Lời nói đầu
Để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội ngày một tăng cũng như để đáp ứng sự phát triển sản xuất của doanh nghiệp mình, một trong những biện pháp được các nhà quản lý đặt biệt quan âm hiện nay là công tác kế toán nói chung cũng như kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng.
Trong đó, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành được coi là một khâu trung tâm của công tác kế toán mở ra hướng đi hết sức đúng đắn cho các doanh nghiệp. Thực chất chi phí sản
110 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất là đầu vào của quá trình sản xuất, do vậy tiết kiệm chi phí sản xuất là hạ giá thành sản phẩm, đồng thời đảm bảo đầu ra của quá trình sản xuất sao cho nó được xã hội chấp nhận và làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mình. Hơn nữa, mục đích cuối cùng của quá trình sản xuất là tạo ra sản phẩm và giá thành sản phẩm chính là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Xuất phát từ vấn đề đó mức tính giá thành sản phẩm đòi hỏi phải tính đúng, tính đủ chi phí sản xuất bỏ ra theo đúng chế độ của Nhà nước.
Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, bên cạnh những mặt thuận lợi, cũng không ít những mặt khó khăn, thách thức đối với các doanh nghiệp. Vì vậy, muốn đảm bảo ưu thế cạnh tranh, thu lợi nhuận cao thì bên cạnh việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, hợp thị hiếu người tiêu dùng, một yếu tố quan trọng khác là sản phẩm đó phải có giá thành hạ, phù hợp với sức mua của đa số nhân dân. Hạ giá thành sản phẩm đã trở thành nhân tố quyết định sự tồn vong của mỗi doanh nghiệp. Đặc biệt trong ngành xây dựng cơ bản, hạ giá thành sản phẩm đã được đặt ra như một yêu cầu bức thiết, khách quan nhằm tạo tiền đề cho các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân cùng hạ giá thành sản phẩm. Bởi vậy xây dựng cơ bản nhằm trang bị tài sản cố định cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân khác góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Với tất cả ý nghĩa như vậy, cùng với thời gian thực tập ở Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5, em thấy vấn đề chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là vấn đề nổi bật, cần phải được các nhà quản lý và hạch toán quan tâm. Tuy còn nhiều thiếu sót và hạn chế, song với vốn kiến thức đã được học và tích luỹ trong nhà trường, kết hợp với các tài liệu đọc thêm, em quyết định đi sâu vào nghiên cứu đề tài: "Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5" để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp.
Đề tài có kết cấu như sau:
Chương 1: Lý luận chung về chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Chương 2: Thực trạng tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây lắp vật tư xây dựng 5.
Chương 3: Một số nhận xét và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây lắp và vật tư xây dựng 5.
Chương 1: lý luận chung về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
1.1 Sự cần thiết phải tổ chức kế toán tập hợp chi phí và giá thành trong doanh nghiệp xây lắp:
Hiện nay, nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước - thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Nhưng để doanh nghiệp kinh doanh thực sự có lãi, mở rộng quy mô sản xuất thì vấn đề làm thế nào để xác định kết quả SXKD của mình cao hay thấp so với chi phí bỏ ra là điều mà các doanh nghiệp thực sự quan tâm, trên cơ sở hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm. Việc có các thông tin về chi phí là cơ sở để các nhà quản lý doanh nghiệp ấn định giá, phân tích việc sử dụng tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực và sử dụng chúng có hiệu quả hay không. Từ đó, đưa ra những quyết định đúng đắn cho quá trình SXKD của đơn vị.
Lĩnh vực XDCB là một trong những ngành có tốc độ phát triển nhanh đặc biệt trong những năm gần đây. Khác với các đơn vị SXKD khác, XDCB là ngành sản xuất vật chất tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm chiếm tỷ trọng lớn vốn đầu tư của nhà nước. Sản phẩm của ngành xây dựng thường là những công trình xây dựng có giá trị lớn thời gian sử dụng lâu dài, có ý nghĩa quan trọng về kinh tế. Hơn nữa sản phẩm của xây dựng còn thể hiện bản sắc văn hoá, ý thức thẩm mỹ và cách cấu trúc của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc.
Ngành XDCB với đặc điểm sản xuất là thời gian dài, vốn lớn, ... nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý vốn có hiệu quả, hạn chế tối đa tình trạng thất thoát và lãng phí vốn trong quá trình thi công nhằm giảm chi phí trong xây dựng, hạ giá thành sản phẩm và tăng tính cạnh tranh trên thị trường. Do vậy, hạch toán chi phí và tính GTCT xây lắp chiếm một vị trí quan trọng không thể thiếu được đối với các công trình xây dựng nói riêng và đối với xã hội nói chung, là cơ sở để nhà nước kiểm soát vốn đầu tư XDCB và tăng nguồn thu cho Ngân sách nhà nước. Thông qua công tác hạch toán CPSX và tính giá thành sản phẩm các nhà quản lý có thể phân tích đánh giá tình hình thực tế sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn có hiệu quả.
Vì những lí do trên, việc nghiên cứu các khoản mục CPSX và tính GTCT xây lắp là một đòi hỏi cần thiết. Từ đó, doanh nghiệp sẽ thực hiện các khoản mục CPSX và tính giá thành đồng thời tìm ra các biện pháp phù hợp, đúng đắn nhằm hạ giá thành mà vẫn đảm bảo chất lượng công trình. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:"Hạch toán chi phí và tính giá thành công trình xây lắp tại Công ty Xây lắp và Vật tư xây dựng 5 - Hà Nội".
1.1.1 Chi phí sản xuất và giá thành trong doanh nghiệp xây lắp
Chi phí sản xuất trong hoạt động kinh doanh xây lắp, CPSX là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây lắp
Chi phí về lao động sống gồm: chi phí tiền lương hoặc tiền công, trích BHXH, BHYT, KPCĐ.
Chi phí về lao động vật hoá gồm: Chi phí nguyên - nhiên vật liệu, chi phí khấu hao TSCĐ...
Như vậy, quá trình sản xuất ra sản phẩm hàng hoá là quá trình kết hợp 3 yếu tố cơ bản:
- Tư liệu lao động: Nhà xưởng, máy móc thiết bị
- Đối tượng lao động: Nguyên, nhiên vật liệu
- Sức lao động: Gồm cả lao động trực tiếp và lao động gián tiếp.
Ba yếu tố trên hình thành nên các CPSX để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất và là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Vì vậy, việc tính đúng, đủ và chính xác những chi chí bỏ ra qua quá trình thi công công trình ở các doanh nghiệp xây lắp rồi phân tích chúng một cách khoa học, khách quan sẽ là cơ sở để doanh nghiệp có kế hoạch trong việc cân đối dự trữ các yếu tố đầu vào, kịp thời xử lý các biến động về giá cả, từ đó thấy được kết quả SXKD của công ty để có thể nâng cao mức doanh lợi và quản lý được chặt chẽ, tiết kiệm hơn các chi phí.
Giá thành sản phẩm xây lắp : là toàn bộ chi phí sản xuất để hoàn thành một khối lượng sản phẩm xây lắp theo quy định.
Giá thành hạng mục công trình hoặc công trình hoàn thành là toàn bộ giá thành sản phẩm đạt giá trị sử dụng của sản phẩm xây lắp
Trong doanh nghiệp xây lắp giá thành sản phẩm mang tính cá biệt, luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong của nó, đó là chi phí bỏ ra và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong công trình khi đã hoàn thành. Mỗi CT, HMCT đều có một giá thành riêng và khi nhận thầu một CT, HMCT thì giá bán đã có trước khi thi công vì vậy giá bán có trước khi xác định gía thành kế hoạch và giá thành dự toán.
