêng biệt.
Là sản phẩm nhưng những công trình giao thông được hoàn thành tại từng địa điểm cụ thể, được tiêu thụ theo giá dự toán được duyệt hoặc giá trúng thầu, do vậy mà tính chất hàng hóa của sản phẩm thể hiện không rõ. Mặt khác, sản phẩm của ngành được thi công theo đơn đặt hàng của bên giao thầu, khi hoàn thành công trình không nhập kho nên khi tiêu thụ chỉ qua thủ tục bàn giao giữa các bên giao nhận thầu trên cơ sở nghiệm thu khối lượng, chất lượng công việc theo đúng thiết kế dự toán đã quy định.
Việc tổ chức thi công các công trình phổ biến theo phương pháp khoán gọn cho các đơn vị trong nội bộ Công ty (đội, tổ...). Trong giá khoán gọn không chỉ có NVL, tiền lương, khấu hao tài sản...(các chi phí cố định) mà còn có đủ chi phí về trực tiếp và gián tiếp phục vụ thi công, bộ phận quản lý dự án.
Với đặc điểm sản phẩm, đặc điểm tổ chức thi công cụ thể và quản lý chung của ngành đã trình bầy thực tế trên. Công tác kế toán trong các đơn vị thi công của ngành đã có những khác biệt nhất định. Tuy nhiên, về cơ bản việc hạch toán các phần hành kế toán trong đơn vị XDCB giao thông cũng tương tự như các doanh nghiệp khác,theo chế độ hạch toán kế toán do bộ tài chính ban hành riêng cho cho công tác kế toán XDCB áp dụng thống nhất chung trong cả nước.
2.2. Hạch toán chi phí thi công
2.2.1. Khái niệm về chi phí thi công
Quy luật tất yếu để có 1 CT, HMCT theo yêu cầu thì điều đầu tiên đòi hỏi là phải có các yếu tố đầu vào cho quá trình thi công.
Các yếu tố đầu vào bao gồm tư liệu lao động, đối tượng lao động (mà biểu hiện cụ thể là các hao phí về lao động vật hóa) dưới sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện là hao phí lao động sống). Qua quá trình thi công sẽ tạo ra các sản phẩm là các công trình giao thông mà cụ thể là những km đường đạt tiêu chuẩn. Có thể nói, trong quá trình hoạt động của đơn vị XDCB ngành giao thông thì chi phí trực tiếp ban đầu của đơn vị hay còn gọi là chi phí sản xuất kinh doanh là toàn bộ hao phí về lao động sống, lao động vật hóa mà đơn vị đã chi ra trong thời kỳ nhất định biểu hiện bằng tiền, có liên quan đến khối lượng, chất lượng CT đã hoàn thành trong kỳ, trong giai đoạn hay đã được bàn giao sử dụng.
Khi tiến hành hoạt động thi công, có những khoản chi phí khác không mang tính chất trực tiếp sản xuất như chi phí quản lý gián tiếp phục vụ cho nhiều công trình đã và đang thi công. Do đó, toàn bộ chi phí để tiến hành các hoạt động cần được phân bổ theo các tiêu thức quy định để phản ánh đầy đủ chi phí cho toàn bộ hoạt động xây dựng CT đó. Đó mới được gọi là chi phí thi công kết tinh trong giá thành công trình.
Chi phí thi công hay giá thành CT cần được phân loại để phục vụ yêu cầu quản lý. Tùy theo đặc điểm sản xuất thi công, đặc điểm quản lý và trình độ nghiệp vụ của mỗi doanh nghiệp mà xác định cho mình tiêu thức phân loại chi phí nhất định.
Đối với các đơn vị XDCB nói chung và ngành giao thông nói riêng, chi phí thi công bao gồm nhiều loại có nôi dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình thi công cũng khác nhau. Việc quản lý chi phí nói chung không chỉ dựa vào số liệu tổng hợp, mà còn căn cứ vào số liệu cụ thể từng CT, HMCT trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy cần xem xét phân loại chi phí sao cho hợp lí và khoa học, có như thế mới tính đúng, tính đủ chi phí thi công vào giá thành công trình tạo điều kiện cho đơn vị bảo toàn vốn, phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất trong các đơn vị ngành XDCB giao thông
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị XDCB nói chung và ngành giao thông nói riêng thì có nhiều loại chi phí, tùy theo nội dung, tính chất, công dụng... nên thường sử dụng các tiêu thức phân loại chi phí sản xuất như sau:
* Phân loại chi phí theo phương pháp tập hợp chi phí, thành chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp
- Chi phí trực tiếp : là những chi phí có liên quan trực tiếp đến quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
- Chi phí gián tiếp : là những chi phí sản xuất liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm công việc. Kết cấu và chi phí gián tiếp cũng tương tự như chi phí trực tiếp, nhưng những chi phí này phát sinh ở bộ phận quản lý đội thi công của các đơn vị XDCB. Vì vậy, kế toán phải tiến hành phân bố cho các đối tượng có liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định phương pháp tập hợp và phân bổ cho các đối tượng một cách chính xác và hợp lý.
* Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí
Theo cách phân loại này thì các chi phí có cùng nội dung, tính chất kinh tế thì được xếp chung vào một yếu tố, không phân biệt chúng phát sinh trong lĩnh vực nào và ở đâu. Vậy chi phí sản xuất được chia ra như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu gồm : nhựa đường, đá hộc, đá 4 ´ 6, đá 1 ´ 2, cát...
- Chi phí công cụ, dụng cụ : Xảo, cuốc, xẻng, dụng cụ nấu, tưới nhựa...
- Chi phí nhiên liệu động lực : xăng, dầu...
- Chi phí tiền lương của công nhân trực tiếp, gián tiếp, trích BHXH, BHYT, KFCĐ theo tỷ lệ quy định.
- Chi phí khấu hao TSCĐ : là số khấu hao mà đơn vị tính theo quy định cho tất cả các loại TSCĐ : máy móc, dụng cụ vận chuyển (ôtô), bốc dỡ (cần cẩu), máy móc thi công (máy lu, máy ủi, máy rải thảm...) và khấu hao TSCĐ dùng trong quản lý khác.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài : tiền điện nước, điện thoại...
- Chi phí bằng tiền khác.
Theo cách phân loại này cho biết kết cấu, tỷ trọng từng yếu tố sản xuất để các nhà quản lý phân tích, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, là cơ sở lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ tiền lương, kế hoạch về vốn, cũng như công tác quản lý chi phí sản xuất.
* Phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Dựa trên ý nghĩa của chi phí trong giá thành, người ta phân ra thành các loại chi phí sau :
- Chi phí NVL trực tiếp : bao gồm toàn bộ các khoản chi phí về NVL trực tiếp sử dụng trong thi công công trình (không bao gồm các thiết bị do chủ đầu tư giao, nhiên liệu cho máy thi công, các vật liệu làm công trình tạm như lán trại...).
- Chi phí nhân công trực tiếp : là toàn bộ tiền lương, tiền công của công nhân trực tiếp thi công công trình, nhân công vận chuyển NVL trong thi công, công nhân bảo dưỡng, quét dọn... trên công trường.
- Chi phí sử dụng MTC : gồm những chi phí liên quan tới việc sử dụng MTC phục vụ xây dựng CT, HMCT, tiền khấu hao máy móc thiết bị, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy, chi phí nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công.
- Chi phí sản xuất chung : là các khoản chi phí quản lý đội, các khoản trích theo lương BHXH, BHYT, KFCĐ của toàn đội tính theo tỷ lệ quy định, chi phí cho tiếp khách, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Cách phân loại này được áp dụng rông rãi trong các đơn vị XDCB hiện nay. Bởi cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành công đoạn, giá thành toàn bộ, thấy được tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, là căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí, thấy được tỷ trọng từng khoản mục trong giá thành. Do vậy, tôi sử dụng cách phân loại này để tập hợp chi phí tính giá thành công trình tại Công ty Công trình Giao thông I - Thái Bình trong phần nội dung nghiên cứu đề tài bởi nó phù hợp đặc điểm và cơ chế quản lý của Công ty, phù hợp với phương pháp lập dự toán giá thành.
