LỜI CAM KẾT
Tôi là: Lê Thị Huệ
Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển 48B
Tôi xin cam đoan bài chuyên đề này là công trình nghiên cứu của bản thân tôi và chưa từng được công bố trên bất kì phương tiện truyền thông nào. Các số liệu đưa ra trong bài viết là hoàn toàn có thật. Trong quá trình nghiên cứu tôi có tham khảo thêm một số tài liệu đã được liệt kê ở cuối chuyên đề.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
75 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn FDI tại thành phố Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy tôi suốt thời gian ngồi trên ghế giảng đường đại học, cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu để tôi có thể vận dụng viết được bài chuyên đề này.
Tôi xin được gửi lời cảm ơn tới các cô chú, các anh, các chị cán bộ công chức trong Sở Kế hoạch – Đầu tư Thành phố Hải Phòng đã giúp đỡ tôi thu thập tài liệu, bổ sung kiến thức phục vụ chuyên đề, học hỏi kinh nghiệm cũng như phương pháp làm việc trong quá trình thực tập.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới Ths. Nguyễn Thị Phương Thu là người đã giúp đỡ tôi rất nhiều từ việc xây dựng đề cương đến việc hoàn thiện bài chuyên đề này trong suốt thời gian thực tập.
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2010.
Tác giả chuyên đề
Lê Thị Huệ
DANH MỤC BẢNG
Hình 1: Kết quả thu hút FDI theo đối tác năm 2009 của Hải Phòng 33
Hình 2: Biểu đồ thu hút FDI vào Hải Phòng qua các năm 36
Hình 3: Biểu đồ cơ cấu GDP theo ngành của Hải Phòng qua các năm 46
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BCC
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh
BĐS
Bất động sản
CNH – HĐH
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CSHT
Cơ sở hạ tầng
ĐTNN
Đầu tư nước ngoài
EU
Liên minh Châu Âu
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm trong nước
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
KCN
Khu công nghiệp
KCN
Khu công nghiệp
KCX
Khu chế xuất
KT – XH
Kinh tế - xã hội
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TNHH
Trách nhiệm hữu hạng
TP
Thành phố
WTO
Tổ chức thương mại quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, vốn là một nhân tố không thể không được đề cập. Khi một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh hơn, nó cần có vốn hơn nhiều hơn nữa. Nếu vốn trong nước không đủ, nền kinh tế này sẽ cần phải có cả vốn từ nước ngoài, trong đó có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
FDI được xem như chiếc chìa khoá của sự tăng trưởng kinh tế. Nó đã và đang đóng góp một vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển trên thế giới. Tại các quốc gia có chính sách đầu tư nước ngoài hợp lý, FDI không chỉ làm tăng cung về vốn đầu tư mà còn có vai trò thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đặc biệt là thúc đẩy quá trình tích tụ vốn con người - một nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Khu vực FDI đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế xã hội (KT- XH), FDI góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH- HĐH), tăng năng lực sản xuất, mở ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới, tạo việc làm và quan trọng hơn là đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. FDI góp phần phát triển quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,mở rộng quy mô và thị trường xuất khẩu. Tạo điều kiện để tiếp thu, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh và học tập kinh nghiệm quản lý.
Điều này càng khẳng định sự lợi ích của FDI trong sự phát triển kinh tế, đặc biệt là tại các quốc gia đang vươn mình cố gắng đạt đến giai đoạn cất cánh về kinh tế. Việt Nam là một những trường hợp điển hình hiện nay đang cố gắng bắt kịp các quốc gia lân cận trong vùng Đông Nam Á.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của Hải Phòng đến năm 2010, kinh tế đối ngoại luôn được xem là lĩnh vực kinh tế động lực của thành phố. Trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng, là động lực để thúc đẩy phát triển KT- XH của thành phố theo định hướng CNH – HĐH.
So với nhiều địa phương khác trong cả nước, Hải Phòng có lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý với vai trò là một trong những cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là cảng biển quốc tế lớn nhất Miền Bắc và thứ hai cả nước (sau Thành Phố Hồ Chí Minh), là đầu mối giao thông của các tuyến đường bộ, đường thủy, đường hàng không, đường sắt, là trung tâm thương mại du lịch lớn của Việt Nam, có hệ thống thông tin liên lạc hiện đại, dân số trẻ với lực lượng lao động dồi dào… Chính những lợi thế này giúp Hải Phòng là một trong những địa phương sớm nhất của Miền Bắc xây dựng được khu công nghiệp (KCN) tập trung và có quy mô lớn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.
Những năm gần đây, Thành Phố Hải Phòng luôn đứng trong “top” các tỉnh - thành phố thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất cả nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đem lại tốc độ phát triển nhanh cho nền kinh tế thành phố. Hải Phòng cần thu hút FDI không chỉ về số lượng mà cả về chất lượng. Với kết quả đạt được trong thu hút FDI thời gian qua mở ra cho thành phố khả năng, triển vọng lớn trong tương lai về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất phát từ tình hình thực tiễn nói trên cùng với triển vọng phát triển của thành phố trong tương lai, em đã lựa chọn đề tài: “Góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại thành phố Hải Phòng”. Nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I giới thiệu tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư. Chương II phân tích thực trạng thu hút vốn FDI theo đối tác, theo hình thức đầu tư, theo ngành, lĩnh vực và thực trạng môi trường đầu tư ở thành phố Hải Phòng từ đó đánh giá được những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở nguyên nhân của những tồn tại hạn chế và cơ hội, thách thức, mục tiêu của thành phố trong thời gian tới cũng như giải pháp chung của nhà nước và thành phố, chương III sẽ đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động thu hút FDI vào thành phố.
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư.
1.1. Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư
a. Khái niệm về đầu tư:
Cho đến nay, đầu tư không còn là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có người cho rằng đầu tư là phải bỏ một cái gì đó vào một hoạt động nhất định nhằm thu lại một lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng không ít người lại quan niệm đầu tư là các hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi như câu cửa miệng để nói lên chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống.
Theo Jonh Marnad Keynes: “Đầu tư là hoạt động mua sắm tài sản cố định để tiến hành sản xuất hoặc có thể là mua tài sản tài chính để thu lợi nhuận. Đầu tư, theo cách dùng thông thường là việc cá nhân hoặc công ty mua một tài sản tại sở giao dịch chứng khoán”. Trong khái niệm của mình ông đã nói đến mua tài sản tài chính, song chủ yếu tập trung vào khái niệm đầu tư tạo thêm tài sản vật chất mới (như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…), kéo theo các hoạt động khác, tạo thêm việc làm mới để thu về một khoản lợi nhuận trong tương lai, “khi một người mua hoặc đầu tư một tài sản, người đó mua quyền để được thu một loạt các khoản lợi tức trong tương lai mà người đó hy vọng dành được qua việc bán tài sản cố định làm ra…”. Theo quan niệm của ông: kết quả đầu tư về hình thái vật chất là tăng thêm tài sản cố định, tạo ra tài sản mới về mặt giá trị, kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra.
Còn theo P.A.Samuelson: đầu tư là hoạt động tạo ra vốn tư bản thực sự, theo các dạng nhà ở, đầu tư vào tài sản cố định của doanh nghiệp như máy móc, thiết bị, nhà xưởng và tăng thêm hàng tồn kho. Đầu tư cũng có thể dưới dạng vô hình như giáo dục, nâng cao chất lượng nhân lực, nghiên cứu, phát minh… Đối với ông thuật ngữ tài chính, đầu tư mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, dùng đầu tư để chỉ một loại chứng khoán… hay nói cách khác, đó không phải là đầu tư thực sự của nền kinh tế. Trên góc độ làm tăng thu nhập cho tương lai, đầu tư được hiểu là “hoạt động kinh tế từ bỏ tiêu dùng hôm nay với tầm nhìn để tăng sản lượng cho tương lai”. Trên góc độ rủi ro của đầu tư, đầu tư được hiểu là “canh bạc của tương lai” với niềm tin, kì vọng thu nhập do đầu tư đem lại sẽ cao hơn chi phí đầu tư. Các vấn đề mà Samuelson nêu ra trong các cách tiếp cận về đầu tư đã cho biết đầu tư là sự hy sinh tiêu dùng hôm nay để có thu nhập cao hơn trong tương lai và đó là quá trình chứa đựng những rủi ro. Ngoài ra, ông cũng xác định các dạng chính của đầu tư, trong đó có cả hoạt động đầu tư cho khoa học, kỹ thuật và phát triển con người. Như vậy, có thể nói khái niệm về đầu tư mà P.A.Samuelson đưa ra là khái niệm tương đối đầy đủ.
Tóm lại, có nhiều những quan niệm khác nhau về đầu tư nhưng có thể coi khái niệm sau đây là đầy đủ nhất: đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải bỏ ra khi tiến hành đầu tư. Kết quả đầu tư là năng lực sản xuất mới tăng thêm, tài sản cố định mới được đưa vào sử dụng, số lượng và chất lượng nhân lực tăng thêm, tiềm lực khoa học, công nghệ được tích lũy…
b. Đặc điểm của đầu tư:
Có ba đặc điểm quan trọng để phân biệt hoạt động đầu tư với các hoạt động khác là hoạt động đầu tư có sử dụng vốn, có sinh lời và có rủi ro.
* Có sử dụng vốn:
Vốn là nguồn lực không thể thiếu trong các hoạt động kinh doanh., sản xuất của các nhà đầu tư. Vốn đầu tư có thể tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau mà chủ yếu là 3 hình thái: tài sản hữu hình (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, hàng hóa, nguyên vật liệu v.v…), tài sản vô hình (bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, nhãn hiệu, quyền sử dụng đất…), tài sản tài chính (tiền, cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác..).
* Có sinh lời: lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã hội
Người ta không thể bỏ ra một số lượng tài sản mà lại không dự tính thu được giá trị cao hơn giá trị ban đầu. Lợi nhuận là chênh lệch giữa thu nhập mà hoạt động đầu tư đem lại cho chủ đầu tư với chi phí mà chủ đầu tư phải bỏ ra để tiến hành hoạt động đầu tư đó. Lợi ích kinh tế xã hội là chênh lệch giữa những gì mà xã hội thu được với những gì mà xã hội mất đi từ hoạt động đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội được đánh giá qua các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng. Thông thường, tư nhân và doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu lợi nhuận; còn chính phủ theo đuổi mục tiêu lợi ích kinh tế xã hội.
* Có rủi ro:
Hoạt động đầu tư thường diễn ra trong thời gian dài vì vậy nó có tính rủi ro. Thời gian càng dài mức độ rủi ro càng cao. Ngoài ra, trình độ quản lý của nhà đầu tư và thực trạng nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến mức độ rủi ro.