1.1.2 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Mối quan hệ biện chứng giữa CPSX và giá thành sản phẩm là chúng đều có giới hạn để tập hợp chi phí nhằm phục vụ cho quản lý, phân tích và kiểm tra công tác giá thành. Bản chất của giá thành sản phẩm là sự chuyển dịch giá trị của những yếu tố chi phí vào những sản phẩm, công việc nhất định đã hoàn thành. Giá thành luôn chứa đựng hai mặt khác nhau, bên trong nó là CPSX và lượng giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm công việc đã hoàn thành. Chi phí là biểu hiện về mặt hao phí, còn giá thành biểu hiện về mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của một quá trình nên CPSX và giá thành sản phẩm giống nhau về chất. CPSX và giá thành sản phẩm xây lắp đều bao gồm các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất sản phẩm. Nhưng do bộ phận CPSX không đều nhau nên CPSX và giá thành sản phẩm xây lắp khác nhau về lượng. Nếu CPSX là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một thời kỳ nhất định thì gía thành sản phẩm là tổng hợp những chi phí chi ra gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây lắp nhất định được nghiệm thu, bàn giao và thanh toán. Giá thành sản phẩm không bao hàm những chi phí cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân bổ kỳ sau. Nhưng GTSP lại bao gồm những CPSX kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những chi phí của kỳ trước chuyển sang phân bổ cho kỳ này. Mối quan hệ giữa CPSX và giá thành sản phẩm được thể hiện qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí và giá thành
CDDĐK CPSTK
Z CDDCK
Ta có: Z = CDDĐK+ CPSTK - CDDCK
Trong đó: Z: Tổng giá thành sản phẩm
CDDĐK: Chi phí dở dang đầu kỳ
CPSTK: Chi phí phát sinh trong kỳ
CDDCK: Chi phí dở dang cuối kỳ
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp
Doanh nghiệp xây lắp là các tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân và điều kiện để thực hiện những công việc có liên quan đến quá trình thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị cho các công trình, hạng mục công trình như: công ty xây dựng, công ty lắp máy, tổng công ty xây dựng... Các đơn vị này tuy có khác nhau về quy mô sản xuất, hình thức quản lý nhưng đều là những tổ chức hạch toán kinh tế có đầy đủ chức năng nhận thầu xây lắp các công trình xây dựng.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây lắp có đặc điểm như sau:
Được thực hiện trên cơ sở các hợp đồng đã ký với đơn vị chủ đầu tư sau khi trúng thầu hoặc được chỉ định thầu. Trong hợp đồng hai bên đã thống nhất với nhau về giá trị thanh toán của công trình cùng với các điều kiện khác. Do vậy, tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không được thể hiện rõ, nghiệp vụ bàn giao công trình, hạng mục công trình hoặc khối lượng xây lắp hoàn thành đạt điểm dừng kỹ thuật cho bên giao thầu chính là quá trình tiêu thụ sản phẩm xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp , mang tính chất đơn chiếc, thời gian xây dựng dài.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện cần thiết cho sản phẩm như các loại xe máy,thiết bị, nhân công... phải di chuyển theo địa điểm đặt công trình. Mặt khác, việc xây dựng còn chịu tác động của địa chất công trình và điều kiện thời tiết, khí hậu của địa phương....vì vậy công tác quản lý và sử dụng tài sản, vật tư cho công trình rất phức tạp, đòi hỏi phải xây dựng đơn giá cho từng loại công tác xây lắp cũng như đơn giá cho từng vùng lãnh thổ.
- Sản phẩm xây lắp hoàn thành thường được tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ đầu tư từ trước. Do đó tính chất hàng hoá của sản phẩm thể hiện không rõ.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, cơ chế khoán gọn đang được áp dụng rộng rãi với các hình thức giao khoán khác nhau như: khoán gọn công trình (khoán toàn bộ chi phí), khoán theo từng khoản mục chi phí. Do vậy, phải hình thành bên giao khoán, bên nhận khoán và giá khoán.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và của sản phẩm xây dựng nên việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở định mức, đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của bản thân doanh nghiệp. Mặt khác, phải đảm bảo kinh doanh có lãi. Để thực hiện các yêu cầu trên đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý kinh tế nói chung, quản lý chi phí giá thành nói riêng, trong đó trọng tâm là công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành đảm bảo phát huy tối đa tác dụng của công cụ kế toán đối với quản lý sản xuất.
1.1.4 Nhiệm vụ của kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành trong các doanh nghiệp xây lắp
Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh xây lắp nên nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp là: Xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành phù hợp với điều kiện hiện tại của doanh nghiệp và thoả mãn yêu cầu do quản lý đặt ra, vận dụng các phương pháp tính giá thành và phương pháp kế toán theo một trình tự logic, tính toán chính xác, đầy đủ kiểm tra các khâu hạch toán như: tiền lương, vật liệu, tài sản cố định, ... xác định số liệu cần thiết cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành.
Cụ thể phải thực hiện tốt các yêu cầu sau:
* Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực chất phát sinh.
* Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, lao động, sử dụng máy thi công và các dự toán chi phí khác, phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng... trong sản xuất để đề xuất những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
* Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn thành của doanh nghiệp.
* Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình, hạng mục công trình, từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý có hiệu quả.
* Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định.
Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh ở từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ đội sản xuất... trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công tác xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
Lập Báo cáo kế toán về chi phí sản xuất và giá thành công tác xây lắp, cung cấp số liệu chính xác, nhanh chóng, kịp thời các thông tin cần thiết phục vụ yêu cầu quản lý của lãnh đạo.
1.2 Phân loại chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong các doanh ngiệp xây lắp.sản xuất
1.2.1 Phân loại chi phí sản xuất
Cũng như các doanh nghiệp sản xuất khác, trong doanh nghiệp xây dựng có rất nhiều loại chi phí khác nhau, tuỳ theo yêu cầu quản lý, đối tượng cung cấp thông tin, giác độ xem xét chi phí... mà chi phí sản xuất được phân loại theo các tiêu thức sau:
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung và tính chất kinh tế của chi phí:
Theo tiêu thức phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành các yếu tố sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ chi phí về các loại đối tượng lao động là nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản...
- Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản khác phải trả cho người lao động trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số phải trích khấu hao trong kỳ đối với tất cả các loại tài sản cố định trong doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền trả cho các dịch vụ mua ngoài để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
- Chi phí khác bằng tiền: là toàn bộ số chi phí phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất ngoài bốn yếu tố chi phí trên.
Phân loại chi phí theo cách này có tác dụng cho biết kết cấu tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để lập bản thuyết minh báo cáo tài chính phục vụ cho yêu cầu thông tin và quản trị doanh nghiệp, để phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí, lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh cho kỳ sau. Nó là tài liệu quan trọng dùng làm căn cứ xác định mức tiêu hao vật chất và thu nhập quốc dân.
* Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo công dụng của chi phí:
Theo cách phân loại này toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành:
- Chi phí sản xuất chế tạo sản phẩm: là toàn bộ chi phí liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm cũng như các chi phí liên quan đến hoạt động quản lý và phục vụ sản xuất trong các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Chi phí này được chia thành:
+ Chi phí trực tiếp: là những chi phí có liên quan đến quá trình chế tạo sản phẩm bao gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
+ Chi phí gián tiếp (chi phí sản xuất chung): là những chi phí phục vụ quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện các lao vụ dịch vụ.
