Giáo trình Tổ chức và quản lý sản xuất

UBND TỈNH KHÁNH HÒA TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ NHA TRANG -------------------- TRẦN NGỌC HUÂN GIÁO TRÌNH TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ SẢN XUẤT Dành cho hệ: Cao đẳng nghề Chuyên ngành : Dùng cho nhóm nghề cơ khí Mã số đề tài : GT12 1 Khánh Hòa, tháng 7, năm 2012 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là giáo trình do bản thân tôi tham khảo tài liệu và biên soạn theo chương trình khung của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. 3 LỜI CÁM ƠN Tôi xin cảm ơn Bán giám hiệu nhà trường, cảm ơn Kho

pdf70 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 334 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Tổ chức và quản lý sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a Cơ khí, các đồng nghiệp; xin cảm ơn đại diện nhà doanh nghiệp đã góp ý, giúp đỡ cho tôi hoàn thành giáo trình này. 4 MỤC LỤC Lời nói đầu .........................................................................................Trang 7 Tổng quan ..................................................................................................... 8 Chương 1. Khái niệm chung về tổ chức và quản lý sản xuất 1.1. Khái niệm, vai trò và vị trí của xí nghiệp sản xuất ......................... 10 1.2. Đặc điểm cơ bản của xí nghiệp sản xuất ......................................... 11 1.3. Đặc tính của các loại hình doanh nghiệp ........................................ 12 1.4. Khảo sát một số loại hình doanh nghiệp ........................................ 14 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 19 Chương 2. Nguyên tắc cơ bản của hệ thống tổ chức quản lý sản xuất 2.1. Ý nghĩa ............................................................................................ 20 2.2. Nguyên tắc cơ bản ........................................................................... 20 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 23 Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và phân tích thị trường 3.1. Khái niệm ........................................................................................ 24 3.2. Quy luật cung cầu ............................................................................ 24 3.3. Điều tra thị trường hàng hóa ........................................................... 26 3.4. Điều tra thị trường lao động ............................................................ 27 3.5. Quảng cáo ........................................................................................ 28 3.6. Các tín hiệu biến động ..................................................................... 28 3.7. Tham quan, khảo sát thị trường ....................................................... 29 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 31 Chương 4. Lập kế hoạch sản xuất và quản lý kế hoạch 4.1. ý nghĩa của kế hoạch sản xuất ......................................................... 32 4.2. Các dạng kế hoạch của xí nghiệp sản xuất ...................................... 32 4.3. Công tác quản lý kế hoạch .............................................................. 41 4.4. Quy trình quy phạm kỹ thuật ......................................................... 43 4.5. Máy móc thiết bị trong sản xuất ...................................................... 43 4.6. Trách nhiệm của người lao động đối với việc thực hiện các quy trình quy phạm và chăm sóc bảo dưỡng máy móc, thiết bị ............ 44 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 45 5 Chương 5. Cách thức đánh giá và phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm 5.1. Thời gian lao động .......................................................................... 46 5.2. Công tác định mức lao động ........................................................... 47 5.3. Tổ chức thù lao lao động ................................................................. 50 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 56 Chương 6. Mở rộng và phát triển doanh nghiệp 6.1. ý nghĩa của việc mở rộng và phát triển doanh nghiệp .................... 57 6.2. Tình hình hoạt động doanh nghiệp ................................................. 57 6.3. Tổ chức hội thảo, chuyên đề ........................................................... 60 6.4. Lên kế hoạch ................................................................................... 61 6.5. Thu thập, xử lý thông tin ................................................................. 63 6.6. Chuẩn bị và triển khai ..................................................................... 66 Câu hỏi ôn tập, thảo luận ........................................................................ 68 Kết luận ...................................................................................................... 69 Tài liệu tham khảo ...................................................................................... 70 6 LỜI NÓI ĐẦU Giáo trình môn học Tổ chức và quản lý sản xuất được biên soạn theo Chương trình khung của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Nội dung được biên soạn theo tinh thần ngắn gọn, dễ hiểu. Các kiến thức trong toàn bộ giáo trình có mối liên hệ chặt chẽ. Tuy nhiên, người dạy, người học cần tham khảo thêm các giáo trình có liên quan đối với nghề mình đang học, đang công tác để việc sử dụng giáo trình có hiệu quả hơn. Khi biên soạn giáo trình, tác giả đã cố gắng cập nhật những kiến thức mới, những chế độ chính sách có liên quan đến môn học và phù hợp với đối tượng học sinh cũng như cố gắng gắn những nội dung lý thuyết với những vấn đề thực tế thường gặp trong sản xuất, đời sống để giáo trình có tính thực tiễn. Nội dung giáo trình được biên soạn gồm 6 chương: Chương 1. Khái niệm chung về tổ chức và quản lý sản xuất; Chương 2. Nguyên tắc cơ bản của hệ thống tổ chức quản lý sản xuất; Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và phân tích thị trường; Chương 4. Lập kế hoạch sản xuất và quản lý kế hoạch; Chương 5. Cách thức đánh giá và phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm; Chương 6. Mở rộng và phát triển doanh nghiệp. Trong quá trình sử dụng, tùy theo yêu cầu cụ thể của từng nghề có thể điều chỉnh để sử dụng các nội dung phù hợp với đề cương chi tiết. Căn cứ vào trang thiết bị đã có của từng nghề và khả năng tổ chức cho học sinh – sinh viên thực tập ở các xí nghiệp bên ngoài mà giáo viên tự xây dựng thời lượng và nội dung thực hành cụ thể. Giáo trình được biên soạn cho đối tượng là học sinh – sinh viên trình độ cao đẳng nghề - nhóm nghề cơ khí và là tài liệu tham khảo cho giáo viên, cán bộ, kỹ thuật viên đang làm việc ở các cơ sở kinh tế nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn không tránh khỏi hết khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp của người sử dụng để giáo trình được hoàn chỉnh hơn. Mọi góp ý xin gửi về Khoa Cơ khí – Trường Cao đẳng nghề Nha Trang. Xin chân thành cảm ơn! Người biên soạn 7 TỔNG QUAN I. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Môn học Tổ chức và quản lý sản xuất nghiên cứu cơ chế tổ chức và quản lý doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nghiên cứu hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kể cả việc tổ chức mua bán các sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và việc tiêu thụ thành phẩm mà các doanh nghiệp này chế tạo ra. Môn học này nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sản xuất kinh doanh. Để có thể hiểu rõ các quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải hiểu rõ các quá trình nghiệp vụ sản xuất kinh doanh, từ chiến lược kinh doanh đến các nghiệp vụ kinh doanh, các yếu tố của quá trình kinh doanh và quản trị hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đối tượng nghiên cứu của môn học là: Nghiên cứu những đặc điểm cơ bản về doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam đang áp dụng. Nghiên cứu môi trường kinh doanh, nghiên cứu thị trường và khách hàng. Nghiên cứu các quy định của pháp luật, các chính sách của Đảng và nhà nước thẻ hiện trong lĩnh vực kinh doanh và quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong mỗi thời kỳ. Nghiên cứu cách thức đánh giá và quản lý chất lượng sản phẩm, tiền lương, thời gian lao động, thù lao lao động theo đúng quy định của pháp luật. Phạm vi nghiên cứu của môn học là toàn bộ các vấn đề cơ bản có hệ thống đặt ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh và quản trị kinh doanh của một doanh nghiệp. Tuy nhiên ta chỉ nghiên cứu xem xét những vấn đề lớn, có tầm quan trọng nhất trong họat động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Những vấn đề khác, tuy rất quan trọng và cũng không thể thiếu được nhưng đã có các môn học khác trình bày. Môn học này sẽ không đề cập để tránh trùng lắp. II. Phương pháp nghiên cứu môn học Môn học Tổ chức và quản lý sản xuất là môn học lý thuyết cơ sở trong các nghề cơ khí, nghĩa là chỉ nghiên cứu các vấn đề chung về tổ chức và quản lý của doanh nghiệp không phân biệt riêng theo nghề cơ khí. Phương pháp nghiên cứu của môn học này là: a) Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Khi nghiên cứu môn học này phải dựa trên phương pháp luận duy vật và nhìn nhận thực tế bằng phương pháp biện chứng, tránh duy tâm; nghiên cứu phải đặt trong điều kiện lịch sử cụ thể, có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển và trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, chi phối lẫn nhau. 8 b) Phương pháp học lý luận kết hợp với nghiên cứu thực tế Học lý luận gắn liền với thực hành. Lý luận mang tính hệ thống, khái quát và logic. Khi học môn học này cần phải liên hệ thực tế thông qua các tài liệu, sách báo, viết về sản xuất, kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; các chính sách của nhà nước trong thực tề kinh doanh. Liên hệ thực tế bằng cách tham quan (kiến tập) hoặc nghe báo cáo thực tế, đặc biệt có thể nghiên cứu, tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập tốt nghiệp. Thực tế phong phú, đa dạng, phức tạp và có tính cụ thể (thời gian, địa điểm) cũng như điều kiện vật chất. Vì vậy cần phân tích thực tế để nhận thấy sự sâu sắc, khái quát của lý luận và củng cố lý luận đã được trang bị. 9 Chương 1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ SẢN XUẤT Tổ chức sản xuất là việc phân chia quá trình sản xuất phức tạp thành các quá trình thành phần (các bước công việc), trên cơ sở đó áp dụng những hình thức công nghệ, các biện pháp tổ chức phân công lao động và các phương tiện, công cụ lao động thích hợp, đồng thời tìm biện pháp phối hợp một cách hài hoà giữa các bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất theo không gian và thời gian về quá trình sản xuất đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất Quản lý là quá trình làm việc cùng với nhau và thông qua những người khác để đạt được các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường biến động. Trọng tâm của quá trình này là tính hiệu lực và sử dụng hiệu quả các nguồn lực có giới hạn. 1.1. Khái niệm, vai trò và vị trí của xí nghiệp sản xuất Mọi doanh nghiệp đều là xí nghiệp nhưng không phải xí nghiệp nào cũng gọi là doanh nghiệp. Doanh nghiệp dưới góc độ là một xí nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, Theo định nghĩa này thì mọi doanh nghiệp đều là xí nghiệp nhưng chỉ những xí nghiệp không hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì không được coi là doanh nghiệp. Khái niệm xí nghiệp: xí nghiệp là một đơn vị kinh doanh được tổ chức một cách có kế hoạch để sản xuất hoặc cung ứng sản phẩm hoặc dịch vụ cho nền kinh tế quốc dân. Xí nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Những năm gần đây, hoạt động của doanh nghiệp đã có bước phát triển đột biến, góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: Tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo... Xí nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch các cơ cấu lớn của nền kinh tế quốc dân như: Cơ cấu nhiều thành phần kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương. Xí nghiệp phát triển tăng nhanh là nhân tố đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững ổn định và tạo thế mạnh hơn về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong quá trình hội nhập. Có thể nói vai trò của xí nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề xã hội, thực tế đó đã được phản ảnh qua kết quả hoạt động của xí nghiệp. 