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) tuy không còn là hình thức quá mới mẻ ở Việt Nam nhưng để đưa ra một khái niệm tổng quát về FDI cũng không phải là dễ. Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về FDI.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International Monetary Fund), đầu tư trực tiếp nước ngoài là một công cuộc đàu tư ra khỏi biên giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp (direct investor) đạt được một phần hay toàn bộ quyền sở hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp (direct investment enterprise) trong một quốc gia khác. Quyền sở hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phiếu mới được công nhận là FDI.
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa: đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đối với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết.
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) lại đưa ra định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước( nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác( nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương Mại và phát triển (UNCTAD) cũng đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp( trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI.
Còn luật đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào đó được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này.
Luật đầu tư 2005 không có định nghĩa cụ thể về đầu tư trực tiếp nước ngoài nhưng theo khoản 2 và khoản 12 điều 3 định nghĩa:
“Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư”.
“Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình. Như vậy, FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài.
b. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Tìm kiếm lợi nhuận: do chủ thể là tư nhân nên tìm kiếm lợi nhuận được coi là mục đích ưu tiên hàng đầu của hoạt động FDI. Do đó, các nước nhận đầu tư, nhất là các nước đang phát triển cần lưu ý điều này khi tiến hành thu hút FDI, phải xây dựng cho mình một hành lang pháp lý đủ mạnh và các chính sách thu hút FDI hợp lý để hướng FDI vào phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của nước mình, tránh tình trạng FDI chỉ phục vụ cho mục đích tìm kiếm lợi nhuận của các chủ đầu tư.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỷ lệ vốn tối thiểu trong vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tuỳ theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật Mỹ quy định tỷ lệ này là 10%, Pháp và Anh là 20%, Việt Nam theo luật hiện hành là 30% còn theo qui định của OECD (1996) thì tỷ lệ này là 10% các cổ phiếu thường hoặc quyền biểu quyết của doanh nghiệp - mức được công nhận cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia thực sự vào quản lý doanh nghiệp. Tỷ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, đồng thời đây cũng là căn cứ để phân chia lợi nhuận và rủi ro. Theo Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam, trong doanh nghiệp liên doanh, các bên chỉ định người của mình tham gia vào Hội đồng quản trị theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp vào vào vốn pháp định của liên doanh.
- Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ không phải lợi tức.
- Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu tư, hình thức đầu tư, thị trường đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình, tự đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. Vì thế, hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
- FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư. Thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý. Ví dụ trong lĩnh vực bưu chính viễn thông của Việt Nam, hầu hết công nghệ mới trong lĩnh vực này có được nhờ chuyển giao công nghệ từ nước ngoài.
* Tóm lại:
- Điểm quan trọng để phân biệt FDI với các hình thức khác là quyền kiểm soát, quyền quản lý đối tượng tiếp nhận đầu tư.
- Đối với nước tiếp nhận đầu tư thì ưu điểm của hình thức này là tính ổn định và hiệu quả sử dụng vốn của FDI cao hơn các hình thức khác do nhà đầu tư trực tiếp sử dụng vốn. Nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn để chuyển sang các hình thức đầu tư khác nếu thấy sự bất ổn của nền kinh tế nước nhận đầu tư. Do đó mức độ ổn định của dòng vốn đầu tư đối với nước tiếp nhận đầu tư cao hơn. Nhược điểm là nước nhận đầu tư bị phụ thuộc vào kinh tế ở khu vực FDI.
- Đối với nhà đầu tư: Chủ động nên có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, lợi nhuận thu về cao hơn. Có thể chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm, khai thác nguồn nguyên liệu, nhân công giá rẻ và những lợi thế khác của nước nhận đầu tư, tranh thủ những ưu đãi từ các nước nhận đầu tư. Tuy nhiên hình thức này mang tính rủi ro cao vì nhà đầu tư hoàn toàn chịu trách nhiệm về dự án đầu tư. Hoạt động đầu tư chịu sự điều chỉnh từ phía nước nhận đầu tư. Không dễ dàng thu hồi và chuyển nhượng vốn.
1.1.2. Các hình thức FDI cơ bản
FDI không chỉ là sự lưu chuyển vốn mà còn thường đi kèm theo công nghệ, kiến thức kinh doanh và mạng lưới phân phối rộng khắp toàn cầu. Do vậy FDI là hình thức có ưu thế đối với các nước đang phát triển. FDI có nhiều hình thức nhưng trong phạm vi của chuyên đề tôi chỉ đề cập đến 3 hình thức chủ yếu và đây cũng là 3 hình thức cơ bản được áp dụng ở Việt Nam. Đó là: hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, hình thức doanh nghiệp liên doanh, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC)
BCC là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thỏa thuận để cùng nhau tiến hành thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở nước sở tại, trên cơ sở quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên. Trên thế giới, biểu hiện của hình thức BCC cũng khác nhau về tên gọi, địa vị pháp lý và mục tiêu áp dụng. Theo luật ĐTNN Việt Nam, BCC là văn bản được ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến hành hoạt động đầu tư mà không hình thành pháp nhân mới. Quy định này thực tế làm nhiều nhà đầu tư phải cân nhắc vì có thể hạn chế khả năng khuyếch trương thương hiệu ra bên ngoài.
Như vậy, đặc điểm cơ bản của hình thức BCC là các bên cùng nhau góp vốn, cùng tham gia quản lý hoạt động kinh doanh thông qua một ban điều phối chung, cùng phân chia kết quả kinh doanh theo vốn góp. Đối với các nhà ĐTNN, hình thức này có ưu điểm là thủ tục thành lập và triển khai thực hiện tương đối đơn giản, giúp dự án nhanh đi vào hoạt động. Hình thức này thường không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng.
1.1.2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghệp được thành lập tại nước nhận đầu tư (nước chủ nhà) giữa các bên nước ngoài và nước chủ nhà trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và cùng hưởng quyền lợi, nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn. Nó có thể dựa trên cơ sở hợp đồng liên doanh, hoặc Hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam và chính phủ nước ngoài, hoặc là do doanh nghiệp có vốn FDI hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam.
Đặc điểm pháp lý, tỷ lệ góp vốn pháp định và điều kiện áp dụng hình thức doanh nghiệp liên doanh giữa các nước có sự khác nhau nhất định. Trung Quốc quy định trong doanh nghiệp liên doanh, bên nước ngoài không được góp vốn ít hơn 25%. ở Malaysia đưa ra nhiều mức vốn góp cho bên nước ngoài tùy theo tỷ lệ xuất khẩu. Nếu tỷ lệ xuất khẩu đạt trong khoảng 51- 79% thì chỉ được sở hữu vốn tối đa đến 79%, đối với các dự án có tỷ lệ xuất khẩu 20- 25% thì mức sở hữu vốn của bên nước ngoài chỉ từ 30- 51%. Trong khi đó, Luật pháp Việt Nam quy định tỷ lệ góp vốn pháp đinh tối thiểu của bên nước ngoài là 30%.
Lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh có thể mang lại cho nhà đầu tư một số lợi thế nhất định. Thứ nhất, thông qua các đối tác sở tại, các nhà ĐTNN có thể am hiểu thêm về môi trường đầu tư tại nước sở tại. Thứ hai, các nhà ĐTNN có thể chia sẻ bớt chi phí và rủi ro với các đối tác ở nước sở tại. Thứ ba, do một số quốc gia bắt buộc áp dụng hình thức doanh ngiệp liên doanh khi đầu tư vào một số ngành và lĩnh vực nhất định, khi đó doanh nghiệp liên doanh được xem là phương thức thâm nhập thị trường duy nhất khi muốn đầu tư vào lĩnh vực đó.
Bên cạnh đó, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có những nhược điểm nhất định. Thứ nhât, đầu tư theo hình thức doanh nghiệp liên doanh có nguy cơ bị lộ bí quyết công nghệ cho đối tác về lâu dài. Thứ hai, hạn chế khả năng kiểm soát đối với các chi nhánh ở nước ngoài trong một số trường hợp. Ngoài ra, nước chủ nhà cũng có thể gặp bất lợi nếu trình độ quản lý yếu kém hơn nhiều so với phía nước ngoài vì khi đó sẽ dế bị phía nước ngoài chi phối, hiệu quả đầu tư có thể không cao như dự kiến.
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Có quan điểm cho rằng doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà ĐTNN, được thành lập và hoạt động tại nước sở tại, do nhà ĐTNN trực tiếp quản lý đối tượng bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Cũng có quan điểm cho rằng doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân trong đó nhà ĐTNN góp 100% vốn pháp định, tự quản lý hoạt động kinh doanh và tư chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như thuộc quyền sở hữu của nhà ĐTNN, do nhà ĐTNN thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Sự khác nhau giữa các quốc gia là đưa ra những điều kiện cho các nhà ĐTNN khi lựa chọn hình thức này. Malaysia quy định muốn áp dụng hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án đó phải có từ 80% sản phẩm xuất khẩu; hay Trung Quốc, Hàn Quóc và Thái Lan quy định chỉ áp dụng hình thức này cho các dự án FDI trong các ngành kỹ thuật cao và phần lớn sản phẩm xuất khẩu. Chính vì vậy mà hình thức này ít được khuyến khích ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ.
Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có thể mang lại nhiều lợi thế cho cả nước chủ nhà và nước đi đầu tư. Nước chủ nhà không phải góp vốn và không phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của đầu tư đối với những lĩnh vực có độ rủi ro cao hoặc với những ngành sản xuất mới. Với phía nước ngoài thì đây cũng là hình thức được ưa chuộng bởi ngoài việc tuân thủ những quy định có tính pháp luật của nước chủ nhà thì bên phía nước ngoài được toàn quyền trong việc điều hành và quản lý doanh nghiệp của mình, không bị bất kỳ sự can thiệp nào khác, không mất thời gian cho việc tìm “tiếng nói chung” với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên doanh. Bên cạnh đó, hình thức này cũng có bất lợi là chi phí thành lập và rủi ro hoạt động cao hơn so với các hình thức khác.
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.1.3.1. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư
Trong thời đại và bối cảnh thế giới hiện nay, trên cơ sở đem lại lợi ích cho cả hai bên, vai trò của hoạt động FDI được hiểu là do sự tác động đồng thời của bản thân hoạt động đầu tư đối với cả nước đi đầu tư và nước nhận đầu tư. Bài viết này chủ yếu đề cập đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước phát triển khi ở vị trí các nước đi đầu tư và các nước đang phát triển khi ở vị trí các nước nhận đầu tư.
a. Tích cực
Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép nước đi đầu tư có thể tận dụng được lợi thế so sánh của nước nhận đầu tư. Đối với các nước đi đầu tư, họ nhận thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư ở trong nước có xu hướng ngày càng giảm, kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản. Bằng đầu tư ra nước ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất thấp ở nước nhận đầu tư (chủ yếu là các nước đang phát triển thường có nguồn tài nguyên phong phú, nhưng do hạn chế về vốn và công nghệ nên chưa được khai thác, tiềm năng còn rất lớn nên chi phí khai thác nguyên vật liệu thấp, giá lao động rẻ). Nhờ đó, hạ giá thành sản phẩm. giảm chi phí vận chuyển đối với việc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu của nước nhận đầu tư, vì vậy mà nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư.
