Giáo trình Máy phát điện sử dụng trấu

Máy phát điện sử dụng trấu Máy phát điện sử dụng trấu Trấu là loại rác thải trong nông nghiệp, sẽ trở thành chất đốt để sản xuất điện với giá rẻ hơn 30% so với mức giá hiện nay và đã được ông Giám đốc Ronnie Lo giới thiệu tại cuộc hội thảo về máy phát điện sử dụng trấu, tổ chức tại Cần Thơ ngày 1/11/2003 do Công ty TNHH Năng lượng Sinh khối Jiangxi Peako (Trung Quốc), thuộc Công ty Peako - Hồng Công sáng chế. Sự hấp dẫn nhất của máy phát điện chạy bằng trấu là giá sản xuất điện thấ

pdf37 trang | Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 510 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Máy phát điện sử dụng trấu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p. Theo tìm hiểu của ông Ronnie Lo, các nhà máy sản xuất thép, xi măng, chế biến thủy, hải sản,v.v... của Việt Nam thường sử dụng điện ở mức độ lớn, có nhà máy phải tốn hơn một tỷ đồng/tháng cho chi phí này. Vì thế, nếu sử dụng điện từ nguồn này, các nhà máy sẽ giảm được từ 20-30% chi phí cho điện năng. Theo tính toán của Công ty Jiangxi Peako, sử dụng công nghệ này để sản xuất điện, giá thành chỉ ở mức 500 đồng/kwh. Nhà máy Peako Mark-I tại tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, do Công ty này xây dựng đã được nghiệm thu từ tháng 9/2002, hoạt động rất tốt, sản xuất điện với giá bán rất cạnh tranh: 0,032 USD/kwh. Tro thải từ máy phát điện có thể được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất xi-măng, phân bón,v.v... Giá các loại máy phát điện kiểu này dao động tùy theo công suất. Máy có công suất 400 kw có giá chỉ 200.000 USD; máy có công suất 1.800 kw có giá khoảng 1,2 triệu USD. Nếu các nhà máy sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có quy mô vừa phải, chỉ cần vài trăm ngàn USD là tự tạo được nguồn điện phục vụ sản xuất. Việt Nam có sản lượng lúa khoảng 30 triệu tấn/năm, tức có khoảng 7,5 triệu tấn trấu thu được qua xay xát. Lâu nay, các bạn ít quan tâm để sử dụng lượng trấu này một cách có hiệu quả, có nơi chỉ để đun nấu, nung gạch, thậm chí đốt bỏ. Một nhà máy sản xuất điện bằng công nghệ này, chỉ cần tối đa là 5 công nhân và 350 m2 mặt bằng. Cơ chế vận hành của máy phát điện chạy bằng trấu có thể khái quát như sau: Trấu được chuyển vào mô đun bằng hệ thống bơm hút tự động, đốt nóng để phát sinh khí than (H2, CH4, CO). Khí than được truyền qua thiết bị tách bằng gió để loại bỏ các hạt thô, sau đó đi qua chuỗi lọc máy hơi đốt và các tháp làm nguội. Trong quá trình này, nước được dùng như một phương tiện để lọc và làm nguội khí than. Sau đó, khí được bơm vào động cơ qua thiết bị tĩnh điện có điện thế cao để loại bỏ hạt và chất dính còn lại. Cuối cùng, đưa vào sử dụng ở các động cơ khí đốt pít-tông đến máy phát điện để tạo ra điện năng. Tiêu chí mà Công ty Peako đặt ra khi sản xuất chiếc máy phát điện kiểu này là sản xuất điện giá rẻ, cải thiện môi trường. Khi vận hành, máy tạo ra khí H2, CH4, CO. Nguồn khí này đi qua thiết bị tách bằng gió để loại bỏ các hạt thô, sau đó làm sạch và làm nguội bằng nước. Công nghệ này có quy trình xử lý khí chính xác. Lượng nước tiêu thụ rất nhỏ (dưới 0,5 lít/kwh) và dòng chảy được xử lý tuần hoàn dễ dàng để tái sử dụng, hạn chế được việc gây ô nhiễm cho môi trường. Dù chỉ mới chính thức chào hàng ở thị trường Việt Nam từ tháng 6/2003 , nhưng ông Ronnie Lo tin tưởng khách hàng sẽ chấp nhận máy phát điện nói trên bởi những ưu việt của công nghệ này. Sau các cuộc hội thảo và quảng bá, rất nhiều người đã tìm đến Công ty Peako để hỏi thêm thông tin. Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Môi trường, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cũng đánh giá rất cao công nghệ này Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, 8/11/2003 Làm sạch chất thải độc hại bằng sinh học Các enzim, vi khuẩn và nấm đang được đưa vào ứng dụng làm sạch ô nhiễm đô thị; ô nhiễm công nghiệp, khu vực khai thác mỏ, chất thải có nguồn gốc là thuốc trừ sâu và những vùng nông nghiệp bị ô nhiễm do sử dụng hoá chất. Tiến sỹ John Oakeshott thuộc Tổ chức Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Ô-xtrây-lia (CSIRO) cho rằng, việc xử lý bằng sinh học thuốc trừ sâu và các chất độc hại khác có khả năng thu nhiều đô la do xuất khẩu, khi các nhà nghiên cứu Ô-xtrây-lia tìm được thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, đây cũng có nghĩa là đã tiết kiệm nhiều cho ngành công nghiệp Ô-xtrây-lia CSIRO tổ chức một Hội thảo Quốc tế về Biện pháp Xử lý bằng sinh học ở Melbourn trong hai ngày, với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp (CSIR) của Ấn Độ, và các đại biểu của một số Viện Nghiên cứu Khoa học châu Âu và châu Á. Mục đích của Hội thảo nhằm phát triển Liên minh Nghiên cứu dưới sự lãnh đạo của các Cơ quan Nghiên cứu Quốc tế. TS. Greg Davis nghiên cứu về Đất và Nước của CSIRO cho rằng “Làm sạch những khu công nghiệp cũ và cả những sự cố tràn hoá chất gần đây có thể rất tốn kém, song biện pháp xử lý bằng sinh học đem lại những tiết kiệm đáng kể và thúc đẩy quá trình xử lý tự nhiên sạch hơn.” TS. Davis cho rằng, đôi khi tốc độ làm sạch tự nhiên của các vi khuẩn tương ứng với các mức giảm ô nhiễm, thì trong nhiều trường hợp cần phải tăng tốc độ làm sạch của vi khuẩn để quá trình làm sạch diễn ra nhanh hơn và rẻ hơn- hạn chế sự di chuyển và rủi ro của các chất ô nhiễm hoá học trong thời gian ngắn. Thách thức lớn là tìm ra các vi khuẩn có khả năng thích hợp, sau đó là việc xác định quy mô các quá trình xử lý, từ phòng thí nghiệm đến hiện trường phải chỉ ra rằng các vi khuẩn thực sự có thể xử lý được ô nhiễm. Nhóm CSIRO đã nghiên cứu phạm vi các chất gây ô nhiễm gồm: cácbon hyđrô trong dầu mỏ, thuốc trừ sâu, các chất dinh dưỡng, dung môi trong công nghiệp và các kim loại. Các vi khuẩn làm giảm sunphát cũng đang phát triển, loại vi khuẩn này đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý axít trong hệ thống thoát nước ở những khu vực mỏ có liên quan nhiều đến ngành công nghiệp khai thác. TS. Oakeshott, nhà Côn trùng học của CSIRO cho biết; 4 Bộ phận của CRISO có khả năng xử lý sinh học và họ đang khảo sát khả năng của các ngành công nghiệp mới trên cơ sở sử dụng các quy trình xử lý và các chất liệu sinh học. Một cách tiếp cận mới là phát triển quy trình xử lý gốc enzim để khử độc các chất cặn ở các khu vực nước thải trong sản xuất nông nghiệp, xử lý công nghiệp. Nguồn: CSIRO, 11/2003 EPA thông qua công nghệ phát hiện Colitag E.coli đảm bảo an toàn cho nước uống Chỉ số vật giá hàng tiêu dùng (CPI International, California, CA) đã được Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) thông qua. Phương pháp thử nghiệm của CPI dùng để phát hiện vi khuẩn coli trong nước uống công cộng đã được đăng ký sản phẩm là Colitag (TM) . David Hejl, chủ tịch/ trưởng điều hành của CPI cho rằng, đây là một sự kiện nổi bật sau 7 năm nỗ lực của công ty nhằm đảm bảo mức độ an toàn cao khi thử nghiệm nước uống công cộng. Các phòng thí nghiệm tư nhân và các cơ quan trực thuộc thành phố cũng như các tổ chức chính quyền có trách nhiệm về việc xét nghiệm nước, hiện nay có thể bảo vệ công chúng bằng độ tin cậy đối với sản phẩm xét nghiệm này. Colitag (TM) do tiến sĩ George Chang, giáo sư Trường Đại học California ở Berkeley phát triển từ đầu những năm 1990. Theo TS. Chang, Colitag (TM) khác hẳn các phương pháp xét nghiệm trước đây đã được EPA chấp nhận trong 10 năm qua vì có thể xác định được loại E.Coli yếu, song không bị diệt bằng các biện pháp xử lý nước. TS. Chang nhận xét “nếu xử lý không triệt để có thể sẽ có những mầm bệnh gây hại vẫn có thể phục hồi trong cơ thể người