2.3. Giá thành công trình
2.3.1. Khái niệm về giá thành công trình trong các đơn vị XDCB giao thông
Để đánh giá chất lượng kinh doanh của các tổ chức kinh tế người ta căn cứ vào chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Đối với các đơn vị XDCB nói chúng và ngành XDCB giao thông nói riêng thì giá thành công trình là biểu hiện bằng tiền của các khoản hao phí về lao động sống, lao động vật hóa mà đơn vị đã bỏ ra cho CT, HMCT đã hoàn thành và được nghiệm thu.
Trong đơn vị ngành XDCB giao thông thì mỗi CT, HMCT khi hoàn thành đều có một giá thành riêng và khi nhận thầu một CT, HMCT thì giá bán đã có trước khi thi công nên giá bán có trước khi xác định giá thành kế hoạch và giá thành thực tế.
Giá thành công trình là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất, phản ánh kết quả sử dụng các loại tài sản, vật tư lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất cũng như các giải pháp kinh tế kỹ thuật mà đơn vị đã thực hiện nhằm đạt được mục đích sản xuất, được khối lượng sản phẩm nhiều nhất với chi phí ít nhất và hạ giá thành nhưng vẫn đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn về chất lượng đúng kỹ thuật. Giá thành còn là căn cứ để tính toán xác định hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất của đơn vị.
2.3.2. Phân loại giá thành công trình
* Giá thành dự toán
Giá trị dự toán của CT, HMCT
Giá thành dự toán của CT, HMCT
=
Lãi địnhmức
-
Giá thành dự toán là tổng số chi phí dự toán để hoàn thành 1 khối lượng công trình. Giá thành dự toán được lập trước khi tiến hành thi công trên cơ sở các định mức thiết kế kỹ thuật được duyệt và khung giá hiện hành. Giá dự toán nhỏ hơn giá trị dự toán ở phần lãi định mức.
Thông qua giá thành dự toán để đánh giá thành tích của đơn vị và giá thành dự toán là hạn mức kinh phí cao nhất mà doanh nghiệp có thể bỏ ra để đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Mặt khác, giá thành dự toán còn là căn cứ để chủ đầu tư thanh toán với đơn vị bởi đó chính là giá để đơn vị tham gia đấu thầu.
* Giá thành kế hoạch
Giá thành kế hoạch là giá thành được xác định từ những điều kiện cụ thể của đơn vị trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành so với giá thành dự toán bằng biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, vật liệu thi công, các định mức và đơn giá áp dụng trong các đơn vị XDCB nói chúng và ngành XDCB giao thông nói riêng.
Giá thành dự toán của CT, HMCT
Giá thành kế hoạch của CT, HMCT
=
Mức hạ giá thành dự toán
-
* Giá thành thực tế
Giá thành thực tế phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành bàn giao công trình mà đơn vị nhận thầu. Giá thành này bao gồm các chi phí theo định mức, vượt định mức.
Giá thành thực tế là khoản chi phí thực tế theo khoản mục quy định thống nhất cho phép tính vào giá thành, nó được xác định vào cuối thời kỳ kinh doanh.
Thông thường do yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán kinh tế thì giá thành thực tế phải nhỏ hơn giá thành kế hoạch để có mức tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và chúng có mối quan hệ
Giá thành thực tế < Giá thành kế hoạch < Giá thành dự toán
Do đặc điểm của các đơn vị ngành XDCB giao thông thì thời gian thi công dài nên để theo dõi một cách chặt chẽ hơn những chi phí phát sinh, đơn vị có thể phân giá thành thành các bộ phận sau :
- Giá thành thực tế công tác xây dựng (thi công): phản ánh giá thành của một khối lượng công trình đạt đến điểm dừng kỹ thuật nhất định. Theo cách xác định này có thể xác định kiểm tra kịp thời những chi phí phát sinh để điều chỉnh cho phù hợp với giai đoạn sau và phát hiện những nguyên nhân gây tăng, giảm chi phí.
- Giá thành thực tế CT, HMCT hoàn thành : là toàn bộ chi phí chi ra để thi công một CT, HMCT từ khi chuẩn bị đến khi hoàn thành đảm bảo kỹ thuật đúng chất lượng thiết kế được bên giao thầu nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Ngoài 2 cách trên, trong đơn vị XDCB nên phân biệt khi sử dụng các chỉ tiêu mà thường gọi là giá thành nhưng thực chất là giá bán như :
- Giá đấu thầu công trình (còn gọi là giá thành dự thầu) là một loại giá thành dự toán xây dựng do chủ đầu tư đưa ra để đơn vị XDCB dựa vào đó tính giá thành của mình.
- Giá đấu thầu : là loại giá dự toán xây dựng ghi trong hợp đồng đã được ký kết với chủ đầu tư, thỏa thuận giao nhận thầu. Đó cũng chính là giá bán của đơn vị thắng thầu.
2.4. Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành trong đơn vị XDCB giao thông
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là 2 khái niệm riêng biệt nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất quyết định đến tính chính xác của giá thành sản phẩm. Chúng giống nhau về mặt chất, đều là những hao phí về lao động sống, lao động vật hóa và chi phí khác cần thiết mà doanh nghiệp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, xét về mặt lượng thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại không giống nhau. Sở dĩ do chi phí sản xuất bao gồm tất cả các chi phí phát sinh trong một kỳ nhất định (tháng, quý, năm...) còn giá thành sản phẩm là tổng thể các chi phí gắn liền với khối lượng CT, HMCT hoàn thành. Mặt khác, giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí thực tế đã phát sinh hoặc 1 phần chi phí sẽ phát sinh ở kỳ sau. Còn chi phí sản xuất chỉ bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ này. Ngoài ra giá thành sản phẩm chứa đựng cả 1 phần chi phí kỳ trước (chi phí sản phẩm dở dang đầu kỳ).
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
=
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
+
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Khi ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì giá thành sản phẩm chính là chi phí sản xuất.
Mặt khác, nếu như chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh gắn với việc thi công và hoàn thành khối lượng công việc nhất định được nghiệm thu và chấp nhận thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao hàm những chi phí cho khối lượng công việc dang dở cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí thực tế đã chi ra những chờ phân bổ cho kỳ sau. Nhưng nó lại bao gồm những chi phí dở dang cuối kỳ trước chuyển sang kỳ này.
Trong đơn vị XDCB, giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất thống nhất với nhau về mặt lượng khi đối tượng tập hợp chi phí, đối tượng tập hợp giá thành là 1 CT, HMCT được hoàn thành trong kỳ tính giá thành.
Tuy nhiên, những chi phí đưa vào giá thành công trình phải phản ánh được giá trị thực của những hao phí bỏ ra. Nếu tính toán chủ quan có thể dẫn tới việc phá vỡ mối quan hệ hàng hóa - tiền tệ, không xác định được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình bởi chi phí sản xuất là căn cứ, là cơ sở để tính giá thành, sự tiết kiệm hay lãng phí về chi phí trong đơn vị XDCB đều ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành công trình là nguyên nhân làm cho giá cao hay thấp.
Vậy trong 1 đơn vị XDCB giao thông để tổ chức quá trình hạch toán chi phí để tính đúng, tính đủ giá thành công trình thì phải kết hợp chính xác, kịp thời chi phí sản xuất phát sinh theo đối tượng chịu chi phí và xác định phương pháp tập hợp chi phí sản xuất để tính giá thành sao cho phù hợp với đặc thù riêng của đơn vị mình.
2.5. Đối tượng tập hợp và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
2.5.1. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất
Để công tác tập hợp chi phí sản xuất được chính xác thì điều đầu tiên cần làm là phải xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí.
Thực chất việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi gánh chịu chi phí để tập hợp chi phí phát sinh trong kỳ.
Nhưng muốn xác định đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đặc biệt với ngành XDCB giao thông thì càng không thể không quan tâm tới những đặc thù riêng của ngành bởi đây là ngành có quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, sản phẩm mang tính đơn chiếc, theo đơn đặt hàng, thời gian thi công dài cùng với việc tổ chức thi công ở những công trình nhiều khu vực thi công nên đối tượng tập hợp chi phí sản xuất được lựa chọn là CT, HMCT, từng giai đoạn công việc hay đơn đặt hàng.