Thứ hai, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm thông qua chuyển giao công nghệ. Thông qua đầu tư trực tiếp, các công ty của các nước phát triển chuyển được một phần các sản phẩm công nghiệp (chủ yếu là các máy móc thiết bị) ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống của chúng sang nước nhận đầu tư để tiếp tục sử dụng chúng như là sản phẩm mới ở các nước này hay ít ra cũng như các sản phẩm đang có nhu cầu trên thị trường nước nhận đầu tư, nhờ đó mà tiếp tục duy trì việc sử dụng các sản phẩm này, tạo thêm lợi nhuận cho các nhà đầu tư. Với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kỹ thuật ngày nay thì bất cứ một trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải luôn luôn có thị trường công nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên thay đổi công nghệ, kỹ thuật mới.
Thứ ba, bành trướng sức mạnh kinh tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phép chủ đầu tư bành trướng sức mạnh kinh tế nhờ mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, lại tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước nhận đầu tư khi xuất khẩu sản phẩm là máy móc thiết bị sang nước nhận đầu tư để góp vốn và xuất khẩu sản phẩm tại đây sang các nước khác (do chính sách xuất khẩu ưu đãi của các nước nhận đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài, chuyển giao công nghệ và sản xuất hàng xuất khẩu của các cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài) nhờ đó mà giảm được giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu tư nước khác.
b. Tác động tiêu cực
Mặc dù có rất nhiều lợi ích như vậy nhưng FDI vẫn có những ảnh hưởng tiêu cực đối với nước chủ đầu tư. FDI làm vốn đầu tư chảy ra nước ngoài dẫn tới giảm tăng trưởng GDP và việc làm trong nước. Việc đầu tư cho quốc gia khác sẽ dẫn đến chảy các nguồn lực của quốc gia ra bên ngoài, do đó các nguồn lực tập trung cho phát triển và tăng trưởng quốc gia sẽ ngày càng ít đi.
Vốn được đầu tư ra bên ngoài nên không được đầu tư trong nước sẽ không tạo thêm việc làm, dễ làm gia tăng thất nghiệp trong nước. Tuy nhiên, cũng cần xem xét cụ thể từng trường hợp vì có thể việc đầu tư ra bên ngoài lại có tác động làm gia tăng việc làm trong nước nếu nó làm tăng các hoạt động xuất khẩu phục vụ cho hoạt động đầu tư đó.
Vốn chảy ra bên ngoài có thể ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc gia vì mất thị trường xuất khẩu. Bởi vì, nếu đầu tư một nhà máy ở nước ngoài sản xuất mặt hàng bán cho thị trường đó thì coi như nước đầu tư sẽ mất luôn thị trường xuất khẩu mà trước đây mình xuất hàng sang, thu ngoại tệ, nghĩa là mất đi một nguồn thu ngoại tệ quan trọng.
1.1.3.2. Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư
a. Tác động tích cực
Để phát triển kinh tế xã hội, các nước đang phát triển trước hết phải đương đầu với sự thiếu thốn gay gắt các nguồn lực cần thiết cho sự phát triển. Việc tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài có những ưu điểm sau đây:
Thứ nhất, giải quyết tình trạng thiếu vốn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. FDI có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư góp phần tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển. Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài sẽ vừa tác động đến tổng cầu, vừa tác động đến tổng cung của nền kinh tế. Về mặt tổng cầu, vì đầu tư là một bộ phận của tổng cầu nên khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng… tăng lên. Sự thay đổi này làm cho tổng cầu tăng lên. Mức sản lượng cân bằng tăng lên. Xét ở khía cạnh sản xuất, đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung làm mức sản lượng cân bằng tăng lên.
Ngoài ý nghĩa bổ sung một lượng vốn đáng kể cho đầu tư phát triển kinh tế, cần nói đến chất lượng của vốn FDI. Sự có mặt của nguồn vốn này đã góp phần tạo điều kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên (cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội...). Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Vốn trong dân được kích thích đưa vào sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra các liên kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung cấp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công. Qua đó FDI thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước với thị trường thế giới. Nhờ vậy, các tiềm năng trong nước được khai thác với hiệu quả cao.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý. Các nước đang phát triển thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không có nhiều vốn. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và khu vực dịch vụ. Đầu tư sẽ góp phần giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng nghèo đói, phát huy tối đa những lợi thế về tài nguyên, địa lý, kinh t._.ế… Cơ cấu ngành, cơ cấu công nghệ, cơ cấu sản phẩm và lao động, cơ cấu lãnh thổ sẽ được thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển.
Thứ ba, thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Các nước đi đầu tư thường có tiềm lực về vốn, có điều kiện nghiên cứu triển khai công nghệ kỹ thuật cao, luôn xuất hiện công nghệ kỹ thuật mới dẫn tới xuất hiện công nghệ hạng hai, hạng ba và nhu cầu chuyển giao công nghệ. Trong khi đó, nước sở tại khan hiếm vốn không có điều kiện nghiên cứu nên mặt bằng công nghệ thường thấp hơn, luôn có nhu cầu tiếp nhận công nghệ song cũng rất hạn chế việc tiếp nhận công nghệ thông qua con đường thương mại vì không có vốn. Do đó, việc thông qua FDI để tiếp nhận công nghệ là một ưu điểm lớn. Với hình thức này, các nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở các nước đối tác song vẫn còn tiên tiến hơn so với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điều kiện đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác dụng lan tỏa, thúc đẩy cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp nội địa ở các nước đang phát triển. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được nâng cao qua số lượng các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Hoạt động của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng. sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ tư, tạo việc làm phát triển nguồn nhân lực. FDI giúp các nước đang triển tận dụng được lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Ở nhiều nước, khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung, số lượng việc làm trong khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động ở các nước đang phát triển có xu hướng tăng lên. Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Với tiêu chí coi hiệu quả làm việc là ưu tiên hàng đầu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có vốn FDI thường xây dựng được một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong công nghiệp, có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản lý hoặc phụ trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành nhiều mặt. Phần lớn số lao động cấp cao này được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp thu những kinh nghiệm quản lý điều hành của các nhà kinh doanh nước ngoài. Đặc biệt với hình thức doanh nghiệp liên doanh, chủ đầu tư của nước chủ nhà tham gia quản lý cùng các nhà đầu tư nước ngoài nên có điều kiện tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần kiến thức kinh doanh hiện đại của mình lên, ví dụ như: kinh nghiệm xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm tổ chức và điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, thông tin quảng cáo, tổ chức mạng lưới dịch vụ...
Ngoài các tác động đã trình bày ở trên, FDI còn có nhiều ảnh hưởng tích cực đến các nước nhận đầu tư như: FDI góp phần ổn định các cân đối vĩ mô của nền kinh tế (cân bằng cung – cầu hàng hóa trong nước, xuất – nhập khẩu, thu – chi ngân sách nhà nước…), mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới, củng cố và mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế, đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới…
b. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, FDI cạnh tranh với sản xuất trong nước. Cái hại rõ nhất là FDI sẽ cạnh tranh và nhiều khả năng “bóp chết” sản xuất trong nước nếu cùng một kỹ nghệ với nhau vì công ty FDI có khả năng khoa học kỹ thuật và tính hiệu quả cao hơn. Giá thành sản phẩm có thể rẻ hơn mà chất lượng tốt hơn trong nước. Ví dụ: ngành công nghiệp giấy Việt Nam hiện nay thừa nguyên liệu bột giấy nhưng thiếu sản phẩm giấy cao cấp (giấy tráng), phải nhập cảng gần như toàn bộ loại này, trong khi đó lại xuất cảng gỗ dăm. Các nhà máy Việt Nam chỉ làm ra được các loại giấy in báo, giấy in và viết, giấy lụa, giấy bao bì không tráng với trình độ khoa học kỹ thuật khá thấp. Trên nguyên tắc, ngành giấy Việt Nam là một môi trường thích hợp để thu hút FDI. Tuy nhiên, nếu tiến hành không khéo, rất nhiều khả năng giá thành FDI làm ra sẽ rẻ hơn mà chất lượng tốt hơn, từ từ sẽ giết chết sản xuất giấy trong nước.
Thứ hai, FDI có thể gây ra lạm phát. Hiện nay các công trình nghiên cứu tập trung nhiều vào hiện tượng các quốc gia có lạm phát thấp và tỉ giá hối đoái ổn định là môi trường tốt nhất để thu hút nguồn FDI. Điều này cũng dễ hiểu vì doanh nghiệp FDI lo ngại nếu lạm phát cao và tỉ giá hối đoái không ổn định, lợi nhuận tạo ra có thể bị triệt tiêu khi chuyển đổi trở lại ngoại tệ mạnh. Việt Nam hiện nay có lạm phát khá cao (khoảng 28%) nhưng có thuận lợi là tỉ giá hối đoái VND và USD tương đối ổn định nhờ có dự trữ ngoại tệ mạnh khá dồi dào (khoảng 15 tỷ dollar, trong đó kiều hối đóng góp một phần quan trọng). Tuy nhiên cũng cần lưu ý là FDI có thể là nguyên nhân gây ra lạm phát trong nước vì lương nhân công sẽ được trả cao hơn, giá cả nguyên vật liệu sẽ tăng vọt cũng như tiền thuê mướn mặt bằng, giá sinh hoạt dịch vụ ngoại vi sẽ tăng dần lên và đưa đến lạm phát.
Thứ ba, FDI ảnh hưởng đến môi trường và làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên. Một trong những chi phí lớn của doanh nghiệp nước ngoài là chi phí bảo toàn môi trường và luật lệ của các quốc gia phát triển rất nghiêm ngặt về vấn đề này. Hiện nay vẫn còn nhiều sự tranh cãi về ảnh hưởng của FDI đến môi trường với giả thuyết “nơi trú ẩn của ô nhiễm” ám chỉ các FDI muốn vào các quốc gia chậm tiến vì luật lệ và kiến thức về ô nhiễm còn thấp nên họ có khả năng tiết giảm chi phí về khoản này. Hiện tượng FDI làm khánh kiệt tài nguyên thiên nhiên là một thực tế có thể xảy ra nhất là đối với các loại FDI nhằm vào tài nguyên và lao động rẻ tiền.
Thứ tư, tác động tới đời sống xã hội. Điều đầu tiên dễ thấy là sự cách biệt giàu nghèo giữa các khu công nghiệp có doanh nghiệp FDI trú đóng và phần còn lại của quốc gia sẽ tăng dần lên và người dân có thể sẽ bỏ dần nông thôn và di chuyển về các nơi thành thị. Có rất nhiều trường hợp vì muốn thu hút FDI nên quốc gia sở tại đã nới lỏng các quy định về lao động khiến quyền lợi của công nhân có thể bị xâm phạm, phúc lợi tập thể không được giải quyết thỏa đáng mà thiếu sự giúp đỡ của chính quyền địa phương.
1.2. Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường đầu tư
a. Khái niệm về môi trường đầu tư
Môi trường được hiểu một cách đơn giản là một không gian hữu hạn bao quanh những hiện tượng sự vật, yếu tố hoặc một quá trình hoạt động nào đó như: môi trường khí, môi trường nước, môi trường văn hóa, môi trường thể chế, môi trường sống, môi trường làm việc… Nói một cách khác chính xác hơn, môi trường là tập hợp các yếu tố, những điều kiện tạo nên khung cảnh tồn tại và phát triển của một chủ thể. Môi trường đầu tư là một thuật ngữ đã được đề cập nghiên cứu trong lĩnh vực kinh tế và quản trị kinh doanh ở nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực thi chính sách đổi mới, mở cửa nền kinh tế hội nhập với thế giới, thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì vấn đề môi trường đầu tư mới được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và vấn đề cải thiện môi trường đầu tư được đặt ra như là một giải pháp cho phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế thế giới và thực thi các cam kết của Việt Nam với quốc tế.
Tuy nhiên, môi trường đầu tư được nghiên cứu và xem xét theo nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, phạm vi, đối tượng nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề. Sau đây là một số khái niệm về môi trường đầu tư tiêu biểu:
Khái niệm 1: Môi trường đầu tư được hiểu là tổng hợp các yếu tố, điều kiện về pháp luật, kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, nguồn lực tăng trưởng và cả các lợi thế của một quốc gia… có ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư tại một quốc gia.
Khái niệm 2: Môi trường đầu tư là tập hợp các yếu tố có tác động tới các cơ hội, các ưu đãi, các lợi ích của các doanh nghiệp khi đầu tư mới, mở rộng sản xuất kinh doanh, các chính sách của chính phủ có tác động chi phối tới hoạt động đầu tư thông qua chi phối rủi ro, cạnh tranh…
Khái niệm 3: Môi trường đầu tư là tất cả các yếu tố có tác động dến lợi ích của nhà đầu tư mà có thể dự tính được. Các yếu tố đó có liên hệ tương tác lẫn nhau như vấn đề về co sở thượng tầng, chính sách kinh tế vĩ mô, hệ thống pháp luật minh bạch và hiệu quả (là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm nhiều nhất) và một yếu tố không kém phần quan trọng là số và chất lượng vật chất cơ sở hạ tầng kỹ thuật như: điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, dịch vụ tài chính – ngân hàng, trình độ lao động…
Như vậy, các khái niệm về môi trường đàu tư dù là tiếp cận ở góc độ nào cũng đề cập đén môi trường tiến hành các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư, những yếu tố, điều kiện có ảnh hường, tác động đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Do đó, có thể khẳng định: môi trường đầu tư là tổng hợp các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan bên ngoài, bên trong của doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư, có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư.
b. Đặc điểm của môi trường đầu tư
* Tính khách quan của môi trường đầu tư: bất kỳ một nhà đầu tư nào hay một doanh nghiệp nào muốn tồn tại một cũng phải đặt mình trong một môi trường đầu tư kinh doanh nhất định, ngược lại cũng không thể có môi trường đầu tư nào mà lại không có một nhà đầu tư hay một đơn vị sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, ở đâu có hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh thì ở đó sẽ hình thành môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư tồn tại một cách khách quan, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Môi trường đầu tư một mặt tạo ra các ràng buộc cho các hoạt động đầu tư, mặt khác lại tạo ra những cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư.
* Tính tổng hợp: tính tổng hợp thể hiện ở chỗ nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành có mối quan hệ qua lại ràng buộc lẫn nhau. Tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, trình độ quản lý mà số lượng và những bộ phận cấu thành cụ thể của môi trường đầu tư có sự khác nhau.
* Tính đa dạng: môi trường đầu tư là sự đan xen của các môi trường thành phần, các yếu tố của các môi trường thành phần có tác động ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Do đó, khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải xem xét tổng thể trong mối tương quan giữa các môi trường thành phần và giữa các yếu tố với nhau.
* Môi trường đầu tư có tính động: môi trường đầu tư và các yếu tố cấu thành luôn luôn vận động và biến đổi. Sự ổn định của môi trường đầu tư chỉ mang tính tương đối hay ổn định trong sự vận động. Môi trường đầu tư luôn vận động và biến đổi bởi ngay nội tại của hoạt động đầu tư cũng là một quá trình vận động và biến đổi không ngừng. Các nhà đầu tư muốn nâng cao hiệu quả đầu tư của mình cần có được một dự báo về sự thay đổi của môi trường đầu tư để từ đó có các quyết định đầu tư chuẩn xác, phù hợp với môi trường đầu tư. Để cải thiện môi trường đầu tư phải tìm cách ổn định các yếu tố của môi trường đầu tư trong xu thế vận động của nó và phải cải thiện nó liên tục. Nói cách khác là khi nghiên cứu và phân tích môi trường đầu tư phải đứng trên quan điểm động, phải xem xét và phân tích các yếu tố của môi trường đầu tư trong trạng thái vừa vận động, vừa tác động tương hỗ lẫn nhau, tạo thành những tác lực chính cho sự vận động và phát triển của môi trường đầu tư.
* Tính hệ thống: môi trường đầu tư có mối liên hệ và chịu tác động của các yếu tố thuộc môi trường rộng lớn hơn, theo từng cấp độ như: môi trường đầu tư ngành, môi trường đầu tư quốc gia, môi trường đầu tư quốc tế… Sự ổn định của môi trường đầu tư phụ thuộc vào tính phức tạp và tính biến động của các môi trường tương tác.
1.2.2. Nội dung của môi trường đầu tư
Nghiên cứu môi trường đầu tư là rất cần thiết cho công tác quản lý vĩ mô của nhà nước. Hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư đều chịu sự tác động của các yếu tố cấu thành môi trường đầu tư, các yếu tố của môi trường đầu tư lại luôn biến động, luôn thay đổi theo từng thời điểm, từng ngành, từng khu vực và từng quốc gia. Các yếu tố của môi trường đầu tư có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, đan xen lẫn nhau, có những yếu tố vừa thuộc phạm vi kinh tế, vừa thuộc phạm vi chính trị. Do vậy, việc phân chia thành các nhóm yếu tố môi trường chỉ có tính chất tương đối và khi phân tích sẽ khó tránh khỏi trùng lặp. Sau đây sẽ là các nhóm yếu tố môi trường cơ bản của môi trường đầu tư quốc gia hay còn gọi là môi trường đầu tư kinh doanh tổng quát.
1.2.2.1. Môi trường chính trị - xã hội
Sự ổn định về chính trị, thể chế chính trị, sự nhất quán trong chủ trương, đường lối, chính sách cơ bản của nhà nước luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút ĐTNN bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước. Ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế xã hội và giảm bớt độ rủi roc ho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc trưng nổi bật về sự tác động của những yếu tố chính trị đối với hoạt động đầu tư thể hiện ở những mục đích mà thể chế chính trị nhắm tới. Thể chế chính trị giữ vai trò định hướng, chi phối toàn bộ các hoạt động trong xã hội trong đó các hoạt động đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư thông qua vai trò của nhà nước cầm quyền.
Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn định về chính sách và đường lối phát triển không nhất quán. Khi gặp rủi ro chính trị, các biến cố và hoạt động chính trị có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường đầu tư, với lợi nhuận dài hạn tiềm tàng của các dự án đầu tư đem lại cho các nhà đầu tư. Ngoài ra còn có một số yếu tố rất quan trọng của môi trường chính trị là xung đột với nước ngoài. Xung đột với nước ngoài là mức độ thù địch của một quốc gia với một quốc gia khác, khi xảy ra xung đột các quốc gia thường áp dụng chính sách cấm vận, trừng phạt kinh tế, chính trị… mà hậu quả hay các thiệt hại của nó thì các nhà đầu tư sẽ phải gánh chịu đầu tiên. Như vậy, ổn định môi trường chính trị xã hội có vai trò đặc biệt quan trong trong việc thu hút FDI.
1.2.2.2. Môi trường cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm: mạng lưới giao thông vận tải, đường sá, cầu cống, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống cung cấp năng lượng, phương tiện vận chuyển, mạng lưới thông tin – bưu chính – viễn thông, tính hữu hiệu của các dịch vụ môi giới, dịch vụ ngân hàng, tài chính… Những yếu tố này có ảnh hưởng quan trọng đối với hoạt động của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư có thể sẽ không đầu tư vào khu vực nhiều nhân công giá rẻ nhưng chưa qua đào tạo chuyên môn hoặc những nơi mà hệ thống giao thông khó khăn, thiếu phương tiện vận chuyển, liên lạc hay không đủ các ngành dịch vụ hỗ trợ cho quá trình đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, yếu tố công nghệ cũng được phản ánh trong môi trường cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua các chỉ số như trình độ phát triển công nghệ, các yếu tố hạ tầng công nghệ, nền tảng kiến thức khoa học – công nghệ, tốc độ đổi mới công nghệ, nguồn nhân lực cho khoa học công nghệ… Hiện nay, công nghệ là nhân tố có sự thay đổi mạnh nhất trong môi trường kinh doanh có sức thách thức lớn và hấp dẫn mạnh đối với các nhà đầu tư. Do đó, việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là điều kiện mang tính tiên quyết đối với sự phát triển của một nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư hoạt động có hiệu quả.