nào đó và gây ra bệnh nguy hiểm. Một khi, quy trình xử lý nước không tốt, thì E. coli có thể “tẩu thoát” khỏi quá trình xử lý vệ sinh và chúng vẫn tồn tại". Khi được thông báo Colitag (TM) đã được EPA chấp thuận thông qua, TS. Chang cho biết: “hiện nay công chúng sẽ có lợi ích lâu dài về sản phẩm xét nghiệm nước cuối cùng. Colitag (TM) sẽ được hầu hết các tổ chức công cộng sử dụng để xét nghiệm E. coli trong các hệ thống nước, từ nước uống, các hệ thống nước thải đến các ao công cộng và bãi biển. Sản phẩm Colitag (TM) cũng sẽ được các nhà sản xuất lương thực, thực phẩm và đồ uống sử dụng. CPI International có trụ sở ở Santa Rosa, CA, có các văn phòng ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và Hà Lan. Ngoài ra, Colitag (TM) còn sản xuất các phụ tùng, dụng cụ phân tích, các dung dịch và chất tẩy rửa có tiêu chuẩn tinh khiết cao, cũng như các sản phẩm phân tích thử nghiệm khác phục vụ các ngành công nghiệp về môi trường, hoá dầu, dược phẩm, công nghệ sinh học và bán dẫn. Nguồn: Business Wire, 2/2004 Giải pháp ứng cứu sự cố tràn dầu Giải pháp thùng chứa không đáy là một công nghệ mới, hoàn toàn do người Việt Nam sáng chế, bảo đảm ứng cứu các sự cố tràn dầu đạt hiệu quả cao, nhanh, sạch, linh hoạt và rẻ hơn rất nhiều lần so với các công nghệ đang được áp dụng. Hiện nay, khi sự cố tràn dầu xảy ra ở Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, biện pháp ứng cứu phổ biến là dùng phao quây lại, sau đó dùng đầu hút skimmer để hút dầu lên. Dung dịch thu được là một hỗn hợp dầu - nước, trong đó nước thường nhiều gấp 20-30 lần dầu. Toàn bộ hỗn hợp này sẽ được đưa lên tàu, chở về đất liền mới xử lý. Chẳng hạn một sự cố làm tràn khoảng 10.000 tấn dầu, lượng hỗn hợp dầu - nước sẽ lên tới trên 200-300 nghìn tấn. Vận chuyển được khối lượng này vào bờ để xử lý phải cần đến rất nhiều tàu trọng tải lớn, thời gian ứng cứu kéo dài, và chi phí rất cao, có thể lên tới hàng trăm triệu, hoặc cả tỷ USD. Vấn đề đặt ra là tìm biện pháp để nhanh chóng xử lý, thu hồi dầu tràn tại chỗ, không cần vận chuyển hỗn hợp dầu - nước vào đất liền. Hệ thống tách SOW-TD hoạt động theo nguyên lý: hỗn hợp xả xuống đi qua hệ thống lưới lọc đan bằng những kim loại như platini, bạc, vàng,v.v... tạo ra những điện tích có khả năng hãm dầu lại, hất ra xung quanh rồi nổi lên, chỉ còn nước lọt xuống dưới. Hệ thống được kỹ sư Khánh chế tạo và thử nghiệm từ năm 1997 và đã được Cục Sở hữu Công nghiệp cấp bằng Sáng chế độc quyền. Máy có thể làm việc liên tục 6 tháng mới phải rửa. Kích thước gọn nhẹ, chỉ bằng 1/6 máy ngoại nhập cùng công suất và rẻ hơn máy ngoại từ 1,5 đến 2 lần. Công nghệ này thực chất là ứng dụng phối hợp hệ thống tách dầu SOW-TD có công suất cao (do ông Khánh sáng chế), với một bể chứa dầu không đáy. Kết cấu của "thùng chứa dầu không đáy" cũng rất đơn giản: được làm bằng kim loại có tiết diện hình trụ và không có đáy, với kích thước tùy định. Thùng được gắn kết vào xà lan ứng cứu, bên trong thùng sâu dưới mặt nước gắn một hệ thống tách dầu - nước. Khi xảy ra sự cố tràn dầu, người ta sẽ sử dụng phao quây, đầu hút skimmer hút hỗn hợp dầu - nước xả vào hệ thống tách dầu - nước (được lắp sẵn trong thùng không đáy). Hệ thống này sẽ lập tức tách dầu cho nổi lên trên, nước tụ phía dưới thùng. Khi lớp dầu trong thùng cao dần lên tới mức 1-2 m, dùng vòi hút lượng dầu sạch này lên xà lan; trong khi vẫn tiếp tục bơm xả hỗn hợp dầu - nước vào thùng. Theo tính toán của kỹ sư Khánh, chỉ cần đầu tư dưới 200.000 USD cho một thùng không đáy như vậy cùng với hệ thống tách dầu - nước, và các chi tiết đi theo là đủ để sẵn sàng ứng cứu cho các vụ tràn 1.000 tấn dầu. Nguồn: TBKTVN, VnExpress, 17/2/2004 Vật liệu xử lý nước phèn thành nước ngọt do Việt Nam sản xuất Vật liệu xử lý nước phèn DS3 - loại vật liệu xử lý nước đầu tiên được sản xuất ở Việt Nam theo hiệu ứng tích số tan không những chỉ khử được tính axít của nước mà còn có thể loại bỏ sắt, nhôm, sunphát và hầu hết các chất gây ô nhiễm khác có trong nước phèn. Trong 5 năm qua, vật liệu DS3 đã giúp rất nhiều người dân nghèo vùng sâu ĐBSCL có nước sinh hoạt. Theo TS. Nguyễn Bá Trinh, Viện Hóa học, Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Việt Nam, tác giả của DS3, thì đặc điểm chính của nước phèn là độ pH thấp, chứa nhiều sắt II, nhôm và sunphát. Để xử lý nước phèn thành nước sinh hoạt, cần điều chỉnh độ pH về miền trung tính (6,5 - 8,5). Để giải quyết vấn đề này có thể sử dụng các loại vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên hoặc một số hóa chất dùng trong thực phẩm, có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau như trao đổi ion, thẩm thấu ngược, siêu lọc, điện thẩm. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay chưa thể áp dụng những phương pháp này cho vùng sâu, vùng xa ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở những nơi này, thiết bị xử lý nước phèn phải có hiệu quả nhưng đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với điều kiện kinh tế và phong tục tập quán của đồng bào địa phương. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về hiện tượng tương tác lỏng - rắn, gọi là hiệu ứng tích số tan, phương pháp loại ion tan trong nước mới gọi là phương pháp tích số tan (đã được TS. Nguyễn Bá Trinh công bố tại hội nghị môi trường quốc tế, Athens Hy Lạp năm 1995), sau một thời gian nghiên cứu ông đã tìm ra vật liệu DS3 đáp ứng các điều kiện trên. "Loại vật liệu này là một hỗn hợp khoáng đã được gia nhiệt ở nhiệt độ và thời gian thích hợp. Phần hữu cơ bổ sung bị than hóa làm cho hỗn hợp trở thành một khối rắn, đồng thời tạo cho vật liệu khả năng hấp phụ các chất hữu cơ". Các thí nghiệm thực tế về khả năng khử phèn của DS3 ở hệ lọc đơn giản đều cho thấy nước phèn ở Kênh Bobo và kênh Mỹ An sau khi lọc đạt tiêu chuẩn nước sinh hoạt (kết quả này được cơ quan chức năng Bộ Y tế chứng nhận). So với kinh nghiệm dân gian dùng tro (hay dùng nhất là tro cây tràm), dùng thuốc muối, vôi để xử lý nước phèn vốn chỉ giúp giảm vị chua trong nước chứ không loại được kim loại nặng và các chất ô nhiễm khác, công nghệ thùng lọc nước phèn đơn giản sử dụng DS3 rõ ràng bảo đảm nguồn nước sinh hoạt an toàn hơn cho người dân. Thời gian sử dụng của thùng lọc nước phèn khá lâu. Thực tế ở huyện Thủ Thừa cho thấy sau 2 năm sử dụng, khả năng khử phèn của thùng lọc suy giảm không đáng kể. Nhìn chung, giá thành xử lý nước phèn theo công nghệ này khoảng 2.000 - 3.000 đồng/m3. Phương pháp xử lý nước phèn sử dụng vật liệu DS3 mang lại lợi ích cả về kinh tế và xã hội đã được nhiều địa phương ở ĐBSCL lựa chọn để giải quyết nước sinh hoạt cho dân. Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, 20/2/2004 Xử lý crôm trong nước thải bằng rơm rạ Từ phế phẩm của nông nghiệp là rơm, rạ, sinh viên Trần Thị Kiều Chinh, khoa Hóa của Trường đại học Sư phạm Quy Nhơn, Bình Định, đã thực hiện thành công đề tài nghiên cứu khoa học: "Thăm dò khả năng xử lý crôm trong nước thải bằng rơm rạ". Đề tài đã được trao giải nhất "Sinh viên nghiên cứu khoa học của trường" và được Bộ Giáo dục và Đào tạo trao tặng giải thưởng "Sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc năm 2003". Là một nguyên tố kim loại nặng có trong nước thải, crôm và các hợp chất của chúng đều độc, đặc biệt các hợp chất có bậc ôxy hóa cao như cromat, biromat,v.v... Vì vậy, mục đích ban đầu của đề tài là hướng đến xử lý các chất thải này bằng các vật liệu tự nhiên và nếu có hiệu suất cao thì có thể ứng dụng vào thực tế. Theo tác giả, rơm, rạ chính là dạng phế phẩm nông nghiệp rất gần gũi với người nông dân, có quá nhiều ở miền đất nông nghiệp mà phần lớn hiện đang có một công dụng đơn giản là đun bếp. Sở dĩ em chọn nghiên cứu xử lý nước thải vì hiện nay qua phân tích các mẫu nước tại các vùng nông thôn trong tỉnh Bình Định, hầu hết các mẫu nước ngầm đều nhiễm vi sinh. Trong khi đó ở một số vùng có làng nghề truyền thống của Bình Định như làng nghề chế biến tinh bột sắn Hoài Nhơn, sản xuất gạch ngói Tây Sơn, sản xuất nước mắm ở An Nhơn, sản xuất vôi ở Tuy Phước,v.v... thì hằng ngày các nơi đây đã thải ra một hàm lượng chất độc lớn, gây ô nhiễm không khí, gây ô nhiễm nước, nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu nào để xử lý. Vì thế, tác giả đã hoàn thành giải pháp xử lý crôm, loại bỏ bớt được sự độc hại của nguyên tố này trong nước thải. Qua phân tích thành phần hóa học trong rơm, rạ, cho thấy thành phần chính của rạ là xenlulôza, nếu tính theo khối lượng khô thì trong rơm có từ 3 - 4,5% chất có đạm, 1,2 - 2% chất béo, 30% các chất dẫn xuất không chứa đạm, 35 - 36% xenlulôza và 14- 15% chất khoáng. Sau khi phân tích các thành phần hóa học của rơm, rạ, và rơm, rạ có khả năng hấp thụ crôm rất tốt. Phương pháp này vừa rẻ tiền, vừa có hiệu quả xử lý rất cao. Nguồn: Tạp chí Tài hoa trẻ, 21/2/2004 Những lợi ích của phân ủ bằng giun Khoảng 1/3 tổng lượng chất thải sinh hoạt là chất thải hữu cơ có thể tái chế một cách dễ dàng. Chất thải hữu cơ là một loại nguyên liệu thô có giá trị có thể được chế biến thành phân ủ có chất lượng tốt nhất, đưa chất hữu cơ thiết yếu vào đất trồng. Phân ủ đem lại sự phì nhiêu cho đất; cải tạo cấu trúc của đất, giúp giữ nước đồng thời còn làm cho đất tiêu úng tốt. Nếu như loại chất thải này bị chôn lấp thì tiềm năng của chúng sẽ bị mất đi và các chất ô nhiễm sẽ phát tán vào không khí và nguồn nước gây ô nhiễm môi trường. Dùng giun để ủ phân là một phương pháp ủ được sử dụng ngay tại nhà hoặc ủ trên quy mô thương mại lớn. Phân ủ bằng giun là gì? Phân ủ bằng giun là dùng giun và các vi sinh khác (vi khuẩn, nấm và các động vật nguyên sinh) để biến chất thải hữu cơ thành mùn giàu dinh dưỡng. Quá trình này diễn ra một cách tự nhiên trong các khu vực thực vật bị phân hủy như: lá rụng và cây cối mục nát. Giun ăn cả chất hữu cơ phân hủy và các vi sinh vật. Chất hữu cơ đi qua hệ thống tiêu hóa của giun sau đó được bài tiết thành khuôn. Phân ủ được tạo ra theo khuôn này cùng với các chất thải hữu cơ khác. Sản phẩm cuối cùng là chất tinh mịn, có độ xốp, thoáng khí và giữ ẩm tốt. Phân tích phân ủ do giun tạo ra cho thấy loại phân ủ theo cách này giàu dinh dưỡng hơn so với đất, canxi nhiều gấp ba lần, nitơ, phốt pho và kali cũng nhiều hơn vài lần. Phân ủ này chứa tỷ lệ mùn cao. Mùn này giúp các hạt đất hình thành các cụm tạo các rãnh để không khí đi qua và làm cho khả năng giữ nước tốt hơn. Axít humíc trong đất mùn tạo ra những vị trí liên kết các chất dinh dưỡng trong cây và cung cấp các chất dinh dưỡng đó theo nhu cầu của cây. Axít humíc giúp ngăn ngừa các mầm bệnh, nấm, giun tròn và các vi khuẩn gây hại cây. Phân giun tạo ra là mô đất có hoạt tính sinh học chứa hàng nghìn vi khuẩn, enzym và các phế thải của cây cối. Quá trình ủ phân sẽ tiếp tục diễn ra sau khi sản phẩm do giun tạo ra được làm lắng đọng. Hoạt động của vi sinh trong phân giun cao hơn trong đất 10-20 lần và chất hữu cơ cao hơn thức ăn của giun. Giun là những tác nhân ủ phân nhanh, mỗi ngày chúng có thể ăn chất thải bằng nửa trọng lượng bản thân, 2000 con giun mỗi tuần có thể ăn 3kg chất thải. Có rất nhiều loài giun khác nhau, mỗi loài có vai trò riêng trong phân hủy chất thải hữu cơ. Loài giun phân hủy chất thải hữu cơ tốt nhất là Dedrabaena veneta, Lumbricus rubellus và Aisenia andreii, giun hổ, giun ăn chất thải trên mặt. Loài giun này sinh sản rất nhanh, trưởng thành trong 6 tuần, mỗi tuần có thể sinh sản 3 lần trong suốt một năm, đó là tuổi thọ thông thường của chúng. Giun sinh sản có thể làm kén mỗi tuần 2-3 lần và sẽ nở trong 21 ngày, mỗi kén nở được 2 hoặc ba con giun, giun trưởng thành trong vòng 60-90 ngày. Giun hô hấp qua da, do đó cần phải môi trường ẩm để trao đổi không khí. Giun hoạt động tích cực nhất trong điều kiện nhiệt độ khoảng từ 130C đến 250C, mặc dù chúng có thể chịu được nhiệt độ từ 0-350C. Cả cỏ dại và các mầm bệnh đều bị giết chết trong quá trình ủ phân bằng giun. Phân ủ bằng giun thường bị vi khuẩn chi phối, nhưng sinh khối nấm cũng có thể xuất hiện. Phân ủ bằng giun, lượng nhiệt tao ra rất nhỏ; giun ăn cả loại giun tròn hại rễ cây, vi khuẩn gây bệnh, nấm và các hạt cỏ dại nhỏ. So sánh phân ủ bằng giun và phân ủ thông thường Phân ủ bằng giun nói chung được coi là phương pháp sản xuất tiện lợi, tốn ít thời gian hơn so với phân ủ thông thường. Phân ủ do giun tạo ra cũng có giá trị dinh dưỡng đất lớn hơn so với phân ủ hiếu khí. Nhiều sinh vật gây bệnh như Salmonella, các vi rút gây bệnh đường ruột dạng coli trong phân và các trứng giun ký sinh có thể tập trung trong các hệ thống phân ủ trộn và phân ủ bằng giun. Các phương pháp ủ phân hiếu khí truyền thống cần tăng nhiệt độ trong đống phân ủ từ 57-710C mới diệt được các mầm bệnh này. Tuy nhiên, trong phân ủ bằng giun nhiệt độ phải giữ dưới 320C để duy trì giun hoạt động có hiệu suất cao. Do nghiên cứu chưa nhiều về các mầm bệnh tồn tại trong phân ủ bằng giun, nên các chất rắn sinh học đã được tiến hành ủ trước ở nhiệt độ cao để diệt các mầm bệnh đó trước khi ủ phân bằng giun. Vì vậy làm cho chi phí ủ phân bằng giun tăng cao. Tuy nhiên, gần đây của Hoa Kỳ đã phối hợp điều tra nghiên cứu vấn đề này cùng với Cơ quan Bảo vệ Môi trường của quận Cam, Công ty Giun đất Hoa Kỳ và Thành phố Ocoee, Florida. Nghiên cứu được tiến hành trong hai khu vực: khu vực thứ nhất trong hai đống chất rắn sinh học (15-20%) đã làm vô hiệu hoá salmonella, các dạng coli trong phân và các vi khuẩn đường ruột, khu thứ hai, trong hai đống chất rắn sinh học đã làm vô hiệu hoá chứng giun. Kết quả là tất cả các mức độ mầm bệnh đạt được những yêu cầu của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ quy định đối với phân ủ trong 144 giờ. Những kết quả nghiên cứu của Đại học Mississipi cho thấy rằng phân ủ bằng giun làm tăng sinh trưởng cây trồng, phát triển rễ, tăng trọng lượng khô, tăng số lượng hoa ban đầu so với sử dụng phân bằng rêu mùn. Hàm lượng dinh dưỡng của phân ủ liên quan chặt chẽ với dạng thức ăn của giun. Phân ủ bằng giun nuôi bằng chất thải sinh hoạt không phù hợp để xử lý số lượng lớn chất thải từ vườn tược và cần phải pha trộn các loại chất thải hữu cơ để hoạt động hiệu quả . Phân ủ bằng giun theo quy mô gia đình Phân ủ bằng giun ở quy mô nhỏ hầu như ít gặp những vấn đề nan giải hơn các hệ thống phân ủ trên quy mô thương mại. Hệ thống ủ phân trên quy mô gia đình chỉ tận dụng tốt nhất các chất thải lương thực, thực phẩm với chất thải vườn tược như cỏ, lá cây thường được ủ thành đống. Quy trình xử lý này tạo ra hai sản phẩm giá trị; phân ủ và chất lỏng có thể được sử dụng để bón cây trong vườn và trong nhà ươm. Các thùng ủ phân gia đình chiếm khoảng không gian nhỏ và có thể đặt gần cửa bếp, ít phát ra mùi hôi vì giun ăn hết chất thải trước khi phân hủy. Để làm thùng nuôi giun, có thể tận dụng bất kỳ loại thùng hàng nào. Có thể dùng thêm vật liệu đệm lót như phân bón hoặc phân ủ đã ngấu với một ít giấy báo vụn và một ít giun. Quần thể giun được hình thành chậm bằng thức ăn bổ sung như bã cà phê, túi chè và vỏ chuối, loại thức ăn này giun khá ưa thích. Sau một vài tuần khi quần thể giun đã được hình thành và sinh sản, thì có thể bổ sung nhiều thức ăn hơn kể cả thịt. Nếu như trong thùng nuôi giun quá ẩm ướt thì phải bổ sung thêm giấy báo. Giun ăn cả giấy và chất thải lương thực. Nhiệt độ trong thùng cần giữ ở 4-200C, do đó mùa đông không nên đặt thùng ra ngoài trời hoặc cũng phải tránh những ngày nắng to. Khi quần thể giun quá lớn thì phải chuyển giun sang thùng khác hoặc bổ sung giun vào đống phân ủ. Khi lấy phân ủ, phải đặt thùng ra nơi có ánh sáng, như vậy giun sẽ bò xuống phía dưới, vào chỗ tối và khi đó lấy phân ủ ở phía trên cùng. Hoặc có thể đẩy lượng phân ủ trong thùng sang một bên và cho thêm thức ăn mới và nền được bổ sung vào phần bên cạnh của thùng, giun sẽ bò sang phần nền mới, lúc đó có thể lấy phân ủ ra. Phân ủ bằng giun trong thùng đặt ở bếp hoặc trong lớp học là một phương pháp đáng được quan tâm nhằm tận dụng chất thải hữu cơ mà không phải chôn lấp, song phương pháp này vẫn chưa được áp dụng phổ biến. ở Australia, ước tính có ít nhất là 4% chất thải sinh hoạt được làm phân ủ bằng giun. Phân ủ bằng giun ở quy mô lớn Các hệ thống phân ủ bằng giun ở quy mô thương mại lần đầu tiên được thực hiện ở châu Mỹ từ đầu những năm 1990. Các yếu tố cần được xem xét khi lựa chọn ủ phân bằng giun ở quy mô lớn bao gồm: - Khối lượng và thể loại nguyên liệu có sẵn - Cung cấp tài chính - Quy định pháp lý - Vị trí và quy mô - Điều kiện khí hậu - Đáp ứng về lao động Phân ủ bằng giun theo quy mô này thường gặp khó khăn khi kiểm soát nhiệt độ vì quá trình ủ sẽ sinh ra nhiệt độ cao hơn và thời gian ủ cũng lâu hơn so với các hệ thống ủ ở quy mô nhỏ. Phần lớn các hệ thống ủ ở quy mô thương mại sử dụng cơ giới để lấy phân ủ vào giai đoạn cuối của quá trình ủ phân. Có nhiều phương pháp khác nhau được áp dụng ở quy mô thương mại, chẳng hạn, một trong những phương pháp ủ phân ở Yelm thuộc Oashington, Hoa Kỳ đã sử dụng 15 tấn giun đỏ trong quá trình ủ phân và dùng nhiều loại thức ăn cho giun như phân gia súc, vỏ bào, giấy bìa và chất thải lương thực. Kết luận Sử dụng những tập tính tự nhiên của giun để biến các chất thải hữu cơ thành phân ủ mang lại nhiều lợi ích. Kết quả là: giảm được khối lượng chất thải đáng lẽ cơ quan chính quyền địa phương phải thu gom mang đi chôn lấp, tiết kiệm tiền của và giảm những tác động về vận chuyển. ủ phân bằng giun cũng làm thay đổi thành phần chất thải, giảm khả năng gây ô nhiễm. Phân ủ bằng giun tốt và chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn so với phân ủ truyền thống. Tuy nhiên, quy trình sản xuất phân ủ nhạy cảm hơn phân ủ thông thường và cần phải rất chú ý, nhất là khi sản xuất ở quy mô lớn. Phân ủ bằng giun ở quy mô gia đình rất giàu dinh dưỡng, vì vậy khi sử dụng riêng để bón cây cần phải trộn thêm với đất và các vật liệu khác, do đó kết hợp lý tưởng là phải có một đống phân ủ thông thường cho các chất thải vườn tược và đống phân ủ bằng giun dùng cho các chất thải gia đình. Nguồn: Warmer Bulletin, 1/2004. Nghiên cứu tái chế bóng đèn huỳnh quang ở Anh Hiện nay ở Anh, hàng năm có khoảng 100 triệu bóng đèn tuýp huỳnh quang phế thải và đại đại đa số người sử dụng không có giải pháp nào hơn các thông lệ truyền thống là vứt bỏ rồi đưa ra bãi thải. Tuy nhiên, báo cáo nghiên cứu của Chương trình hành động về chất thải và tài nguyên (WRAP) cho biết, bóng đèn thuỷ tinh thu hồi được đưa về nhà máy để tái chế thành các bóng đèn tuýp và bóng đèn tròn mới. British Glass, nhà sản xuất bóng đèn tuýp và bóng điện tròn lớn nhất của Anh tiến hành công trình nghiên cứu “Xây dựng phương pháp luận tái chế thuỷ tinh làm bóng đèn điện, khắc phục những rào cản kỹ thuật và thực tiễn trong tái chế”, phối hợp với Công ty TNHH tái chế Mercury chuyên tái chế thuỷ ngân làm đèn điện và SLI. Mục đích của công trình nghiên cứu này là giải quyết khó khăn chủ yếu hiện nay làm cản trở các nhà sản xuất bóng đèn điện là sử dụng thuỷ tinh tái chế, chưa đảm bảo an toàn về nồng độ hoá chất và tác động môi trường của bất kỳ chất ô nhiễm nào còn sót lại trong sản phẩm. Trong khi thuỷ tinh có thành phần chủ yếu theo trọng lượng, thì hàm lượng thuỷ ngân và các lớp phủ phức chất của bóng đèn gây ra nan giải truyền thống về tái chế cũng như gây nguy hiểm môi trường khi thải ra bãi thải. Giải quyết được những nan giải này thì có thể thu hồi và tái chế trong tương lai khoảng 20000 tấn thuỷ tinh. Kế hoạch nghiên cứu đã thành công đã chứng tỏ rằng bóng đèn thuỷ tinh đã hết hạn sử dụng được thu hồi, có thể nấu lại không gây hậu quả tiêu cực. Quy trình của Công ty tái chế Mercury có thể loại bỏ an toàn gần 100% thuỷ ngân và sử dụng thuỷ tinh để tái chế, nhà sản xuất bóng đèn thuỷ tinh có thể thu được những lợi ích về môi trường; giảm được các yêu cầu nhiên liệu và các phát tán CO2. Kế hoạch còn đáp ứng các yêu cầu sắp tới của bản Chỉ thị về chất thải thiết bị điện và điện tử (WEEE) vì Anh phải thực hiện đầy đủ Chỉ thị này vào năm 2006. Ước tính chất thải thiết bị điện và điện tử chiếm khoảng 4% trong các chất thải đô thị và là một trong các dạng chất thải đang tăng nhanh nhất. Để giải quyết vấn đề này, Chỉ thị WEEE buộc nhà sản xuất phải có trách nhiệm và sẽ yêu cầu các Công ty phải thu hồi và tái chế các sản phẩm của họ. Rào cản chủ yếu đối với tái sử dụng các bóng đèn thuỷ tinh được thu hồi không phải tập trung vào hàm lượng thuỷ ngân mà vào hàm lượng chì khi vận hành lò nung và các phát tán chì vào không khí. Tuy nhiên, đã có các phương pháp khắc phục những vấn đề nan giải này. Nguồn: Warmer Bulletin, 19/2004 Nhật Bản đang thử nghiệm pin nhiên liệu hyđro không gây ô nhiễm Một Công ty của Nhật Bản có ý định kiểm tra hệ thống thử nghiệm sử dụng điện - hyđrô để cung cấp nguồn điện cho các phương tiện giao thông không gây ô nhiễm, ưu việt hơn dùng nhiên liệu hóa thạch. Công ty Môtô Honda cho biết cuộc thử nghiệm đối với phương tiện chạy bằng pin nhiên liệu FCX sẽ bắt đầu vào cuối tháng 4 ở đảo Yakushima, Nam Nhật Bản, đây là một nội dung của dự án “không có phát thải”. Các nhà sản xuất ô tô trên thế giới đang cạnh tranh dành vị trí đứng đầu trong phát triển pin nhiên liệu, mà sản phẩm chủ yếu của các loại xe cộ thân thiện với môi trường là nước. Nhưng các phương pháp sản xuất pin nhiên liệu hydro cũ lại dựa vào nhiên liệu hóa thạch gồm dầu lửa và khí thiên nhiên, đã tạo ra CO2 trong quá trình sản xuất - những chất này đã góp phần làm nóng lên toàn cầu. Theo dự án mới, hyđrô được sản xuất thông qua quá trình điện phân nước bằng cách dùng điện phát ra từ các nhà máy điện ở trên các đảo nhỏ, nơi có điều kiện lý tưởng do các dòng chảy từ những dốc núi xuống, nằm ở phía Đông Nam cách Kyoto khoảng 1000 km . Khí tạo ra được tích trữ ở “trạm chứa hyđrô” và cung cấp cho xe cộ sử dụng nhiên liệu FCX để chuẩn bị cho thử nghiệm xe chạy trên đường ở Yakushima bắt đầu vào cuối tháng 4. Dự án này đang được triển khai bởi tập đoàn của các viện trường kết hợp, đứng đầu là Phòng thí nghiệm của hãng Honda, Trường đại học Kogoshima và Công ty Yakushima Denko. Hãng Honda cho biết loại xe ô tô chạy bằng pin nhiên liệu FCX sử dụng ắc quy kiểu vách ngăn FC của hãng Honda được giới thiệu vào tháng 10/2003 có thể khởi động được ở nhiệt độ âm 200C, một bình nhiên liệu của một ô tô trước đây chạy được 355km, thì nay đã tăng lên 395km/bình và tiết kiệm nhiên liệu được 10%. Trong năm 2002, hai đối thủ ở Nhật Bản là hãng Honda và hãng mô tô Toyota trở thành những nhà sản xuất ô tô đầu tiên trên thế giới bắt đầu cho thuê loại ô tô chạy bằng pin nhiên liệu phát điện bằng oxy và khí hyđrô điều áp. Chi phí cho sản xuất cao, thiếu cơ sở hạ tầng để bơm hyđrô vẫn là những trở ngại để thể hiện rõ lợi ích của xe chạy bằng loại nhiên liệu này trước khi các công ty thu hút được những khách hàng. Nguồn: AFP, 4/2004 Khan hiếm nước, vấn đề khử mặn và ô nhiễm Tình trạng thiếu nước trầm trọng do gia tăng dân số, đô thị