- Chi phí bán hàng: là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ bán sản phẩm hàng hoá, lao vụ dịch vụ, còn gọi là chi phí ngoài sản xuất.
- Chi phí hoạt động khác: là những chi phí phát sinh trong quá trình tiến hành các hoạt động khác như: chi phí hoạt động tài chính và chi phí bất thường.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: là toàn bộ các chi phí phục vụ và quản lý chung hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý hành chính.
Theo cách phân loại này các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm sẽ là những chi phí cấu thành trong quá trình sản phẩm theo các khoản mục giá thành đã quy định đó là: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, do đặc điểm sản xuất của ngành, ngoài ba loại chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung còn có thêm chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ chi phí cho sử dụng máy thi công như chi phí nhiên liệu cho máy, chi phí nhân công sử dụng máy, chi phí khấu hao máy.
Ngoài cách phân loại chủ yếu trên phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý và công tác kế toán chi phí sản xuất kinh doanh còn có thể được phân loại theo các hình thức khác như: căn cứ vào mối quan hệ chi phí sản xuất kinh doanh với khối lượng sản phẩm lao vụ hoàn thành (chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi) hay căn cứ vào phương pháp tập hợp kế toán chi phí (chi phí trực tiếp và chi phí phân bổ gián tiếp)
Mỗi cách phân loại chi phí sản xuất có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả nhất toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong toàn doanh nghiệp, trong từng thời kỳ nhất định.
1.2.2 Các loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Trong các doanh nghiệp xây lắp có những loại giá thành sau:
Nếu căn cứ vào cơ sở số liệu tính giá thành, giá thành được chia làm 3 loại:
Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá của Nhà nước. Giá thành kế hoạch: là giá thành được xây dựng trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, biện pháp thi công. Giá thành này nhỏ hơn giá trị dự toán xây lắp ở mức hạ giá thành kế hoạch.
Giá thành thực tế: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành khối lượng xây lắp. Giá thành này được xây dựng trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất đã tập hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ. Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt, bởi vì thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp nhận thầu xây lắp.
Thông thường do yêu cầu của công tác quản lý và hạch toán kinh tế thì giá thành thực tế phải nhỏ hơn giá thành kế hoạch để có mức tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm và chúng có mối quan hệ:
Giá thành thực tế < Giá thành kế hoạch < Giá thành dự toán
Vì các sản phẩm xây lắp có thời gian thi công kéo dài nên để theo dõi một cách chặt chẽ những chi phí phát sinh, doanh nghiệp có thể phân giá thành thực tế thành các bộ phận sau:
- Giá thành thực tế công tác xây lắp: phản ánh giá thành của một lượng công tác xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật nhất định. Theo cách này cho phép xác định, kiểm kê kịp thời chi phí phát sinh để điều chỉnh cho phù hợp ở những giai đoạn sau và phát hiện ra những nguyên nhân gây tăng, giảm chi phí.
Giá thành thực tế CT, HMCT hoàn thành: là toàn bộ chi phí bỏ ra để tiến hành thi công một CT, HMCT từ khi chuẩn bị đến khi hoàn thành đảm bảo kỹ thuật đúng chất lượng thiết kế được bên giao thầu nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Nếu căn cứ vào mức độ hoàn thành khối lượng xây lắp, giá thành sản phẩm được chia làm 2 loại:
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh: là giá thành của CT, HMCT đã hoàn thành, đảm bảo yêu cầu kỹ thuật chất lượng theo thiết kế và hợp đồng đã được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Giá thành khối lượng hoàn thành quy ước: là giá thành xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn quy ước thỏa mãn các điều kiện đã quy định.
Nếu căn cứ vào phạm vi tính toán, giá thành sản phẩm xây lắp gồm 2 loại
Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất.
Giá thành tiêu thụ(giá thành toàn bộ sản phẩm) : là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ sản phẩm
=
Giá thành sản xuất sản phẩm
+
Chi phí quản lý doanh nghiệp
+
Chi phí bán hàng
1.3 Đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp
1.3.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất
Thực chất của việc xác định đối tượng hạch toán CPSX là xác định phạm vi hay giới hạn của chi phí, nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân tích chi phí và tính giá thành sản phẩm. Việc xác định đối tượng hạch toán CPSX là công việc đầu tiên và quan trọng của việc tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau và có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là giai đoạn hạch toán CPSX phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng, giai đoạn công nghệ phân xưởng... và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định.
Việc xác định đối tượng hạch toán CPSX phải căn cứ vào:
- Tính chất sản xuất và quy trình sản xuất: đơn giản hay phức tạp, quy trình công nghệ liên tục hay song song.
- Loại hình sản xuất: đơn chiếc hay hàng loạt.
- Đặc điểm tổ chức sản xuất.
- Yêu cầu và trình độ quản lý của doanh nghiệp.
Do đặc điểm SXKD xây lắp có quy trình công nghệ phức tạp và loại hình sản xuất đơn chiếc, thường phân chia thành nhiều khu vực, bộ phận thi công. Mỗi hạng mục cấu tạo vật chất khác nhau và đều có thiết kế riêng, giá dự toán riêng. Vì vậy tuỳ thuộc vào công việc cụ thể, tuỳ thuộc trình độ quản lý của doanh nghiệp mà có đối tượng hạch toán chi phí khác nhau, có thể là: CT, HMCT, từng đơn đặt hàng, từng giai đoạn công việc.
1.3.2 Đối tượng tính giá thành sản phẩm
Khái niệm: đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất hoàn thành, đòi hỏi phải tính tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Đối tượng tính GTCT xây lắp:
Việc đầu tiên trong công tác tính GTCT xây lắp là việc xác định đúng đối tượng để tính giá thành. Trong các doanh nghiệp XDCB, do sản phẩm mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm đều có dự toán và thiết kế riêng, tiêu chuẩn kỹ thuật riêng nên đối tượng tính GTCT xây lắp thường là các CT, HMCT hay khối lượng công việc có thiết kế và dự toán riêng đã hoàn thành. Từ đó căn cứ vào chu kỳ SXKD, đặc điểm sản xuất sản phẩm và tổ chức công tác kế toán mà doanh nghiệp xác định kỳ tính giá thành để đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời phục vụ cho nhu cầu quản lý.
1.3.3 Mối quan hệ giữa đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành
Qua phân tích hai khái niệm trên ta thấy: đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành có những đặc điểm giống và khác nhau:
Giống nhau: đối tượng kế toán chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành giống nhau ở bản chất, đều là những phạm vi, giới hạn nhất định để tập hợp chi phí sản xuất và theo đó cũng phục vụ cho công tác quản lý, phân tích và kiểm tra chi phí, giá thành sản phẩm
Khác nhau:
Xác định đối tượng tính chi phí là xác định phạm vi, giới hạn cuả chi phí liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành của quy trình sản xuất phát sinh trong kỳ
Xác định đối tượng tính giá thành là xác định phạm vi, giới hạn liên quan đến kết quả sản xuất đã hoàn thành của quy trình công nghệ.
Mối quan hệ:
Một đối tượng kế toán chi phí sản xuất có thể bao gồm nhiều đối tượng tính giá thành
Một đối tượng tính giá thành có thể bao gồm nhiều đối tượng chi phí.
1.4 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp thường được tiến hành vào cuối kỳ kế toán hoặc chi phí công trình hoàn thành toàn bộ trên cơ sở các bảng tính toán phân bổ chi phí vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi công,và chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tập hợp chi phí đã được xác định. Việc tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp phải thực hiện theo từng CT, HMCT và theo các khoản mục chi phí đã được quy định.