10 1.2. Đặc điểm cơ bản của xí nghiệp sản xuất Trong nền kinh tế, tồn tại hai hình thức sở hữu cơ bản đối với vốn và tài sản của các xí nghiệp, là sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân. Sở hữu Nhà nước do Chính phủ là người đại diện và chi phối hoạt động. Sở hữu tư nhân, bao gồm sở hữu cá nhân và sở hữu tập thể, là sở hữu thuộc quyền sử dụng của một cá nhân hoặc một tập thể cá nhân. Từ đó, hình thành hai khái niệm xí nghiệp, là: xí nghiệp nhà nước (hay còn gọi là xí nghiệp công cộng) và xí nghiệp tư nhân. Có 3 quan điểm khác nhau về xí nghiệp Nhà nước: - Quan điểm thứ nhất: cho rằng xí nghiệp Nhà nước là tất cả các tổ chức do Chính phủ lập ra với nhiệm vụ cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho xã hội. Theo quan điểm này, mọi tổ chức thực hiện các dịch vụ y tế, giáo dục, cứu trợ đều được gọi là các xí nghiệp Nhà nước. - Quan điểm thứ hai: cho rằng, xí nghiệp Nhà nước là các tổ chức do Chính phủ lập ra và quản lý, nhằm mục đích mang lại lợi nhuận và một khi được thiết lập, nó hầu như được tự do hoạt động như các xí nghiệp tư nhân, Quan điểm thứ ba: cho rằng 1 xí nghiệp được xác định là xí nghiệp Nhà nước, khi nó đáp ứng được các điều kiện sau: Chính phủ là cổ đông chính trong xí nghiệp, hoặc nếu không thì Chính phủ có thể thực hiện việc kiểm soát những chính sách chung mà xí nghiệp theo đuổi, bổ nhiệm hoặc cách chức ban quản lý xí nghiệp. Nhiệm vụ của xí nghiệp là sản xuất hàng hoá và dịch vụ để tiêu thụ trên thị trường. Xí nghiệp phải thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế, lấy thu bù chi và phấn đấu có lãi. Nếu 1 xí nghiệp, thiếu điều kiện thứ nhất, được coi là xí nghiệp tư nhân. Nếu thiếu điều kiện thứ 2 và thứ 3 thì được cọi là một chức năng thông thường của Nhà nước. Ở một số nước, xí nghiệp Nhà nước (hay xí nghiệp công cộng) được coi là xí nghiệp quốc doanh trong đó có nước ta. Trong các xí nghiệp, kể cả xí nghiệp quốc doanh và xí nghiệp tư nhân, người ta còn phân biệt thành nhiều loại khác nhau, căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, hình thức tạo vốn và công nghệ hoạt động. Chẳng hạn, căn cứ vào hình thức tạo vốn, các xí nghiệp được chia thành: xí nghiệp (quốc doanh hoặc tư nhân) thuần tuý, với 100% vốn là của nhà nước hoặc của tư nhân; xí nghiệp liên doanh (do sự góp vốn liên doanh của một số công ty trong và ngoài nước với nhau); xí nghiệp cổ phần (do việc hình thành vốn được thực hiện bằng cách phát hành và bán cổ phiếu). 11 1.3. Đặc tính của các loại hình doanh nghiệp 1.3.1. Doanh nghiệp nhà nước (doanh nghiệp công hữu, quốc doanh) Đây là loại hình doanh nghiệp phổ biến ở nước ta hiện nay. Đặc tính: Sở hữu tài sản của các doanh nghiệp này thuộc quyền sở hữu toàn dân, do nhà nước đại diện quản lý, nói cụ thể hơn nguồn vốn sản xuất của doanh nghiệp do ngân sách nhà nước cấp, phát từ khi bắt đầu hoạt động. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp sẽ bổ sung thêm nguồn vốn sản xuất kinh doanh bằng các quỹ được hình thành theo chế độ của nhà nước. Sử dụng tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động do Giám đốc (người quản lý) do nhà nước chỉ định, bổ nhiệm. Hoạt động của các doanh nghiệp một mặt dựa vào nhu cầu của thị trường, mặt khác phải dựa vào các phương hướng, đường lối, chính sách của nhà nước, nó chịu sự chi phối trực tiếp của nhà nước trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Loại hình doanh nghiệp này tồn tại trong bất kỳ quốc gia nào và nó phổ biến trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế như nhiên liệu, năng lượng, thông tin liên lạc, các ngành phục vụ phúc lợi công cộng 1.3.2. Doanh nghiệp tư nhân Là đơn vị sản xuất kinh doanh do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Đặc điểm: Tài sản trong doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của một cá nhân duy nhất. Tuỳ thuộc vào quy mô sản xuất kinh doanh, việc quản lý, điều hành đơn vị sẽ do người chủ sở hữu tài sản thực hiện hoặc họ có thể thuê mướn người điều hành. Người chủ doanh nghiệp tư nhân có trách nhiệm pháp lý vô hạn (Unlimites liability) về các khoản nợ của doanh nghiệp, tức là họ phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Điều này đã được nhà nước quy định trong luật doanh nghiệp tư nhân – theo luật doanh nghiệp. “Doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh doanh có mức không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Người chủ có quyền trong việc sắp xếp, tố chức, thuê mướn nhân công, trả lương, sa thải người lao động do đó cần phải có những luật định chặt chẽ để bảo vệ người lao động (Luật lao động). Ví dụ: quy định mức lương tối thiểu, lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi người lao động. 12 Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, loại hình này được nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và khuyến khích phát triển mạnh mẽ trong các ngành nghề ngoại trừ một số ngành nghề quan trọng có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia cũng như tác động đến những cân đối kinh tế chủ yếu của đất nước. 1.3.3. Doanh nghiệp chung vốn Là đơn vị sản xuất kinh doanh có sự tham gia ít nhất từ 2 cá nhân trở lên. Tài sản chung vốn có thể hữu hình (vốn, nhà xưởng, máy móc thiết bị, lao động ) hoặc vô hình (uy tín, danh tiếng, bằng phát minh sáng chế ) do đó cần xác định chính xác phần đóng góp của mỗi bên. Ở nước ta có công ty liên doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn Khái niệm công ty: là loại hình doanh nghiệp mà các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần góp vốn vào công ty do đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn của mình góp vào công ty, như vậy trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. (Limited liability) Mỗi công ty muốn có đầy đủ tư cách pháp nhân phải thoả mãn những điều kiện tối thiểu như sau: (1) Phải có tài sản riêng và chịu trách nhiệm về tài sản của mình. (2) Phải có trụ sở và tên riêng (được đăng ký tại các cơ quan có thẩm quyền). (3) Phải có đầy đủ tư cách pháp lý để tham gia vào các quan hệ dân sự. (4) Phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động. Hiện nay chúng ta có hai hình thức công ty: Công ty trách nhiệm hữu hạn (L.t.d): là loại công ty mà vốn góp của các thành viên phải đóng đầy đủ ngay khi thành lập công ty, việc chuyển nhượng vốn góp giữa các thành viên được tự do nhưng nếu chuyển nhượng cho người ngoài thì phải được sự nhất trí của nhóm thành viên đại diện cho số ít nhất ¾ vốn điều lệ của công ty. Vốn pháp định là số vốn tối thiểu mà luật pháp quy định để được thành lập doanh nghiệp. Vốn điều lệ là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của công ty. Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần: là loại công ty mà số cổ đông tối thiều là 3 (ba); số cổ phiếu của công ty có thể ghi tên hoặc không ghi tên và mỗi cổ động có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Loại cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển 13 nhượng, loại cổ phiếu có ghi tên chỉ được chuyển nhượng khi có sự đồng ý của Hội đồng quản trị. Trong quá trình hoạt động, nếu cần thiết mở rông quy mô (và chứng minh hiệu quả của việc mở rộng quy mô này) thì công ty cổ phần có quyền phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu. Việc phát hành các loại chứng khoán này phải thông qua thị trường chứng khoán. Công ty liên doanh: trách nhiệm của các bên tham gia góp vốn là hữu hạn theo phần đóng góp vào liên doanh của mình. Loại hình liên doanh này tỏ ra thích hợp ở những nơi, những quốc gia có điều kiện thuận lợi về tài nguyên vật, lực nhưng bị hạn chế về vốn, về kỹ thuật sản xuất, do đó phải chung vốn với các đơn vị khác (trong và ngoài nước) để khai thác tiềm lực này. 1.4. Khảo sát một số loại hình doanh nghiệp 1.4.1. Công ty hợp danh Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung; ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty, không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Hội đồng thành viên gồm tất cả các thành viên hợp danh và bầu một thành viên hợp danh làm Chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác. Hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Trong quá trình hoạt động, các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức trách quản trị và kiểm soát hoạt động của công ty. Thành viên góp vốn có quyền tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề quan trọng trong điều lệ công ty. - Việc tiếp nhận thành viên mới: Người được tiếp nhận làm thành viên mới của công ty phải được Hội đồng thành viên chấp thuận. Thành viên hợp danh hoặc thành viên góp vốn phải nộp đủ số vốn cam kết góp vào công ty trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày được chấp thuận. Thành viên hợp danh mới phải cùng liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các 14 khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty, trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thoả thuận khác. -Việc chấm dứt tư cách thành viên: + Nếu do thành viên tự rút vốn ra khỏi công ty hoặc bị khai trừ ra khỏi công ty thì người đó phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên. + Nếu do thành viên đó chết hoặc bị hạn chế mất năng lực hành vi dân sự thì phần vốn góp của thành viên đó được hoàn trả công bằng và thoả đáng 1.4.2. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trach nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần vốn của mình. - Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp, nhưng không quá 50 thành viên + Phần vốn góp của tất cả các thành viên dưới bất kỳ hình thức nào đều phải đóng đủ ngay khi thành lập công ty Phần vốn góp của các thành viên không được thể hiện dưới hình thức chứng khoán và được ghi rõ trong điều lệ công ty + Công ty trách nhiệm hữu hạn không được phát hành cổ phiếu ra ngoài công chúng để huy động vốn. Do đó khả năng tăng vốn của công ty rất hạn chế. + Việc chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người ngoài công ty bị hạn chế gắt gao. Việc chuyển nhượng vốn chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của nhóm thành viên đại diện cho ít nhất ¾ số vốn điều lệ của công ty. Trên mọi giấy tờ giao dịch, ngoài tên công ty, vốn điều lệ của công ty phải ghi rõ các chữ “trách nhiệm hữu hạn”, viết tắt là “TNHH”. Cơ cấu quản lý thường gọn nhẹ phụ thuộc vào số lượng thành viên. Nếu công ty có từ 11 thành viên trở xuống cơ cấu tổ chức quản trị gồm có hội đồng thành viên là cơ quan quyết định cao nhất, Chủ tịch công ty và Giám đốc (hoặc tổng giám đốc) điều hành. + Đối với công ty có từ 12 thành viên trở lên phải lập thêm Ban kiểm soát. 15 1.4.3. Công ty cổ phần Công ty cổ phần là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình thành, tồn tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong công ty cổ phần, số vốn điều lệ của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một Công ty Cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Công ty cổ phần là một trong loại hình công ty căn bản tồn tại trên thị trường và nhất là để niêm yết trên thị trường chứng khoán. Bộ máy các công ty cổ phần được cơ cấu theo luật pháp và điều lệ công ty với nguyên tắc cơ cấu nhằm đảm bảo tính chuẩn mực, minh bạch và hoạt động có hiệu quả. Công ty Cổ phần phải có Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành. Đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty phải có Ban Kiểm soát. Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập. Pháp luật về công ty của các nước đều xác lập một cách cụ thể về các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân độc lập, có năng lực và tư cách chủ thể riêng, tồn tại độc lập và tách biệt với các cổ đông trong công ty. Công ty cổ phần chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của chính công ty, là nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại Tòa án thông qua người đại diện của mình. Cổ đông là chủ sở hữu Công ty cổ phần và có một số quyền lợi như: quyền tham gia quản lý điều hành, quyền được chia cổ tức, quyền được chia tài sản theo tỷ lệ cổ phần sở hữu khi công ty giải thể nhưng cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của công ty. Trong khi đó, Công ty cổ phần với tư cách là một pháp nhân có quyền sở hữu toàn bộ tài sản riêng của công ty. Cổ đông trong Công ty cổ phần chịu trách nhiệm hữu hạn. Khi một cá nhân hay tổ chức chuyển dịch vốn của mình vào Công ty cổ phần trở thành tài sản thuộc sở hữu Công ty, cổ đông vẫn được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn nhưng cũng có thể mất chúng khi công ty giải thể hoặc phá sản. Vốn thuộc sở hữu công ty chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào công ty, nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong 16 phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu của mình. Đặc điểm này cho phép người ta mạnh dạn đầu tư vào công ty mà không phải chịu rủi ro đối với tài sản cá nhân trong trường hợp công ty phá sản vì cổ đông không bao giờ bị mất nhiều hơn so với số vốn đã bỏ ra đầu tư vào công ty. Cũng chính lợi thế này mà các Công ty cổ phần có khả năng huy động rất lớn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào hoạt động sản xuất – kinh doanh của mình. Cổ phần được tự do chuyển nhượng. Đây là đặc điểm quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của Công ty cổ phần. Chính đặc điểm này đã thu hút các nhà đầu tư vì với cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ đông có thể chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư khác bất cứ lúc nào, họ được quyền rời bỏ công ty khi họ muốn. Hơn nữa, với việc tự do chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu cổ đông của công ty có thể thay đổi linh hoạt mà không làm ảnh hưởng đến sự tồn tại cũng như bản chất của công ty. Công ty cổ phần có cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt. Công ty cổ phần không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác bên ngoài. Trong quan hệ nội bộ, vốn của công ty được xem là cội nguồn của quyền lực. Trong quan hệ với bên ngoài, vốn của công ty cổ phần là một dấu hiệu chỉ rõ thực lực tài chính của công ty. Sự phát triển của công ty cổ phần tỷ lệ thuận với sự luân chuyển các nguồn vốn trong nền kinh tế. Sự vận động của vốn trong công ty cổ phần vừa chịu sự chi phối khách quan của các qui luật kinh tế, vừa bị ảnh hưởng bởi ý chí chủ quan của con người. Do vậy, cách thức góp vốn, cách tổ chức và quản lý vốn trong Công ty cổ phần sẽ đa dạng và cụ thể để có thể đáp ứng được sự vận động linh hoạt của đồng vốn trong Công ty cổ phần. Quy mô Công ty cổ phần dễ dàng mở rộng. Cổ đông Công ty cổ phần có thể là cá nhân hay tổ chức, số lượng tối thiểu là ba, không hạn chế số lượng tối đa. Do vậy, bất cứ ai cũng có thể trở thành cổ đông của Công ty cổ phần nếu họ không thuộc dạng bị cấm góp vốn vào Công ty và chỉ cần nắm giữ ít nhất một cổ phần của Công ty. Mặt khác, Công ty cổ phần có thời gian tồn tại vô hạn nên việc phát hành chứng khoán để huy động vốn và mở rộng quy mô công ty là điều hết sức dễ dàng. Cơ chế quản lý tập trung cao. Công ty cổ phần không phải là sự tập hợp đơn thuần của cổ đông mà là một thực thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ. Bản thân công ty là một pháp nhân độc lập với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình nhưng không thể quyết định được ý chí của mình hay tự mình hành động như một thể nhân. Vì vậy, mọi hành động của Công ty cổ phần phải được thực hiện thông qua một cơ quan 17 quản lý riêng biệt. Điều đó dẫn đến sự tách biệt giữa những người sở hữu cổ phần và những người điều hành. Sự tách biệt này giúp tiết kiệm chi phí của việc ra quyết định và để đảm bảo rằng các nhà quản lý không đi ngược lại lợi ích của mình. Các cổ đông thành lập ra bộ máy, cơ chế để quản lý, kiểm soát những hành vi cơ hội chủ nghĩa của các cổ đông nắm quyền kiểm soát hoặc là đối với các cổ đông khác, hoặc là đối với các đối tác khác liên quan đến công ty như chủ nợ hay người lao động. Nó mang đến ch...phải thực hiện tốt công việc. - Xác định ngạch lương, bậc lương : Ngạch lương là việc xác định nhóm công việc tương tự nhau nhằm đơn giản hoá thủ tục ấn định lương. Trong mỗi ngạch lương người ta thường chia nhiều bậc lương tuỳ theo mức độ của công việc khác nhau. Các nhân viên làm việc chung một loại công việc sẽ có nhiều bậc lương khác nhau. Để tiến hành xây dựng ngạch lương khác nhau, bậc lương chúng ta phải đánh giá công việc. Đánh giá công việc là thủ tục có tính hệ thống nhằm đo lường giá trị và hợp lý cho các loại công việc khác nhau . - Các yếu tố ảnh hưởng đến mức lương trong doanh nghiệp: Căn cứ để xây dựng mức lương : + Để xây dựng mức lương, các doanh nghiệp phải dựa vào lương tối thiểu là mức lương thấp nhất áp dụng cho loại công việc đơn giản. Mức lương này thường do nhà nước quy định. + Căn cứ vào mức độ phức tạp của mỗi ngành nghề khác nhau thì mức lương khác nhau. Mức độ phức tạp của mỗi ngành nghề tuỳ thuộc vào thời gian đào tạo, điều kiện thực hiện công việc . + Căn cứ vào khả năng và điều kiện kinh tế cho việc trả lương của mỗi doanh nghiệp. Mức lương trên là mức lương cơ bản, ngoài ra trong hệ thống tiền lương còn có các chế độ phụ cấp khác như: + Phụ cấp độc hại nguy hểm: áp dụng đối với những công việc làm độc hại, nguy hiểm . 34 + Phụ cấp khu vực: áp dụng với những nơi hẻo lánh xa xôi có nhiếu khó khăn, có khí hậu xấu .. + Phụ cấp trách nhiệm: áp dụng đối với những công việc đồi hỏi trách nhiệm cao. + Phụ cấp đêm: áp dụng đối với lao động làm việc nhiều hơn so với số giờ quy định của nhà nước. b) Kế hoạch cung cấp vật tư Nhiệm vụ : Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch cung cấp vật tư là phải giữ nguyên vật liệu ở mức hợp lý và tiếp nhận hay sản xuất của giá trị này vào thời gian thích hợp. Nội dung kế hoạch cung cấp vật tư: - Xác định mức tiêu dùng nguyên vật liệu: Định mức tiêu dùng nguyên vật liệu là lượng vật tư tiêu hao lớn nhất cho một lao động hay một nhóm người lao động hoàn thành công việc sản xuất một chi tiết, một sản phẩm hay một khối lượng công việc nào đó trong điều kiện về kinh tế, kỹ thuật và tổ chức nhất định. Cơ cấu của định mức tiêu dùng nguyên vật liệu: + Phần tiêu dùng thuần tuý: là phần tiêu hao vật tư để cấu thành nên thực thể của sản phẩm, nó phụ thuộc vào khâu thiết kế của sản phẩm. + Phần tổn thất mang tính công nghệ: Đây là phần tổn thất không hoặc khó có thể tránh khỏi trong quá trình sản xuất. Phần tổn thất này có thể sử dụng lại được thì có thể sử dụng cho sản xuất chính hoặc sản xuất phụ. + Phần tổn thất do công tác quản lý: là tổn thất xảy ra trong trường hợp công tác quản lý kém. - Xác định nguyên vật liệu cần dùng: Lượng vật liệu cần dùng được tính toán cụ thể cho từng loại theo quy cách cho toàn của doanh nghiệp. Khi tính toán phải dựa trên cơ sở định mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho từng sản phẩm, đặc điểm kinh tế - kỹ thuật cho doanh nghiệp và vận dụng phương pháp tính toán thích hợp. - Xác định lượng nguyên vật liệu dự trữ: Lượng nguyên vật liệu dự trữ là lượng nguyên vật liệu tồn kho cần thiết được quy định trong kỳ kế hoạch để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành liên tục. Căn cứ vào tính chất, công dụng, nguyên vật liệu dự trữ chia thành 3 loại: dự trữ thường xuyên, dự trữ bảo hiểm, dự trữ theo mùa. + Dự trữ thường xuyên: Là lượng nguyên vật liệu cần thiết tối thiểu để đảm bảo cho sản xuất tiến hành bình thường giữa hai lần mua nguyên liệu. 35 + Dự trữ bảo hiểm: là lượng nguyên vật liệu cần thiết cho sản xuất được tiến hành bình thường khi dự trữ thường xuyên không đảm bảo cho những bất trắc xảy ra. + Dự trữ theo mùa: trong thực tế có những loại nguyên vật liệu chỉ mua được theo mùa, hoặc cũng những loại nguyên vật liệu vận chuyển bằng đường thủy, mùa mưa không vận chuyển được thì cần phải vận chuyển theo mùa. - Xác định lượng nguyên vật liệu cần mua: Để cho quá trình sản phẩm được tiến hành liên tục và việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả tốt thì doanh nghiệp phải tính lượng nguyên vật liệu cần mua trong năm. Lượng nguyên vật liệu cần mua phụ thuộc vào lượng vật liệu dự trữ đầu kỳ, lượng nguyên vật liệu cần dùng và lượng dự trữ cuối kỳ. Vc = Vcd + Vd2 – Vd1 (5.1) Trong đó: Vc: lượng nguyên vật liệu cần mua Vcd: lượng nguyên vật liệu cần dùng Vd1: lượng nguyên vật liệu dự trữ đầu kỳ Vd2: lượng nguyên vật liệu dự trữ cuối kỳ - Tổ chức thu mua và tiêp nhận nguyên vật liệu : Tổ chức thu mua nguyên vật liệu là việc mà bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào cũng phải thực hiện đúng. Dựa vào kế hoạch thu mua từ đó phòng vật tư tiến hành tổ chức thu mua để đảm bảo tiến bộ sản xuất của doanh nghiệp. Tổ chức tiếp nhận là bước chuyển giao trách nhiệm giữa bộ phận mua vận chuyển cho bộ phận quản lý nguyên vật liệu trong nội bộ doanh nghiệp. Tổ chức tiếp nhận tốt sẽ tạo điều kiện cho thủ kho nắm chắc số lượng, chất lượng và chủng loại nguyên vật liệu, kiệp thời phát hiện tình trạng của nguyên vật liệu, hạn chế hiện tượng nhằm lẫn tham ô, thiếu trách nhiệm có thể xảy ra. - Tổ chức bảo quản nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, việc bảo quản nguyên vật liệu không bị hư hỏng, kém chất lượng trước khi đưa vào sản xuất là một nhiệm vụ quan trọng cần phải thực hiện tốt. Trong doanh nghiệp có nhiều loại nguyên vật liệu, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác nhau, vì vậy cần có nhiều loại kho khác nhau để phù hợp với từng loại đối tượng dự trữ. - Tổ chức cấp phát nguyên vật liệu: + Cấp khác theo nhu cầu của các bộ phận sản xuất: theo hình thức này việc cấp phát chủ yếu dựa vào yêu cầu của các phân xưởng và bộ phận sản xuất gửi lên phòng vật tư. Dựa vào yêu cầu đó, phòng vật tư cấp phát cho các bộ phận sản xuất lên kho nhận nguyên vật liệu. 36 + Cấp phát theo định mức: căn cứ vào mức tiêu dùng nguyên vật liệu, căn cứ vào số lượng và chủng loại sản phẩm đã được xác định trong kế hoạch tiến bộ sản xuất, phòng vật tư lập phiếu cấp phát định mức giao cho các bộ phận sản xuất. Căn cứ vào phiếu hạn định mức, bộ phận quản lý kho chuẩn bị và định kỳ cấp theo số lượng ghi trong phiếu. Trường hợp lượng vật tư nhận vào không đủ cho sản xuất thì bộ phận sử dụng vật tư sẽ làm đề nghị để lãnh đạo doanh nghiệp quyết định. -Tổ chức thanh quyết toán vật tư: Thực chất của việc thanh quyết toán là đánh giá xem việc sử dụng vật tư tiết kiệm hay lãng phí để từ đó đưa ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục kịp thời. Bởi vậy, xét về mặc nội dung thì thanh quyết toán chỉ rõ nội dung sau: + Lượng nguyên vật liệu nhận trong tháng hoặc quý. + Lượng nguyên vật liệu đã được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm chính. + Lượng nguyên vật liệu đã được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm, phế phẩm + Lượng nguyên vật liệu đang còn tồn đọng trên dây chuyền sản xuất - Tổ chức thu hồi phế liệu, phế phẩm: Về mặc nguyên tắc, mọi phế liệu, phế phẩm phát sinh trong quá trình sản xuất đều phải được thu hồi. Việc thu hồi phế phẩm không chỉ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tận dụng lại để tạo ra các sản phẩm chính hoặc sản phẩm phụ. Mặt khác, nó còn góp phần nâng cao ý thức trong việc sử dụng vật tư của các bộ phận sản xuất qua các sản phẩm phụ đồng thời góp phần nâng cao trách nhiệm trong việc sử dụng vật tư của các bộ phận sản xuất và đảm bảo gìn giữ vệ sinh môi trường. c) Kế hoạch giá thành sản phẩm Ý nghĩa của kế hoạch giá thành sản phẩm: Trong một doanh nghiệp việc tính được giá thành sản phẩm hoặc dịch vụ rất quan trọng. Tính được giá thành sẽ cho phép doanh nghiệp có một chiến lược về giá và kiểm soát được về lợi nhuận để sản phẩm mang tính cạnh tranh cao mà vẫn có lãi. Ngoài ra biết được các yếu tố cấu thành trong giá thành sẽ cho phép doanh nghiệp đề ra được những biện pháp tiết kiệm cụ thể cũng như tìm ra các “nút cổ chai” làm giảm năng suất chung của cả dây chuyền sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ. Nội dung của kế hoạch giá thành sản phẩm: Việc tính giá thành sản phẩm theo từng lô sản xuất là sự vận dụng linh hoạt theo phương pháp xác định chi phí theo công việc. Các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm có quy trình công nghệ sản xuất theo lô và kết thúc. Hoàn chỉnh một lô sản xuất mới, mỗi lô sản xuất đòi hỏi sự theo dõi nghiêm ngặt về các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như định mức nguyên vật liệu. Chính vì vậy, nhằm tăng 37 cường việc kiểm soát chi phi sản xuất trong các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm, cần thiết phải tính giá thành sản phẩm theo từng lô sản xuất. Với đối tượng tính giá thành là từng lô sản xuất, chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ sẽ là tổng chi phí tập hợp được cho các lô sản xuất còn đang làm dang dở. Để phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm theo lô sản xuất, kế toán tiến hành lập phiếu tính giá thành lô sản xuất. Phiếu tính giá thành lô sản xuất sẽ tổng hợp và cung cấp các thông tin chi tiết về các chi phí sản xuất trực tiếp cũng như chi phí chung phân bổ cho từng lô sản xuất. Để có thể tính được việc tính giá thành cho từng lô sản xuất như đã trình bày ở trên, các khoảng trích như lương của công nhân sản xuất cần được hoạch toán tách biệt khỏi chi phí nhân công trực tiếp, bằng cách hoạch toán vào khoảng mục chi phí sản xuất chung. Bên cạnh đó, do trong kỳ, chi phí sản xuất chung được phân bổ cho từng lô sản xuất theo tỉ lệ ước tính từ đầu kỳ, nên thường sẽ phát sinh phần chênh lệch giữa chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh với phần chi phí sản xuất chung đã phân bổ. Phần chênh lệch này sẽ được hoạch toán vào tài khoản 632 (nếu nhỏ) hoặc phân bổ cho các tài khoản 632, 155 và 154 (nếu lớn). Quá trình hoạch toán này được khái quát qua sơ đồ (Bảng 5.1) sau: 38 Bảng 5.1. PHIẾU TÍNH GIÁ THÀNH TỪNG LÔ SẢN PHẨM Tổ ng C PS X C hu ng kh ác Ph ân b ổ Tỷ lệ p hâ n B ổ C PS X ch un g C hi p hí S X c hu ng k há c Số g iờ M áy (g iờ /đ ) N gà y bắ t đ àu : N gà y ho àn th àn h: Sả n xu ất c hu ng C hi p hí K iể m ng hi ệm T ổn g G iá th àn h đơ n vị Th àn h Ti ền Đ ơn gi á Số g iờ La o Đ ộn g N hâ n cô ng tr ực ti ếp C N T ổn g T ổn g gi á th àn h Th àn h Ti ền Đ ơn gi á K hố i Lư ợn g Tê n N V L N gà y M ã số : Tê n sả n ph ẩm : Số lư ợn g sả n ph ẩm th ức tế : N gu yê n vậ t l iệ u tr ực ti ếp Ph iế u xu ất kh o Số T ổn g T ổn g hợ p ch i p hí lô sả n xu ất C hi h pí N V LT T C hi p hí N C TT C hi p hi SX C C hi p hí k iể m n gh iệ m T ổn g 39 Điều kiện thực hiện: Để có thể áp dụng được phương pháp xác định chi phí thông thường và tính giá thành cho từng lô sản xuất như trên, các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm cần tiến hành phân loại chi phí theo mối quan hệ với mức độ hoạt động cũng như khả năng quy nạp chi phí cho các đối tương chịu phí, trên cơ sở đó sẽ tiến hành lập dự toán chi phí. Dự toán chi phí nên được lập tổng quát cho toàn doanh nghiệp trong toàn một kỳ cũng như cần cụ thể cho từng lô sản xuất, đó sẽ là một trong những cơ sở để doanh nghiệp đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí. Có thể nhận thấy những đề xuất đổi mới phương pháp tính giá thành sản xuất sản phẩm trong các doanh nghiệp sản xuất dược phẩm như trên sẽ làm tăng đáng kể khối lượng công việc kế toán so với hiện tại. Nhằm nâng cao tính khả thi của các đề xuất đổi mới này, cần có các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi và giảm nhẹ khối lượng công việc cho bộ máy kế toán. Trên phương tiện lý luận, các phương pháp và kỹ thuật kế toán quản trị nội bộ không nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc của kế toán tài chính. Tuy nhiên, nếu để tồn tại song song hai phương pháp kế toán: phương pháp chi phí thực tế như hiện tại để phục vụ mục tiêu của hệ thống kế toán tài chính và phương pháp chi phí thông thường như đề xuất để phục vụ mục tiêu của kế toán quản trị chi phí thì không khả thi do quá cồng kềnh. Hơn nữa, cần khẳng định rằng, việc tính giá thành theo phương pháp chi phí thông thường không vi phạm các chuẩn mực kế toán về hàng tồn kho cũng như thông tin trên các báo tài chính. Chính vì vậy, Bộ Tài Chính (Vụ Chế Độ kế Toán và Kiểm toán, Tổng Cục Thuế) cần có sự chấp nhận chính thức bằng văn bản đối với phương pháp chi phí thông thường trong hê thống kế toán tài chính cũng như kế toán thuế nhằm giảm bớt khó khăn của các doanh nghiệp khi xây dựng và vận hành hệ thống kế toán quản trị chi phí. Bên cạnh đó, việc hạch toán các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn chi công nhân sản xuất, theo các hướng dẫn của kê toán tài chính hiện nay là tính vào chi phí nhân công trực tiếp, nhưng để có thể tính được giá thàn cho từng lô sản xuất như đề xuất thì sẽ gây khó khăn cho công tác kê toán tại đơn vị. Tuy nhiên, việc hoạch toán các khoản này vào chi phí sản xuất chung cũng không phải là vi phạm các nguyên tắc và chuẩn mục kế toán và cũng là hệ thống kế toán của nhiều nước áp dụng, như tại Mỹ và Anh. Hoặc tại Việt Nam, các đơn vị xây lắp cũng được phép hạch toán các khoản này vào chi phí sản xuất chung cũng xuất phát từ thực tế lập dự án chi phí cho các công trình. Vì vậy, Bộ Tài Chính cũng nên cho phép các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dược phẩm hạch toán các khoản trích Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và Công đoàn cho công nhân vào chi phí sản xuất chung nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất được phát huy thế mạnh và giảm bớt khó khăn cũng như thời gian trong công tác quản lý và điều hành. Các biện pháp hạ giá thành sản phẩm: Hiện nay, để có thể tăng sức cạnh tranh trên thị trường, Công ty phải có các biện pháp hạ giá thành sản phẩm bằng cách chọn lọc các nhà cung ứng vật tư, nguyên liệu đầu vào với chất lượng phù hợp, giá cả hợp lý, đảm bảo được 40 thời gian giao nhận. Ngoài ra, mức tiêu hao vật tư trong Công ty còn lớn làm ảnh hưởng đến giá thành. Công ty áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 2001: 2000, quản lý chặt chẽ từ khâu nguyên liệu đầu vào đến khi ra thành sản phẩm và bán hàng. Ngoài ra, để giảm bớt mức tiêu hao và hạ giá thành sản phẩm, Công ty chủ trương đẩy mạnh công tác thống kê, xác định công nghệ sản xuất phù hợp với yêu cầu của khách hàng và năng lực sản xuất của công ty. 4.3. Công tác quản lý kế hoạch 4.3.1. Kế hoạch sản xuất sản phẩm a. Nhiệm vụ của kế hoạch sản xuất sản phẩm Sản xuất sản phẩm chủ yếu liên quan đến thiết kế sản phẩm, đúng hơn là thiết kế để chế tạo, do đó cần phải quan tâm đến khâu này. Giai đoạn sản xuất sản phẩm thường bắt đầu sau khi có ý tưởng về sản phẩm. Trong quá trình thiết kế sản phẩm người ta xác định các yêu cầu đặc trưng của sản phẩm, kết cấu, hình dáng, cũng như về chất lượng yêu cầu của nó. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của kế hoạch sản xuất sản phẩm là liên kết chặt chẽ tất cả các yếu tố liên quan trong quá trình sản xuất sản phẩm để tạo ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu của khách hàng. b. Nội dung của kế hoạch sản xuất sản phẩm - Thiết kế các bộ phận: Là cụ thể hóa các ý tưởng, các mô hình để hình thành từ bộ phận nguyên cứu. Hoạt động này yêu cầu kiến thức chuyên môn sâu. Thiết kế sản phẩm phải đảm bảo cho sản phẩm có tính công nghệ cao và dễ dàng sử dụng, bảo trì. Tính công nghệ của sản phẩm là sự phù hợp giữa thiết kế và sản xuất. Sản phẩm có tính công nghệ cao là sản phẩm dễ chế tạo, đảm bảo chất lượng ổn định, chi phí thấp. Trong thiết kế còn có yêu cầu nữa là thiết kế sản phẩm phải dễ tháo lắp. Các sản phẩm thiết kế dễ tháo lắp được đơn giản hóa để dễ tháo chúng thành những thành phần riêng rẽ, phân loại và tái sinh. Ngoài ra sản phẩm phải dễ dàng sửa chữa bảo dưỡng. - Chuẩn bị các đặc điểm kỹ thuật: Sau khi thiết kế sản phẩm phải chuẩn bị bảng các đặc điểm kỹ thuật giao cho bộ phận sản xuất. Bảng này chỉ rõ các yêu cầu về sản phẩm cuối cùng, phạm vi và các qui trình sẽ sử dụng. Bảng liệt kê vật tư, chi tiết và khối lượng cần thiết cũng phải được chuyển cho bộ phận cung ứng để xúc tiến các đơn hàng với nhà cung cấp. Các bản vẽ kỹ thụât các yêu cầu quan trọng sẽ được giao cho các bộ phận sản xuất và các đơn vị liên quan. 41 4.3.2. Kế hoạch, biện pháp tổ chức kỹ thuật a. Ý nghĩa Quản lý kỹ thuật thực chất là tổng hợp các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng của quá trình sản xuất. Mục tiêu của quản lý kỹ thuật là không ngừng cải tiến sản phẩm, phát triển sản phẩm mới đảm bảo cho sản xuất liên tục, an toàn, đạt hiệu quả cao. Trong môi trường cạnh tranh như ngày nay, một công ty muốn phát triển cần phải có những cố gắng vượt bậc để không chỉ ngang bằng mà phải vượt xa đối thủ. Sự vượt trội này phải được khẳng định bằng hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Cụ thể là phải cung cấp sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, hệ thống sản xuất phải linh hoạt, có độ tin cậy cao, không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, kiểm soát chặt chẽ ảnh hưởng của môi trường. Hoạt động quản lý kỹ thuật cho phép công ty có thể phát huy nhiều nhất các lực lượng then chốt nâng cao hiệu quả quá trình kinh doanh. Sự biến đổi nhanh chóng của khoa học – công nghệ là một thách thức đối với quản lý kỹ thuật của tất cả các công ty, doanh nghiệp. Nó đòi hỏi luôn tìm ra các sản phẩm mới, sản phẩm cải tiến, nghiên cứu ứng dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, khai thác tốt nhất cơ sở vật chất kỹ thuật của hệ thống. Trong lĩnh vực quản lý kỹ thuật bao gồm sự tham gia của nhiều người có trình độ học vấn cao trong một tổ chức. Sự tham gia của những người này là rất cần thiết cho hoạt động quản lý kỹ thuật, song nó lại đòi hỏi cách điều hành đặc biệt, nói chung là, cần phải có một phong cách dân chủ, tự do phát huy yếu tố sáng tạo hơn là những nguyên tắc cứng nhắc. quản lý kỹ thuật tốt cho phép lôi kéo tập thể những người có trình độ, năng động, sáng tạo vào hoạt động nguyên cứu phát triển kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hóa sản xuất, khơi dậy động lực phát triển mạnh mẽ cho sự phát triển. b. Nhiệm vụ kế hoạch, biện pháp tổ chức kỹ thuật Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình kết hợp một cách khoa học ba yếu tố: sức lao động, công cụ lao động và đối tượng lao động. Đó là quá trình thống nhất hữu cơ giữa mặt vật chất – kỹ thuật với tổ chức quản lý sản xuất. Để đảm bảo cho sự kết hợp đó và đảm bảo sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội, trong quá trình sản xuất cần phải tuân theo một hệ thống, các yêu cầu kỹ thuật, các tiêu chuẩn kỹ thuật trong việc sử dụng các công cụ lao động, nguyên vật liệu, và ngay cả người lao động áp dụng các phương pháp công nghệ cũng phải nghiêm ngặt chấp hành các qui chế kỹ thuật nhất định. Như vậy, mọi quá trình sản xuất phải được quản lý chặt chẽ về mặt kỹ thuật là bộ phận quan trọng của công tác quản lý sản xuất trong doanh nghiệp. c. Nội dung của kế hoạch, biện pháp tổ chức kỹ thuật Công tác quản lý kỹ thuật trong doanh nghiệp bao quát một phạm vi rất rộng từ việc chuẩn bị kỹ thuật sản xuất đến khi xuất xưởng sản phẩm và không chỉ giới hạn trong phạm vi trước mắt mà còn phải chú ý tới sản xuất lâu dài. Tùy 42 theo tính chất của các loại hình doanh nghiệp mà công tác quản lý kỹ thuật có những đặc điểm và nội dung cụ thể khác nhau như: công tác quản lý kỹ thuật cho sản xuất, công tác tiêu chuẩn hóa, công tác đo lường và quản lý đo lường, công tác quản lý chất lượng sản phẩm, công tác quản lý thiết bị máy móc, công tác quản lý hồ sơ, tài liệu kỹ thuật 4.4. Quy trình, quy phạm kỹ thuật Quy trình, Quy phạm kỹ thuật: + Quy phạm kỹ thuật là những qui định của Nhà nước, Bộ, Tổng cục về các nguyên tắc mang tính chuẩn mực và những điều kiện kỹ thuật bắt buộc phải được tôn trọng khi tiến hành kế hoạch khảo sát, thăm dò, thiết kế, thi công, vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị máy móc. + Quy trình kỹ thuật còn nhằm cụ thể hóa quy phạm kỹ thuật và xác định rõ ràng, cụ thể trình tự về mặt kỹ thuật của quá trình khai thác, chế biến sản phẩm. Công tác tiêu chuẩn hóa: + Công tác tiêu chuẩn hóa là những quy định chỉ để áp dụng thống nhất trong phạm vi một doanh nghiệp, một nghành, một địa phương, một nước, thậm chí cho cả nước về những thông số kỹ thuật (cỡ, loại, kích thước) các tiêu chuẩn đặc trưng cho chất lượng sản phẩm và các mặt có liên quan như: phương pháp thử, ghi nhãn hiệu, bảo quản hàng hóa 4.5. Máy móc thiết bị trong sản xuất 4.5.1. Chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất Chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất là sự tổng hợp các phương án, các biện pháp có liên quan mật thiết với nhau về cải tiến sản phẩm cũ, tự động hóa quá trình sản xuất, áp dụng các phương pháp công nghệ và tổ chức sản xuất tiên tiến mang lại hiệu quả kinh tế cao. + Lựa chọn phương án sản phẩm và thiết kế sản phẩm + Chuẩn bị phương án công nghệ cho sản xuất 4.5.2. Quản lý chất lượng sản phẩm Để quản lý chất lượng có hiệu quả thì cần phải nắm rõ các hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm của quốc tế, đồng thời phải nắm rõ các phương pháp đánh giá chất lượng sản phẩm để có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng. Cần phải chú ý khi xem xét đánh giá chất lượng sản phẩm: + Khi xét chất lượng sản phẩm không chỉ xét một đặc tính nào đó một cách riêng rẽ mà phải xét trong mối quan hệ với các đặc tính khác trong một hệ thống. 43 + Chất lượng sản phẩm cần phải xem xét trong cả một quá trình nhiều khâu. + Chất lượng sản phẩm không mang tính vĩnh viễn mà tùy theo từng thời điểm mà cách nhìn nhận chất lượng của sản phẩm là khác nhau. + Chất lượng của sản phẩm được thể hiện ở truyền thống tiêu dùng 4.5.3. Quản lý máy móc thiết bị trong doanh nghiệp Máy móc thiết bị đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất sản phẩm, vì vậy cần phải tiến hành quản lý máy móc thiết bị hợp lý. Muốn vậy, cần phải: + Nắm chắc số lượng máy móc thiết bị hiện có, huy động tối đa khả năng máy móc thiết bị trong sản xuất. + Tổ chức thực hiện nghiêm ngặt các quy trình, các nội dung vận hành, bảo quản và tu sửa máy móc thiết bị. + Thường xuyên kiểm tra tình trạng máy móc thiết bị, có biện pháp khắc phục kịp thời những sai soát trong sử dụng, sửa chữa, bảo quản máy móc thiết bị. + Tổ chức sửa chữa máy móc thiết bị theo đúng tiến độ sửa chữa dự phòng. Tính hiệu quả kinh tế Tính kinh tế của việc tổ chức kỹ thuật sẽ đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích nhất định nếu doanh nghiệp tổ chức tốt công tác này. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải nắm rõ các quy phạm và hệ thống tiêu chuẩn áp dụng cho hệ thống sản xuất của doanh nghiệp đồng thời cần phải thực hiện tốt khâu quản lý máy móc thiết bị, thường xuyên kiểm tra, bảo dưỡng máy móc thiết bị định kỳ để kịp thời phát hiện ra những sai sót mà có biện pháp phòng tránh, khắc phục, để từ đó giúp cho doanh nghiệp tạo ra được những sản phẩm có chất lượng tốt thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, nâng cao uy tín cho doanh nghiệp, vấn đề uy tín đóng vai trò rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp để có thể tồn tại và phát triển. Ngoài ra, nếu quản lý tốt công tác tổ chức quản lý thì sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. 4.6. Trách nhiệm của người lao động đối với việc thực hiện các quy trình quy phạm và chăm sóc bảo dưỡng máy móc, thiết bị Người lao động phải tuân thủ các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động và nội quy lao động của doanh nghiệp. Mọi tổ chức và cá nhân có liên quan đến lao động, sản xuất phải tuân theo pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động và về bảo vệ môi trường. 44 CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1) Trình bày ý nghĩa của kế hoạch sản xuất 2) Nêu các dạng kế hoạch sản xuất và công tác quản lý kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. 3) Nêu quy trình, quy phạm kỹ thuật và trách nhiệm của người lao động đối với việc thực hiện các quy trình và chăm sóc bảo dưỡng máy móc thiết bị. 4) Nêu phương pháp quản lý máy móc tiết bị trong sản xuất. 45 Chương 5. CÁCH THỨC ĐÁNH GIÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Giới thiệu Định mức lao động là việc xác định số lượng công việc hay số sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian nhất định. Định mức lao động có liên quan đến lợi nhuận của đơn vị và thu nhập của người lao động do đó định mức kỹ thuật lao động phải chính xác, phù hợp với trình độ của người lao động và năng lực thiết bị. Tiền lương là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động theo sự thoả thuận, sau khi người lao động đã hoàn thành một khối lượng công việc hoặc tham gia lao động trong một thời gian nào đó. Có hai hình thức trả lương; trả lương theo thời gian và trả lương theo sản phẩm. Kiểm tra chất lượng sản phẩm là một khâu trong quá trình sản xuất nhằm xác định bằng những thông số có thể đo được hoặc có thể so sánh được mức độ đáp ứng những nhu cầu kỹ thuật, mỹ thuật nhất định được đặt ra. 5.1. Thời gian lao động Là số thời gian lao động cần thiết quy định cho một người hay một nhóm người có trình độ lao động thích hộp hoàn thành một khối lượng công việc đúng tiêu chuẩn chất lượng, trong điều kiện sản xuất hợp lý cụ thể. Phân loại thời gian. Chi phí thời gian trong một ngày hoặc một ca làm việc được chia ra: thời gian làm việc và thời gian nghỉ. Thời gian làm việc được chia ra: + Thời gian chuẩn bị - kết thúc. + Thời gian cơ bản (thời gian máy). + Thời gian phụ. + Thời gian phục vụ chỗ làm việc. Thời gian nghỉ được chia ra. + thời gian nghỉ không phụ thuộc vào công nhân. + Thời gian nghỉ phụ thuộc vào công nhân. Thời gian chuẩn bị - kết thúc là thời gian cần thiết để công nhân làm quen với công việc, chuẩn bị chỗ làm việc và thời gian thực hiện các động tác để kết thúc công việc. Thời gian cơ bản là thời gian cần thiết để thực hiện quy trình công nghệ nhằm thay đổi hình dạng, kích thước và tính chất cơ lý của vật liệu. 46 Thời gian phụ là thời gian cần thiết để gá và tháo chi tiết, đưa dao đến bề mặt gia công, lùi dao ra khi gia công xong, mở máy, đóng máy, kiểm tra chi tiết Thời gian phụ có thể trùng với thời gian máy (khi máy đang làm việc thì công nhân có thể kiểm tra chi tiết). Thời gian nghỉ không phụ thuộc vào công nhân được chia ra: thời gian nghỉ công nghệ (thời gian này do quy trình công nghệ tạo ra. Ví dụ: khi tiện máy chạy tự động, công nhân đứng chờ) và thời giản nghỉ tổ chức (phải chờ để cung cấp vật liệu và dụng cụ). Thời gian nghỉ phụ thuộc vào công nhân được chia ra: thời gian nghỉ do nhu cầu cá nhân và thời gian nghỉ vì không chấp hành luật lao động (đi làm muộn, ăn trưa sớm hơn giờ quy định, sau ăn trưa vào công việc chậm hơn giờ quy định) 5.2. Công tác định mức lao động 5.2.1. Khái niệm về công tác định mức Định mức lao động là việc xác định số lượng công việc hay số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian nhất định hoặc lượng thời gian hao phí để