Giáo trình Lý thuyết tài chính-Tiền tệ - Nguyễn Thị Lan Anh

Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 0 TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC KHOA KINH TẾ  *  PHẦN CHUẨN BỊ BÀI MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ Giảng viên: Nguyễn thị Lan Anh Sinh viên: Đỗ Xuân Đức Lớp: K50 ĐH QTKD Sơn la, 02/2011 Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 1 CHƯƠNG 1: ĐẠI CƯƠNG VỀ TIỀN TỆ,TÍN DỤNG VÀ TÀI CHÍNH. CÂU 1: Tiền tệ là gì? Vì sao phải nghiên cứu Tiền tệ ? - Tiền tệ là một phạm trù kinh tế nhưng cũng lại là một phạm trù lịch sử. Sự xuất

pdf48 trang | Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Lý thuyết tài chính-Tiền tệ - Nguyễn Thị Lan Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện của tiền tệ là một phát minh vĩ đại của loại người trong lĩnh vực kinh tế, nó có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng các hoạt động giao lưu kinh tế, làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội. Vậy, tiền tệ là cái gì? Nó ra đời từ lúc nào?. Để tìm hiểu rõ về nguồn gốc ra đời của tiền tệ, có rất nhiều các quan điểm khác nhau. Trong kinh tế chính trị của các nước phương Tây hình thành nên hai trường phái: * Một truờng phái cho rằng tiền tệ ra đời là kết quả tất yếu khách quan của quá trình trao đổi hàng hóa (Trường phái kinh tế chính trị học cổ điển như: Adam Smith, David Ricardo) * Trường phái thứ hai giải thích sự xuất hiện của tiền như là một sự kiện có tính chất tâm ly (như hai nhà tâm ly học W.Gherlop và Smondest). Họ cho rằng: “Nguồn gốc của tiền tệ không nằm trong quá trình trao đổi hàng hóa mà do lòng ham muốn hiểu biết và nhu cầu làm đẹp là bản tính của đàn bà. Còn bản tính của đàn ông lại là danh vọng, và sự ham muốn có nhiều tiền” + Theo Mác, trong lịch sử phát triển của loại người, lúc đầu con người sống thành bầy đàn, kiếm ăn một cách tự nhiên, chưa có chiếm hữu tư nhân, chưa có sản xuất và trao đổi hàng hóa nên chưa có tiền tệ. Tuy nhiên, ngay từ trong xã hội nguyên thủy đã xuất hiện mầm móng của sự trao đổi. Lúc đầu trao đổi mang tính chất ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp vật này lấy vật khác. Giá trị (tương đối) của một vật được biểu hiện bởi giá trị sử dụng của một vật khác duy nhất đóng vai trò vật ngang giá. Khi sự phân công lao động xã hội lần thứ nhất xuất hiện, bộ lạc du mục tách khỏi toàn khối bộ lạc, hoạt động trao đổi diễn ra thường xuyên hơn. Tương ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị mở rộng. Tham gia trao đổi bây giờ không phải là hai loại hàng hóa mà là một loạt các loại hàng hóa khác nhau. Đây là một bước phát triển mới, tiến bộ so với hình thái giá trị giản đơn, song bản thân nó còn bộc lộ một số thiếu sót: Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 2  Biểu hiện tương đối của giá trị mọi hàng hóa chưa được hoàn tất, vẫn còn nhiều hàng hóa làm vật ngang giá.  Các hàng hóa biểu hiện cho giá trị của một hàng hóa lại không thuần nhất. Phân công lao động xã hội và sản xuất phát triển thì hình thức trao đổi hàng hóa trực tiếp ngày càng bộc lộ các nhược điểm của nó. Các hàng hóa chỉ được trao đổi với nhau khi những người chủ của nó có cùng muốn trao đổi, muốn trùng khớp. Như vậy, cùng với sự phát triển của sản xuất thì trao đổi trực tiếp ngày càng khó khăn và làm cho mâu thuẫn trong lao động và phân hóa lao động xã hội ngày càng tăng. Do đó, tất yếu đòi hỏi phải có một thứ hàng hóa đặc biệt đóng vai trò vật ngang giá chung tất ra từ tất cả các thứ hàng hóa khác và các hàng hóa khác có thể trao đổi được với nó, ví dụ như súc vật. Thích ứng với giai đoạn phát triển này của trao đổi là hình thái giá trị chung. Nhưng trong giai đoạn này, tác dụng của vật ngang giá chung vẫn chưa cụ thể tại một thứ hàng hóa nào, trong những vùng khác nhau thì có những thứ hàng hóa khác nhau có tác dụng làm vật ngang giá chung. Cuộc phân công lao động xã hội lần thứ hai xuất hiện, thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp làm cho sản xuất hàng hóa phát triển và thị trường mở rộng. Tình trạng nhiều hàng hóa có tác dụng vật ngang giá chung phát sinh mâu thuẫn với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường, thị