Phương pháp tập hợp CPSX
Các doanh nghiệp xây lắp thường sử dụng 2 phương pháp sau để tập hợp CPSX:
* Phương pháp tập hợp trực tiếp:
Khi áp dụng phương pháp này thì chi phí liên quan tới CT, HMCT nào đã được xác định ghi chép ban đầu thì kết chuyển trực tiếp vào CT, HMCT đó. Khi sử dụng phương pháp này để tập hợp chi phí được đánh giá là cách tập hợp chính xác nhất. Đồng thời, theo dõi trực tiếp chi phí liên quan đến đối tượng cần theo dõi. Nhưng việc sử dụng phương pháp này tốn nhiều thời gian, công sức và không phải lúc nào cũng sử dụng được bởi có những đối tượng không thể theo dõi riêng.
* Phương pháp phân bổ gián tiếp:
Vì trong doanh nghiệp xây lắp cũng có những đối tượng không thể theo dõi riêng được nên kế toán không thể tổ chức hạch toán riêng do vậy cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ sao cho hợp lý với từng đối tượng. Tính chính xác của phương pháp này phụ thuộc vào tiêu thức phân bổ. Theo phương pháp này thì cần tiến hành hai bước sau:
Bước 1: Xác định hệ số phân bổ
Hệ số phân bổ
=
Tổng chi phí cần phân bổ
Tổng đơn vị tiêu thức cần phân bổ cho các đối tượng
Bước 2: Tính chi phí phân bổ cho từng đối tượng:
Chi phí phân bổ cho đối tượng A
=
Hệ số phân bổ
X
Tiêu thức phân bổ của đối tượng A
Sự phân bổ chi phí theo phương pháp phân bổ gián tiếp mang tính chính xác không cao do phụ thuộc vào việc lựa chọn tiêu thức phân bổ. Nhưng nếu xác định được tiêu thức phân bổ hợp lý thì độ chính xác của phương pháp này đáng tin cậy.
1.4.1 Kế toán tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí vật liệu trực tiếp xây lắp là những chi phí vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu CT, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như : sắt thép, xi măng, gạch, gỗ, cát, đá, sỏi, đà giáo...
Chi phí vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành công tác xây lắp. Do đó, việc hạch toán chi phí vật liệu chính xác có ý nghĩa quan trọng để xác định lượng tiêu hao vật chất trong sản xuất cũng như tính chính xác hợp lý của giá thành công trình xây lắp.
Trong hạch toán chi phí vật liệu xây dựng trực tiếp, kế toán cần phải tôn trọng những quy định có tính nguyên tắc như sau:
Vật liệu sử dụng cho việc xây dựng hạng mục công trình nào thì tính trực tiếp cho CT, HMCT đó trên cơ sở các chứng từ gốc có liên quan, theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo giá thành thực tế xuất kho.
Cuối kỳ hạch toán hoặc khi CT hoàn thành phải tiến hành kiểm kê số vật liệu chưa sử dụng hết ở các công trường, bộ phận sản xuất để tính số vật liệu thực tế sử dụng cho CT, đồng thời phải hạch toán đúng đắn số phế liệu thu hồi (nếu có) theo từng đối tượng CT.
Trong điều kiện vật liệu sử dụng cho nhiều HMCT thì kế toán áp dụng phương pháp phân bổ, tính chi phí vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng HMCT theo tiêu thức hợp lý: có thể tỷ lệ với định mức tiêu hao...
Kế toán phải sử dụng triệt để hệ thống định mức tiêu hao vật liệu sử dụng trong xây dựng cơ bản và phải tác động tích cực để không ngừng hoàn thiện hệ thống định mức đó.
Để phản ánh chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621-“chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”
Trình tự kế toán một số nghiệp vụ chủ yếu
Xuất kho nguyên vật liệu dùng trực tiếp cho CT, HMCT kế toán tính theo giá thực tế, ghi:
Nợ TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
Trường hợp mua nguyên vật liệu sử dụng ngay cho các CT, HMCT thuộc đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, ghi:
Nợ TK 621 - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 133- Thuê GTGT được khấu trừ(nếu có)
Có TK 111,112,331
Trường hợp vật liệu mua về sử dụng ngay cho các CT, HMCT thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, ghi:
Nợ TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Có TK 331 hoặc TK 111,112
Trường hợp DNXL giao khoán cho đơn vị trực thuộc không tổ chức hạch toán kế toán riêng. Khi DNXL tạm ứng cho đơn vị nhận khoán một số tiền, ghi:
Nợ TK 141-Tạm ứng(1413)
Có TK 111-Tiền mặt
Khi quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp giao khoán nội bộ hoàn thành đã bàn giao, ghi:
Nợ TK 621(theo giá chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 133(thuế GTGT được khấu trừ)
Có TK 141(1413)(số đã tạm ứng về chi phí vật liệu)
Hoặc trường hợp thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT,ghi:
Nợ TK 621(tổng giá thanh toán)
Có TK 141(1413)(số đã tạm ứng về chi phí vật liệu)
Trường hợp số vật liệu xuất ra không sử dụng hết cho hoạt động xây lắp, cuối kỳ nhập lại kho, ghi:
Nợ TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nếu kh._.ông nhập lại kho mà tiếp tục sử dụng cho kỳ sau, ghi âm(...)
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Nợ TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
Cuối kỳ căn cứ vào kết quả bảng phân bổ vật liệu cho từng CT, HMCT theo phương pháp trực tiếp hoặc phân bổ gián tiếp, ghi:
Nợ TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang(1541-xây lắp)
Có TK 621- Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
1.4.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp:bao gồm tiền lương, tiền công phải trả cho số ngày công lao động của công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác xây lắp, công nhân phục vụ công trình xây lắp, kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay công nhân thuê ngoài
Kế toán chi phí nhân công trực tiếp của hoạt động xây lắp phải tôn trọng những quy định sau:
Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân liên quan đến CT, HMCT nào thì phải hạch toán trực tiếp cho CT, HMCT đó trên cơ sở các chứng từ gốc về lao động và tiền lương. Trong điều kiện sản xuất xây lắp không cho phép tính chi phí trực tiếp chi phí nhân công cho từng CT, HMCT thì kế toán phải phân bổ chi phí nhân công trực tiếp cho các đối tượng theo tiền lương định mức hay giờ công định mức.
Các khoản chi phí trích theo tiền lương phải trả công nhân trực tiếp xây lắp (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn) được tính vào chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp.
Để kế toán chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
Trình tự kế toán một số nghiệp vụ chủ yếu:
Căn cứ vào bảng tính tiền lương phải trả cho công nhân xây lắp, ghi:
Nợ TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 334-phải trả công nhân viên
Có TK 3341- phải trả công nhân viên
Có TK 3342 – phải trả lao động thuê ngoài
Trường hợp tạm ứng để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ(đơn vị nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng). Khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp đã hoàn thành bàn giao được duyệt thì riêng phần chi phí nhân công trực tiếp sẽ ghi:
Nợ TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
Có TK 141- tạm ứng(1413)
Cuối kỳ, kế toán tính phân bổ và kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp cho từng CT, HMCT theo phương pháp trực tiếp hoặc phân bổ gián tiếp, ghi:
Nợ TK 154- chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 622- chi phí nhân công trực tiếp
1.4.3 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công
Máy thi công là loại xe máy chạy bằng động lực(điện, xăng, khí nén...) được sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp các công trình như: máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi,... các loại phương tiện thi công này doanh nghiệp có thể tự trang bị hoặc thuê ngoài.