hoàn thành một đơn vị công việc hay sản phẩm. Định mức thời gian Là số thời gian lao động cần thiết quy định cho một người hay một nhóm người có trình độ lao động thích hộp hoàn thành một khối lượng công việc đúng tiêu chuẩn chất lượng, trong điều kiện sản xuất hợp lý cụ thể. Định mức sản lượng Là số lượng công việc hoặc số sản phẩm mà một người hay một nhóm người lao động có trình độ thích hợp phải hoàn thành trong một đơn vị thời gian, trong điều kiện sản xuất hợp lý, cụ thể chất lượng quy định. 5.2.2. Ý nghĩa và nội dung công tác định mức 5.2.2.1. Ý nghĩa của công tác định mức - Là điều kiện để tăng năng xuất lao động. - Là cơ sở để lập kế hoạch lao động và tổ chức lao động hàng ngày. - Định mức lao động, định mức hao phí vật tư, tiền vốn là cơ sở xây dựng kế hoạch sản xuất kỹ thuật tài chính trong năm. - Mức lao động cùng việc sắp xếp bậc công việc là căn cứ để trả công cho người lao động. 5.2.2.2. Nội dung của công tác định mức - Về tổ chức công tác lao động: Để thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, yêu cầu của công tác định mức lao động, doanh nghiệp có trách nhiệm củng cố và chấn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy và nhân sự làm công tác lao động - tiền lương nói chung và công tác định mức lao 47 động nói riêng, có đủ điều kiện chức trách có đủ trình độ và năng lực để triển khai kịp thời việc xây dựng định mức lao động, quản lý và áp dụng định mức theo hướng dẫn - Về xây dựng định mức lao động: + Giám đốc (tổng giám đốc) doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo việc xây dựng, quản lý, áp dụng hệ thống định mức lao động trong doanh nghiệp. + Đối với doanh nghiệp đã có định mức lao động thì căn cứ vào hướng dẫn tại thông tư này chấn chỉnh lai tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, rà soát định mức lao động hiện có để điều chỉnh lại cho phù hợp. + Để đảm bảo định mức lao động trước khi ban hành và đăng ký cơ quan có thẩm quyền, doanh nghiệp phải tổ chức áp dụng thử thách các định mức lao động mới xây dựng hoặc mới điều chỉnh ở một số đơn vị, bộ phận và người lao động trong thời gian thích hợp tuỳ theo độ phức tạp của mức lao động hoặc điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, sau đó xem xét và điều chỉnh cho phù hợp trứơc khi công bố áp dụng rộng rãi trong toàn dây chuyền sản xuất, kinh doanh hoặc toàn bộ doanh nghiệp. + Nếu định mức lao động thực tế hiện nhỏ hơn 95% mức lao động được giao thì phải xem xét, điều chỉnh hạ định mức được giao. + Nếu mức lao động thực tế hiện cao hơn 120% mức lao động được giao thì phải xem xét, điều chỉnh tăng định mức được giao. + Trong quá trình xây dựng và áp dụng thử hệ thống định mức lao động phải có đại diện của tổ chức công đoàn cùng cấp tham gia để đảm bảo việc xây dựng định mức lao động khách quan hợp lý. + Hàng năm tổ chức đánh giá tình hình thực...ầu người tiêu dùng. Sản phẩm của doanh nghiệp nên được hiểu là một hệ thống thống nhất cac yếu tố có liên hệ chặc chẽ với nhau nhằm thỏa mã nhu cầu của khách hàng bao gồm sản phẩm vật chất (hiện vật), bao bì, nhãn hiệu hàng hóa, dịch vụ, cách thức bán hàng Sản phẩm mà người tiêu dùng nhận được bao gồm hàng hóa cứng (hàng hóa hiện vật) và hàng hóa mềm (dịch vụ). Từ quan điểm này, cho thấy chỉ cần một sự thay đổi một trong những yếu tố trên như có thêm công năng mới hoặc bao bì mới, dịch vụ mới Có thể thấy rõ điều này qua sản phẩm bột giặt OMO, nhờ thường xuyên thay đổi bao bì mà nó luôn được làm mới trong mắt người tiêu dùng. Có thể phát triển sản phẩm theo hai hướng sau: * Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn: + Phát triển sản phẩm mới hoàn toàn theo công năng và giá trị sử dụng, điều này đòi hỏi trình độ kỹ thuật công nghệ của doanh nghiệp. Kinh doanh sản phẩm mới đòi hỏi phải có sự đầu tư mới và đương đầu với những thách thức mới, sảnphẩm mới có thể được đưa vào thị trường mới hoặc cho thị trường hiện tại với việc chia sẻ kênh phân phôi, tiếp thị hoặc thương hiệu. 57 + Phát triển thế hệ sản phẩm mới theo ý đồ và thiết kế mới. Đối với Doanh nghiệp thì các sản phẩm này có ngưồn gốc từ nhà sản xuất, vì vậy khi đưa sản phẩm ra thị trường cần tìm kiếm đánh giá và lựa chọn kỹ để đưa ra thì trường. * Cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, thay thế sản phẩm hiện có, bao gồm: + Cải tiến chất lượng, tạo ra nhiều loại sản phẩm với phẩm cấp, chất lượng khác nhau. + Cải tiến kiểu dáng sản phẩm như thay đổi bao bì, nhãn hiệu, hình ảnh mới, nhằm làm thay đổi hình dáng, kích thước của sản phẩm để tạo ra sự khác biệt. + Thay đổi tính năng sản phẩm, bảo đảm sử dụng thuận tiện, an toàn hơn. + Tìm ra giá trị sử dụng mới của sản phẩm để tăng thêm khách hàng sử dụng. + Đổi mới và hoàn thiện dịch vụ liên quan đến sản phẩm như phương thức bán hàng, thanh toán, bảo hành, vận chuyển và sửa chữa nhằm thỏa mãn tôt nhất nhu cầu của khách hàng. Đây là hướng quan trọng để tạo sự khác biệt so với sản phẩm cùng loại trên thị trường. Các sản phẩm mới, sản phẩm thay thế có thể đưa vào các dạng thị trường khác nhau cũng tạo sự đổi mới, điều này được thể hiện cụ thể trên sơ đồ sau: 6.2.2. Phát triển thị trường về khách hàng Theo quan điểm kinh doanh hiện đại là nhằm vào nhu cầu của khách hàng để sắp xếp tiềm lực và mọi cố gắng của doanh nghiệp tìm ra sự thỏa mãn của khach hàng. Thị trường của doanh nghiệp thường là tập hợp các khách hàng rất đa dạng khác nhau về lứa tuổi, giới tính, thu nhập, sở thích tiêu dùng nhưng có thể phân chia thành các nhóm khác nhau. Mỗi nhóm có đặc trưng riêng, phản ánh quá trình mua sắm của họ. Có thể phân chia thành các nhóm sau: - Căn cứ vào hành vi tiêu thụ: khách hàng là người tiêu dùng cuối cùng và người tiêu thụ trung gian. Trong đó, người tiêu thụ cuối cùng mua sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu chính bản thân, còn người tiêu thụ trung gian là bất kỳ người mua nào giữa các nhà sản xuất và người tiêu thụ cuối cùng. Người trung gian có thể là nhà sản xuất, nhà buôn Họ mua sản phẩm không phải để tiêu dùng mà để bán lại nhằm mục đích kiếm lời. 58 - Căn cứ vào khối lượng hàng hóa mua: Khách hàng mua với khối lượng lớn và khách hàng mua với khối lượng nhỏ. Về mặt kinh tế, cần phải khuyến khích những người mua với khối lượng lớn, về mặt hình thức quan hệ không được đối xử phân biệt giữa hai loại khách hàng này. - Căn cứ vào phạm vi địa lý: khách hàng trong nước và khách hàng ngoài nước. Khách hàng trong nước thể hiện quy mô của thị trường tiêu thụ nội địa, khách hàng ngoài nước thể hiện mối quan hệ đối ngoại và phạm vi của thị trường mà doanh nghiệp tham gia. - Căn cứ vào mối quan hệ khách hàng – doanh nghiệp: khách hàng truyền thống và khách hàng mới. Khách hàng truyền thống là những khách hàng có mối quan hệ thường xuyên, liên tục với doanh nghiệp. Họ có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự phát triển ổn định của doạnh nghiệp. Khách hàng mới là khách hàng lần đầu tiên đến với doanh nghiệp, nếu gây được niềm tin họ sẽ trở thành khách hàng truyền thống. Doanh số tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ở mỗi giai đoạn phụ thuộc vào hai nhhóm: khách hàng mới quen và khách hàng truyền thống, trong đó chi phí để lôi cuốn những khách hàng mới cao hơn chi phí để giữ lại được khách hàng quen. Vì vậy, xét về mặt hiệu quả, việc giữ được khách là quan trọng hơn, khó khăn hơn nhưng cũng không vì thế mà không triển khai marketing giới thiệu để tìm kiếm khách hàng mới. 6.2.2. Phát triển thị trường về phạm vi địa lý (địa bàn sản xuất, kinh doanh) Nhu cầu thị trường đối với một sản phẩm là tổng khối lượng sẽ mua, được mua bởi một nhóm khách hàng đã xác định, trong một vùng xác định, trong một thời điểm và một môi trường xác định. Như vậy, phát triển thị trường của doanh nghiệp không chỉ là là phát triển về sản phẩm, về khách hàng mà cả về mặt không gian (địa lý). Phát triển thị trường về mặt không gian là mở rộng và phát triển thị trường theo lãnh thổ bằng các biện pháp khác nhau. Mở rộng mạng lưới bán hàng của doanh nghiệp: mạng lưới bán hàng là hệ thống các đại lý, cửa hàng, quầy hàng, điểm bán, của doanh nghiệp được bố trí và sắp xếp liên kết với nhau trong hệ thống nhằm tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp. Cần phát triển mạng lưới bán hàng cả chiều rộng và chiều sâu (nâng cao chất lượng phục vụ). Việc phân bổ mạng lưới cần tính đến hiệu quả chung của cả hệ thống, tức là đảm bảo nâng cao năng llực tiêu thụ của từng điểm cũng như của cả hệ thống, tránh sự loại trừ hoặc tiêu diệt nhau, bảo đảm sự vận động hợp lý của sản phẩm, giảm chi phí và rút ngắn thời gian bán hàng. Tại đầu mối giao thông, nơi tập trung dân cư có thể thành lập trung tâm giao dịch hay cửa hàng giới thiệu sản phẩm hoặc chi nhánh của doanh nghiệp nhằm phát triển thị trường. Phát triển thị trường về không gian còn được thực hiện thông qua lựa chọn các kênh phân phối thích hợp. Tùy vào mục tiêu chiến lược bán hàng, các 59 doanh nghiệp có thể quan hệ với người bán lẻ, người bán buôn và cả người trung gian để mở rộng phạm vi bán hàng. 6.3. Tổ chức hội thảo, chuyên đề Tổ chức hội thảo, chuyên đề nhằm mục đích giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; dùng hàng hoa, dịch vụ và tài liệu về hàng hóa để giới thiệu với khách hàng về hàng hóa, dịch vụ đó. Doanh nghiệp có thể tự mình hoặc thuê người khác để tổ chức hội thảo, chuyên đề này. Điều kiện đối với hàng hóa, dịch vụ trưng bày trong hội thảo, chuyên đề: - Là những hàng hóa dịch vụ kinh doanh hợp pháp trên thị trường. - Phải tuân thủ các quy định của pháp luật về chất lượng và ghi nhãn hàng hóa. - Đối với hàng nhập khẩu phải là hàng hóa được phép nhập khẩu vào Việt Nam - Nếu là tạm nhập khẩu để trưng bày phải tái xuất khi kết thúc nhưng không quá 6 tháng kể từ ngày tạm nhập, nếu quá hạn trên phải làm thủ tục gia hạn. Nếu tiêu thụ tại Việt Nam phải tuân thủ cácc quy định đối với hàng nhập khẩu, Luật thương mại còn quy định quyền hạn, trách nhiệm của bện thuê dịch vụ trưng bày và bên cung ứng dịch vụ trưnưg baùu giới thiệu hàng hóa, dịch vụ. Trình tự tổ chức hội thảo, chuyên đề: - Liên hệ với cơ quan tổ chức để tham gia, thỏa thuận về địa điểm tổ chức, trưng bày gian hàng, yêu cầu các điều kiện phục vụ và xác định chi phí tham gia. - Tổ chức họi thảo, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp. Thiết kế phòng hội thảo và gian hàng trưng bày dành cho doanh nghiệp để có thể quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp và hàng hóa một cách tốt nhất. Đây là nhiệm vụ chinh của cán bộ tham gia tổ chức. Phải làm nôir bật ưu thế của hàng hóa, sự khác biệt của nó với khách hàng. Lựa chọn các hình thức quảng bá; sử dụng mẫu hàng, catalog, băng video, tờ rơi hặc tặng mẫu hàng, vật kỷ niệm, - Giao tiếp, đàm phán ký kết hợp đồng mua bán: Phải là người có đủ trách nhiệm, quyền hạn và có quyền quyết định để có thể trả lời câu hỏi của đối tác trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Số lượng hợp đồng ký được, doanh số mua bán của các hợp đồng đã ký là tiêu thức để đánh giá kết quả. Kết thúc hội thảo, chuyên đề cần phải: - Giữ quan hệ với khach hàng sau hội chợ, triển lãm để giải đáp các thắc mắc, các vấn đề phát sinh khi ký kết các hợp đồng. - Đánh giá tổng kết và rút kinh nghiệm cho lần tổ chức sau được tốt hơn. 60 6.4. Lên kế hoạch 6.4.1. Khái niệm Kế hoạch là một nội dung và là một chức năng quan trọng nhất của quản lý. Nó là một quá trình lựa chọn, ấn định những mục tiêu trong tương lai của một tổ chức, của một doanh nghiệp. Kế hoạch là lựa chọn phương pháp tiếp cận hợp lý, biện pháp tốt nhất để thực hiện những mục tiêu đó. Kế hoạch bao gồm việc lựa chọn một đường lối hành động mà mọi bộ phận của một công ty của nó sẽ tuân theo, có nghĩa là xác định trước phải làm gì, làm như thế nào, vào khi nào và ai sẽ làm. Việc làm kế hoạch là bắc một nhip cầu từ trạng thái hiện tại của ta tới chỗ mà chúng ta muốn có trong tương lai. Tất cả những người quản lý đều làm công việc lập kế hoạch. 