2.5.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Hiện nay, trong các đơn vị XDCB vẫn thực hiện 2 phương pháp tập hợp chi phí
* Phương pháp tập hợp trực tiếp
Đó là khi những chi phí liên quan đến CT, HMCT nào đã được xác định ghi chép ban đầu thì kết chuyển trực tiếp và CT, HMCT đó. Việc sử dụng phương pháp này để tập hợp chi phí sản xuất được đánh giá là chính xác nhất, đồng thời theo dõi trực tiếp chi phí liên quan tới đối tượng cần theo dõi. Song không phải lúc nào cũng sử dụng được phương pháp này bởi có những đối tượng không thể theo dõi riêng và sử dụng phương pháp này tốn nhiều thời gian công sức.
Đối với đơn vị XDCB giao thông thì phương pháp này tạo điều kiện cho kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành công trình, và quản lý chi phí một cách có hiệu quả hơn cả.
Như đã biết, trong đơn vị XDCB giao thông có những đối tượng không thể theo dõi riêng được và để đáp ứng yêu cầu hạch toán chi phí, đơn vị phải sử dụng phương pháp tập hợp chi phí khác : phương pháp phân bổ gián tiếp.
* Phương pháp phân bổ gián tiếp
Khi chi phí liên quan đến nhiều đối tượng, kế toán không thể tổ chức hạch toán riêng được thì cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ sao cho hợp lý với từng đối tượng. Vì vậy tính chính xác của phương pháp này phụ thuộc vào sự lựa chọn tiêu thức phân bổ. Theo phương pháp này phải tiến hành 2 bước sau :
b1: Hệ số phân bổ =
Tổng chi phí cần phân bổ
Tổng tiêu thức cần phân bổ của các đối tượng
b2: Tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng
Hệ sốphân bổ
Chi phí phân bổ cho đối tượng A
=
Tiêu thức phân bổ của đối tượng A
-
Sự phân bổ chi phí theo phương pháp này thì tính chính xác không cao do phụ thuộc vào việc lựa chọn tiêu thức phân bổ. Song nếu tiêu thức phân bổ hợp lý thì độ chính xác của phương pháp này là đáng tin cậy.
Vậy từ 2 phương pháp trên ta thấy việc xác định, tập hợp các khoản mục chi phí cho đối tượng được tiến hành theo chi phí thực tế và chi phí định mức. Tức là có những chi phí biết và không thể biết ngay được thực tế phát sinh trong kỳ là bao nhiêu khi đến hạn mà chỉ được ước tính theo hình thức sử dụng như chi phí điện nước, điện thoại... sang tháng sau mới có thông báo thanh toán. Do vậy việc xác định và tập hợp chi phí này theo 1 định mức rồi khi có chứng từ cụ thể thì tiến hành điều chỉnh sẽ đảm bảo chi phí được tập hợp 1 cách chính xác.
2.6. Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và giá thành công trình trong đơn vị XDCB giao thông
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất là 1 hệ thống phương pháp tập hợp chi phí theo đối tượng tập hợp chi phí để từ đó có thể mở tài khoản và ghi sổ kế toán cho phù hợp và tùy theo quy định của mỗi doanh nghiệp mà kế toán sử dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ trong công việc hạch toán của mình.
Do đặc điểm của đơn vị XDCB giao thông là các công trình thường ở nhiều nơi, nhiều vùng xa trụ sở Công ty. Do vậy, để tiện cho việc hạch toán Công ty đã áp dụng hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên.
2.6.1. Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí NVL là chi phí có tỷ trọng lớn nhất trong chi phí thi công công trình, chiếm 70 - 80%. Bao gồm NVL chính (nhựa đường, đá hộc, đá 4x6, đá 1´2, đá 1´1...) vật liệu phụ (củi, dây...) được sử dụng trực tiếp cho thi công công trình. Chi phí NVL phải tính theo giá thực tế khi xuất sử dụng. Giá thực tế của NVL được xác định theo nguồn nhập.
Trong kỳ, nguyên vật liệu sử dụng cho CT, HMCT phải tính trực tiếp cho CT, HMCT đó trên cơ sở chứng từ gốc (theo giá trị thực tế và số lượng thực tế đã xuất dùng). Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, tiến hành kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào các tài khoản có liên quan phục vụ cho việc tính giá thành thực tế của công trình trong sổ kế toán. Trong điều kiện sản xuất thực tế không cho phép tính trực tiếp nguyên vật liệu cho từng CT, HMCT thì tập hợp chung cho quá trình sản xuất thi công, đến cuối kỳ hạch toán tiến hành phân bổ theo tiêu thức hợp lý rồi kết chuyển sang tài khoản liên quan để tính giá thành.
Để theo dõi khoản mục chi phí NVL trực tiếp kế toán sử dụng tài khoản 621 - chi phí NVL trực tiếp.
Kết cấu và nội dung tài khoản 621 như sau:
Bên nợ: Giá trị NVL xuất dùng trực tiếp cho thi công công trình
Bên có: Giá trị NVL xuất dùng không hết nhập lại kho
Kết chuyển giá trị NVL thực tế sử dụng sang tài khoản 154 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và chi tiết cho các đối tượng tính giá thành.
Tài khoản 621 cuối kỳ không có số dư
Mua VL sử dụng ngay
K/c chi phí NVL trực tiếp
TK154
NVL xuất dùng không hết nhập lại kho
TK152
TK133
TK621
VAT đầu vào được khấu trừ (nếu có)
Tạm ứng giá trị khối lượng công trình hoàn thành đã bàn giao
Xuất vật liệu cho thi công
TK152, 153
Quá trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK331, 112,111
TK141
2.6.2. Kế toán tập hợp chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là các khoản thù lao phải trả cho người công nhân trực tiếp sản xuất theo từng đối tượng CT, HMCT. Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp, chi quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo một tỷ lệ với số tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất.
Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp được tiến hành theo từng loại công nhân, theo từng loại công việc được giao và cho từng đối tượng hạch toán chi phí và tính giá thành như CT, HMCT và được tiến hành trên cơ sở hợp đồng giao khoán và bảng chấm công trên các công trường. Sau đó chuyển về phòng kế toán làm căn cứ tính lương và vào các khoản tài khoản kế toán có liên quan.
Để theo dõi nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài khoản 622 - chi phí nhân công trực tiếp.
Tài khoản này được mở chi tiết cho từng đối tượng tập hợp chi phí.
Bên nợ: Chi phí nhân công trực tiếp thi công trên công trường
Bên có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào bên nợ TK154
Tài khoản 622 cuối kỳ không có số dư
Quá trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ sau:
TK111, 334
Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp
TK154
TK622
Tiền lương phải trả cho người lao động
TK338 (338.2, 338.3, 338.4
Trích BHXH, BHYT, KPCĐ
TK335
Chi phí tiền lương trích trước
2.6.3. Hạch toán chi phí máy thi công (TK623)
Chi phí máy thi công là các chi phí sử dụng xe, máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động thi công công trình, bao gồm chi phí nhiên liệu, động lực cho máy hoạt động, chi phí tiền lương, các khoản phụ cấp và tiền lương công điều khiển máy, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa máy thi công…
Để đáp ứng yêu cầu quản lý các đơn vị XDCB, đặc biệt là trong công tác hạch toán chi phí sản xuất chung (chi phí MTC, chi phí sản xuất chung…) Bộ tài chính đã chính thức ban hành chế độ kế toán trong đơn vị XDCB theo quy định số 1864/1998/QĐ-BTC ngày 16 tháng 12 năm 1998 thì khoản mục chi phí sử dụng máy thi công đã được theo dõi trên tài khoản riêng, đó là tài khoản 623 - Chi phí sử dụng máy thi công.
Bên nợ: tập hợp các chi phí liên quan tới máy thi công
Bên có: kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào bên nợ TK154
Tài khoản 623 cuối kỳ không có số dư.