Chi phí sử dụng máy thi công là toàn bộ các chi phí về vật liệu, nhân công và các chi phí khác có liên quan đến sử dụng máy thi công và được chia thành hai loại:
Chi phí thường xuyên: là những chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng xe máy thi công được tính thẳng vào giá thành của ca máy như: tiền lương của công nhân trực tiếp điều khiển hay phục vụ xe máy, chi phí về nhiên liệu, vật liệu, động lực dùng cho xe máy thi công, khấu hao và sửa chữa thường xuyên xe máy thi công, tiền thuê xe máy thi công...
Chi phí tạm thời: là chi phí phân bổ dần theo thời gian sử dụng máy thi công như: chi phí tháo lắp, vận chuyển,chạy thử máy thi công khi di chuyển từ công trường này đến công trường khác: chi phí về xây dựng, tháo dỡ những công trình tạm thời loại nhỏ như lều lán...phục vụ cho sử dụng máy thi công. Những chi phí này có thể phân bổ dần hoặc trích trước theo kế hoạch.
Kế toán chi phí sử dụng máy thi công cần phải tôn trọng những quy đinh sau:
Hạch toán chi phí sử dụng máy thi công phải phù hợp với hình thức quản lý sử dụng máy thi công của doanh nghiệp, thông thường có hai hình thức quản lý, sử dụng máy thi công: tổ chức máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện các khối lượng thi công bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp.
Nếu doanh nghiệp xây lắp có tổ chức đội máy thi công riêng biệt và đội máy có tổ chức kế toán thì chi phí sử dụng máy và giá thành của ca hoặc khối lượng do máy đã hoàn thành được hạch toán giống như bộ phận sản xuất phụ. Chi phí sử dụng máy thi công tính cho các CT, HMCT có thể tính theo giá thành thực tế của ca máy hoặc theo khối lượng do máy đã hoàn thành hay tính theo giá khoán nội bộ.
Nếu doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt mà giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp sử dụng thì chi phí sử dụng máy(kể cả chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời) được hạch toán tương tự như chi phí sản xuất chung.
Chi phí sử dụng máy thi công phải được hạch toán chi tiết theo từng loại máy hoặc nhóm máy thi công, đồng thời phải chi tiết theo các khoản mục chi phí quy định.
Tính toán phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các đối tượng sử dụng phải dựa trên cơ sở giá thành một giờ/ máy hoặc giá thành một ca/máy hoặc một đơn vị khối lượng công việc hoàn thành.
Để phản ánh chi phí sử dụng máy thi công, kế toán sử dụng TK 623 “chi phí sử dụng máy thi công”. Tài khoản này dùng để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy thi công phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp và chỉ sử dụng để hạch toán chi phí sử dụng máy thi công đối với trường hợp doanh nghiệp xây lắp công trình theo phương pháp thi công hỗn hợp, vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn theo phương pháp bằng máy thì không sử dụng tài khoản này mà doanh nghiệp hạch toán các chi phí xây lắp trực tiếp vào các TK 621,622,627. Không hạch toán vào tài khoản này các khoản trích theo tiền lương phải trả cho công nhân sử dụng sử dụng máy thi công(bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn).
Phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt:
Căn cứ vào bảng tính tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân điều khiển máy, phục vụ máy thi công, ghi :
Nợ TK 623- Chi phí sử dụng máy thi công (6231)
Có TK 334- Phải trả công nhân viên
Khi xuất kho, hoặc mua vật liệu, nhiên liệu, công cụ, dụng cụ sử dụng cho máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công (6232, 6233)
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ(nếu có)
Có TK 152,153,142,111,112,331
Khấu hao xe máy thi công sử dụng ở đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công (6234)
Có TK 214- Hao mòn TSCĐ
Các chi phí dịch vụ mua ngoài phát sinh có liên quan đến sử dụng máy thi công như: điện, nước, tiền thuê ngoài sưả chữa máy thi công...,ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112
Các chi phí khác bằng tiền có liên quan đến sử dụng máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 111, 112
Trường hợp tạm ứng chi phí sử dụng máy để thực hiện khoán xây lắp nội bộ, khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành đã bàn giao được duyệt sẽ ghi:
Nợ TK 623- Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 141- Tạm ứng(1413)
Cuối kỳ kế toán phân bổ hoặc kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào từng công trình, hạng mục công trình, ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 623-chi phí sử dụng máy thi công
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp có đội máy thi công riêng biệt
Các chi phí có liên quan đến hoạt động của đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 621,622,627
Có TK liên quan:111, 112, 152,153...
Cuối kỳ, kế toán kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung của đội máy thi công để tính giá thành một ca máy hay một đơn vị khối lượng mà máy thi công đã hoàn thành, ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 621,622,627
Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức cung cấp lao vụ sử dụng máy thi công lẫn nhau mà không có tổ chức kế toán riêng ở đội máy thi công, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Nếu doanh nghiệp thực hiện theo phương thức bán lao vụ sử dụng máy lẫn nhau giữa các bộ phận trong nội bộ mà tổ chức kế toán riêng ở đội máy thi công, theo giá bán nội bộ về ca máy hay khối lượng đã hoàn thành. Quan hệ giữa đội máy thi công với doanh nghiệp xây lắp được coi là quan hệ thanh toán trong nội bộ doanh nghiệp, được tiến hành hạch toán như sau:
Đội máy thi công ghi:
Khi được doanh nghiệp thanh toán về ca hay khối lượng máy đã hoàn thành, ghi:
Nợ TK 136- Phải thu nội bộ(nếu chưa thanh toán)
Nợ TK 111,112(nếu đã thu tiền)
Có TK 512- Doanh thu nội bộ
Có TK 333(3331) (nếu nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ )
Cuối kỳ, kế toán kết chuyển giá thành thực tế về ca hay khối lượng máy đã hoàn thành, ghi:
Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang(đội máy thi công)
Doanh nghiệp xây lắp ghi:
Khi nhận ca hay khối lượng máy thi công đã hoàn thành do đội máy thi công bàn giao, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 133(nếu thuế GTGT được khấu trừ)
Có TK 336(nếu chưa trả tiền)
Có TK 111,112(nếu đã trả tiền)
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp thuê ca máy thi công
Khi thuê máy thi công, số tiền phải trả cho đơn vị cho thuê theo hợp đồng thuê, ghi:
Nợ TK 623-Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ
Có TK 331(nếu chưa trả tiền)
Có TK 111, 112(nếu đã trả tiền)
Cuối kỳ kế toán kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công vào đối tượng tập hợp chi phí sản xuất xây lắp , ghi:
Nợ TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 623- chi phí sử dụng máy thi công
1.4.4 Kế toán chi phí sản xuất chung
Chi phí sản xuất chung của hoạt động xây lắp là những chi phí có liên quan đến việc tổ chức, phục vụ và quản lý thi công của các đội xây lắp ở các công trường xây dựng. Chi phí sản xuất chung là chi phí tổng hợp bao gồm nhiều khoản chi phí khác nhau thường có mối quan hệ với các đối tượng xây lắp như: tiền lương nhân viên quản lý đội xây dựng, khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp và nhân viên quản lý đội(thuộc biên chế của doanh nghiệp), khấu hao TSCĐ dùng cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội....
Chi phí sản xuất chung thường được hạch toán chi tiết theo từng địa điểm phát sinh chi phí phân xưởng bộ phận, tổ đội sản xuất sau đó mới tiến hành phân bổ các đối tượng chịu chi phí liên quan.