6.4.2. Ý nghĩa và tầm quan trọng của kế hoạch - Lập kế hoạch nhận diện được các thời cơ kinh doanh trong tương lai; - Kế hoạch cần thiết để có thể ứng phó với những yếu tố bất định, những thay đổi của môi trường bên ngoài và bên trong của một tổ chức hoặc một doanh nghiệp; - Kế hoạch là làm cho các sự việc có thể xảy ra theo dự kiến ban đầu và sẽ không xảy ra khác đi; - Nếu không có kế hoạch thì hành động của con người đi đến chỗ vô mục đích và phó thác may rủi, những yếu tố bất định và thay đổi khiến cho công tác kế hoạch hóa trở thành tất yếu. tương lai thường ít khi chắc chắn, tương lai càng xa, tính bất định càng lớn. Ví dụ, trong tương lai khách hàng có thể hủy bỏ các đơn đặt hàng đã ký kết, có những biến động lớn về tài chính và tiền tệ, giá cả thay đổi, thiên tai đến bất ngờ... Nếu không có kế hoạch cũng như dự tính trước các giải pháp giải quyết những tình huống bất ngờ, các nhà quản lý khó có thể ứng phó được với những tình huống ngẫu nhiên, bất định xảy ra và tổ chức sẽ gặp nhiều khó khăn; - Ngay cả khi tương lai có độ chắc chắn và tin cậy cao thì kế hoạch hóa vẫn là cần thiết, bởi lẽ kế hoạch hóa là tìm ra những giải pháp tốt nhất để đạt được mục tiêu đề ra; - Kế hoạch hóa sẽ chú trọng vào việc thực hiện các mục tiêu, vì kế hoạch hóa bao gồm xác định công việc, phối hợp hoạt động của các bộ phân trong hệ thống nhằm thực hiện mục tiêu chung của toàn hệ thống. Nếu muốn nỗ lực của tập thể có hiệu quả, mọi người cần biết mình phải hoàn thành những nhiệm vụ cụ thể nào; - Kế hoạch hóa sẽ tạo ra hiệu quả kinh tế cao, bởi vì kế hoạch hóa quan tâm đến mục tiêu chung đạt hiệu quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Nếu không có kế hoạch hóa, các đơn vị bộ phận trong hệ thống sẽ hoạt động tự do, tự phát, trùng lặp, gây ra những rối loạn và tốn kém không cần thiết; - Kế hoạch hóa có vai trò to lớn làm cơ sở quan trọng cho công tác kiểm tra và điều chỉnh toàn bộ hoạt động của cả hệ thống nói chung cũng như các bộ phần trong hệ thống nói riêng. 61 6.4.3. Phân loại kế hoạch Hiện nay người ta chia ra 2 loại kế hoạch: - Quản trị gia cao cấp : Kế hoạch chiến lược - Quản trị gia cấp dưới : Kế hoạch tác nghiệp a) Kế hoạch chiến lược: Kế hoạch chiến lược là các chương trình hành động tổng quát, là kế hoạch triển khai và phân bố các nguồn lực quan trọng để đạt được các mục tiêu cơ bản toàn diện và lâu dài của tổ chức. Kế hoạch chiến lược không vạch ra một cách chính xác làm như thế nào để đạt được mục tiêu, mà nó cho ta một đường lối hành động chung nhất để đạt được mục tiêu. Kế hoạch chiến lược thể hiện viễn cảnh của doanh nghiệp nhưng đồng thời cũng thể hiện sự nhận thức và đánh giá thế giới bên ngoài (môi trường) của doanh nghiệp. Kế hoạch chiến lược vạch ra bởi những nhà quản lý cấp cao của tổ chức. Khi xây dựng kế hoạch chiến lược cần căn cứ vào sứ mệnh của tổ chức, hoặc nhiệm vụ, chức năng, lĩnh vực hoạt động chung của tổ chức , căn cứ vào cương lĩnh hoạt động đã đề ra khi thành lập tổ chức hoặc luật pháp cho phép. Kế hoạch dài hạn 15 năm, 10 năm, 5 năm ... thuộc về kế hoạch chiến lược. Có hai yếu tố chính khi nói đến chiến lược của một doanh nghiệp, đó là: - Chiến lược là sự xác định vị trí của doanh nghiệp (sự thích ứng). - Chiến lược là tương lai của doanh nghiệp. b) Kế hoạch tác nghiệp: Kế hoạch tác nghiệp là kế hoạch cụ thể hóa chương trình hoạt động của tổ chức theo không gian (cho các đơn vị trong tổ chức) và thời gian (kế hoạch hàng năm, kế hoạch hàng quí, kế hoạch tháng, kế hoạch tuần, kế hoạch ngày, đêm, ca, giờ). Kế hoạch tác nghiệp được xây dựng trên cơ sở kế hoạch chiến lược, là kế hoạch cụ thể hóa của kế hoạch chiến lược. Theo cấp quản lý kế hoạch thì có kế hoạch chung của doanh nghiệp, kế hoạch của bộ phận, kế hoạch của từng đội sản xuất, kế hoạch của từng nhóm thiết bị... c) Các bước lập kế hoạch chiến lược Bước 1: xác định sứ mệnh và mục tiêu của tổ chức Sứ mệnh và mục tiêu của tổ chức được xác định thông qua việc trả lời câu hỏi “chúng ta là ai ?”, “Mục tiêu định hướng cho chúng ta là gì?” Những mục tiêu chung này tạo ra những phương hướng rộng lớn cho việc ra quyết định và nó không thay đổi trong nhiều năm. Bước 2: Phân tích những đe dọa và cơ hội, những điểm mạnh và điểm yếu Chúng ta phải phân tích được các yếu tố của môi trường kinh doanh, đánh giá các cơ hội và đe dọa có thể có trong tương lai. Nhờ xem xét một cách toàn diện và rõ ràng, chúng ta có thể biết được ta đang đứng ở đâu trên cơ sở điểm mạnh và điểm yếu gì, 62 hiểu rõ tại sao chúng ta phải giải quyết những điều không chắc chắn, và biết được chúng ta hy vọng thu được những gì. Bước 3: Xác định các tiền đề cho kế hoạch Bước 4:Xây dựng các phương án chiến lược Bước 5: Đánh giá các phương án: Sau khi xây dựng được các phương án, tiến hành đánh giá các phương án. Bước 6. Chọn phương án tối ưu: Phương án nào cho chúng ta cơ hội tốt nhất để đạt được mục tiêu đã đề ra với chi phí thấp nhất hoặc với lợi nhuận cao nhất là phương án sẽ được chọn . Bước 7. xây dựng các kế hoạch phụ trợ để thực hiện kế hoạch: Một kế hoạch chính cần phải có các kế hoạch phụ trợ. Ví dụ, bên cạnh kế hoạch sản xuất chính của công ty đã đề ra là sản xuất sản phẩm A, cần có rất nhiều các kế hoạch phụ trợ như kế hoạch cung cấp vật tư, kế hoạch lao động tiền lượng, kế hoạch sửa chữa thiết bị, kế hoạch cung cấp năng lượng, kế hoạch quảng cáo và khuyến mãi... Bước 8: Lượng hóa các kế hoạch bằng việc lập kế hoạch ngân quỹ : Sau khi quyết định đã được công bố. kế hoạch đã được xây dựng xong, bước cuối cùng làm cho các kế hoạch có ý nghĩa đó là lượng hóa chúng bằng cách chuyển chúng sang dạng các chỉ tiêu về tài chính (các khoản thu, chi, lợi nhuận ...) và nguồn vốn để thực hiện kế hoạch đã đề ra. 6.5. Thu thập, xử lý thông tin 6.5.1. Sự cần thiết phải thu thập, xử lý thông tin Thu thập, nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để dịch ra các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, từ chiến lược đã xác định doanh nghiệp tiến hành lập và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, chính sách thị trường. Bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng pahỉ nghiên cưu thị trường. Việc này là việc cần thiết, đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp khi bắt đàu kinh doanh. Vì thị trường không phải là bất biến mà thị trường luôn biến động, đầy bí ẩn và thay đổi không ngừng. Do đó thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường là việc làm thường xuyên của doanh nghiệp. Mục đích nghiên cứu là xác định khả năng bán một loại mặt hàng nào đó trên địa bàn xác định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung ứng để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy thu thập, nghiên cứu thị trường giúp doanh nghiệp lựa chọn mặt hàng và lĩnh vực kinh doanh đúng đắn, chỉ sản xuất, kinh doanh những mặt hàng có nhu cầu. Mỗi loại hàng hóa lại có nguồn sản xuất, nguồn cung ứng khác nhau, có đặc tính cơ, lý, hóa học khác nhau và phục vụ cho một nhu cầu tiêu dùng (sử dụng) nhất định. Đo đó, nó có tinh chất đặc thù không giống nhau. Khi thu thập, nghiên cứu thị trường hàng hóa doanh nghiệp cần phân biệt: thị trường nguồn hàng (nguồn sản xuất, người cung cấp); đặc điểm của nguồn hàng sản xuất, tổ 63 chức sản xuất, phương thức bán và chính sách tiêu thụ sản phẩm của người cung cấp, mối quan hệ bạn hàng; chi phí vận chuyển hàng hóa và những thỏa thuận của người cung ứng với các hãng khác về cung cấp hàng hóa. Nhưng quan trọng hơn cả là thị trường bán hàng của doanh nghiệp. Bởi vậy chỉ có nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường mới có cơ sở tổ chức bộ máy kinh doanh, lựa chọn phạm vi và quy mô kinh doanh hợp lý để tổ chức các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh theo xu thế biến động của thị trường. Trên cơ sở những thông tin đầy đủ về thị trường giúp cho doanh nghiệp có được cách nhìn tổng quát về thị trường như tổng cung, tổng cầu, giá cả thị trường, các chính sách của nhà nước, hiểu biêt chi tiết về các đối thủ cạnh tranh từ đó tìm ra được cơ hội cũng như nguy cơ đe dọa của thị trường. Kết hợp với phân tích khả năng của doanh nghiệp để lựa chọn chiến lược, định hướng hoạt động, đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh để thực hiện mục tiêu phát triển thị trường và kinh doanh có lãi. 6.5.2. Nội dung thu thập, xử lý thông tin Nội dung thu thập và xử lý các yếu tố cấu thành nên thị trường của doanh nghiệp: cung, cầu, giá cả và sự cạnh tranh. * Nghiên cứu tổng cầu và hướng vào doanh nghiệp Nghiên cứu tồng cầu háng hóa là nghiên cứu tổng khối lượng hàng hóa và cơ cấu loại hàng hóa tiêu dùng thông qua mua sắm hoặc sử dụng với giá cả thị trường trong một khoảng thời gian (ví dụ một năm). Tổng khối lượng hàng hóa chính là quy mô của thị trường. Nghiên cứu quy mô thị trường phải nắm được số lượng người hoặc đơn vị tiêu dùng; với hàng tiêu dùng đó là dân cư, thu nhập của họ; với hàng tư liệu sản xuất thì số lượng đơn vị sử dụng, khối lượng hàng của mỗi đơn vị tiêu dùng, Đối với loại hàng hóa thay thế cần nghiên cứu cả khối lượng hàng thay thế. Đối với loại hàng hóa bổ sung cần nghiên cứu loại hàng chính và từ đó suy ra loại hàng hóa bổ sung. Nghiên cứu tổng cầu hàng và cơ cấu hàng hóa cũng cần nghiên cứu trên mỗi địa bàn, đặc biệt thị trường trọng điểm, ở đó tiêu thụ lượng hàng lớn và giá thị trường của hàng hóa đó trên địa bạn từng thời gian. Trên cơ sở so sánh với số liệu thống kê của các năm trước để xác định cầu hướng vào doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. * Nghiên cứu tổng cung và cung của doanh nghiệp Nghiên cứu tổng cung hàng hóa là nghiên cứu để xác định khả năng sản xuất trong một thời gian (ví dụ 1 năm) các đơn vị sản xuất có khả năng cung ứng cho thị trường tổng số bao nhiêu hàng, khả năng nhập khẩu bao nhiêu, khả năng dự trữ (tồn kho) xã hội bao nhiêu. Trên cơ sở các thông tin về lao động, vật tư tiền vốn và các tiềm năng khác của doanh nghiệp để xác định cung của doanh nghiệp có khả năng đưa ra thị trường. Nghiên cứu cung và cầu nói chung của thị trường còn cần nghiên cứu động thái của cung, cầu trên từng địa bàn, trong từng thời điểm và xác định tỷ phần thị trường của doanh nghiệp trong thời gian nhất định. 64 * Nghiên cứu giá cả