1.2.2.3. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế phản ánh những đặc trưng của một hệ thống kinh tế sẽ chi phối và tác động đến hoạt động của các nhà đầu tư. Trong môi trường kinh tế, các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, các chính sách kinh tế, chu kỳ kinh doanh, tỷ lệ lạm phát, tỷ giá hối đoái, hệ thống tài chính… sẽ được tập trung nghiên cứu. Tăng trưởng kinh tế được coi là việc mở rộng sản lượng tiềm năng của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định, hay tăng trưởng kinh tế là một sự gia tăng khả năng sản xuất hàng hóa – dịch vụ nhằm nâng cao mức sống của toàn xã hội. Khi kinh tế tăng trưởng thì các yếu tố và điều kiện kinh tế sẽ rất thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển, nó sẽ tạo rất nhiều cơ hội đầu tư kinh doanh và ngược lại nếu nền kinh tế kém phát triển với tỷ lệ lạm phát cao sẽ có tác động tiêu cực đến các nhà đầu tư. Chu kì phát triển kinh tế là sự thăng trầm về khả năng tạo ra của cải nền kinh tế trong những giai đoạn nhất định. Mỗi chu kỳ thường trải qua bốn thời kì: thời kì phát triển, thời kì hưng thịnh, thời kì suy thoái và thời kì phục hồi. Thời kì phát triển là giai đoạn nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh và quy mô mở rộng, dung lượng và sức mua của thị trường lớn, trong giai đoạn này môi trường đầu tư rất thuận lợi, các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để kinh doanh. Thời kì hưng thịnh là thời kì mà nền kinh té phát triển đạt đến mức cao nhất và chuẩn bị bước vào giai đoạn suy thoái, nó thường xảy ra khi nền kinh tế đã đạt tới mức toàn dụng về mọi tiềm năng. Thời kì suy thoái là thời kì nền kinh tế có mức tăng trưởng chậm, hàng hóa không tiêu thụ được, dung lượng và sức mua thị trường giảm, các nhà đầu tư phải thu hẹp sản xuất, quy mô hoạt động của các nhà đầu tư và nền kinh tế bị giảm sút, môi trường đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro và không có sự hấp dẫn. Thời kì phục hồi là thời kì nền kinh tế đã xuống tới mức thấp nhất của chu kì, các hoạt động đầu tư kinh doanh bị ngưng trệ để chuẩn bị cho sự chuyển tiếp sang một chu kì phát triển kế tiếp. Chu kì kinh tế có thể diễn ra ngắn hay dài tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố và chu kì kinh tế có ảnh hưởng rất mạnh đến các quyết định quản trị doanh nghiệp của các nhà đầu tư. Nhiều nhà kinh tế cho rằng các yếu tố kinh tế của nước nhận đầu tư là những yếu tố có ảnh hưởng quyết định trong thu hút FDI.
1.2.2.4. Môi trường luật pháp, chính sách
Mỗi quốc gia đều có một hệ thống luật quy định rõ các nhà đầu tư hay các doanh nghiệp được đầu tư kinh doanh sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gì, cấm các mặt hàng gì, nghĩa vụ và quyền lợi của các nhà đầu tư… Hệ thống các công cụ chính sách và những quy định của nhà nước có liên quan đến những hoạt động đầu tư kinh doanh như: chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách thu nhập, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách bảo vệ môi trường, chính sách lao động – tiền lương, chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần… Chính sách kinh tế thể hiện quan điểm, định hướng phát triển nền kinh tế của nhà nước, thông qua các chủ trương và chính sách, nhà nước, thông qua các chủ trương và chính sách, nhà nước điều hành và quản lý nền kinh tế và các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư trên phương diện quản lý nhà nước về kinh tế. Các chính sách kinh tế thể hiện những ưu đãi, khuyến khích đối với một số khu vực, ngành, lĩnh vực kinh tế nào đó, đồng thời các chính sách cũng sẽ là các biện pháp, chế tài để kiểm soát các lĩnh vực đó.
Một quốc gia được coi là có chính sách kinh tế mở khi những chính sách đó có sức hấp dẫn và mang lại sự thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chính sách kinh tế có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn. Cơ chế quản lý, điều hành của Chính phủ sẽ quyết định trực tiếp đến tính hiệu lực của luật pháp và các chính sách kinh tế, nếu một nhà nước mạnh, điều hành chuẩn mực thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh chính đáng.
Hệ thống pháp luật được xây dựng nhằm quy định những điều mà các thành viên trong xã hội được làm và không được làm, nó là cơ sở để xem xét những hành động vi phạm các mối quan hệ xã hội mà pháp luật bảo vệ. Nhà nước giữ một vai trò quan trọng trong tạo lập một môi trường đầu tư kinh doanh thuân lợi thông qua việc nhà nước quy định những khuôn khổ pháp lý và thiết lập các chính sách chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trong đầu tư kinh doanh, duy trì trật tự kỷ cương trong xã hội và các hoạt động kinh tế.
Nhìn chung các chủ đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào những nước có hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách đầy đủ, đồng bộ, thông thoáng, minh bạch và có thể dự đoán được. Điều này đảm bảo cho sự an toàn của vốn đầu tư.
1.2.2.5. Môi trường lao động, tài nguyên
Một trong những yếu tố quan trọng trong môi trường đầu tư là nguồn nhân lực và giá cả sức lao động, đây là những yếu tố rất cần thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch kinh doanh. Một nhà đầu tư muốn mở một nhà máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà đầu tư sẽ chọn những khu vực đáp ứng được những yêu cầu về số lượng, chất lượng lao động và giá cả sức lao động. Chất lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao hoặc có sử dụng công nghệ hiện đại. Như vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện quan trọng ảnh hưởng đến quyết định tiến hành kinh doanh của các nhà đầu tư, tuy nhiên để có một lực lượng lao động tốt thì lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục và đào tạo cơ bản, đào tạo nghề và chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ.
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn lực của tự nhiên bao gồm đất đai, không khí, nước, các loại năng lượng và những khoáng sản trong lòng đất… Để thỏa mãn những nhu cầu đa dạng của mình con người đã khai thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban tặng. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên thiên nhiên phân bố không đồng đều giữa các vùng trên trái đất, phụ thuộc cấu tạo địa chất, thời tiết, khí hậu từng vùng. Nguồn tài nguyên ngày càng khan hiếm cùng với sự lạm dụng tài nguyên đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng buộc các chính phủ phải có những chính sách quản lý chặt chẽ tài nguyên thiên nhiên. Các chính phủ thường khuyến khích thăm dò khảo sát tìm kiếm tài nguyên tại những vùng xa và có khả năng phục hồi, khuyến khích sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn và tiết kiệm hơn… Sự hạn chế tài nguyên này đã khiến các nhà đầu tư thường tìm kiếm nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên và chính phủ có những chính sách thông thoáng về quản lý tài nguyên thiên nhiên để đầu tư.
1.2.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư có vai trò rất quan trọng tới sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư sẽ quyết định bỏ vốn đầu tư mới hoặc mở rộng đầu tư kinh doanh nếu như họ tìm được một môi trường đầu tư thuận lợi, các quốc gia sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu tạo lập được một môi trường đầu tư tốt, khi thu hút được nhiều vốn đàu tư, các chính phủ sẽ giải quyết được nhiều vấn đề liên quan tới tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Một môi trường đầu tư tốt sẽ có tác động đến hiệu quả kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, tại bất kỳ thời điểm nào, mọi lúc mọi nơi trên thế giới. Các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư thường phải cân nhắc tính toán với những quyết định đầu tư quan trọng, từ quyết định mở rộng trang trại của một người nông dân hay quyết định mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của một công ty vừa và nhỏ cho đến quyết định của các tập đoàn kinh tế lớn, các công ty xuyên quốc gia, những quyết định của các doanh nghiệp khi thực hiện sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu, chỉ số tăng trưởng của từng khu vực, từng quốc gia, từng địa phương..Tuy nhiên, các quyết định đầu tư của các doanh nghiệp được thực hiện hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào một tập hợp các yếu tố mà ta thường gọi đó là môi trường đầu tư. Khi các doanh nghiệp thực hiện một quyết định đầu tư đúng sẽ tạo ra nhiều giá trị sản xuất, việc làm và các giá trị khác mà nó sẽ làm cho của mục tiêu tăng trưởng và giảm nghèo của mỗi quốc gia thành hiện thực, chính vì vậy cải thiện môi trường đầu tư luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các chính phủ. Ngày nay, khi cả thế giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống dưới mức 1USD/ngày, khi lực lượng lao động thế giới ngày nay đang phải đối mặt với một tỷ lệ thất nghiệp cao và thậm chí một số nước có tỷ lệ thất nghiệp cao gấp đôi tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thế giới, khi tỷ lệ tăng dân số nhiều khi cao hơn mức tăng trưởng kinh tế thì việc tạo ra nhiều việc làm, giá trị sản phẩm gia tăng là hết sức cần thiết cho một thế giới cân bằng, hòa bình và phát triển.
Với mục đích thu lợi nhuận, các nhà đầu tư sẽ bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh với những ý tưởng mới, với những cơ sở vật chất mới và đó chính là những yếu tố cấu thành cho phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp là nơi tạo ra khoảng 90% việc làm, là nơi để mọi người thể hiện khả năng, trình độ của mình để tăng thu nhập, cải thiện mức sống, là nguồn thu thuế chủ yếu của các chính phủ, là nhân tố chính tham gia vào quá trình cung cấp hàng hóa nói chung và hàng hóa công cộng cho mọi người như đào tạo, sức khỏe, y tế… Như vậy, các doanh nghiệp là nhân tố chính, đóng vai trò nòng cốt cho quá trình tạo dựng một nền kinh tế tăng trưởng và phát triển, nhưng sự tham gia của các doanh nghiệp cho xã hội lại phụ thuộc hoàn toàn vào môi trường đầu tư. Như vậy, cải thiện môi trường đầu tư tốt hơn sẽ là một trong những biện pháp để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.
1.3. Kinh nghiệm thu hút FDI ở một số tỉnh, thành phố
Vận dụng kinh nghiệm chung về thu hút và triển khai FDI, một số địa phương ở nước ta bước đầu đưa lại những kết quả nhất định có tác dụng gợi mở đối với Hải Phòng:
*Thành phố Hà Nội
Trong chiến lược thu hút FDI của Việt Nam, thì thành phố Hà Nội có nhiều lợi thế so với các địa phương khác. Hà Nội là trung tâm chính trị, khoa học – kỹ thuật, văn hóa của cả nước, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khá tốt, lực lượng lao động có trình độ cao rất thuận lợi tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm thu hút FDI của các nước trên thế giới, trong khu vực và từ hoạt động thực tiễn của mình, Hà Nội đã có nhiều chủ trương, chính sách cải thiện môi trường đầu tư hấp dẫn và thu hút FDI đạt kết quả cao.
- Coi trọng xây dựng quy hoạch thu hút FDI: Quy hoạch thu hút FDI là một bộ phận hữu cơ trong quy hoạch đầu tư chung của Hà Nội. Để nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút FDI, tránh tình trạng đầu tư tràn lan, làm lãng phí nguồn lực, giảm hiệu quả các dự án FDI, làm cho nhà ĐTNN giảm lòng tin thì việc quy hoạch thu hút FDI ngay từ đầu phải gắn với việc phát huy nội lực của Thành phố về vốn, tài sản và cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được cùng với nguồn lực con người, lợi thế về vị trí địa lý và chính trị.