hóa và chất lượng cuộc sống trên thế giới ngày càng cao hơn đã khiến nhiều quốc gia (nhất là các vùng khô hạn và bán khô hạn) phải chấp nhận các công nghệ khử mặn, trước hết là để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt. Ngành công nghiệp khử nước mặn đã trở thành một ngành...g, hiện nay mỗi năm các ngành kinh tế nước ta thải ra khoảng hơn 113.000 chất thải rắn nguy hại, song lại chưa có cơ sở nào xử lý tập trung. Những cơ sở sản xuất đơn lẻ thường không đủ kinh phí để tự đầu tư hệ thống xử lý. Nhiều cơ sở phải tồn kho hoặc chôn lấp. Cả hai dạng này đều gây ô nhiễm nặng nề và cần được xử lý ngay. Các chuyên gia của Bộ nhận định nhờ hiệu suất phá hủy chất độc và hiệu quả làm sạch khí thải rất cao, nên lò nung xi măng kiểu quay có thể là giải pháp lý tưởng trong việc xử lý các loại chất thải này. Nguồn: vnexpress.net, 9/6/2004. Tấm lợp không có A-mi-ăng Đầu những năm 80 của thế kỷ XX, sản phẩm tấm lợp A-mi-ăng + xi măng (AC) được phát hiện có nhiều tác hại đến sức khỏe con người nên dần bị cấm sử dụng, trong đó, A-mi-ăng màu xanh được khẳng định chắc chắn là nguồn gây bệnh ung thư và đã bị cấm sản xuất từ đầu những năm 90. Ở nước ta, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 115/2001/QĐ-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam đến 2010”, trong đó nêu rõ từ năm 2004 không được sử dụng vật liệu A-mi-ăng trong sản xuất tấm lợp,v.v. Thực hiện Quyết định này, Bộ Xây dựng giao cho Viện VLXD nghiên cứu sử dụng các loại sợi khác trong sản xuất tấm lợp không có A-mi-ăng, làm cơ sở cho việc chế tạo các cấu kiện nhẹ như tấm lợp, tấm trần, tấm tường, góp phần đa dạng hóa sản phẩm VLXD trong những năm tới. Trên cơ sở khảo sát công nghệ nước ngoài, Viện VLXD đã nghiên cứu thành công công nghệ sản xuất tấm lợp sử dụng sợi polyvinylalcol (PVA) thay thế A-mi-ăng. PVA được chọn vì có độ phân cực lớn, tạo tính tương thích với các sản phẩm thủy hóa xi măng, dễ dàng phân tán trong hồ liệu, bám dính tốt với đá xi măng. Sợi PVA có cường độ chịu kéo và mô đun đàn hồi cao, bền trong môi trường a-xít, kiềm và ánh sáng, không gây độc tính về mặt hóa học đối với con người. Về mặt cơ học, nó có đường kính lớn, không bị “sợi hóa” dưới tác dụng cơ học nên không gây ra các bệnh về đường hô hấp. PVA đã được sử dụng phổ biến trong ngành dệt ở các nước phát triển gần 50 năm nay và chưa phát hiện trường hợp nào bị ung thư phổi do tiếp xúc với nó. Khi bị phân hủy do nhiệt nó chỉ sinh ra khí CO và CO2 với nồng độ nhỏ hơn 10 lần so với sợi bông. PVA là vật liệu cơ bản tạo ra tấm lợp PVA-C, công nghệ hiện đang được nhiều nước đưa vào sản xuất đại trà. Trên cơ sở tiếp thu kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm sản xuất từ các nước đã chuyển đổi để vận dụng vào điều kiện cụ thể của nước ta, tận dụng triệt để hệ thống thiết bị sản xuất tấm lợp AC hiện có, Viện VLXD tiến hành thử nghiệm tạo tấm lợp PVA-C trên quy mô công nghiệp tại Nhà máy Bê tông và Xây dựng Xuân Mai và Công ty Cổ phần Nam Việt. Kết quả kiểm tra thành phẩm theo tiêu chuẩn TCVN 4434-2000 quy định cho tấm lợp AC, các chỉ tiêu của tấm sóng PVA-C đều đạt tiêu chuẩn. Riêng với tấm phẳng, do ta chưa có tiêu chuẩn nên dựa vào tiêu chuẩn của Ôxtralia và Niu Di-lân để so sánh thấy hoàn toàn đạt yêu cầu. Dây chuyền công nghệ và kỹ năng lao động của những người đang vận hành sản xuất tấm lợp AC đều được sử dụng trong sản xuất tấm PVA-C. Quá trình sản xuất chỉ cần bổ sung thêm cụm thiết bị gia công tinh bột giấy, pha phụ gia trợ lọc và cải tiến một số chi tiết trên thiết bị trộn liệu, xy lanh xeo và côn nước đục. Nguồn vật liệu tạo ra sợi PVA trước mắt phải nhập khẩu nhưng trong tương lai gần hoàn toàn có thể sản xuất trong nước với giá thành hợp lý. Độ bền của tấm lợp PVA-C trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của nước ta hiện là vấn đề đang được thảo luận. Tuy nhiên, Viện VLXD đã thử nghiệm chúng bằng chu kỳ nóng - ẩm dựa theo tiêu chuẩn Ôxtralia và Niu Di-lân quy định cho tấm lợp, tấm phẳng xen-lu-lô - xi măng. Kết quả đạt yêu cầu. Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục thử nghiệm độ bền tấm lợp bằng phương pháp thử tăng tốc mà các nhà khoa học nước ngoài đã áp dụng theo ISO 8836-1993 để cho kết quả chính xác nhất. Theo các nhà khoa học, có 2 vấn đề là độ bền và giá thành (hiện cao hơn khoảng 20-25% so với tấm lợp AC) sẽ được giải quyết khi bổ sung thêm máy ép lọc vào dây chuyền sản xuất. Tác động của lực ép sẽ nâng cao được độ bền tấm lợp. Ngoài ra, khi có máy ép có thể sử dụng được xi măng mác thấp và các phụ gia khoáng rẻ hơn Melakit đang dùng, giá thành chắc chắn sẽ giảm xuống. Viện VLXD đang phối hợp với Công ty Cổ phần Tấm lợp và VLXD Đông Anh hoàn thiện công nghệ này. Nguồn: Hà nội mới, 29/06/2004 Hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ Xí nghiệp sửa chữa và đóng mới phương tiện thủy (XNSC - ĐMPTT) thuộc Công ty 128 của Quân chủng Hải quân đã nghiên cứu thiết kế, lắp đặt và đưa vào vận hành hệ thống xử lý chất thải dầu, mỡ có nhãn hiệu CT-128. Hệ thống này cho phép xử lý hiệu quả chất thải nhiễm dầu, mỡ sinh ra trong quá trình sửa chữa, đóng mới sản phẩm của XNSC - ĐMPTT, được Sở Tài nguyên - Môi trường thành phố Hải Phòng cho phép áp dụng. Trước đây, các chất thải dầu, mỡ của XNSC - ĐMPTT được thu gom, đổ ra bãi chứa, rồi xử lý. Do bãi chứa hẹp, lượng chất thải ngày càng nhiều không bảo đảm an toàn cho môi trường. Vì thế, việc xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ trở thành vấn đề bức xúc. Từ năm 2000, các cán bộ kỹ thuật của XNSC - ĐMPTT đã tìm hiểu, biên soạn tài liệu của nước ngoài và nghiên cứu, xây dựng quy trình xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ phù hợp với điều kiện ở nước ta. Hệ thống xử lý chất thải dầu, mỡ CT-128 dùng máy tẩy rửa 3000PSI và 4000PSI để phun rửa. Sau đó dùng máy bơm Wilden do Hoa Kỳ chế tạo với công suất 300 lít/phút hút toàn bộ các hoá chất, chất thải chứa dầu mỡ vào bể xử lý. Máy bơm Wilden có khả năng hút được toàn bộ các chất thải dạng bùn nên bảo đảm hút sạch các chất vào nơi thu gom. Chất thải nhiễm dầu, mỡ được xử lý bằng hoá chất Greese Master, Rutesco nhập ngoại để tẩy dầu, mỡ, tẩy gỉ. Các hoá chất này đều nằm trong danh mục các hóa chất có độc tính thấp do Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công an cho phép sử dụng ở nước ta. Chất thải đã qua xử lý bảo đảm tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh công nghiệp và vệ sinh môi trường, không còn khả năng gây ô nhiễm. XNSC - ĐMPTT đã xây dựng Bộ Quy trình Công nghệ, Hướng dẫn sử dụng hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ CT-128 theo các tiêu chuẩn quy định hiện hành của hệ thống tiêu chuẩn về môi trường của nước ta. Chi phí cho đầu tư nghiên cứu, lắp đặt dây chuyền công nghệ hệ thống xử lý chất thải nhiễm dầu, mỡ CT-128 của Xí nghiệp lên tới gần 1 tỷ đồng. Nguồn: Quân đội Nhân dân, 5/6/2004 Giảm thiểu, tái chế và tái sử dụng chất thải Trong vòng 5-6 năm trở lại đây, cum từ "sản xuất sạch hơn" đã quen dần ở Việt Nam. Sản xuất sạch là biện pháp giảm thiểu chất thải, tiết kiệm nguyên liệu và nâng cao hiệu quả kinh tế cho các doanh nghiệp. Một loạt công nghệ sản xuất sạch do Trung tâm sản xuất sạch đặt tại Đại học Bách Khoa Hà Nội nghiên cứu, ứng dụng tại một số cơ sở dệt, nhuộm, chế biến thực phẩm đã giúp các cơ sở này dần ra khỏi danh sách các doanh nghiệp gây ô nhiễm nặng bị Nhà nước xử lý. Trung tâm nhiệt đới Việt-Nga, chi nhánh phía Nam, thực hiện công trình "Nghiên cứu các giải pháp công nghệ trong thiết kế chế tạo các thiết bị xử lý bụi, vi khuẩn, độc tố hoá chất, nước để nâng cao chất lượng các sản phẩm dược và thuỷ sản xuất khẩu", từ năm 2001 đến hết 2003, đã cho ra đời 28 loại thiết bị-sản phẩm xử lý ô nhiễm bụi, vi khuẩn và hoá chất độc; thiết bị điều chế không khí vô trùng... Các nhà nghiên cứu cũng đã thiết kế, chế tạo thành công các thiết bị xử lý nước cấp, nước thải chứa kim loại nặng, chứa beta-lactam trong sản xuất dược và chế tạo một số loại khẩu trang phòng độc, phòng sự cố môi trường về sinh học và hoá học. Mới đây, các nhà khoa học ở Đại học Văn Lang, thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra ý tưởng xây dựng trung tâm trao đổi chất thải công nghiệp (một trong những chiến lược hình thành khu công nghiệp sinh thái) để giải quyết những vấn đề về rác thải công nghiệp nói chung, nhất là trong các khu công nghiệp-khu chế xuất. Trung tâm này có chức năng vừa cung cấp thông tin về chất thải cần trao đổi giữa các nhà máy trong khu công nghiệp, vừa là cơ sở tiếp nhận, sơ chế hoặc tái chế chất thải trước khi cung cấp cho những nơi có nhu cầu dưới dạng một khu liên hợp tái sinh, tái chế chất thải. Đây là ý tưởng xuất phát từ thực tế hoạt động tái sử dụng, tái sinh, tái chế và trao đổi chất thải đã và đang diễn ra tại nhiều cơ sở sản xuất trong các khu công nghiệp. Chẳng hạn như ở khu công nghiệp Biên Hoà 1, tại 53 doanh nghiệp có chất thải rắn, có tới 14 doanh nghiệp tái sử dụng phế liệu, phế phẩm trong chính dây chuyền công nghệ của cơ sở mình; 5 doanh nghiệp đã trao đổi phế liệu với nhau như dây đồng và nhựa phế phẩm, sắt thép, phế liệu và phôi kim loại. Công nghệ tái chế nhựa thành nhiều sản phẩn khác nhau cũng đang được ứng dụng ở nhiều cơ sở. Tại Khánh Hoà, rác thải Nix (từ xỉ đồng) của nhà máy đóng tàu Hyundai Vinashin thải ra đã được sử dụng làm vật liệu trong gạch trang trí và gạch bê tông tự chèn, gạch blok trồng cỏ, gạch xây tường có độ chịu lực cao gấp nhiều lần so với bình thường. Tuy nhiên, các hoạt động tái sử dụng, tái chế , tái sinh các loại phế liệu mới chỉ áp dụng đối với các loại phế liệu có giá trị cao và chưa có hệ thống, nhiều khi thông qua những người thu mua phế liệu hoặc những cơ sở tái chế ở bên ngoài khu công nghiệp, rủi ro trong quá trình vận chuyển chất thải cao, quá trình tái chế thủ công làm phát sinh nhiều sản phẩm phụ khác, đôi khi mức độ ô nhiễm môi trường của các sản phẩm phụ này còn cao hơn phế phẩm tái chế. Tiềm năng tái sử dụng chất thải, nước thải chưa được sử dụng triệt để. Chưa kể tới việc xử lý và tận dụng một cách hợp lý một lượng khổng lồ rác thải sinh hoạt và rác độc hại từ các khu công nghịêp, rác thải y tế. Trong dự thảo báo cáo cuối cùng của đoàn nghiên cứu thí điểm về "Tái sử dụng hữu hiệu rác thải công nghiệp và rác thải sinh hoạt để cải thiện môi trường và phòng ngừa ô nhiễm tại Việt Nam", Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) đã đưa ra một số đề xuất như sử dụng chất thải làm một phần trong nguyên liệu sản xuất xi măng, làm phân và nuôi giun. Sử dụng rác và gas từ các bãi rác làm nguyên liệu cho nhà máy điện. Theo đoàn chuyên gia, với lượng rác ở thành phố Hồ Chí Minh, thành phố này có thể xây dựng ba nhà máy sản xuất điện với tổng chi phí đầu tư khoảng gần 42 triệu USD, thời gian hoàn vốn 18 năm. Nguồn: TTXVN, 6/8/2004 Hệ thống chuyển đổi nhiệt của ống khói thành điện Một hệ thống được thiết kế để thu nhiệt thải từ các ống khói công nghiệp thành điện có thể làm tăng hiệu suất đáng kể ở các nhà máy điện, giảm thiểu các phát thải cácbon. Hệ thống này còn giúp giảm đáng kể chất ô nhiễm độc hại vào khí quyển. Đối với hiệu suất của hệ thống thu nhiệt này, điều quan trọng là sử dụng hơi prôpan ưu việt hơn hơi thông thường để chạy tuabin phát điện. Hệ thống này cũng có thể hoạt động trong điều kiện nhiệt thải có nhiệt độ thấp. Khi hơi được sử dụng để chạy máy phát, chúng phải được nén và nhiệt độ tăng đến 650°C. Ở dưới mức 450°C, quy trình hoạt động không hiệu quả bởi áp suất hơi sẽ giảm xuống rất thấp. Điều này có nghĩa là nhiệt trong khí ống khói ở mức dưới 450°C sẽ không thể dùng để phát điện và do vậy chúng sẽ thoát ra ngoài khí quyển. Đó cũng là một lý do tại sao các nhà máy điện chạy bằng nhiên liệu hóa thạch có hiệu suất chung chỉ là khoảng 35%. Nhiều quy trình sản xuất công nghiệp như ở các nhà máy hóa chất và lọc dầu đều có lỗ thoát nhiệt thải. Khác với nước, prôpan có nhiều đặc điểm phù hợp để sản xuất điện ở nhiệt độ thấp hơn. Sau khi được nén ở trạng thái lỏng, điểm sôi của prôpan hạ thấp, tức là prôpan có thể bay hơi ở nhiệt độ thấp hơn nước. Nhưng prôpan vẫn còn chứa nhiều nhiệt hữu ích sau khi đi qua turbine, vì vậy phần lớn nhiệt vẫn thoát ra và do hiệu suất chỉ tăng lên chút ít nên thường không có hiệu quả. Daniel Stinger, kỹ sư về tuabin và Farouk Mian - kỹ sư hóa dầu đã phát triển một phương pháp đơn giản để khai thác hầu hết phần nhiệt thải này. Họ đã dự định đặt một tuabin thứ hai hoạt động nhờ vào nhiệt dư từ tuabin thứ nhất, có thể thu hết phần năng lượng dư thừa. Nhiệt dư từ tuabin thứ nhất có thể bay hơi, sau đó được nén cho tới khi có đủ prôpan để vận hành được tuabin thứ hai. Hai kỹ sư này cho rằng nhiệt độ của dòng khí ống khói sau quy trình sẽ là 55 °C. Họ cũng đã thành lập công ty Wow Energy, tại Sugar Land, Texas, để cấp giấy phép công nghệ cho ngành công nghiệp một khi được cấp bằng sáng chế. Quan niệm của Wow có thể cho phép ngành công nghiệp sử dụng các nguồn nhiệt thải dưới 450 °C. Các tính toán của công ty Wow Energy cho thấy những nhà máy điện sử dụng tuabin kép có thể tăng hiệu suất từ 35% đến 60%. Hai công ty BP và Chevron Texaco đang rất quan tâm tới việc lắp đặt hệ thống để khai thác lượng nhiệt thải các nhà máy công nghiệp của họ.Theo cách này, nếu chỉ chuyển đổi khoảng 20% lượng nhiệt thải để chuyển thành điện, thỉ chỉ riêng Hoa Kỳ cũng đã tăng thêm được hơn 200 giga oát công suất phát điện - chiếm gần 20% các nhu cầu về điện. Giá điện không thể thấp hơn nữa, vì hệ thống này có thể sản xuất 1 Mega oát điện bằng với giá điện sản xuất bằng các tuabin hơi truyền thống. Song nhiều điện được sản xuất ra từ cùng một lượng nhiên liệu có nghĩa ít phát thải CO2 hơn. Nhưng chu trình sản xuất khép kín của Wow Energy vẫn chưa được thử nghiệm, song các kỹ sư nghiên cứu cho rằng phương pháp này rất khả thi và có kết quả. Nếu hệ thống này hoạt động, sẽ mở ra triển vọng về khả năng thu nhiệt thừa ở mức thấp mà hiện nay chưa được thử nghiệm khai thác. Một ưu điểm tiềm năng khác là nhờ có hệ thống này mà nhiệt độ của khí thải từ ống khói có thể giảm xuống còn 55°C. Nhiều chất ô nhiễm thâm nhập vào khí quyển như oxit thủy ngâm và oxit cađimi có thể lắng đọng trong ống khói, sau đó có thể được xử lý an toàn bằng xử lý hóa học. Nguồn: New Scientist, 7/2004 Dùng than antraxit xử lý nước thải công nghiệp Sản phẩm than antraxit được coi là loại vật liệu lọc nước lý tưởng, đặc biệt trong xử lý nước thải công nghiệp. Than antraxit đã được đối tác Nhật Bản đặt mua. Từ lâu, người ta đã phát hiện ra rằng, than antraxit có tính chất vật lý tương đối tốt, không bị tác động bởi các chất hoá học, than có nhiều góc cạnh, độ rỗng cao,v.v..., khi sử dụng để lọc ngược lưu hay lọc nước trong hồ lớn sẽ mang lại hiệu quả cao mà không một vật liệu lọc nào có thể thây thế được. Vì vậy, than antraxit là loại vật liệu lọc nước lý tưởng. Hiện nay, Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Dịch vụ và Đầu tư Việt Nam (Vicosimex) có nhà máy sản xuất vật liệu xử lý nước thải công nghiệp với đủ loại sản phẩm phong phú, có thể xử lý được tất cả các loại nước thải công nghiệp. Công ty Vicosimex cho biết, việc xử lý nước thải công nghiệp đang là một vấn đề quan trọng trong