thị trường Nghiên cứu giá cả bán hàng của doanh nghiệp sãn xuất, giá hàng nhập khẩu. Nghiên cứu giá cả thị trường phải tièm được chênh lệch giá (trên thị trường bán) và giá mua. Có thể ước chi phí vận chuyển và nộp thuế, để xác định thị trường mua hàng và quyết định khối lượng hàng cần đặt hàng, hàng cần thu mua hoặc nhập khẩu. Nghiên cứu chính sách của Chính phủ về loại hàng kinh doanh cho phép kinh doanh tự do, kinh doanh co điều kiện, khuyến khích kinh doanh hoặc cấm kinhh doanh. Đó là chinh sach thuế, gá các loại dịch vụ có liên quan nhiư cước cận tải, giá thuê kho tàng, cửa hàng, đất đai và lãi suất tiền vay ngân hàng (nếu vốn kinh doanh phải vay) để xác định giá cả thị trường. Căn cứ vào mục tiêu kinh doanh, chính sách giá cả của doanh nghiệp để xác định giá mua, giá bán của doanh nghiệp cho phù hợp. * Nghiên cứu sự cạnh tranh trên thị trường Xác định số lượng đối thủ cạnh tranh, ưu nhược điểm của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp và gián tiếp sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và xác định trạng thái (mức độ) cạnh tranh trên thị trường. Số lượng đối thủ cạnh tranh càng đông quyết định mức độ cạnh tranh càng gay gắt. Đối thủ cạnh tranh với doanh nghiệp xác định theo hai tiêu thức: vị thế của đối thủ cạnh tranh và theo tính chất sản phẩm. Theo vị thế đối thủ cạnh tranh chia thành: hãng dẫn đầu, hãng thách thức, hãng theo sau và hãng đang tìm chỗ đứng trên thị trường. Mức độ cạnh tranh trên thị trường có ba mức độ rõ rệt: thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường cạnh tranh độc quyền và thị trường cạnh tranh độc quyền hỗn tạp. Trên cơ sở thông tin vè các đối thủ cạnh tranh để tìm hiểu ưu nhược điểm và đề ra quyết sách cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Tùy theo yêu cầu thu thập xử lý thông tin thị trường mà có nội dung khác nhau. - Thu thập khái quát là thu thập sơ bộ về thị trường như tổng cung, tổng cầu, xu hướng biến động giá và sự cạnh tranh để biết doạnh nghiệp có thể tham gia thị trường hoặc định kỳ đánh giá về thị trường của doanh nghiệp. Thu thập chi tiết thị trường thực chất là thu thập về đối tượng mua, bán các loại hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh: cơ cấu thị trường hàng hóa và chính sách mua bán của các doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Thu thập chi tiết thị trường phải trả loài được các câu hỏi: ai mua hàng? Mua bao nhiêu? Cơ cấu của loại hàng, mua ở đâu? Mua hàng dùng làm gì? Đối thủ cạnh tranh? Thu thập chi tiết thị trường phải thu thập nhu cầu và yêu cầu của khách hàng về loại hàng mà doanh nghiệp kinh doanh. Đối với hàng tiêu dùng, nhu cầu 65 về loại hàng phụ thuộc vào sở thích (thị hiếu), thu nhập, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, tập quán, thói quen, thời tiết khi hậu, Đối với hàng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào công nghệ, định mức sử dụng nguyên nhiên vật liệu trong sản xuất và kế hoạch sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp sản xuất. Người quyết định mua hàng khhông phải người đi mua hàng cụ thể (tiếp liệu) mà chính là yêu cầu của kỹ thuật, công nghệ sản xuất thành phẩm, khả năng vật tư của doanh nghiệp và khả năng thay thế bằng loại nguyên vật liệu khác (hàng thay thế). Người mua hàng cũng không thể tùy tiện đổi thứ này lấy thứ khác hoặc mua theo ý thích của mình. Như vậy, thu thập thị trường hàng tư liệu sản xuất phải thu thập lĩnh vực tiêu dùng sản xuất. Đó là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Khi thu thập chi tiết thị trường doanh nghiệp phải xác định tỷ trọng thị trường doanh nghiệp đạt được (thị phần của doanh nghiệp) và thị phần của các doanh nghiệp khác cùng ngành; so sánh về chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, mẫu mã, màu sắc và các dịch vụ phục vụ khách hàng của doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác, để đổi mới thu hút khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình. 6.6. Chuẩn bị và triển khai 6.6.1. Giai đoạn chuẩn bị * Xác định mục tiêu nghiên cứu thị trường Tùy thuộc yêu cầu công việc trong hoạt động kinh doanh để xác định mục tiêu nghiên cứu cụ thể. Có các dạng nghiên cứu: - Nghiên cứu dự báo thị trường dài hạn phục vụ cho công tác xây dựng chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. - Nghiên cứu dự báo thị trường trung hạn và ngắn hạn phục vụ cho việc xây dựng kế hoạch hàng hàng năm hoặc quý. - Nghiên cứu dự báo thị trường phục vụ cho thực hiện cac hoạt động nghiệp vụ kinh doanh hàng ngày của cán bộ nhân viên. Dù nghiên cứu thị trường phục vụ cho mục đích nào, cần thiết phải thu thập những thông tin gì? Nguồn thông tin lấy ở đâu? Các thông tin cần thu thập là thông tin về sản phẩm, khách hàng, đối thủ cạnh tranh, giá cả và sự biến động của thị trường. - Thông tin về mặt hàng: chất lượng, quy cách chủng loại, giá cả, thời vụ, thị hiếu và tập quán tiêu dùng, chu kỳ sống sản phẩm đang trải qua, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất của mặt hàng. - Các thông tin về dung lượng, giá cả thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến dung lượng và giá cả thị trường. - Các thông tin về khách hàng: số lượng khách hàng, đặc điểm, hành vi mua sắm của họ, thu nhập và phân bố khách hàng. 66 * Thiết kế câu hỏi để thu thập thông tin Nghệ thuật thu thập thông tin thị trường quyết định ở việc soạn thảo hệ thống câu hỏi để khai thác các thông tin cần thiết, bổ ích cho nghiên cứu. Tránh câu hỏi về riêng tư cá nhân, câu hỏi chung chung trả lời thế nào cũng được và những câu hỏi buộc người trả lời sai sự thật, trả lời đại khái, qua loa. * Chọn mẫu nghiên cứu Chọn mẫu nghiên cứu là lựa chọn kích thước mẫu, địa bàn nghiên cứu và nhóm khách hàng cần nghiên cứu. Quy mô nghiên cứu thể hiện ở kích thước của mẫu phụ thuộc vào thời gian nghiên cứu, yêu cầu tính chính xác và phụ thuộc vào chi phí nghiên cứu. Địa bàn và nhóm khách hàng cần nghiên cứu thu thập thông tin phụ thuộc vào định hướng kinh doanh và định hướng phát triển thị trường của doanh nghiệp. * Tiến hành thu thập dữ liệu Trên cơ sở các thông tin cần thu thập, quy mô mẫu, địa bàn cần nghiên cứu các cán bộ nghiên cứu sẽ tiến hành phân phát tài liệu tới đối tượng khảo sát, hướng dẫn trả lời và thu thập tài liệu nghiên cứu đã phân phát. Thời gian tiến hành dài ngắn phụ thuộc vào quy mô mẫu, địa bàn nghiên cứu phân tán hay tập trung, chi phí nghiên cứu và năng lực càn bộ thực hiện. * Xử lý dữ liệu Xử lý dữ liệu nhằm loại bỏ những thông tin gây nhiễu để xác định chính xác xu hướng biến động của thị trường. Xử lý dữ liệu có thể tiến hành bằng tay có thể sẽ không chọn được phương án tối ưu, ví dụ như bài toán vận tải có hơn 200 ô chọn sẽ không chính xác nếu giải bằng tay. * Rút ra kết luận và lập báo cáo Trên cơ sở kết quả xử lý dữ liệu, cán bộ nghiên cứu thị trường sẽ rút ra kêt luận và lập báo cáo về kết quả nghiên cứu thị trường để lãnh đạo doanh nghiệp ra quyết định kinh doanh. 6.6.2. Giai đoạn triển khai - Xây dựng chiến lược, kế hoạch kinh doanh và phát triển thị trường, chiến lược cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh. - Hoàn thiện bộ máy kinh doanh, bộ máy nghiên cứu và phát triển thị trường của doanh nghiệp theo hướng gọn nhẹ và có hiệu lực với công việc được giao. - Tăng cường chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm, đưa ra thị trường những sản phẩm mới có chất lượng cao. Muốn vậy phải coi trọng yếu tố kỹ thuật và công nghệ ở các đơn vị sản xuất. Các doanh nghiệp còn phải điều tra, cân nhắc, lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. 67 - Phát triển các hoạt động dịch vụ để đưa ra thị trường nhiều loại dịch vụ với chất lượng tốt như một phương tiện lôi kéo khách hàng, một phương tiện cạnh tranh hiệu quả nhất. Đặc biệt chu ý đến dịch vụ sau bán hàng. - Mở rộng thị trường bằng lựa chọn kênh phân phối, kênh bán hàng hợp lý hiệu quả, phát triển hệ thống đại lý bán hàng, thành lập các chi nhánh, trung tâm giao dịch mua bán, giới thiệu sản phẩm với đông đảo khách hàng. - Tăng cường hợp lý các hoạt động xúc tiến thương mại: quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, tham gia hội chợ, triển lãm, thâm nhập vào các kênh phân phối hàng hóa. Xây dựng, bảo vệ và phát triển thương hiệu sản phẩm để làm tăng giá trị sản phẩm, tạo ra sự khác biệt so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. - Sử dụng đòn bẩy giá cả để thu hút khách hàng, căn cứ vào cung cầu thị trường để điều chỉnh linh hoạt. - Không ngừng tạo dựng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường để doanh nghiệp có vị trí cao, có uy tín lớn và có hình ảnh đẹp trong con mắt của khách hàng. - Đào tạo bồi dưỡng cán bộ công nhân viên, yếu tố quyết định của mọi yếu tố, chìa khóa của mọi thành công. Đó là những con người có tài năng, có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, am hiểu nghiệp vụ kinh doanh, có kiến thức về kinh tế thị trường, có kỹ năng ứng xử và giải quyết linh hoạt các tình huống trong kinh doanh. CÂU HỎI ÔN TẬP, THẢO LUẬN 1) Bạn hiểu thế nào là thị trường của doanh nghiệp? Làm rõ khái niệm thị trường, mở rộng thị trường và phát triển thị trường. 2) Trình bày các tiêu thức phân loại thị trường của doanh nghiệp và ý nghĩa của sự phân loại đó. 3) Vì sao phải thu thập và xử lý dữ liệu thị trường? Cần phải tiến hành nghiên cứu vào những thời điểm nào? Nêu nội dung nghiên cứu. 4) Phân tích các nội dung phát triển thị trường. Cho ví dụ minh họa. 5) Cần chuẩn bị và triển khai như thế nào để mở rộng và phát triển thị trường. 68 KẾT LUẬN Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tiễn về sản xuất kinh doanh. Giáo trình đã đề cập rõ các quá trình nghiệp vụ sản xuất kinh doanh, từ chiến lược kinh doanh đến các nghiệp vụ kinh doanh, các yếu tố của quá trình kinh doanh và quản trị hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Giáo trình đã nêu rõ về cơ chế quản lý doanh nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, nghiên cứu hoạt động thương mại của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kể cả việc tổ chức mua bán các sản phẩm đầu vào của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và việc tiêu thụ thành phẩm mà các doanh nghiệp này chế tạo ra. Khi học môn học này cần phải liên hệ thực tế thông qua các tài liệu, sách báo, viết về sản xuất, kinh doanh và quản trị doanh nghiệp; các chính sách của nhà nước trong thực tề kinh doanh. Liên hệ thực tế bằng cách tham quan (kiến tập) hoặc nghe báo cáo thực tế, đặc biệt có thể nghiên cứu, tìm hiểu thực tế trong đợt thực tập. Vì vậy cần phân tích thực tế để nhận thấy sự sâu sắc, khái quát của lý luận và củng cố lý luận đã được trang bị. 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] PGS. TS. Hoàng Minh Đường – Nguyễn Thừa Lộc, (2005), Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại, NXB Lao động – xã hội; [2] Lê Văn Tâm, (2007), Giáo trình Quản trị doanh nghiệp, NXB Lao động – xã hội; [3] Luật doanh nghiệp, (2005); [4] Bộ luật Lao động, (2012); NXB Lao động 70

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_to_chuc_va_quan_ly_san_xuat.pdf