- Việc quy hoạch thu hút FDI phải gắn chặt với quy hoạch ngành, sản phẩm chủ lực; phát huy được lợi thế so sánh của mỗi địa phương, vùng, miền thuộc Hà Nội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế. Tổ chức nghiên cứu lựa chọn những ngành hàng, sản phẩm có lợi thế để ưu tiên phát triển, hoàn chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển để định hướng cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở đó, lập danh mục các dự án kêu gọi vốn FDI cho từng thời kỳ, giai đoạn trên địa bàn toàn Thành phố với chất lượng cao, từng dự án cần được mô tả khái quát về nội dung, sản phẩm, địa điểm, khả năng thị trường, dự kiến vốn đầu tư, thời gian triển khai dự án, đối tác trong nước... để các nhà ĐTNN nghiên cứu các thông tin này có thể ra quyết định đầu tư.
- Đẩy mạnh việc nghiên cứu, phân tích xu hướng vận động của dòng vốn FDI: Một trong những yếu tố để hạn chế và tránh tình trạng quy hoạch treo, dự án FDI treo là công tác nghiên cứu và phân tích xu hướng vận động của dòng vốn FDI cần được thường xuyên quan tâm đúng mức. Việc nghiên cứu và phân tích cần phải tìm hiểu được quy luật vận động của dòng vốn FDI, lượng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam hàng năm, tốc độ tăng trưởng của dòng vốn này. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu và phân tích cần tập trung vào các quốc gia, các tập đoàn đa quốc gia và các nhà đầu tư hàng đầu đã bỏ vốn đầu tư vào Hà Nội như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đài Loan… để tìm hiểu và nhận biết được sự quan tâm của các nhà đầu tư.
- Xác định rõ chiến lược thu hút FDI: Trên cơ sở phân tích xu hướng vận động của các dòng vốn FDI cũng như đặc điểm đầu tư của một số quốc gia lớn; Hà Nội đã chủ động xác định rõ cho mình một chiến lược thu hút FDI vào các lĩnh vực cụ thể: Phát triển công nghiệp với công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao, các dự án sản xuất có khả năng khai thác lợi thế của Thủ đô cũng như các lĩnh vực đầu tư có khả năng cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao; đặc biệt quan tâm đến thu hút các dự án dịch vụ chất lượng cao, dịch vụ tài chính - ngân hàng, dịch vụ du lịch, dịch vụ công nghệ sau bán hàng, dịch vụ thương mại cao cấp… biến Hà Nội thành trung tâm dịch vụ tổng hợp chất lượng cao, có vị trí quan trọng của cả nước và của khu vực.
- Phát triển đồng bộ và hoàn thiện chính sách thị trường: Vấn đề định hướng thị trường và tiêu thụ sản phẩm cho các dự án FDI có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Thị trường cho các dự án này cần được nhìn nhận cả từ thị trường “đầu vào” và thị trường “đầu ra”. Đối với thị trường “đầu vào” cần chú trọng các loại máy móc, thiết bị, công nghệ được đưa vào đầu tư với thế hệ mới, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường đồng thời có chính sách khuyến khích các dự án FDI thu mua nguyên liệu của địa phương sản xuất. Đối với thị trường “đầu ra”, cần chú trọng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm cả ở thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Đẩy mạnh các hoạt động mở rộng thị trường cho các dự án FDI thông qua việc khuyến khích xuất khẩu và xúc tiến thương mại. Khai thác các thế mạnh của bên nước ngoài trong hoạt động nghiên cứu thị trường để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Nâng cao năng lực và hiệu lực điều hành, quản lý của Nhà nước đối với hoạt động FDI: Tiếp tục đơ._.à các nhà đầu tư trong và ngoài nước đang sống và làm việc tại Hải Phòng. Nhiều khách sạn, nhà hàng, khu vui chơi giải trí đã và đang được đầu tư như: làng quốc tế Hướng dương, khu vui chơi giải trí tổng hợp Casino Đồ Sơn, Hòn Dáu Resort, sân golf quốc tế 18 lỗ Đồ Sơn. Tại Hải Phòng, có rất nhiều các chi nhánh, văn phòng đại diện của các hãng tàu lớn đến từ các nước trên thế giới, các hãng hàng không, bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, các hãng viễn thông,… Ngành y tế Hải Phòng đang đầu tư để trở thành một trung tâm khám chữa bệnh cho vùng; hiện có 22 bệnh viện với 3.480 giường, chưa kể 24 phòng khám khu vực và 217 trạm y tế xã phường với khoảng 1420 giường; đang triển khai các chương trình nâng cao chất lượng khám chữa bệnh chuyên sâu như: ghép thận tự thân, mổ tim hở, hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm… Các trung tâm y tế quận huyện được đầu tư xây dựng và nâng cấp, đảm bảo chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân.
Hải Phòng còn được biết đến là một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước. Ngoài 2 khu du lịch nổi tiếng là Cát Bà, khu dự trữ sinh quyển thế giới đã được UNESCO công nhận vào cuối năm 2004 và Đồ Sơn, một số thắng cảnh liền kề như Hạ Long (Quảng Ninh) và Đồng Châu (Thái Bình) đã và đang tạo nên hệ thống quần thể du lịch khu vực gắn kết với Hải Phòng.
Hải Phòng được coi là nơi có nguồn lực lao động dồi dào, có chất lượng và có khả năng huy động lực lượng lao động lớn cung ứng đủ cho nhu cầu sử dụng lao động. Thành phố tập trung nhiều trường đại học và cao đẳng đào tạo nhân lực cho các tỉnh duyên hải Bắc bộ như Đại học Hải Phòng, Đại học Hàng Hải, Đại học Y, Đại học Dân lập, Cao đẳng cộng đồng, Viện Nghiên cứu hải sản, Viện Hải dương học, Viện Y học biển và hàng chục trường học, trung tâm dạy nghề... với nguồn nhân lực dồi dào, có chất lượng chuyên môn cao, được xếp thứ 2 ở miền Bắc sau thủ đô Hà Nội và đứng thứ 3 cả nước. Đây là yếu tố quan trọng và cũng là thế mạnh của Hải phòng, đứng thứ 2 ở miền Bắc sau thủ đô Hà nội và đứng thứ 3 trong cả nước. Có đội ngũ cán bộ giỏi thuộc nhiều lĩnh vực và các ngành then chốt, có đủ nguồn lực để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Người Hải phòng nhanh nhạy với cái mới, có truyền thống văn minh, lịch sự, có tác phong công nghiệp với những ngành nghề tinh xảo cũng là nguồn lực tiềm ẩn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Có thể nói các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật và xã hội của Hải Phòng tương đối phát triển, hệ thống giao thông thuận lợi và cảng biển ngày càng được phát triển là một yếu tố hấp dẫn được nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư vào Hải Phòng với mục đích trước hết giảm thiểu chi phí vận chuyển.
Quan trọng hơn cả, cải cách hành chính trong các cơ quan công quyền được thành phố đặc biệt chú trọng. Hải Phòng đã trở thành một trong những địa phương đi đầu cải cách thủ tục hành chính trong cả nước, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, trong đó có môi trường pháp lý đồng bộ, thông thoáng, thủ tục thuận tiện, minh bạch, giảm thiểu các thủ tục hành chính. Hàng năm, thành phố đều chọn chủ đề năm, từ đó, xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Uỷ ban nhân dân thành phố và triển khai đến các Sở ngành, quận huyện, xã phường. Thành phố chú trọng đến vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả và chủ động trong công tác phối hợp giữa các ban, ngành chức năng của thành phố đối với việc hỗ trợ, giải quyết khó khăn, vướng mắc của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, chỉ rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thời gian giải quyết công việc của các ban, ngành.
Những điều kiện đó tạo cho thành phố có được nhiều cơ hội để thu hút vốn từ các nhà ĐTNN. Tuy nhiên, từ những hạn ché được trình bày trong phần thực trạng bên trên cũng cho chúng ta thấy được những khó khăn thách thức của thành phố trong việc thu hút FDI. Bởi vậy, để thu hút được tối đa nguồn lực đầu tư từ nước ngoài cần có những chính sách nhằm cố gắng khắc phục những hạn chế yếu kém của thành phố đã chỉ ra.
3.2. Mục tiêu thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian tới.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH của Hải Phòng đến năm 2010, kinh tế đối ngoại tiếp tục được xác định là lĩnh vực kinh tế động lực của thành phố. Trong đó hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển KT- XH của thành phố theo định hướng CNH- HĐH.
Phương hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của thành phố được xác định dành ưu tiên cho các dự án đầu tư phát triển khu nhà ở, văn phòng, khách sạn, khu vui chơi giải trí, bệnh viện và trường học quốc tế. Phát triển các khu du lịch, dịch vụ và vui chơi giải trí tại Đồ Sơn, Cát Bà, Núi Voi, Kiến An, công viên An Biên, công viên nước, cáp treo Đồ Sơn - Hòn Dáu. Tiếp tục hoàn thiện, phát triển và đẩy mạnh thu hút FDI vào các KCN và KCX bao gồm: cụm công nghiệp Vật Cách- Quán Toan với KCN Nomura- Hải Phòng, KCN luyện kim, cơ khí và các KCN dọc theo quốc lộ 5; cụm công nghiệp Bắc Thủy Nguyên, tiếp tục phát triển nhà máy xi măng Chinfon - Hải Phòng giai đoạn II (4 triệu tấn/năm), xây dựng nhà máy xi măng Hải Phòng mới, đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư vào các ngành phá dỡ tàu cũ, luyện thép, sản xuất thép hình, thép tấm,các dự án về công nghiệp hoá chất và dầu khí…; xây dựng và phát triển khu kinh tế tổng hợp Đình Vũ; phát triển CCN dọc đường 353 (Đồ Sơn - Hải Phòng), trong đó có KCX Hải Phòng - 96666; từng bước phát triển các CCN dành cho các doanh nghịêp vừa và nhỏ. Ưu tiên thu hút vốn đầu tư cho các dự án đầu tư sản xuất, chế biến xuất khẩu, chế biến nông sản, thủy sản xuất khẩu, sản xuất cây giống, con giống chất lượng cao.
3.3. Giải pháp chung của nhà nước nhằm tăng cường thu hút FDI
Chiến lược FDI phải phù hợp và phục vụ cho chiến lược phát triển KT- XH cũng như chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành, các vùng quan trọng. Cần có chiến lược hợp lý không chỉ để kêu gọi mà còn giám sát việc thu hút FDI cho đúng trọng tâm, đúng yêu cầu dài hạn của nước nhà.
3.2.1 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp.
Để thu hút các nhà ĐTNN, Chính phủ cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách liên quan đến FDI theo hướng thông thoáng, hấp dẫn nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư nước ngoài theo hướng thiết lập một mặt bằng pháp lý chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tưu nước ngoài nhằm tạo lập môi trường ổn định, bình đẳng cho sản xuất và kinh doanh, đồng thời áp dụng các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kì. Bên cạnh đó, cần đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh đầu tư mới, nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp danh, công ty quản lý vốn…. Nâng cao trình độ thực thi luật pháp của các cấp chính quyền, thể chế hoá các quy định về đầu tư sang hình thức luật để có giá trị pháp lý cao hơn.