Chi phí sử dụng MTC là khoản mục chi phí đặc trưng chỉ có trong hoạt động xây dựng nên tuỳ thuộc vào hình thức tổ chức, sử dụng máy thi công mà các đơn vị XDCB có cách hạch toán riêng, song cơ bản có 2 trường hợp sau:
- Trường hợp: nếu máy thi công thuê ngoài:
331, 112, 111
Tổng giá thuê ngoài
VAT được khấu trừ
TK133
TK154
K/c chi phí máy thi công
Giá chưa thuế
TK623
- Trường hợp 2: Nếu đơn vị XDCB có MTC riêng:
TK152, 153, 111
TK214, 111, 112
K/c chi phí MTC
TK154
TK623
Chi phí khấu hao, bảo dưỡng, sửa chữa
Tập hợp chi phí nhân công
Tập hợp chi phí NVL phục vụ cho máy
TK334, 338
2.6.4. Hạch toán chi phí sản xuất chung (TK 627)
Chi phí sản xuất chung là những khoản chi phí phát sinh ở các đội, các khoản trích theo lương (BHXH, BHYT, KPCĐ) theo tỷ lệ quy định trên tổng số tiền lương phải cho công nhân trực tiếp thi công và nhân viên quản lý đội, chi phí khấu hao TSCĐ (như máy móc, thiết bị, nhà kho, nhà cửa…), chi phí dịch vụ mua ngoài (điện, nước, điện thoại…) và các chi phí bằng tiền khác.
Chi phí sản xuất chung thường được hạch toán riêng cho từng điểm phát sinh chi phí, sau đó tiến hành phân bổ cho từng đối tượng có liên quan. Khoản mục chi phí sản xuất chung liên quan tới CTHNCT nào thì tập hợp trực tiếp cho CT, HMCT đó. Đối với chi phí sản xuất chung phải phân bổ, cần lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp (căn cứ trên tiền lương chính của công nhân trực tiếp sản xuất, chi phí sử dụng MTC, khối lượng công trình…).
Công thức phân bổ như sau:
Mức chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng CPSC chung cần phân bổ
´
Tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng tiêu thức phân bổ
Đối tượng theo dõi CPSX chung, kế toán sử dụng tài khoản 627-chi phí sản xuất chung.
Bên nợ: Tập hợp các chi phí phát sinh trong kỳ
Bên có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
K/c chi phí sản xuất chung sang bên nợ tài khoản 154.
Tài khoản 627 cuối kỳ không có số dư.
TK334
Tiền công phải trả cho công nhân viên quản lý đội
BHXH, BHYT, CPCĐ của toàn đội thi công
Khấu hao TSCĐ dùng trong quản lý
TK627
TK154
K/c chi phí sản xuất chung
TK153, 154, 142, 141, 111
Xuất vật liệu dùng cho đội thi công
TK338
TK214
Quá trình hạch toán được thể hiện qua sơ đồ:
2.6.5. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Căn cứ vào đối tượng tập hợp chi phí đã xác định, kế toán tiến hành tập hợp chi phí theo từng đôi tượng ấy. Đối với các chi phí cần phân bổ kế toán tập hợp chúng lại và phân bổ cho từng đối tượng. Cuối kỳ, kế toán kết chuểyn toàn bộ chi phí phát sinh vào tài khoản 154. Tài khoản 154 được sử dụng để tập hợp toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ liên quan đến thi công và hoàn thiện các CT, HMCT. Kết cấu tài khoản này như sau:
Bên nợ: tập hợp co NVL, nhân công trực tiếp, MTC, chi phí sản xuất chung phát sinh trong kỳ.
Bên có: Kết chuyển giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
Kết chuyển giá thành CT, HMCT bàn giao
Dư nợ 154: Chi phí xây dựng còn dở dang chưa hoàn thành
Quá trình hạch toán thể hiện qua sơ đồ sau:
Giá thành công trình hoàn thành bàn giao cho chủ đầu tư
TK63._.2
Các khoản ghi giảm chi phí công trình
TK152, 138
TK154
K/c chi phí nhân công trực tiếp
K/c chi phí NVL trực tiếp
TK622
TK621
TK623
K/c chi phí sử dụng MTC
TK627
K/c chi phí sản xuất chung
Vậy vấn đề quan trọng trong hạch toán chi phí sản xuất là tính giá thành sản phẩm. Trong doanh nghiệp XDCB, tính giá thành sản phẩm tức là tính giá thành CT, HMCT hoàn thành bàn giao. Tuy nhiên do quá trình xây dựng kéo dài, các công trình luôn có dự toán nên đầu kỳ các doanh nghiệp đều phải tính giá thành CT, HMCT đã hoàn thành để thanh toán với chủ đầu tư.
Giá thành công việc hoàn thành
=
Giá trị dở dang đầu kỳ
+
Tổng CPPS trong kỳ
-
Giá trị dở dang cuối kỳ
Để tính được giá thành của phần việc hoàn thành, doanh nghiệp cần tiến hành tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ.
2.6.6. Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ trong đơn vị XDCB
Đối với các doanh nghiệp việc đánh giá sản phẩm dở dang là các chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm đang gia công chế biến trên dây chuyền sản xuất hoặc tại các vị trí sản xuất, các bán thành phẩm tự chế nhập kho bánthành phẩm và những sản phẩm đã kết thúc giai đoạn sản xuất cuối cùng nhưng chưa làm thủ tục nghiệm thu nhập kho thành phẩm.
Quá trình hoạt động XDCB với đặc điểm sản phẩm là những công trình, nên việc đánh giá sản phẩm dở dang chỉ áp dụng đối với những công trình có thời gian thi công dài trên một năm hoặc thời gian thi công trải qua hai kỳ quyết toán trở lên. Khi đó giá trị sản phẩm dở dang được tính và đánh giá theo chi phí thực tế (bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung) đã đầu tư vào công trình đến thời điểm báo cáo.
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
=
Chi phí sản xuất thực tế của giai đoạn xây dựng dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ
Tổng giá dự toán của các giai đoạn xây dựng tính theo mức độ hoàn thành
2.6.7. Kế toán các khoản thiệt hại trong đơn vị XDCB
Với đặc điểm thi công ngoài trời của ngành XDCB nói chung và ngành XDCB giao thông nói riêng, do đó không thể tránh khỏi những thiệt hại do điều kiện khách quan, môi trường gây ra, thiệt hại ngừng thi công, phải làm lại do gặp phải các lỗi về kỹ thuật… nên tất cả các chi phí phát sinh thiệt hại cần được xác định rõ nguyên nhân, trách nhiệm, đối tượng chịu chi phí để hạch toán đúng bởi nó ảnh hưởng rất lớn đến giá thành công trình, và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng rõ nét đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến cách hạch toán, do vậy phản ánh đầy đủ, chính xác các thiệt hại này, tuỳ theo nguyên nhân và kết quả vận dụng xử lý của kế toán để tính vào giá thành, vào chi phí bất thường hoặc đòi bồi thường, theo biên bản xác định trách nhiệm vật chất được hình thành đúng thủ tục, nguyên tắc quy định hiện hành.
* Nếu thiệt hại do doanh nghiệp gây ra:
Nợ 111, 112, 152: Giá trị phế liệu thu hồi
Nợ 138.8 : Giá trị cá nhân bồi thường
Nợ 821 : Giá trị tính vào chi phí bất thường
Có 154: Tổng giá trị thiệt hại
* Nếu thiệt hại do chủ đầu tư gây ra:
Nợ 111, 112, 152: Giá trị phế liệu thu hồi
Nợ 131: Khoản phải thu
Có 154: Tổng giá trị thiệt hại
* Thiệt hại trong thời gian bảo hành (thời gian ngừng thi công) thì chi phí thiệt hại tính vào giá thành.
Nợ 154 (theo phương pháp kê khai thường xuyên)
Có 621, 622, 623, 627
2.7. Đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành, phương pháp tính giá thành sản phẩm trong đơn vị XDCB giao thông
2.7.1. Đối tượng tính giá thành
Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong công tác tính giá thành sản phẩm. Trong ngành XDCB giao thông chu kỳ sản xuất dài, sản phẩm đơn chiếc, mỗi sản phẩm đều đã có dự toán riêng và do yêu cầu quản lý kinh tế của đơn vị nên đối tượng tính giá thanh là CT, HMCT được bàn giao và nghiệm thu.