Tổng chi phí sản xuất
Mức chi phí sản xuất chung cần phân bổ Tiêu thức phân bổ
chung phân bổ = X của từng đối tượng
cho từng đối tượng Tổng tiêu thức phân bổ
Trong thực tế thường sử dụng các tiêu thức phân bổ chi phí sản xuất chung như phân bổ theo định mức, theo giờ làm việc thực tế của công nhân sản xuất, theo tiền lương công nhân sản xuất.
Kế toán chi phí sản xuất chung cần tôn trọng những quy định sau:
Phải hạch toán chi phí sản xuất chung theo từng CT, HMCT, đồng thời phải chi tiết theo các điều khoản quy định.
Thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí sản xuất chung và các khoản có thể giảm chi phí sản xuất chung
Khi thực hiện khoán chi phí sản xuất chung cho các đội xây dựng thì phải quản lý tốt theo định mức đã giao khoán, từ chối không thanh toán cho các đội nhận khoán số chi phí sản xuất chung ngoài định mức, bất hợp lý.
Trường hợp chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều đối tượng xây lắp khác nhau, kế toán phải tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan theo tiêu thức hợp lý như: chi phí nhân công trực tiếp hoặc chi phí sản xuất chung định mức.
Để phản ánh chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng tài khoản 627- “chi phí sản xuất chung”.
Phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu:
Khi tính tiền lương, tiền công các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên của đội xây dựng, tiền ăn giữa ca của nhân viên quản lý đội, của công nhân xây lắp ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung
Có TK 334- Phải trả công nhân viên
Khi trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn được tính theo tỷ lệ % quy định hiện hành trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp , nhân viên sử dụng máy thi công và nhân viên quản lý đội(thuộc biên chế doanh nghiệp ), ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung
Có TK 338- Phải trả, phải nộp khác
Tạm ứng chi phí để thực hiện giá trị khoán xây lắp nội bộ(trường hợp đơn vị nhận khoán không tổ chức hạch toán kế toán riêng), khi bản quyết toán tạm ứng về giá trị khối lượng xây lắp hoàn thành đã bàn giao được duyệt, ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung
Có TK 141- Tạm ứng
Khi xuất dùng vật liệu dùng cho quản lý ở đội xây dựng, kế toán tính theo giá thực tế, ghi:
Nợ TK 627- Chi phí sản xuất chung
Có TK 152- Nguyên liệu, vật liệu
Khi phân bổ công cụ dụng cụ loại phân bổ nhiều lần, ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung (6277)
Có TK 142, 242
Khấu hao TSCĐ dùng trong công tác quản lý ở đội xây dựng, ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung (6274)
Có TK 214-Hao mòn TSCĐ, sửa chữa TSCĐ... ghi:
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 133(nếu được khấu trừ thuế GTGT)
Có TK 331, 111, 112
Các chi phí khác bằng tiền khác như tiếp khách, công tác phí, văn phòng phẩm, phòng chống bão lụt...., ghi
Nợ TK 627-Chi phí sản xuất chung (6278)
Có TK 111,112
Nếu phát sinh các khoản giảm chi phí sản xuất chung, ghi :
Nợ TK 111, 112, 138..
Có TK 627- Chi phí sản xuất chung
Cuối kỳ kế toán phân bổ chi phí sản xuất chung cho CT, HMCT, ghi:
Nợ TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (1541-xây lắp)
Có TK 627-Chi phí sản xuất chung (xây lắp)
1.5 Kế toán tính giá thành sản phẩm
1.5.1 Phương pháp tính giá thành giản đơn(hay tính giá thành theo phương pháp trực tiếp)
Phương pháp này hiện đang được các doanh nghiệp xây lắp áp dụng phổ biến vì nó phù hợp với đặc điểm sản phẩm xây lắp mang tính đơn chiếc. Đối tượng tập hợp chi phí phù hợp với đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành phù hợp với kỳ báo cáo, cách tính đơn giản.
Đến kỳ tính giá thành, trên cơ sở số liệu đã tập hợp được về chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, và sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ, kế toán tính giá thành theo công thức sau:
Z TT = Dđk+C- Dck
Trong đó Z TT là giá thành thực tế của khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao
Dđk, Dck là chi phí thực tế dở dang đầu kỳ, cuối kỳ
C là chi phí phát sinh trong kỳ
Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp theo từng CT, HMCT nhưng giá thành thực tế phải tính riêng cho từng HMCT thì có thể căn cứ vào hệ số kinh tế kỹ thuật quy định riêng cho các HMCT để tính giá thành cho các HMCT đó. Nếu các HMCT có thiết kế khác nhau,dự toán khác nhau không có điều kiện tập hợp chi phí sản xuất riêng cho từng HMCT thì phải tiến hành phân bổ. Khi đó, giá thành từng HMCT là Gdti x H.
Khi đó giá thành từng HMCT là tỷ lệ phân bổ giá thành thực tế được xác định theo công thức
H
=
C
x
Gdti
Gdt
C là tổng chi phí thực tế của cả công trình
Gdtlà giá trị dự toán của cả công trình
Gdti là giá trị dự toán của hạng mục thứ i
1.5.2 Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng
Phương pháp này áp dụng trong trường hợp các doanh nghiệp nhận thầu xây lắp theo đơn đặt hàng. Khi đó đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là từng đơn đặt hàng còn đối tượng tính giá thành là từng đơn đặt hàng hoàn thành. Kỳ tính giá thành không phù hợp với kỳ báo cáo mà là khi đơn đặt hàng hoàn thành. Theo phương pháp này chi phí sản xuất thực tế phát sinh hàng tháng được tập hợp theo đơn đặt hàng. Khi nào hoàn thành công trình thì chi phí sản xuất tập hợp được cũng là giá thành công trình.
1.5.3 Phương pháp tính giá thành theo định mức
Các bước tiến hành
Bước 1: Tính ra giá thành định mức trên cơ sở xác định các định mức và đơn giá tại thời điểm tính giá thành, vạch ra một cách xác định các định mức trong quá trình thi công công trình.
Bước 2: Xác định số chênh lệch do thay đổi định mức.
Số thay đổi định mức = Định mức mới - Định mức cũ
Bước 3: Xác định số chênh lệch do thoát ly định mức được tiến hành theo các cách khác nhau tùy vào từng khoản mục.
Thoát ly định mức = Chi phí thực tế - Chi phí định mức
Sau khi xác định được các yếu tố trên, mức giá thành thực tế sản phẩm xây lắp tính theo công thức :
ZTT
=
Zđm
±
chênh lệch do thay đổi định mức
±
Chênh lệch do thoát ly định mức
Phương pháp này cho phép kiểm tra thường xuyên, kịp thời tình hình và hiệu quả thực hiện các định mức, rất phù hợp với đặc điểm ngành xây lắp.
1.6 Đánh giá sản phẩm làm dở
Sản phẩm dở trong doanh nghiệp xây lắp có thể là công trình, hạng mục công trình chưa được hoàn thành hay khối lượng xây lắp trong kỳ chưa được bên chủ đầu tư nghiệm thu chấp nhận thanh toán.
Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán xác định phần chi phí sản xuất mà sản phẩm dở dang cuối kỳ phải chịu. Việc đánh giá sản phẩm dở dang hợp lý là một trong những yếu tố quyết định tính trung thực, hợp lý của giá thành sản phẩm xây lắp. Tuy nhiên do tính chất phức tạp của hoạt động xây lắp nên nên việc xác định mức độ hoàn thành là rất khó khăn. Khi đánh giá sản phẩm dở dang cần kết hợp với bộ phận kỹ thuật để xác định mức độ hoàn thành chính xác. Trên cơ sở khối lượng sản phẩm dở đã tập hợp được kế toán tiến hành đánh giá sản phẩm dở. Đối với các đơn vị quy định sản phẩm xây lắp chỉ bàn giao thanh toán sau khi đã hoàn thành toàn bộ, trong kỳ kế toán một công trình, hạng mục công trình chưa bàn giao thanh toán được coi là sản phẩm dở, toàn bộ chi phí đã phát sinh thuộc công trình, hạng mục công trình đều coi là chi phí sản phẩm dở dang. Nếu những công trình, hạng mục công trình bàn giao thanh toán theo từng giai đoạn thì giai đoạn xây lắp chưa bàn giao thanh toán là sản phẩm dở dang. Khi đó doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp sau để đánh giá sản phẩm dở dang:
1.6.1 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí dự toán
công thức xác định:
A
=
B+C
x
E
D+E
Trong đó:
A,B lần lượt là chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ và đầu kỳ
C là chi phí thực tế của khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ
D là chi phí của khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao trong kỳ theo dự toán
E là chi phí dự toán của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ
1.6.2 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo tỷ lệ hoàn thành tương đương
Phương pháp này chủ yếu áp dụng đối với việc đánh giá sản phẩm dở công tác lắp đặt
Công thức xác định
A
=
B+C
x
E
D+E
Trong đó:
A,B lần lượt là chi phí thực tế của khối lượng lắp đặt dở dang cuối kỳ và đầu kỳ
C là chi phí thực tế của khối lượng lắp đặt thực hiện trong kỳ
D là chi phí dự toán của khối lượng lắp đặt bàn giao trong kỳ
E là chi phí theo dự toán của khối lượng lắp đặt dở dang cuối kỳ đã tính theo mức độ hoàn thành.
1.6.3 Phương pháp đánh giá sản phẩm dở theo giá trị dự toán
Công thức xác định
A
=
B+C
x
E
D+E
Trong đó:
A,B lần lượt là chi phí thực tế của khối lượng lắp đặt dở dang cuối kỳ và đầu kỳ
C là chi phí thực tế của khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ
D là giá trị dự toán của khối lượng xây lắp bàn giao trong kỳ
E là giá trị dự toán của khối lượng xây lắp dở dang cuối kỳ tính theo mức độ hoàn thành.
Ngoài ra đối với một số công việc như nâng cấp, sửa chữa, hoàn thiện xây dung các công trình có giá trị nhỏ, thời gian thi công ngắn theo hợp đồng được chủ đầu tư thanh toán sau khi hoàn thành toàn bộ công việc, giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ là toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh từ khi thi công đến thời điểm kiểm kê đánh giá.
1.7 Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm xây lắp
Để tổng hợp và tính giá thành sản phẩm xây lắp, kế toán sử dụng TK 154 “chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”.
Phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu:
Cuối kỳ, kế toán căn cứ vào các bảng phân bổ chi phí vật liệu, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công, chi phí sản xuất chung cho các CT, HMCT, kế toán ghi:
Nợ TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Có TK 621,622,623,627
Kế toán giá trị xây lắp giao cho nhà thầu phụ:
Căn cứ giá trị của khối lượng xây lắp do nhà thầu phụ bàn giao cho nhà thầu chính nhưng chưa được xác định là tiêu thụ trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 154(1541)(mở riêng một thể để theo dõi)
Nợ TK 133(nếu thuế GTGT được khấu trừ)
Có TK 111, 112, 331
Khi khối lượng xây lắp do nhà thầu phụ thực hiện được xác định là tiêu thụ, ghi:
Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang
Đối với giá trị của khối lượng xây lắp do nhà thầu phụ bàn giao cho nhà thầu chính được xác định là tiêu thụ ngay trong kỳ, kế toán ghi:
Nợ TK 632- Giá vốn hàng bán
Nợ TK 133- Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 331
Các khoản thiệt hại phát sinh trong quá trình thi công xây lắp bắt người chịu trách nhiệm phải bồi thường hay phế liệu thu hồi được trừ vào giá thành xây lắp, ghi:
Nợ TK 111, 138
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (1541)
Trường hợp sản phẩm xây lắp hoàn thành chờ tiêu thụ(xây dựng nhà để bán như: các nhà chung cư...) hoặc sản phẩm xây lắp hoàn thành nhưng chưa bàn giao, căn cứ vào giá thành sản phẩm xây lắp hoàn thành để nhập kho thành phẩm chờ tiêu thụ, ghi:
Nợ TK 155- Thành phẩm
Có TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (1541)
Trường hợp đơn vị nhận khoán có tổ chức kế toán riêng nhưng chỉ hạch toán đến giá thành xây lắp, bàn giao sản phẩm xây lắp cho nhà thầu chính, ghi:
Nợ TK 336-phải trả nội bộ
Có TK 154-Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (1541)
Trường hợp doanh nghiệp xây lắp, xây dựng công trình lán trại, nhà ở tạm, công trình phụ có nguồn vốn đầu tư riêng, khi hoàn thành công trình này, ghi:
Nợ TK 241- Xây dựng cơ bản dở dang(2412)
Có TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang (1541)
Trường hợp xây lắp thực hiện khối lượng xây lắp liên quan đến việc bảo hành công trình xây lắp
Nợ TK 642-Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 154- Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang(1541)
Có 335- Chi phí phải trả(nếu thực hiện trích trước chi phí bảo hành)
1.8 Hệ thống sổ kế toán sử dụng trong kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Doanh nghiệp có thể sử dụng một trong các hình thức ghi sổ kế toán sau:
- Hình thức Nhật ký sổ cái
- Hình thức Nhật ký chung
- Hình thức Chứng từ ghi sổ
Hình thức Nhật ký chứng từ
Tùy thuộc hình thức kế toán từng doanh nghiệp áp dụng mà kế toán doanh nghiệp sử dụng các loại sổ kế toán cho phù hợp cho việc tập hợp chi phí và tính giá thành.
Đối với hình thức Chứng từ ghi sổ để tập hợp chi phí và tính giá thành, kế toán sử dụng một số loại sổ kế toán sau:
Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
Sổ cái
Các sổ , thẻ kế toán chi tiết
Chương 2:Thực trạng tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty xây lắp vật tư xây dựng 5
2.1 Đặc điểm chung về công ty xây lắp vật tư xây dựng 5
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty xây lắp vật tư xây dựng 5
Theo yêu cầu của Nghị định 338 của HĐBT về việc thành lập và giải thể Doanh nghiệp nhà nước, ngày 4/3/1993 Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn ra Quyết định số 171/NN- TCCB/ QĐ thành lập Công ty Xây lắp và vật tư xây dựng 5 thuộc Tổng công ty Xây dựng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công ty có giấy phép hành nghề xây dựng số 22/BXD- CSXD do Bộ xây dựng cấp ngày 6/2/1993, giấy phép kinh doanh số 106287 do trọng tài kinh tế cấp ngày 7/4/1993. Công ty XL & VTXD 5 có trụ sở chính đặt tại Số 6 Nguyễn Công Trứ quận Hai Bà Trưng- Hà Nội (Tên giao dịch quốc tế: Construction-Assemble and construction materials supply company N0 5), là nơi tập trung nhiều trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước. Ngoài ra Công ty còn có các chi nhánh: tại TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Yên Bái, Bình Dương...