3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính
Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính, cải tiến hệ thống tài chính ngân hàng, sử dụng linh hoạt và có hiệu quả chính sách tiền tệ. Thủ tục hành chính rắc rối, phiền hà được xem như một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Do đó, cần xây dựng cơ chế quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung Ương và ở địa phương để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, theo các nhà đầu tư, các quy định liên quan đến hệ thống tài chính là ít hiệu quả. Như việc ngân hàng quốc doanh nắm giữ nguồn tiền lớn và ít cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay, các khoản vốn vay thường ngắn hạn và ít các nguồn vốn dài hạn.
Ngoài ra còn có các khó khăn khác như chuyển đổi từ đồng USD sang VND, khoản vay hợp vốn khó phân chia tài sản, chuyển dịch ngoại tệ,can thiệp phi kinh tế trong giao dịch thương mại. Những yếu tố này gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cuả nhà đầu tư. Vì vậy chính phủ cần cải thiện hệ thống thanh toán, tăng mức huy động tiền gửi VND cho các chi nhánh ngân hàng nhà nước, hỗ trợ doanh nghiệp không được ưu tiên mua ngoại tệ, kết hối 40% ngoại tệ của các doanh nghiệp từ nguồn thu vãng lai, nới lỏng quy định hiện hành về hạn chế mức tiền kí gửi bằng đồng Việt Nam tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tiến tới xoá bỏ khi điều kiện cho phép. Tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. Sử dụng linh hoạt, có hiệu quả các công cụ của chính sách thị trường như tỉ giá, lãi suất theo các nguyên tắc của thị trường và có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Cùng với việc tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và đơn giản hoá các thủ tục hành chính nhằm tăng thêm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Chính phủ còn thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Các trung tâm xúc tiến tại các lĩnh vực phải được kết nối để đảm bảo thông tin được cập nhập và luôn được chia sẻ giữa văn phòng thị trường và các văn phòng khu vực nhằm đạt được hiệu quả nhờ tính thống nhất và liên kết giữa các địa phương.
3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực
Thời gian tới, chính phủ sẽ đầu tư cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là đào tạo nghề nhằm đáp ứng nhu cầu đang tăng của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ vận động và phối hợp với các tổ chức quốc tế mở các lớp đào tạo về xúc tiến và quản lý đầu tư nước ngoài, phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước mở các trung tâm đào tạo lao động kĩ thuật cao. Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
3.2.4. Cải thiện cơ sở hạ tầng
Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
2.3.5. Một số giải pháp khác
Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
3.4. Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng
Năm 2010, nhu cầu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn TP Hải Phòng bình quân trên 10.000 tỷ đồng. Nhu cầu này đòi hỏi thành phố phải cân đối, huy động tối đa các nguồn vốn trong nước đảm bảo tỷ trọng 70%, bao gồm các nguồn vốn từ ngân sách tập trung, vốn tín dụng, vốn do doanh nghiệp đầu tư và vốn do dân đầu tư; đồng thời, cần thu hút và khai thác triệt để nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đảm bảo chiếm 30% tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn.
Để đạt được mục tiêu nêu trên, thành phố đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách và trọng tâm là tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thu hút đầu tư phát triển. Theo đó, các giải pháp đưa ra bao gồm:
3.4.1. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật
Phát triển hệ thống cảng. Tiếp tục xây dựng phát triển cảng khu vực Đình Vũ, hoàn thành giai đoạn II Cảng Đình Vũ, xây dựng thêm cảng dầu; xây dựng khu chuyển tải Bến Gót - Lạch Huyện; xây dựng hệ thống các cảng nội địa, trước tiên là cảng ICD - Lào Cai. Triển khai, đẩy nhanh xây dựng Cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng để đến năm 2010 bắt đầu đưa vào khai thác; phối hợp với Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu, báo cáo Chính phủ cho xây dựng quân cảng Nam Đồ Sơn kết hợp với hoạt động kinh tế. Quy hoạch, đầu tư sớm bến tàu du lịch quốc tế.
Phát triển hệ thống giao thông sắt - bộ. Đẩy nhanh tiến độ cải tạo, xây mới hệ thống giao thông đối nội, nhất là tuyến Đình Vũ - Cát Bà, xây dựng tuyến đường vành đai 3, hoàn thành xây dựng Cầu Rào II, Cầu Khuể, nghiên cứu sớm triển khai xây dựng cầu Niệm II; xây dựng tuyến đường sắt từ cảng Chùa Vẽ đến Đình Vũ; xây dựng ga lập tàu tại Cam Lộ và các tuyến đường sắt Cam Lộ - Minh Đức, Cam Lộ - Đình Vũ, Cam Lộ - Đồ Sơn. Phát triển hệ thống giao thông đối ngoại: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng tuyến đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, cầu nối Đình Vũ với Cát Hải; nâng cấp tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng thành tuyến đường đôi và điện khí hoá; sớm triển khai xây dựng đường cao tốc ven biển Thanh Hoá - Quảng Ninh qua Hải Phòng... Nâng cấp, mở rộng sân bay Cát Bi thành Cảng hàng không quốc tế.
Đẩy nhanh phát triển các khu, cụm công nghiệp: Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong các khu công nghiệp Tân Liên, Tràng Duệ, Shinec, Đình Vũ để có sẵn mặt bằng sạch với đầy đủ cơ sở hạ tầng kỹ thuật thuận lợi cho sản xuất- kinh doanh. Thực hiện tốt quy hoạch hình thành một số khu, cụm công nghiệp chuyên ngành quy mô lớn, xây dựng quy hoạch chi tiết những khu công nghiệp đã được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 180/QĐ-Ttg về điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp của Hải Phòng đến năm 2020 bằng các nguồn vốn khác nhau.
Tiếp tục phát triển hạ tầng mạng lưới điện, nguồn cung cấp điện đáp ứng yêu cầu đủ, ổn định, an toàn, chất lượng: Đảm bảo tiến độ xây dựng nhà máy nhiệt điện Tam Hưng, giai đoạn 1 công suất 600MVA đưa vào hoạt động cuối năm 2008. Xây dựng thêm các trạm biến áp mới; cải tạo nâng cấp, xây dựng lưới điện cao thế (220KV và 110 KV), lưới điện trung thế (22KV) và lưới điện hạ áp trên địa bàn thành phố.
Tiếp tục đẩy nhanh xây dựng, cải tạo hệ thống cấp nước đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, ổn định, chất lượng, giảm thất thoát, giá cả hợp lý: Cải tạo nâng cấp, mở rộng nhà máy nước An Dương, Cầu Nguyệt, Hoà Bình... cải tạo nâng cấp mạng lưới truyền dẫn, phân phối nước, đặc biệt đến chân hàng rào các KCN
Tiếp tục hiện đại hoá mạng lưới bưu chính - viễn thông đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao chất lượng, giảm giá thành của các dịch vụ điện, nước, bưu chính viễn thông, vận tải hàng hoá, khách du lịch, dân đô thị (hệ thống xe buýt),dịch vụ liên quan đến cảng.
Phát triển các cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội chất lượng cao đồng bộ với phát triển hạ tầng kỹ thuật: đầu tư xây dựng, nâng cấp Bệnh viện đa khoa Việt Tiệp, khuyến khích đầu tư xây dựng bệnh viện đạt chuẩn quốc tế, bệnh viện quốc tế với hệ thống trang thiết bị khám chữa bệnh đồng bộ, hiện đại cùng với đội ngũ thầy thuốc giỏi; xây dựng các trường học quốc tế, đạt chuẩn quốc tế với các cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông; phát triển các khu vui chơi, giải trí, các trung tâm thương mại chất lượng cao. Quy hoạch, xây dựng các khu nhà ở cho thuê dành riêng người nước ngoài đang làm việc tại Hải Phòng.
3.4.2. Tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý.
Rà soát các văn bản thành phố đã ban hành, điều chỉnh, huỷ bỏ để đảm bảo phù hợp văn bản pháp luật Trung ương, phù hợp những cam kết với WTO.
Các cấp chính quyền tăng cường đối thoại, kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất- kinh doanh. Tiếp tục giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố.
3.4.3. Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, vận động, thu hút vốn FDI
Nâng cao tính chuyên nghiệp trong tuyên truyền xúc tiến đầu tư, bổ sung kịp thời những thông tin phục vụ thiết thực cho xúc tiến, vận động đầu tư trên các công cụ, tài liệu cả giấy và điện tử, bằng các ngôn ngữ thông dụng như: Anh, Trung, Nhật, Hàn... nhằm kip thời quảng bá hình ảnh, môi trường đầu tư Hải Phòng ra ngoài nước. Nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả các trang thông tin điện tử: Website của UBND thành phố, Website về đầu tư nước ngoài của Sở Kế hoạch và Đầu tư phục vụ tốt nhất nhu cầu tìm kiếm cơ hội đầu tư, kinh doanh, du lịch tại thành phố của các nhà đầu tư từ nước ngoài.
Chú trọng tranh thủ phối hợp với các bộ, ban, ngành Trung ương, văn phòng đại diện của các tổ chức xúc tiến đầu tư và thương mại quốc tế đặt tại Việt Nam, các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp về xúc tiến đầu tư, các doanh nghiệp FDI hoạt động thành công trên địa bàn để tổ chức các hoạt động triển lãm, hội thảo về xúc tiến đầu tư, chiến dịch quảng bá hình ảnh của thành phố.
Kết hợp chặt chẽ giữa xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại, du lịch tại các nước có tiềm năng về thương mại như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Bắc Mỹ, ASEAN, các nước Châu Phi và vùng lãnh thổ Đài Loan; các nước có tiềm năng về du lịch (khách du lịch tới Việt Nam) như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, các nước ASEAN, EU, Bắc Mỹ, Nga... Kết hợp xúc tiến đầu tư FDI với vận động nguồn ODA, nguồn viện trợ NGO, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Cần tranh thủ sự hỗ trợ, kết hợp với các bộ, ngành Trung ương, các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp về xúc tiến đầu tư để tổ chức các hoạt động triển lãm, hội thảo về xúc tiến đầu tư, chiến dịch quảng bá hình ảnh của thành phố.
Tập trung kêu gọi đầu tư vào ngành, lĩnh vực, dự án khai thác có hiệu quả lợi thế của thành phố, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, góp phần tích cực tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng, tạo sự tác động lan tỏa; phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. Một số lĩnh vực trong đó như phát triển dịch vụ cảng biển, dịch vụ tài chính, thương mại; công nghiệp: sản xuất các thiết bị siêu trường, siêu trọng, sản xuất phôi thép, thép tấm, động cơ và linh kiện phục vụ ngành đóng tàu biển, sản xuất container, cần trục, sản xuất nguyên phụ liệu phục vụ ngành may mặc, giầy dép, các phụ tùng, chi tiết phục vụ ngành ô tô, sản xuất hàng điện tử phục vụ sản xuất và tiêu dùng; phát triển du lịch: xây dựng các khu vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng khách sạn tại Đồ Sơn, Cát Bà; thủy sản: nuôi trồng, chế biến hải sản... Khuyến khích các dự án có công nghệ cao, hạn chế ảnh hưởng xấu đến môi trường, mang hiệu quả kinh tế-xã hội cao trên 1 đơn vị diện tích đất sử dụng. Đồng thời chú trọng dự án phát triển hạ tầng đô thị, công nghiệp như: Khu đô thị Bắc Sông Cấm, Khu công nghiệp công nghệ cao ở Thuỷ Nguyên...