Để quản lý chi phí một cách có hiệu quả thì hàng ngày, hàng tháng chi phí phát sinh liên quan đến công trình nào tập hợp vào đối tượng đó. Cuối kỳ hạch toán cộng tổng chi phí theo từng đối tượng tập hợp, đó chính là giá thành công trình.
2.7.2 Kỳ tính giá thành
Là thời kỳ kế toán giá thành cần phải tính cho các đối tượng CT, HMCT.
Đối với ngành XDCB nói chung và XDCB giao thông nói riêng thì tuỳ thuộc vào CT, HMCT đó lớn hay nhỏ, thời gian thi công dài hay ngắn mà tính giá thành theo quý, năm hay theo hình thức bàn giao công trình.
Đối với công trình nhỏ, thời gian thi công ngắn (dưới 1 năm) thì kỳ tính giá thành là khi công trình hoàn thành.
Đối với công trình lớn, thời gian thi công dài (trên 1 năm) khi có bộ phận, HMCT hoàn thành có giá trị sử dụng và được nghiệm thu thì kế toán tiến hành tính giá thành cho bộ phận HMCT đó.
2.7.3. Phương pháp tính giá thành sản phẩm trong đơn vị XDCB giao thông
Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp được để tính giá thành sản phẩm. Trong các đơn vị XDCB thuộc ngành giao thông thường sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp giản đơn (phương pháp trực tiếp)
áp dụng trong trường hợp đối tượng tính giá thành phù hợp với đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo.
Giá thành sản phẩm được tính theo công thức:
Giá thành thực tế C.T hoàn thành bàn giao
=
Chi phí dở dang đầu kỳ
+
Chi phí thực tế PS trong kỳ
-
Giá trị dở dang cuối kỳ
- Phương pháp cộng chi phí
áp dụng với công trình trải qua nhiều giai đoạn thi công, có nhiều hạng mục nhỏ. Giá thành thực tế của công trình được tính như sau:
Z = Dđ.kỳ + C1 + C2 + … Cn - Dc.kỳ
Trong đó: Z: giá thành thực tế của toàn bộ công trình
C1, C2, … Cn: chi phí thi công các giai đoạn, từng HMCT
Dđ.kỳ, Dc.kỳ: Chi phí thực tế công trình dở dang đầu kỳ, cuối kỳ
Ngoài 2 phương pháp cơ bản để tính giá thành như trên mà các đơn vị trong ngành XDCB giao thông hay sử dụng còn có mốt số phương pháp tính giá thành sản phẩm khác như: phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng, phương pháp tính giá thành theo định mức… Việc áp dụng phương pháp tính giá thành sản phẩm nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp.
Phần III : Đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu
i. Đặc điểm địa bàn
3.1. Vài nét khái quát về Công ty công trình giao thông I- Thái Bình
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty công trình giao thông I - Thái Bình là một doanh nghiệp XDCB Nhà nước trực thuộc Sở giao thông vận tải Thái Bình. Trụ sở chính của Công ty nằm trên địa phận phường Quang Trung thị xã Thái Bình. Trong quá trình hình thành và phát triển Công ty đã trải qua nhiều giai đoạn.
Công ty công trình giao thông I trước đây là đội công trình cầu đường. Năm 1986 theo quyết định của Tỉnh thành lập Công ty xây dựng cầu đường. Tháng 11 năm 1973 Công ty tách thành hai đơn vị là Công ty xây dựng cầu và Công ty xây dựng đường. Năm 1994 Nhà nước có quyết định thành lập lại các doanh nghiệp Nhà nước, ủy ban nhân dân tỉnh ra quyết định số 86 QĐUB ngày 18/6/1994 thành lập Công ty công trình giao thông I Thái Bình.
Nhiệm vụ của Công ty chủ yếu về lĩnh vực XDCB, làm mới các tuyến đường trong và ngoài tỉnh, sửa chữa, đại tu, nâng cấp các tuyến đường...thực hiện đúng hợp đồng đã ký về thời gian, tiêu chuẩn, quy trình quy phạm kỹ thuật và chịu trách nhiệm về chất lượng công trình, bảo hành công trình theo quy chế XDCB . Đối với Nhà nước Công ty có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp Ngân sách, các quy định về nghĩa vụ khác của Công ty đối với Nhà nước và địa phương.
Trong những năm gần đây, khi nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, vấn đề xây dựng các công trình đường không còn là độc quyền của doanh nghiệp mà có sự tham gia tranh thầu của nhiều đơn vị, tổ chức liên doanh, các nhân.. thì Công ty đã tích cực đổi mới, tổ chức lại sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường có định hướng XHCN, tích cực đầu tư chiều sâu, mua sắm đổi mới trang thiết bị máy móc thi công, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, làm trong sạch môi trường tài chính, vốn và nguồn vốn tạo điều kiện cho Công ty tồn tại và liên tục phát triển đạt kết quả năm sau cao hơn năm trước, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao với chất lượng cao, chi phí giá thành hợp lý, từ đó đã tạo cho Công ty có uy tín trên thị trường cả nước và tại địa phương. Tạo đà cho Công ty phát triển ngày một vững mạnh với hiệu quả kinh doanh cao.
3.1.2. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
Một đơn vị dù là thuộc Nhà nước hay tư nhân, dù kinh doanh trong lĩnh vực nào cũng vậy đều không thể thiếu sự lãnh đạo, vai trò của người lãnh đạo cũng như bộ máy tổ chức cùng với việc sử dụng nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến việc thành hay bại của doanh nghiệp, đơn vị đó. Công ty công trình giao thông I- Thái Bình rất quan tâm đến nhu cầu cần thiết tối quan trọng này là tổ chức bộ máy quản lý của Công ty theo sơ đồ sau:
Đội I
Đội xe, MTC
Đội II
I
Đội III
Giám đốc
PGĐ. Sản xuất
P. kế hoạch KT
PGĐ. Vật tư
P. Vật tư
P. tổ chức hành chính
P. Kế toán
Sơ đồ: Bộ máy tổ chức của công ty
Chỉ đạo
Liên hệ
Qua sơ đồ ta thấy chức năng của các phòng ban như sau:
Ban giám đốc Công ty bao gồm 1 giám đốc và 2 phó giám đốc; 1 phó giám đốc sản xuất và 1 phó giám đốc phụ trách về vật tư.
Giám đốc có nhiệm vụ quản lý và điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất của Công ty. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Công ty, giám đốc điều chỉnh cho phù hợp và giao nhiệm vụ cho các bộ phận nghiệp vụ lập kế hoạch sản xuất của Công ty. Chính vì thế giám đốc Công ty sẽ chịu trách nhiệm về kết quả hoạt dộng sản xuất của Công ty.
Phó giám đốc sản xuất: Là người giúp giám đốc trong việc quản lý điều hành công viễc tại các phòng, các đội sản xuất trong Công ty và là người chịu trách nhiệm về kỹ thuật.
Phó giám đốc vật tư: là người giúp giám đốc và chịu trách nhiệm về vật tư phân phối cho các đội thi công trong Công ty, chịu trách nhiệm về máy móc, thiết bị trong quá trình thi công.
Phòng kế hoạch kỹ thuật: chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của PGĐ sản xuất. Trên cơ sở quyền hạn của mình, quản lý mọi khâu kỹ thuật, kế hoạch trong sản xuất. bảo đảm an toàn kỹ thuật và tiến độ thi công theo kế hoạch, khắc phục kịp thời các sự cố kỹ thuật, dần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
Phòng tổ chức hành chính: Chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc Công ty, có chức năng đảm nhiệm công tác nhân sự trong Công ty, sắp xếp tổ chức quản lý cho phù hợp với từng thời kỳ. thực hiện mọi chính sách, chế độ, quyền lợi, nghĩa vụ, khen thưởng- kỷ luật đối với cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty.
Phòng vật tư: chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của PGĐ vật tư, đảm bảo cho tiến trình thi công, hoạt động sản xuất của Công ty có đầy đủ nguyên vật liệu. Phòng vật tư là nơi cung ứng các nguyên vật liệu cần thiết để đảm bảo quá trình sản xuất đạt kết quả cao.