việc bảo vệ môi trường. Xuất phát từ ý tưởng xử lý các chất thải công nghiệp để đem lại môi trường trong sạch, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của Vicosimex đã nghiên cứu và chế tạo thành công loại than antraxit lọc nước. Công ty đã xây dựng nhà máy sản xuất loại than này với tổng vốn đầu tư hơn 3 tỷ đồng và 500 tấn than antraxit đầu tiên đã được Công ty xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Than antraxit do Vicosimex sản xuất ra chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Nhật Bản, vì vậy chất lượng sản phẩm phải đáp ứng theo các tiêu chuẩn của Hiệp hội Cấp nước Nhật Bản, tất cả được đánh giá trên cơ sở mật độ phân bố cỡ hạt, tính hóa học của than (thành phần) và tiêu chuẩn về cơ lý của sản phẩm,v.v... Ngoài ra, sản phẩm được sản xuất theo đúng tiêu chuẩn quy trình công nghệ của người mua yêu cầu như Công ty Tokai Sand (Nhật Bản), từ khâu nghiền nguyên liệu đến việc đóng gói thành phẩm. Với quy trình công nghệ này, sản phẩm được bảo đảm chất lượng tốt nhất, đáp ứng được nhu cầu của thị trường Nhật Bản và trong tương lai, sản phẩm này sẽ là một trong những vật liệu xử lý nước thải công nghiệp của Việt Nam. Hiện nay, Vicosimex đang nghiên cứu, xúc tiến việc đưa loại than lọc nước này vào sử dụng tại các khu công nghiệp của các tỉnh miền Trung, trước mắt là Khu công nghiệp Hòa Khánh (Tp. Đà Nẵng). Bước đi này của Vicosimex đã được lãnh đạo TP. Đà nẵng và các nhà khoa học của Đại học Đà Nẵng đặc biệt quan tâm và ủng hộ. Sự ra đời của than Anthracite lọc nước thải đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc nghiên cứu chất xử lý nước thải công nghiệp, nhằm baor vệ môi trường trong sạch hơn. Nguồn: Đầu Tư, 30/7/2004 Quy trình mới sản xuất nhiên liệu hydro Các nhà khoa học Ôxtrâylia đã tạo ra một đột phá về sử dụng ánh nắng mặt trời để sản xuất hydro từ nước, đây có thể là nguồn năng lượng sạch thay thế cho các nguồn nhiên liệu hóa thạch trên thế giới đang cạn kiệt dần. Nhiều người cho rằng đây sẽ là nguồn nhiên liệu sạch và có hiệu quả nhất để cung cấp nguồn năng lượng cho các phương tiện từ xe cộ tới lò sưởi và máy điều hòa. Từ lâu các nhà khoa học đã biết cách tách nước thành hai nguyên tố oxy và hydro. Tuy nhiên, quy trình xử lý này cần có nguồn điện, nhất là điện được lấy từ các nhiên liệu hóa thạch, điều này làm cho quy trình không hiệu quả và tốn kém. Janusz Nowotny và Charles Sorrell là những nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm nghiên cứu nguyên liệu để bảo tồn năng lượng, Đại học New South Wales, Sydney, Ôxtrâylia đang nghiên cứu một phương pháp tiết kiệm sử dụng titan dioxit (TiO2) làm chất xúc tác trong quá trình tách nước thành oxy và hydro nhờ sử dụng năng lượng mặt trời. Chất liệu của kem đánh răng TiO2 được sử dụng phổ biến làm chất mầu trắng trong sơn, giấy, mỹ phẩm, kem chống nắng và kem đánh răng. TiO2 được tìm thấy ở dạng tinh khiết nhất không những trong rutil, cát biển mà còn được tách từ một số loại quặng. Tại Hội thảo quốc tế về các nguyên liệu để sản xuất năng lượng hydro, tại Sydney, Nowotny và Sorrel thông báo đã tìm ra phương pháp làm tăng đáng kể hiệu suất của quy trình sử dụng ánh sáng mặt trời để tách hydro từ nước nhờ thiết bị phát hiện TiO2.Nowotny cho biết: Thị trường hydro có nhiều tiềm năng hơn so với các thị trường than đá, dầu và khí hiện nay. Mặc dù thời tiết nắng ở Ôxtrâylia là địa điểm lý tưởng để sản xuất năng lượng mặt trời, song Sorrel vẫn cho rằng công nghệ này có thể áp dụng ở mọi nơi trên thế giới. Hiệu ứng Honda – Fujishima Năm 1967, các nhà khoa học Nhật Bản đã phát hiện TiO2 được sử dụng để tách hydro từ nước trong quy trình gọi là hiệu ứng Honda – Fujishima. Phát hiện này đã được đăng trên tạp chí Nature và nhận được nhiều giải thưởng bao gồm Giải thưởng của Nhật Bản năm 2004 về Công nghệ hóa chất đối với môi trường. Hydro là nhiên liệu “rất đơn giản song lại rất hiệu quả”. Kể từ khi phát hiện vào năm 1967, nhiều nghiên cứu đã tập trung vào các nguyên liệu có thể được dùng để tách nước nhờ ánh nắng mặt trời. Fujishima, Chủ tịch Viện hàn lâm Khoa học và Công nghệ Kanagawa cho rằng, sử dụng TiO2 làm chất xúc tác để sản xuất năng lượng sẽ làm cho “không khí, nước và khí quyển sạch hơn”. Cần nhiều năm để sản xuất năng lượng hydro Thế giới còn phải mất nhiều thời gian mới có thể chuyển được từ sử dụng các nhiên liệu hóa thạch sang nhiên liệu hydro trên quy mô lớn để đáp ứng các nhu cầu về năng lượng. Trước hết, hiệu ứng Honda – Fujishima dù có tăng hiệu suất đáng kể, song vẫn phải được thích nghi với các thiết bị được sử dụng khả thi về mặt thương mại. Các kỹ sư sẽ phải thiết kế pin nhiên liệu để thu ánh nắng mặt trời từ mái nhà và từ những nơi khác trên trái đất. Cơ sở hạ tầng năng lượng của thế giới chủ yếu vẫn dựa vào các nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân. Việc chuyển từ xe chạy bằng xăng và các trạm khí sang nhiên liệu hydro sẽ cần tới một khoản đầu tư lớn và mất nhiều năm. Các vấn đề về lưu giữ và an toàn vẫn cần phải được giải quyết. Hydro sẽ không bao giờ rẻ như các dạng năng lượng hiện có. Khi buộc các công ty phải chịu trách nhiệm về thiệt hại môi trường thì sẽ không một công ty nào lại sử dụng bất cứ nhiên liệu nào khác ngoài hydro. Nguồn: National Geographic News, 27/8/2004 Thiết bị lọc nước sạch có quy mô nhỏ Các nhà khoa học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam vừa hoàn thiện một thiết bị lọc nước quy mô nhỏ, cho phép lọc nước sạch từ nhiều loại nước có sẵn trong tự nhiên theo quy trình chưng cất, với sự hỗ trợ của ánh sáng mặt trời. Theo PGS.TS. Nguyễn Tiến Tài, trưởng nhóm nghiên cứu ở Viện Hoá học thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, với thiết bị được chế tạo thử này, những vùng khan hiếm nước ngọt như hải đảo, núi cao, vùng sâu vùng xa, vùng khan hiếm nước sạch có thể yên tâm thu được ít nhất 2-4 lít nước hoàn toàn sạch mỗi ngày vào ngày có nắng. Nước nguyên liệu đầu vào có thể là một trong các loại nước phổ biến như nước sông, ao, hồ, nước phèn, hoặc nước mặn. Cơ chế hoạt động của thiết bị thực ra không mới. Một trong những bộ phận chính của thiết bị là bề mặt hấp thụ ánh nắng mặt trời đồng thời là bề mặt ngưng tụ nước bốc hơi. Sự độc đáo của thiết bị này ở Viện Hoá học là có thể vẫn hoạt động chưng cất nước bình thường sau 4-8 tiếng từ khi tắt nắng. Nhờ vậy, sản lượng nước sạch thu được với thiết bị cùng kích cỡ tăng gần gấp đôi. Nguồn: Tiền Phong, 21/9/2004 Sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt Công ty Cổ phần Dây lưới thép Nam Ðịnh (Winesco), đơn vị Anh hùng Lao động sản xuất dây thép mạ kẽm, lưới thép mắt xích, lưới lục giác cỡ nhỏ, lưới ô vuông nan sóng, dây thép gai, rọ đá,v.v... Trong quá trình sản xuất, Winesco thải ra một số lượng lớn chất phế thải độc hại, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nếu chỉ tính trong một tháng, con số đó đã lên đến 45 tấn hay 90 m3 chất thải, không biết thiêu hủy ở đâu. Để giải quyết ô nhiễm bảo vệ môi trường, tập thể các nhà khoa học do TS. Lê Thị Mai Hương, Phó Chủ nhiệm Bộ môn Công nghệ vô cơ (Trường đại học Bách khoa Hà Nội) đứng đầu, đã nghiên cứu đề tài khoa học: "Sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt". Khác với cách xử lý truyền thống các chất phế thải từ trước đến nay ở nước ta: Từ các chất phế thải độc hại phát sinh trong quá trình sản xuất, xử lý thành các chất ít độc hại hơn rồi thải ra môi trường, các nhà khoa học lại chọn cách đi khác với ý tưởng độc đáo: Chủ động xử lý, biến hóa chất phế thải thành nguyên liệu để sản xuất ra các sản phẩm khác phục vụ công nghiệp và đời sống, tức là