3.5. Một số kiến nghị
Thứ nhất, giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng. Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Vừa kêu gọi vốn đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng, vừa phải đẩy nhanh tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất và sử dụng điện từ các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
Thứ hai, giải pháp khắc phục những hạn chế của các yếu tô trong môi trường kinh tế. Thực hiện nghiêm túc những chính sách kinh tế mà nhà nước đã đưa ra để hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kích thích nhu cầu người tiêu dùng, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp cho người lao động, hạn chế khả năng bùng phát dịch bệnh. Ngoài ra cần chú ý việc cân đối ngân sách cho phù hợp khi thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Nâng cao tính chủ động, ý thức tự giác, làm việc có trách nhiệm cho một số cán bộ địa phương để nghiêm túc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội toàn thành phố,tránh hiện tượng đùn đảy, né tránh việc khó.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. àn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. Nâng cao trình độ cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư, khả năng phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương. Cụ thể hóa các văn bản pháp luật một cách dễ hiểu., dễ áp dụng.tránh tính trạng tạo ra các cách hiểu khác nhau gây khó khăn cho việc thực hiện.
Thứ tư, về cải cách thủ tục hành chính. Trước hết cần đổi mới quan điểm về thủ tục hành chính. Các cơ quan nhà nước cần có tư duy sát thực hơn về hoạt động đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng trước hết đây vừa là lợi ích, vừa là trách nhiệm của họ. Cơ quan quản lý nhà nước phải nhận thức, quán triệt quan điểm phục vụ trong chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trung tâm theo hướng nhận khó khăn về phía mình để tìm cách đơn giản hoá thủ tục hành chính tới mức cao nhất, đem lại thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, mọi thủ tục hành chính cần hướng vào việc tạo thuận lợi cho các hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các thủ tục hành chính đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần được thiết kế theo hướng để khi doanh nghiệp thực hiện với thời gian ngắn nhất và chi phí thấp nhất. Từ điều này sẽ tìm ra nhiều cách sáng tạo thực hiện. Ngoài ra, thủ tục mới nhưng con người cũ, tư tưởng cũ sẽ là một vật cản lớn trong cải cách hành chính. Trên thực tế, có những vấn đề đã quy định cụ thể, thủ tục thông thoáng nhưng do nhận thức, thói quen nuối tiếc với cơ chế “xin - cho” của một bộ phận cán bộ, công chức hành chính nên sự việc tuy dễ hoá khó khăn. Thủ tục hành chính dù hay đến mấy nhưng chỉ nằm trên giấy tờ văn bản, muốn đi vào cuộc sống phải thông qua con người áp dụng. Do đó, sự công tâm của cán bộ, công chức hành chính cùng với một cơ chế trách nhiệm pháp lý minh bạch, công khai sẽ là những yếu tố quan trọng để Hải Phòng cải thiện môi trường thu hút đầu tư nước ngoài.
Thứ năm, giải pháp về lao động, tiền lương. đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, chất lượng nguồn nhân lực (cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật cao, lành nghề) luôn được coi trọng, vì đó là nhân tố quyết định và là cầu nối cực kỳ quan trọng giữa nhà đầu tư với địa phương. Vì vậy, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đồng bộ với các mặt: giáo dục - đào tạo, sử dụng và tạo việc làm là yêu cầu không thể thiếu trong thu hút đầu tư. Tăng cường đầu tư các dịch vụ phục vụ ăn, ở, đi lại, học hành, khám và điều trị bệnh, nhu cầu vui chơi, giải trí cho người lao động tại các khu công nghiệp. Trước mắt tập trung giải quyết hiệu quả vấn đề nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp trên địa bàn nhằm ổn định lâu dài nguồn nhân lực cho các nhà đầu tư.
Ngoài các giải pháp trên, cần chủ động gặp gỡ các nhà đầu tư, qua đó nắm bắt các nhu cầu và tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp. Tổ chức tuyên truyền, vận động, thuyết phục các nhà đầu tư đồng tình ủng hộ việc thành lập các tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này hoạt động. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động các tổ chức cơ sở đảng, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhằm góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển; bảo đảm hài hòa lợi ích của doanh nghiệp, Nhà nước và người lao động.
KẾT LUẬN
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài) đã và đang trở thành bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và là một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
Những năm vừa qua, tình hình thu hút vốn FDI trên địa bàn thành phố khá lạc quan nhưng không vì thế mà Hải Phòng coi nhẹ công tác này. Nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn FDI, thành phố Hải Phòng đã và đang thực hiện nhiều biện pháp để cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, nhưng cũng không đánh giá thái quá vai trò của nó dẫn tới tình trạng ưu tiên một cách quá mức cho hoạt động này.
So với trước đây, môi trường đầu tư của thành phố đang được cải thiện tốt hơn, đặc biệt trong thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài cũng trở nên thông thoáng hơn rất nhiều. Bởi vậy, ngoài các nhà đầu tư đến từ các quốc gia truyền thống như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, đã xuất hiện thêm các nhà đầu tư mới đến từ các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Hoa Kỳ, Singapo, các nước thuộc liên minh Châu Âu EU.
Như vậy, bằng chính nỗ lực của mình, Hải Phòng đang cố gắng rất nhiều để thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động đầu tư nước ngoài nhằm phát triển cơ cấu kinh tế thành phố theo hướng CNH- HĐH, góp phần đưa Hải Phòng trở thành thành phố công nghiệp trước năm 2020.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục sách, giáo trình tham khảo:
Vũ Thị Ngọc Phùng, Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Lao động xã hội, 2005.
Nguyễn Bạch Nguyệt, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, 2007.
Võ Thanh Thu, Giáo trình Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, NXB Thống kê.
Đinh Đào Ánh Thủy, Bài giảng Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, Khoa Đầu tư Trường Đại học Kinh tế quốc dân, 2008.
Lê Xuân Bá, Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, NXB Khoa học kỹ thuật, 2006.
Đan Đức Hiệp, Phạm Vũ Can, Kinh tế Hải Phòng 50 năm xây dựng và phát triển, NXB Thống kê, 2005.
20 năm đầu tư nước ngoài, Nhìn lại và hướng tới 1987- 2007, NXB Tri thức.
Thời báo kinh tế Việt Nam 2008 – 2009
Phùng Xuân Nhạ, Giáo trình Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Danh mục các văn bản pháp luật tham khảo:
Quyết định số 369/QĐ – UB của UBND Thành phố Hải Phòng về việc ban hành một số chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng.
Kế hoạch xúc tiến đầu tư năm 2010, UBND Thành phố Hải Phòng.
Tình hình chung về FDI tại Hải Phòng năm 2009, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng.
Báo cáo Tổng kết thực hiện công tác năm 2009, Phương hướng, nhiệm vụ năm 2010, Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Phòng.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 và Luật sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 2010.
Cục Thống kê Hải Phòng, Niên giám Thống kê Hải Phòng từ 2000 - 2008.
Danh mục các trang web tham khảo:
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM KẾT
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài và môi trường đầu tư. 3
1.1. Những lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm 3
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư 3
1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài 5
1.1.2. Các hình thức FDI cơ bản 7
1.1.2.1. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) 8
1.1.2.2. Hình thức doanh nghiệp liên doanh 8
1.1.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài 9
1.1.3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 10
1.1.3.1. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư 10
1.1.3.2. Vai trò của FDI đối với nước nhận đầu tư 11
1.2. Những lý luận cơ bản về môi trường đầu tư 15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của môi trường đầu tư 15
1.2.2. Nội dung của môi trường đầu tư 17
1.2.2.1. Môi trường chính trị - xã hội 17
1.2.2.2. Môi trường cơ sở hạ tầng 18
1.2.2.3. Môi trường kinh tế 19
1.2.2.4. Môi trường luật pháp, chính sách 19
1.2.2.5. Môi trường lao động, tài nguyên 20
1.2.3. Sự cần thiết phải cải thiện môi trường đầu tư 21
1.3. Kinh nghiệm thu hút FDI ở một số tỉnh, thành phố 22
Chương II: Thực trạng thu hút vốn FDI và môi trường đầu tư ở thành phố Hải Phòng. 29
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên thành phố Hải Phòng 29
2.2. Tình hình thu hút vốn FDI vào Hải Phòng từ 2005 đến 2009 31
2.2.1. Quy mô và tốc độ thu hút FDI tại Hải Phòng 31
2.2.2. Tình hình thu hút FDI theo đối tác 33
2.2.3. Tình hình thu hút vốn FDI theo hình thức đầu tư 34
2.2.4. Tình hình thu hút vốn FDI theo ngành, lĩnh vực đầu tư 35
2.2.5. Đánh giá kết quả hoạt động thu hút FDI 36
2.3. Thực trạng môi trường đầu tư ở Hải Phòng 41
2.3.1. Môi trường chính trị - xã hội 41
2.3.2. Môi trường cơ sở hạ tầng 42
2.3.3. Môi trường kinh tế 45
2.3.4. Môi trường luật pháp, chính sách 47
2.3.5. Môi trường lao động, tài nguyên 48
2.4. Đánh giá thực trạng môi trường đầu tư trong việc thu hút FDI ở Hải Phòng 50
2.4.1. Một số kết quả nổi bật 50
2.4.2. Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân 51
Chương III: Giải pháp góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng 55
3.1. Cơ hội thách thức đối với Hải Phòng trong việc thu hút FDI 55
3.2. Mục tiêu thu hút FDI của Hải Phòng trong thời gian tới. 58
3.3. Giải pháp chung của nhà nước nhằm tăng cường thu hút FDI 58
3.2.1 Hoàn chỉnh hệ thống luật pháp. 59
3.2.2 Cải cách thủ tục hành chính 59
3.2.3 Đào tạo nguồn nhân lực 60
3.2.4. Cải thiện cơ sở hạ tầng 60
2.3.5. Một số giải pháp khác 60
3.4. Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm đẩy mạnh thu hút FDI ở Hải Phòng 61
3.4.1. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật 61
3.4.2. Tiếp tục cải thiện môi trường pháp lý. 62
3.4.3. Đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến, vận động, thu hút vốn FDI 63
3.5. Một số kiến nghị 64
KẾT LUẬN 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31754.doc