Phòng kế toán: Có nhiệm vụ tổng hợp, ghi chép kịp thời mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh trong Công ty, tổ chức việc thanh quyết toán giá thành công trình, thu hồi tiền vốn và bảo đảm an toàn lành mạnh nền tài chính của Công ty, chịu trách nhiệm trước giám đốc về thực hiện chế độ hạch toán kinh tế.
Các đội: có chức năng trực tiếp tổ chức thực hiện thi công và tu sửa các công trình, sử dụng lao động, sử dụng NVL thi công hợp lý có hiệu quả, bảo đảm tiến độ thi công, chất lượng công trình trong suốt thời gian bảo hành công trình.
3.1.3. Đặc điểm bộ máy kế toán của Công ty
Công ty công trình giao thông I - Thái Bình có bộ máy kế toán được tổ chức theo kiểu tập trung, áp dụng hình thức kế toán chứng từ ghi sổ. Toàn bộ công tác kế toán từ việc ghi chi tiết đến tổng hợp lập báo cáo, kiểm tra kế toán đều được thực hiện tại phòng kế toán- tài vụ của công ty. Cơ cấu tổ chức phòng kế toán- tài vụ của Công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
Kế toán trưởng
Sơ đồ
Kế toán
ngân hàng
Kế toán NVL
Kế toán giá thành
Kế toán
tổng hợp
Thủ quỹ
chỉ đạo
liên hệ
Kế toán trưởng: là người chịu trách nhiệm phụ trách toàn bộ các khâu trong công việc kế toán.
Kế toán ngân hàng: có nhiệm vụ giao dịch với ngân hàng, quản lý theo dõi các khoản tiền gửi, tiền vay và các khoản thanh toán qua ngân hàng.
Kế toán nguyên vật liệu: chuyên theo dõi sự tăng hoặc giảm nguyên vật liệu.
Kế toán giá thành: có nhiệm vụ theo dõi, tập hợp và tính giá thành các công trình
Kế toán tổng hợp: căn cứ vào các chứng từ có liên quan, tiền vào sổ cái các tài khoản, lập các báo cáo chung cho toàn Công ty theo quý, năm.
Thủ quỹ: Trực tiếp quản lý quỹ tiền mặt của Công ty.
Như vậy, với cơ cấu bộ máy kế toán khá chặt chẽ đã đảm bảo mỗi bộ phận đều có chức năng riêng của mình, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự lãnh đạo được tập trung, thống nhất đối với công tác kế toán. Việc kiểm tra giám sát các hoạt động sản xuất kinh doanh và chỉ đạo kịp thời làm cho kế toán phát huyđược đầy đủ chức năng, nhiệm vụ và vai trò của mình.
3.2. Tình hình cơ bản của Công ty qua 3 năm (2000-2002)
3.2.1. Tình hình lao động của Công ty
Nhìn vào biểu 1 có thể nhận thấy rằng lực lượng lao động của Công ty có sự giảm đi rõ rệt qua 3 năm. Năm 2000 toàn Công ty có 190 công nhân viên, năm 2001 còn 168 công nhân viên và đến năm 2002 tổng số công nhân viên là 156 người. Như vậy năm 2001 số lao động của Công ty đã giảm so với năm 2000 là 22 người, tương ứng với 11,57% và năm 2002 số lao động tiếp tục giảm 12 người so với năm 2001, tương ứng 7,14% đặc biệt lực lượng lao động giảm nhiều vào năm 2001. Năm 2001 chỉ còn 132 lao động trực tiếp tức là đã giảm 22 người so với năm 2000, tương ứng với 14,28% trong đó giảm nhiều nhất là công nhân bậc 2 với 19 người, tương ứng với 26,76%. Năm 2002 lao động trực tiếp tiếp tục giảm nhưng với tốc độ chậm hơn, chỉ giảm 12 người so với năm 2001, tương ứng với 9,09% mà công nhân bậc 2 chiếm số lớn.
Biểu 1: Tình hình lao động của công ty
ĐVT: Người
Chỉ tiêu
2000
2001
2002
So sánh (%)
2001/2000
2002/2001
+(-)
%
+(-)
%
Tổng số lao động
190
168
156
-22
11,57
-12
7,14
1. Lao động trực tiếp
154
132
120
-22
14,28
-12
9,09
Trình độ công nhân bậc 2
71
52
45
-19
26,76
-7
13,46
Trình độ công nhân bậc 3
56
56
53
0
-3
Trình độ công nhân bậc 4
23
20
20
-3
13,04
0
50
Trình độ công nhân bậc 5
4
4
2
0
-2
2. Lao động gián tiếp
36
36
36
0
0
18,18
- Kỹ sư
11
11
13
-
+2
25
- Trung cấp
8
8
6
-
-2
- Cao đẳng
3
3
3
-
-
- Nhân viên khác
12
12
12
-
-
Còn với lực lượng lao động gián tiếp thì qua 3 năm số lượng công nhân viên không hề thay đổi nhưng lại có sự thay đổi về trình độ. Năm 2002 số lượng kỹ sư đã tăng so với năm 2001 là 2 người, tương ứng với 18,18% và trình độ trung cấp giảm 2 người, tương ứng với 25%
Như vậy, cơ cấu lao động của Công ty qua 3 năm phản ánh thực trạng là chỉ biến đọng trong lực lượng lao động trực tiếp, lao động gián tiếp không biến động về lượng nhưng có sự thay đổi về chất chứng tỏ rằng Công ty đã quan tâm tới việc tinh giảm biên chế, trình độ lao động ngày càng được nâng cao, đầu tư phát triển theo chiều sâu, trang bị máy móc hiện đại nhằm giảm hao phí lao động, nâng cao hiệu quả lao động, chất lượng công trình.
3.2.2. Vài nét khái quát về cơ cấu vốn và tài sản của Công ty qua 3 năm (2000-2002)
Để có thể tái sản xuất kinh doanh và phát triển được thì yếu tố bắt buộc phải có đối với doanh nghiệp là vốn. Mà vốn của doanh nghiệp được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Xem xét toàn bộ vốn của doanh nghiệp theo 2 hình thái biểu hiện đó là tài sản và nguồn vốn. Việc huy động đầy đủ và hợp lý nguồn vốn và tài sản sẽ là sức mạnh tài chính của doanh nghiệp trên đường đua cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đơn vị khác.
Cơ cấu vốn và tài sản của Công ty qua 3 năm được thể hiện qua biểu sau:
Qua biểu 2 cho thấy năm 2001 có sự thay đổi rõ rệt. Tổng giá trị tài sản của Công ty trong năm 2001 đã lên tới 10.480.965.531 đồng tăng so với năm 2000 là 6.087.404.017 đồng, tương ứng với tăng 138,55% trong đó TSCĐ tăng 3.738.729.243 đồng, tương ứng với tăng 126,72% đặc biệt ở khoản phải thu của Công ty đã tăng lên so với năm 2000 là 3.625.002.729 đồng, tương ứng với 197,91%. Điều này chứng tỏ năm 2001 Công ty đã ký được nhiều công trình hơn bởi phần lớn các công trình khi thi công mọi chi phí phát sinh đều do Công ty ứng tiền trước, khi các công trình hoàn thành bàn giao thì Công ty mới được thanh toán tiền, khi đó nguồn vốn vay mới được thanh toán. Do vậy khi các khoản phải thu của Công ty tăng thì nguồn vốn vay của Công ty cũng tăng theo tỷ lệ thuận. Cụ thể: Năm 2001 nợ phải thu tăng 3.625.022.724 đồng thì nợ phải trả của Công ty đã tăng 6.047.025.527 đồng so với năm 2000. Công ty đã đầu tư mua sắm TSCĐ, trang thiết bị hiện đại cụ thể là TSCĐ của Công ty đã tăng so với năm 2000 là 2.494.898.497 đồng, tương ứng với 192, 37%.