tìm ra công nghệ xử lý chất thải bằng phương pháp không thải hoặc ít thải. Các tác giả đã sử dụng dung dịch tẩy gỉ sắt phế thải làm nguyên liệu để sản xuất ra chất keo tụ hiệu quả cao có gốc nhôm ở dạng Ala(OH)b Clx(SO4)y thay cho chất keo tụ PAC nhập từ nước ngoài. Sau gần một năm nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, đối chiếu, so sánh với thực tế ngoài hiện trường, các nhà khoa học trẻ tuổi Trường đại học Bách khoa Hà Nội, đã thành công trong việc tìm ra quy trình công nghệ, xây dựng được dây chuyền sản xuất chất keo tụ hiệu quả cao từ dung dịch tẩy gỉ sắt, có công thức tổng quát Ala(OH)b Clx(SO4)y sử dụng vào việc xử lý nước cấp và nước thải. Sản phẩm chất lượng tốt, ban đầu có thể tiêu thụ trên thị trường. Hiện nay, dây chuyền xử lý được toàn bộ dịch tẩy gỉ sắt do Winesco sản ra với công suất 1,5 tấn PAC khô/ngày, hoặc ba tấn dịch PAC/ngày; đồng thời thu hồi được 200 kg sắt kim loại. Cùng một lúc đề tài khoa học trên đạt được ba mục đích: Tiết kiệm, tận dụng phế liệu đem lại hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường. Ðề tài mang tính xã hội sâu sắc và có ý nghĩa lớn trong lĩnh vực bảo vệ môi trường ở nước ta. Hiện nay, các nhà khoa học Trường đại học Bách khoa Hà Nội đang bước vào giai đoạn tiếp theo của đề tài: Xây dựng dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh với thiết bị hiện đại đủ sức cung cấp chất keo tụ hiệu quả cao cho công nghiệp và sinh hoạt từ dung dịch tẩy gỉ sắt ở các nhà máy mạ trong nước, hình thành thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định. Nguồn: Nhân dân, 21/9/2004 Ứng dụng công nghệ để cắt giảm một nửa phát tán khí thải của xe cộ Trung tâm tương lai không khí sạch thuộc các bang vùng đông bắc Hoa Kỳ (NESCCAF), tổ chức không khí sạch phi lợi nhuận đã công bố một nghiên cứu tổng hợp “Giảm phát tán khí nhà kính của các loại xe động cơ nhẹ” cho thấy: việc kết hợp các công nghệ tiên tiến hiện nay có thể cắt giảm được một nửa lượng phát tán khí nhà kính của các xe chở khách, đồng thời tiết kiệm tiền cho các hành khách. Cũng theo nghiên cứu, trong vòng 5-10 năm tới, có thể giảm hơn 47% lượng phát tán khí nhà kính của các xe có động cơ nhờ việc kết hợp các công nghệ hiện đang được sản xuất hoặc đang triển khai trên toàn thế giới. Điều quan trọng là các hành khách thực sự có thể tiết kiệm tiền do các công nghệ này sử dụng ít nhiên liệu hơn. Ken Colburn, Giám đốc điều hành NESCCAF cho biết: Đây là biện pháp làm sạch với chi phí thấp. Những kết quả nghiên cứu chứng tỏ nhờ sử dụng các công nghệ hiện nay cũng như các công nghệ sẽ được áp dụng, có thể cắt giảm một nửa các phát tán khí nhà kính từ các xe chở khách trong thập kỷ tới, đồng thời các xe chở khách sẽ sử dụng ít xăng hơn. Tiết kiệm nhiên liệu có thể sẽ bù đắp nhiều hơn cho giá mua xe ban đầu cao do được trang bị công nghệ sạch”. Nghiên cứu của NESCCAF đã kiểm tra 35 công nghệ, trong đó có 32 công nghệ hiện đang được bán trên thị trường toàn cầu. Hai phần ba số công nghệ hiện có này đã được ứng dụng sản xuất trên quy mô lớn. Susan Tierney, trong nhóm phân tích của Công ty, kiêm Phó chủ tịch NESCCAF và nguyên là Thứ trưởng Bộ Năng lượng Hoa Kỳ cho biết: “Nghiên cứu này của NESCCAF chứng tỏ, một khi các xe có động cơ sạch hơn được đưa vào sử dụng thì các hành khách sẽ có thể cùng góp phần giải quyết nóng lên toàn cầu và tiết kiệm được tiền”. Ở vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, các ô tô con hiện phát thải gần 1/4 tổng lượng phát tán khí nhà kính. Sự gia tăng nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển đang làm biến đổi khí hậu tự nhiên của Trái đất. Theo nghiên cứu của NESCCAF, thì các công nghệ đang được áp dụng và sẽ được triển khai có thể cắt giảm các khí nhà kính, đồng thời tiết kiệm được các chi phí cho hành khách của mọi loại xe bao gồm các xe ô tô con, ô tô cỡ lớn, xe mini, ô tô tải nhỏ, ô tô tải to. Các hành khách có thể tiết kiệm được tiền do các chi phí nhiên liệu giảm, nhờ giảm 47% phát tán khí nhà kính. Có thể giảm khí nhà kính và tạo ra các lợi ích từ việc tiết kiệm chi phí do sử dụng các công nghệ trong các hộp truyền động tự động 6 tốc độ cũng như các công nghệ tiên tiến hơn, như bộ truyền động điện lai và phun xăng trực tiếp. Steve Suttle, Phó chủ tịch kiêm tổng giám đốc Ban Công nghệ môi trường, Công ty Coring, Chủ tịch NESCCAF cho biết: “Giảm phát tán khí nhà kính của các xe cộ là một nội dung quan trọng của chiến lược khí hậu toàn diện phải có sự tham gia của tất cả các ngành công nghiệp. Nghiên cứu này cung cấp cho các nhà quản lý, các nhà ra quyết định những thông tin quan trọng về cách thức để có thể kiểm soát được chi phí hiệu quả của xe phát tán khí nhà kính”. Nghiên cứu đã dựa trên phần mềm mô phỏng của máy tính hiện đại để đánh giá những tác động phát tán của các công nghệ khác nhau. Phần mềm máy tính này cho phép NESCCAF đánh giá sự kết hợp các công nghệ trên phạm vi rộng và cho phép định lượng các mức giảm phát tán của các công nghệ đó. Năm 2001, Thống đốc bang New England và Đông Canada đã phối hợp xây dựng Kế hoạch hành động biến đổi khí hậu với mục đích ổn định các mức phát tán khí nhà kính vào năm 2010 bằng các mức của năm 1990 và đến năm 2020 sẽ giảm các phát tán khí nhà kính thấp hơn 10% so với mức năm 1990. Ngoài California, nhiều bang của Hoa Kỳ cũng đã thông qua các tiêu chuẩn về xe có động cơ sạch hơn. Nguồn: Earthvision, 9/2004 Thiết bị mới sản xuất điện năng và xử lý được nước thải Theo các nhà khoa học, Đại học quốc gia Pennsylviania, Hoa Kỳ, công nghệ mới đang được triển khai có thể biến nước thải thành điện năng. Thiết bị này còn gọi là pin nhiên liệu vi khuẩn, không chỉ xử lý được nước thải mà còn cung cấp nguồn năng lượng sạch với chi phí thấp. Mặc dù công suất còn tương đối thấp, song các nhà khoa học cho biết: công nghệ này đang được cải tiến nhanh chóng và có thể được sử dụng để vận hành nhà máy xử lý nước thải quy mô nhỏ, điều này sẽ thu hút sự quan tâm đặc biệt của các nước đang phát triển. Ngoài ra, công nghệ còn được dùng để xử lý chất thải từ các trại chăn nuôi, các nhà máy chế biến thực phẩm và thậm chí là cho các đoàn nghiên cứu trong vũ trụ. Cũng giống như pin nhiên liệu hydro, pin nhiên liệu vi khuẩn giữ lại các electron do vi khuẩn thải ra một cách tự nhiên khi chúng tiêu hoá chất hữu cơ và sau đó chuyển các electron thành dòng điện. Bruce Logan, Tiến sỹ về kỹ thuật môi trường, Đại học quốc gia Pennsylviania cho biết: các nhà khoa học đã phát điện với công suất 72W/m=, lớn gấp 2,8 lần công suất của một thiết bị đã được đưa vào vận hành vào đầu năm 2004. Mặc dù công suất phát điện vẫn tương đối nhỏ, nhưng các nhà nghiên cứu đã sử dụng những loại thiết bị phát điện này để chạy các loại quạt công suất nhỏ. Dự kiến các nhà nghiên cứu sẽ phát điện với công suất lên tới khoảng 500 -1000 W/m2. Công nghệ này sẽ được ứng dụng phổ biến nhất trong các nhà máy xử lý nước thải, đặc biệt các nhà máy xử lý nước thải có thể tự cung cấp điện khi vận hành. Công nghệ này đặc biệt có lợi cho các nước đang phát triển. Logan cho rằng: do công nghệ tạo ra sản lượng điện không lớn, nên có thể duy trì vận hành nhà máy ngoài mục đích xử lý nước thải. Theo tính toán của David Bagley, nhà khoa học thuộc Đại học Toronto, Canađa, thì tiềm năng năng lượng của nước thải lớn hơn 10 lần chi phí để xử lý nó. Logan cho rằng: Chỉ cần thu được 1/20 nguồn năng lượng này là có thể “hoà vốn”. Trong hệ thống công nghệ, hai điện cực được ngăn cách bằng một màng trao đổi proton (PEM),

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbai_giang_may_phat_dien_su_dung_trau.pdf
Tài liệu liên quan