Trong năm 2006 công ty đã và đang tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhằm nâng cao tính tự chủ phát huy khả năng của mình nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trải qua bao khó khăn trong cơ chế thị trường với sự cạnh tranh khốc liệt nhưng công ty xây lắp vật tư xây dựng 5 đã ngày càng có sự lớn mạnh. Từ số vốn ban đầu khi thành lập năm 1993 là 609.800.000 đồng, qua nhiều năm hoạt động số vốn của công ty không ngừng tăng lên,lợi nhuận hàng năm cũng đạt khá cao
Đơn vị :VNđồng
Năm
2003
2004
2005
Tổng Tài Sản
73.220.412.284
74.323.565.242
72.085.310.667
Doanh thu thuần
61.402.191..272
69.488.743.855
70.636.737.088
Tổng lợi nhuận trước thuế
637.610.948
1.020.745.067
810.662.580
Năm
2003
2004
2005
Nguồn vốn
73.220.412.284
74.323.565.242
72.085.310.667
Nguồn vốn chủ sở hữu
6.156.416.757
6.748.591.372
7.478.929.834
Nguồn vốn kinh doanh
5.395.868.801
5.395.868.801
5.499.362.572
Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà Nướ
806.248.614
928.244.376
777.598.858
Lao động là lực lượng không thể thiếu trong một công ty. Đối với công ty xây lắp vật tư xây dựng 5 thì lực lượng lao động lại càng đóng vai trò quan trọng và luôn được sự quan tâm. Thu nhập của người lao động ngày càng cao, đời sống ngày một được cải thiện. Năm 2005 thu nhập bình quân của người lao động trong toàn công ty là 1.600.000 đồng/ người
Số lượng công nhân viên toàn công ty được thể hiện qua bảng sau:
Năm
2003
2004
2005
Số lượng công nhân viên(người)
115
128
118
Như vậy đối với một doanh nghiệp thuộc doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh thu hàng năm và lợi nhuận như vậy đã thể hiện sự nỗ lực cố gắng hết sức mình của cán bộ, nhân viên toàn công ty.
2.1.2 Mô hình tổ chức của công ty
Bất kỳ một doanh nghiệp, đơn vị kinh tế hay một cơ quan hành chính sự nghiệp nào đều phải có sự lãnh đạo, vai trò của người lãnh đạo cũng như bộ máy tổ chức cùng với việc sử dụng nguồn lực có ảnh hưởng rất lớn đến việc thành hay bại của doanh nghiệp đó. Một cơ quan tổ chức hợp lý sẽ luôn đi đôi với sự thành công trong quá trình SXKD ngược lại một cơ cấu tổ chức bất hợp lý sẽ là thất bại gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý làm giảm năng suất, giảm hiệu quả lao động và việc dẫn tới sự phá sản của doanh nghiệp là điều khó tránh khỏi. Chính vì thế mỗi doanh nghiệp phải tự xây dựng cho mình một cơ cấu tổ chức hợp lý, phù hợp với từng yêu cầu, từng đặc điểm của mỗi công việc.
Nhưng dù hoạt động ở bất kỳ lĩnh vực gì thì nguồn lực con người cũng là yếu tố quan trọng nhất, làm thế nào để phát huy thế mạnh của con người một cách hiệu quả nhất là câu hỏi đặt ra đối với những người tổ chức. Công ty XL & VTXD 5 có bộ máy tổ chức và điều hành của công ty như sau:
Sơ đồ : Bộ máy tổ chức quản lý của công ty.
Giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phó giám đốc
Phòng kinh tế
Phòng
kế hoạch kỹ thuật
Phòng
kế toán
Phòng
tổ chức hành chính
Phòng kinh doanh vật tư
Đội
xây dựng
số 1
Đội
xây dựng
số 2
Đội
xây dựng
số 3
Đội
xây dựng
số 4
Đội
xây dựng
số 5
Đội
xây dựng
số 6
- Giám đốc: là người vừa đại diện cho Nhà nước, vừa đại diện cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty, chịu trách nhiệm về mọi kết quả SXKD của công ty.
Phó giám đốc: giúp việc theo sự phân công của giám đốc. Trong đó có một phó giám đốc giúp việc hành chính quản trị và một phó giám đốc giúp việc kỹ thuật giải pháp thi công và một phó giám đốc phụ trách về an toàn lao động. Dưới còn có các phòng ban: Phòng Kinh tế; phòng Kế hoạch kỹ thuật; phòng Kế toán; phòng Tổ chức hành chính; phòng Kinh doanh vật tư và các đội xây dựng trực thuộc.
2.1.3 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh và quy trình công nghệ sản phẩm
2.1.3.1 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của công ty
Ngành nghề kinh doanh chính của công ty là:
- Xây dựng các công trình dân dụng, công trình thuỷ lợi vừa và nhỏ, xây dựng đường bộ cầu cống phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, xây dựng đường dây, trạm điện...
- Kinh doanh Xuất nhập khẩu hàng điện lạnh, đồ gia dụng, thiết bị xây dựng và vật tư xây dựng.
- Kinh doanh bất động sản
Hành nghề tư vấn xây dựng
Công ty có nhiều chi nhánh đặt tại nhiều tỉnh khác nhau, tổ chức sản xuất của công ty bao gồm 6 đội xây dựng. Công ty có 6 đội xây lắp và SX.Trong mỗi đội đều có đội trưởng, đội phó, kế toán, thủ kho, bảo vệ. Đội tổ chức quản lý và thi công công trình theo hợp đồng do công ty ký kết và theo thực tế được duỵêt. Làm thủ tục thanh quyết toán từng giai đoạn và toàn bộ công trình . Khai thác, SX và cung ứng các loại vật liệu phục vụ cho các công trường và SX kinh doanh theo sự chỉ đạo của công ty. Hình thức sản xuất kinh doanh mà công ty đang thực hiện gồm cả đấu thầu và chỉ định thầu. Sau khi hợp đồng kinh tế được ký kết với chủ đầu tư (bên A), các phòng chức năng, đội thi công và ban chỉ huy công trình được chỉ định phải lập kế hoạch cụ thể về tiến độ, các phương án đảm bảo cung cấp vật tư, máy móc thiết bị thi công, lên kế hoạch tổ chức thi công cho hợp lý, đảm bảo tiến độ, chất lượng như hợp đồng kinh tế đã ký kết với chủ đầu tư.
- Về vật tư: công ty chủ yếu giao cho phòng kinh tế kỹ thuật và các đội tự mua ngoài theo yêu cầu thi công.
- Về máy thi công: máy thi công của công ty chủng loại khá phong phú, đáp ứng tốt yêu cầu tiến độ thi công. Hầu như toàn bộ số máy thi công của công ty được giao cho xí nghiệp cơ giới bảo quản, sử dụng, phục vụ cho các xí nghiệp và các đội xây dựng trực thuộc công ty. Bên cạnh đó Công ty còn phải thuê thêm máy thi công từ bên ngoài.
- Về nhân công: hiện nay chủ yếu là công ty thuê ngoài theo hợp đồng, còn một phần nhỏ là công nhân thuộc biên chế Nhà nước. Số lượng công nhân viên toàn công ty hiện nay là 118 người.
- Về chất lượng công trình: đội trưởng (chủ nhiệm công trình) là người đại diện cho đội, phải chịu trách nhiệm trước giám đốc về chất lượng công trình và an toàn lao động. Trường hợp bên A muốn thay đổi kết cấu đối với phần công trình đã tiến hành thi công thì bên A phải chịu chi phí phá đi làm lại. Trường hợp bên B có sai phạm kỹ thuật (rất hiếm hầu như không có) thì chi phí sửa chữa hoặc phá đi làm lại tính trực tiếp vào chi phí sản xuất kinh doanh.
2.1.3.2 Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm ở công ty:
Công ty xây lắp vật tư xây dựng 5 là doanh n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32712.doc