Sang năm 2002 tổng giá trị tài sản của Công ty tiếp tục tăng nhưng tốc độ tăng so với năm 2001 chậm hơn tốc độ tăng của năm 2001 so với năm 2000. Năm 2002 tổng giá trị tài sản đạt 13.266.870.813 đồng tăng so với năm 2001 là 2.745.905.282 đồng, tương ứng với 26,20%. Đặc biệt năm 2002 các khoản phải thu của Công ty đã giảm so với năm 2001 là 125.596.184 đồng, tương ứng với 2,30%. Trong khi hàng tồn kho năm 2002 đã tăng 1.894.191.845 đồng so với năm 2001, tương ứng 396,25%. Nếu năm 2001 nguồn vốn chủ sở hữu tăng không đáng kể so với năm 2000 thì năm 2002 nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty đã đạt 4.858.885.084 đồng, tăng so với năm 2001 là 1.038.025.123 đồng, tương ứng 27,17% trong đó nguồn vốn kinh doanh của Công ty tăng đạt 4.100.712.623 đồng và trong năm 2002 nguồn vốn vay của Công ty vẫn tăng nhưng với tốc độ chậm hẳn lại, đặc biệt nợ dài hạn đã giảm 900.000.000 đồng, tương ứng với giảm 52,94% so với năm 2001. Điều này chứng tỏ năm 2002 Công ty đã bàn giao nhiều công trình thu được nợ, trả được nợ vay ngân hàng và đã giảm được một phần lãi suất tiền vay.
3.2.3. Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm (2000-2002)
Kết quả sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả càng cao thì doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, uy tín của Công ty càng được khẳng định. Ngược lại, Công ty sẽ không chiếm được lòng tin của chủ đầu tư. Chính vì vậy mà Công ty công trình giao thông I- Thái Bình đã không ngừng cố gắng vươn lên khẳng định mình. Nhìn vào biểu 3 ta thấy ngay nỗ lực ấy.
Qua biểu 3 ta thấy: Doanh thu thuần của Công ty năm 2001 đã tăng rõ rệt, so với năm 2000 là 4.178.932.962 đồng, tương ứng với 69,02%. Năm 2002 đạt 13.535.382.730 đồng, tăng so với năm 2001 là 3.302.077.184 đồng, tương ứng với tăng 32,27%. Như vậy có thể nói năm 2001 sự đầu tư cho phát triển sản xuất của Công ty đã mang lại hiệu quả. Năm 2001 giá vốn hàng bán của Công ty so với doanh thu đạt 90,87%, năm 2002 tỷ lệ còn 89,27% trong khi năm 2000 tỷ lệ là 91,81%, điều đó khẳng định chi phí sản xuất của Công ty bỏ ra ngày càng được sử dụng hợp lý và tiết kiệm hơn.
Chỉ tiêu giá vốn/ doanh thu giảm nên làm cho lợi nhuận gộp/ doanh thu có xu hướng tăng nhưng đó chưa phải là nhân tố quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty mà điều quan trọng ở đây là lợi nhuận sau thuế. Năm 2002 lãi thực của Công ty đạt 433.472.266 đồng, tăng so với năm 2001 là 123.618.866 đ, tương ứng với tăng 39,89%.
Có thể nói Công ty công trình giao thông I-Thái Bình đang trên đà phát triển để khẳng định mình trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng có hiệu quả. Với sự nỗ lực và cố gắng không ngừng Công ty ngày càng đứng vững hơn trên thị trường cạnh tranh, trúng thầu ngày càng nhiều.
ii. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài: " Hạch toán giá thành và các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành công trình ở Công ty công trình giao thông I- Thái Bình" Ngoài phương pháp nghiên cứu chung mà các đề tài cần có là phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử, để nhìn nhận vấn đề một cách khách quan và biện chứng chúng tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu:
1. Phương pháp thống kê kinh tế
Trên cơ sở các số liệu thứ cấp đã có sẵn (sổ sách kế toán của Công ty) chúng tôi tổ chức thu thập số liệu và sử lý số liệu bằng máy tính cá nhân.
2. Phương pháp hạch toán kế toán
Đó là sử dụng phương pháp chuyên môn của kế toán bao gồm: Từ các chứng từ gốc: phiếu xuất kho, phiếu thu, phiếu chi, hợp đồng... kế toán tiến hành định khoản và lập chứng từ ghi sổ, vào sổ cái, sổ chi tiết các tài khoản hạch toán các khoản mục chi phí, tính giá thành của CT, HMCT. Thông qua đó tìm giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí, hạ giá thành .
3. Phương pháp so sánh
Thông qua các chỉ tiêu, các hiện tượng kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung, tính chất ở các năm để xác định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu. Nhằm đánh giá các mặt có hiệu quả hay yếu kém để tìm ra giải pháp tối ưu trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Phương pháp chuyên gia
Trong thời gian thực tập tôi đã tham khảo ý kiến của các cán bộ phòng kế toán tài vụ, phòng kế hoạch kỹ thuật, thầy hướng dẫn, bạn bè về nội dung có liên quan đến hạch toán giá thành, các yếu tố để hạ giá thành.
5. Phương pháp phân tích
Là phương pháp dùng lý luận và dẫn chứng cụ thể, dựa vào số liệu đã thu thập được để tiến hành phân tích sử lý theo chiều hướng biến động của vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả của vấn đề trong phạm vi nghiên cứu.
Phần IV: kết quả nghiên cứu
4.1. Hạch toán giá thành công trình
4.1.1. Đối tượng tập hợp chi phí - Nguyên tắc tập hợp chi phí và tính giá thành công trình tại Công ty công trình giao thông I - Thái Bình
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên cần thiết cho công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Có xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí mới đáp ứng được yêu cầu hạch toán chi phí sản xuất ở Công ty.
Với đặc điểm là một doanh nghiệp XDCB, do vậy Công ty công trình giao thông I - Thái Bình thì đối tượng tập hợp chi phí là các công trình giao thông đường bộ. Với nguyên tắc chung là chi phí phát sinh tại công trình nào thì tập hợp chi phí theo công trình đó. Đối với chi phí chung cho nhiều công trình thì Công ty tiến hành phân bổ cho các CT,HMCT thi công trong quý theo tiêu thức hợp lý. Việc thi công thường kéo dài nên kỳ tính giá thành Công ty được xác định theo quý, theo năm.
Phương pháp tính giá thành là phương pháp trực tiếp giản đơn và các khoản mục chi phí như:
- Chi phí NVl trực tiếp (TK 621)
-Chi phí nhân công trực tiếp(TK 622)
-Chi phí sử dụng MTC (TK 623)
-Chi phí sản xuất chung (TK627)
Với khoản mục chi phí sử dụng MTC Công ty đã mở chi tiết tài khoản
cụ thể: TK623M : chi phí máy
TK623x: chi phí xe
TK623t: chi phí trạm trộn
Các khoản chi phí cấu thành lên giá thành công trình được kế toán Công ty tập hợp trên tài khoản 154 - chi phí sản xuất kinh doanh dở dang( tức là áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên).
4.1.2. Kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành công trình giao thông tại Công ty công trình giao thông I - Thái Bình
Khi trúng thầu hoặc có hợp đồng ký kết xây dựng, Công ty sẽ giao nhiệm vụ đảm nhiệm thi công cho các đội. Khi đội tiến hành thi công, phòng vật tư căn cứ vào hạn mức vật tư từng giai đoạn để viết phiếu xuất kho. Căn cứ vào các chứng từ gốc như phiếu xuất kho, phiếu chi , bảng thanh toán, hợp đồng giao khoán...kế toán để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành CT,HMCT đó.
Xuất phát từ đặc điểm của Công ty là đơn vị thi công đường xá nên thời gian thi công của công trình có thể kéo dài hàng năm. Để hạch toán được giá thành cụ thể một công trình cũng phải mất một thời gian dài mới quyết toán xong. Mặt khác do thời gian có hạn nên hạch toán giá thành công trình trong phần kết quả nghiên cứu đề tài này, chúng tôi chỉ tiến hành hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành cho một công trình tiêu biểu đã hoàn thành bàn giao trong quý IV năm 2002. Đó là công trình đường quốc lộ 222 km 17 - 19 Quang Trung Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Công trình được tiến hành thi công trong 6 tháng bắt đầu từ tháng 7/2002 đến tháng 12/ 2002.
4.1. 2. 1. Trình tự hạch toán chi phí sản xuất
4.1. 2. 1. 1. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (TK 621).
Trong giá thành của một CT, HMCT thì khoản mục chi phí NVL trực tiếp là một khoản mục chi phí chiếm tỷ trọng lớn nên việc hạch toán chính xác, đầy đủ, hợp lí chi phí NVL trực tiếp là rất quan trọng bởi nó đảm bảo tính chính xác của giá thành CT, HMCT cũng như việc xác định đúng lượng tiêu hao vật chất trong quá trình thi công.
NVL trực tiếp dùng trong quá trình thi công công trình gồm nhiều loại:
NVL chính như: Nhựa, đá hộc, đá 4´6, đá 1´2 , đá 1´1, cát, xi măng, sắt, đá 2 ´ 4.
NVL phụ: củi, cọc tre
NVL phục vụ cho việc thi công công trình do phòng vật tư của Công ty quản lý và chịu trách nhiệm. Phòng vật tư có nhiệm vụ hợp đồng mua NVL chuyển về bãi tập kết NVL của Công ty khi có nhiều công trình thi công và gần bãi tập kết hoặc hợp đồng mua NVL chuyển thẳng tới chân công trình nhưng vẫn qua hình thức kho.
Khi Công ty trúng thầu thi công công trình đường 222 km 17-19 Quang Trung Kiến Xương thì phòng kế hoạch kỹ thuật chuyển bảng hạn mức chi phí NVL từng giai đoạn thi công của công trình mà đã được ban lãnh đạo duyệt sang phòng vật tư. Khi công trình được giao cho đội thi công thì phòng vật tư căn cứ vào hạn mức vật tư cho từng khâu, từng giai đoạn việc để viết phiếu xuất kho NVL . Phiếu xuất kho được lập thành 3 liên, 1 liên chính lưu sổ, 2 liên phụ được chuyển xuống thủ kho NVL. Sau khi thủ kho tiến hành giao NVL số lượng theo phiếu xuất kho cho đội thi công thì phải hợp lệ hoá phiếu xuất kho. Sau đó nộp lên phòng tài vụ một liên và phòng vật tư 1 liên.
Tại phòng kế toán, chi phí NVL trực tiếp cho công trình đường 222 km 17 - 19 được hạch toán như sau: Căn cứ vào bảng hạn mức vật tư, phiếu xuất kho:
Mẫu: Phiếu xuất kho
Công ty công trình giao thông I Thái Bình
Phiếu xuất kho
Số: 6
Xuất cho: Cô Mây........để dùng vào việc: CT đường 222 km 17- 19
Lĩnh tại kho: Ông Xuân Ghi nợ vào TK 621
STT
Tên hàng
Đ.vị
Số lượng
Giá (Đồng)
Thành tiền (Đồng)
Ghi chú
Yêu cầu
Thực suất
1
2
2
Đá 4 x 6
Đá hộc
Đá 1 x 2
m3
m3
m3
770
82,5
25
770
72,5
25
73.000
73.000
80.000
56.210.000
6.020.000
2.000.000
Cộng
64.232.500
Viết bằng chữ:...........................................................................
Ngày 11 tháng 8 năm 2002
Người nhận
Người viết phiếu
Thủ kho
Phụ trách vật tư
Thủ trưởng
.Căn cứ vào phiếu xuất kho kế toán tiến hành lập chứng từ ghi sổ
Mẫu: Chứng từ ghi sổ Số 4- tháng 8/2002
Trích yếu
Số hiệu TK
Số tiền
Nợ
Có
Nợ
Có
Xuất NVL dùng sản xuất
621
152
64.232.500
64.232.500
Xuất vật liệu
621
433.496.324
623
27.199.400
241
152
25.321.683
486.017.404
Xuất vật rẻ
623
2.243.140
642
153
1.947.410
4.190.550
Phân bổ vào giá thành
154
621
497.728.824
497.728.824
Đồng thời kế toán mở sổ chi tiết TK 621 để theo dõi từng công trình Sổ chi tiết tài khoản 621 (chi phí NVL trực tiếp)
Công trình dường 222km 17 - 19 Quang Trung Kiến Xương
ĐVT: Đồng
NTGS
Chứng từ
Diễn Giải
TKĐƯ
Số tiền
Số
Ngày
Nợ
Có
28/12
6
9
10
17
7
9
37
11/8
13/8
14/8
21/8
3/9
4/9
28/12
PS tháng 5
Xuất NVL
Xuất NVL
Xuất NVL
Thanh toán lương bốc dỡ NVL
PS tháng 6
Chi đắp lề cát
Xuất nhựa, củi
Cộng phát sinh quý III
...........................................
Cộng phát sinh quý IV
K/c chi phí NVL trực tiếp để tính giá thành
152
152
152
111
111
152
154
64.232.500
88.629.820
101.213.140
4.218.000
32.982.000
28.331.380
319.606.840
……………
13.861.143
333.467.983
Cộng phát sinh
333.467.983
333.467.983
Từ sổ chi tiết tài khoản 621 ta có bảng tổng hợp chi phí NVL trực tiếp cho công trình đường 222 km 17 - 19 Quang Trung, Kiến Xương
Biểu 4: Tổng hợp chi phí NVL công trình đường 222 km 17 - 19
ĐVT: Đồng
Tên vật tư
Tổng CP vật tư
Trong đó
T7
T8
T9
T10
T11
T12
Nhựa
Củi
Đá hộc
Đá 4*6
Đá1*2
Đá 1*1
Đất đắp lề
Cọc tre
Xi măng
Sắt
Đá 2*4
Lương bốc dỡ
122.683.000
6.864.380
10.060.700
122.355.000
14.889.610
7.541.100
34.358.130
332.000
7.116.373
1.986.390
1.063.300
4.218.000
95.936.000
5.280.000
10.060.700
121.360.300
13.896.000
7.541.100
4.218.000
26.747.000
1.584.380
32.650.000
332.000
994.700
992.250
1.708.130
7.116.373
1.986.390
1.063.300
Tổng
333.467.983
258.293.460
61.313.380
13.861.143
Tổng:333.467.983
Tổng:333.467.983
Cộng QuýIII:319.606.840
........................................................
Cộng Quý IV: 13.861.143
TK154 154
333.467.983
TK621 (đường 222 km17-19)
282.406.840 đ
TK152
37.200.000 đ
Sơ đồ hạch toán cụ thể chi phí NVL trực tiếp ở công trình đường 222km 17-19
TK111
4.1.2.1.2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (TK 622)
Khoản mục chi phí NCTT trực tiếp được mở để tập hợp toàn bộ những khoản chi phí mà Công ty phải trả cho người lao động trực tiếp thi công trên công trường được hạch toán vào TK622.
Công ty áp dụng hình thức trả lương khoán cho công nhân và lương thời gian cho cán bộ quản
Đối với những khoản trích theo lương như BHXH, BHYT, KPCĐ (15%) mà Công ty nộp không hạch toán vào TK622 mà được hạch toán vào TK627- chi phí sản xuất chung. Cuối mỗi quý Công ty tiến hành phân bổ vào chi phí sản xuất chung cho mỗi công trình trong quý.
Kế toán hạch toán tổng hợp chi tiết
Công trình đường 222 km 17-19 Quang Trung - Kiến Xương được Công ty giao cho đội 2 trực tiếp thi công công trình. Kế toán căn cứ vào hợp đồng giao khoán, biên bản nghiệm thu, để thanh toán lương cho công nhân trực tiếp thi công của đội.
Căn cứ vào bảng thanh toán lương kế toán lập chứng từ ghi sổ:
Chứng từ ghi sổ Số 3 - tháng 9/2002
Trích yếu
Số hiệu TK
Số tiền
N
C
N
C
Tiền công phải trả cho công nhân trực tiếp thi công công trình đường 222 km 17-19 tháng
8/ 2002
…………………
622
…………
334
..............
20.005.000
...................
20.005.000
...................
Căn cứ vào các chứng từ ghi sổ để vào sổ cái TK622 và sổ chi tiết TK622 cho từng công trình.
Sổ chi tiết TK622 - Chi phí nhân công trực tiếp
Công trình: đường 222 km 17-19 Kiến Xương
NTGS
Chứng từ
Diễn giải
TKĐƯ
Số tiền
Số
Ngày
N
C
30/9
30/10
30/11
28/12
28/12
7
10
5
11
34
10/9
10/10._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KT470.Doc