trường đòi hỏi phải thống nhất một vật ngang giá đơn nhất. Khi vật ngang giá chung cố định ở một loại hàng hóa thì sinh ra hình thái tiền tệ. Khi đó, tất cả hàng hóa được biểu hiện giá trị của nó trong một thư hàng hóa, thứ hàng hóa đó trở thành vật ngang giá chung. Như vậy, tiền tệ xuất hiện sau một quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và của các hình thài giá trị. Tóm lại, tiền tệ là một phạm trù lịch sử, nó là sản phẩm tự phát của nền kinh tế hàng hóa, sản phẩm của sự phát triển các hình thái giá trị. Đồng thời cũng là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong sản xuất hàng hóa. Sự ra đời và phát triển của tiền tệ gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Khái niệm tiền tệ: - Mọi người đều biết tiền tệ là một thuật ngữ rất quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội, tuy nhiên, khó có thể tìm ra một khái niệm thống nhất về tiền tệ. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 3 +) Theo Mác, Tiền tệ là một thứ hàng hoá đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng hoá, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hoá khác. Nó trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa. +) Irving Fisher cho rằng chỉ có giấy bạc ngân hàng là tiền tệ, +) Trong khi Conant Paul Warburg cho rằng chi phiếu cũng là tiền tệ. +) Theo các nhà kinh tế hiện đại ( Samuelson): Tiền được định nghĩa là bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc trong việc trả nợ. Theo Charles Rist thì cái thật quan trọng đối với nhà kinh tế không phải là sự thống nhất về một định nghĩa thế nào là tiền tệ mà phải biết và hiểu hiện tượng tiền tệ. PHẢI NGHIÊN CỨU TIỀN TỆ. VÌ: - Tiền ra đời do nhu cầu trao đổi của con người, sự ra đời của tiền được đánh dấu bởi sự phát triển của một loạt các hình thái giá trị. - ...................... NX:................................................................................................................................. ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... CÂU 9: Sự ra đời của phạm trù tài chính. Tiền đề ra đời của tài chính Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó gắn liền với sự phát triển của xã hội loài người. Từ toàn bộ lịch sử phát sinh, phát triển của tài chính chúng ta thấy: Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn tại. Có thể xem những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan đó là những tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính. Karl Marx trong tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính trị học đã chỉ ra hai tiền đề ra đời của tài chính, đó là sự Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 4 ra đời, tồn tại của Nhà nước và sự xuất hiện, phát triển của nền sản xuất hàng hoá - tiền tệ. Tiền đề thứ nhất: Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước. Trong các hình thái xã hội có Nhà nước, tài chính đã từng tồn tại với tư cách là một công cụ trong tay Nhà nước để phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đảm bảo cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong xã hội loài người là Nhà nước chủ nô, cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nó, những hình thức sớm của tài chính như thuế cũng bắt đầu xuất hiện.Khi một hình thái xã hội mới thay thế một hình thái xã hội cũ, thì một nền tài chính mới ra đời phù hợp với hình thái Nhà nước mới. F. Ănghen viết : “Để duy trì quyền lực công cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước, đó là thuế má. Với những bước tiến của văn minh thì bản thân thuế má cũng không đủ nữa; Nhà nước còn phát hành hối phiếu vay nợ, tức là phát hành công trái”. Trong các chế độ xã hội phát triển, các Nhà nước với chức năng quản lý xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng đều tăng cường tài chính của mình. = >> Như vậy, có thể nói rằng trong điều kiện lịch sử nhất định khi có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của Nhà nước thì có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của tài chính. Tiền đề thứ hai: Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Lịch sử phát triển của tài chính cho thấy rằng, khi những hình thức tài chính đầu tiên xuất hiện theo sự xuất hiện của Nhà nước (thuế) thì đã có sự xuất hiện và tồn tại của sản xuất hàng hoá - tiền tệ, và hình thức tiền tệ đã được sử dụng trong lĩnh vực của các quan hệ tài chính như một tất yếu. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, thuế bằng tiền đã được áp dụng (như thuế quan, thuế gián thu, thuế chợ, thuế tài sản). Trong chế độ phong kiến, theo với sự mở rộng các quan hệ thị trường, sản xuất hàng hoá và tiền tệ, lĩnh vực của các quan hệ thuế bằng tiền đã mở rộng và tiến hành thường xuyên hơn (như thuế đất, thuế gián thu với vật phẩm tiêu dùng, thuế hộ gia đình), tín dụng Nhà nước cũng bắt đầu phát triển. Với sự phát triển vượt bậc của kinh tế hàng hoá - tiền tệ thu nhập bằng tiền qua thuế và công trái đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước. Theo với thu nhập bằng tiền, chi tiêu bằng tiền đã làm phong phú các hình thức chi tiêu và linh hoạt trong khi sử dụng vốn. Chính trong thời kỳ phát triển kinh tế tư bản, ngân sách Nhà nước - một loại quỹ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 5 tiền tệ tập trung đã được hình thành và ngày càng có tính hệ thống chặt chẽ, ngày càng đóng vai trò quan trọng phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.Kinh tế hàng hoá tiền tệ càng phát triển, thì hình thức giá trị tiền tệ càng trở thành hình thức chủ yếu của thu nhập và chi tiêu của Nhà nước. Kinh tế hàng hoá - tiền tệ đã mở rộng lĩnh vực của các quan hệ tài chính. Nền kinh tế tư bản ra đời và phát triển, thì hình thức giá trị tiền tệ của các quan hệ tài chính đã là một yếu tố bản chất của tài chính. ==>> Như vậy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ là một tiền đề khách quan quyết định sự ra đời và phát triển của tài chính. Khi nói đến tiền đề của tài chính, một số nhà lý luận kinh tế nhấn mạnh đến tiền đề thứ nhất - tức là nhấn mạnh đến sự tồn tại của Nhà nước; nhưng một số nhà kinh tế khác không tán thành quan điểm đó; các nhà kinh tế này đưa ra ví dụ về một Nhà nước Khơ- me không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, do đó không có nền tài chính. Nhiều nhà lý luận kinh tế nhất trí nhấn mạnh đến tiền đề thứ hai. Theo các nhà kinh tế học này, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ra đời và tồn tại của tiền tệ và cho rằng đây là tiền đề có tính chất quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính. Các nhà lý luận này dẫn chứng bằng thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi đó Nhà nước XHCN không thừa nhận nền kinh tế hàng hoá, nhưng tồn tại tiền tệ nên vẫn tồn tại một nền tài chính. Sự cần thiết khách quan của tài chính Khi nghiên cứu các tiền đề của tài chính, chúng ta thấy rằng: chính sự tồn tại của Nhà nước và sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ quyết định tính tất yếu khách quan tồn tại của tài chính. Trong quá trình phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, Nhà nước ra đời; để tồn tại và phát triển cũng như để thực hiện chức năng quản lý toàn diện xã hội của Nhà nước ở các quốc gia và ở mọi thời kỳ, cần thiết phải sử dụng tài chính. Vì: Thông qua các quan hệ tài chính, để thực hiện phân phối của cải xã hội theo yêu cầu phát triển quốc gia. Sử dụng công cụ tài chính điều tiết một phần thu nhập cuả các thành phần kinh tế, phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội trong các giai đoạn phát triển. Thông qua phân phối tài chính, đảm bảo tái sản xuất xã hội và thực hiện đầu tư phát triển kinh tế.Sử dụng các công cụ tài chính, thực hiện giám sát toàn bộ các hoạt động của quốc gia, đảm bảo sử dụng các nguồn tài chính có hiệu quả.  Tóm lại, sự cần thiết khách quan của tài chính là do sự tồn tại khách quan của các tiền đề tài chính. Trong đó, để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và quản Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 6 lý xã hội, Nhà nước của các quốc gia cần thiết phải nắm lấy tài chính như một công cụ sắc bén để quản lý quốc gia. NX:................................................................................................................................. ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... Chương 2: Hệ thống tài chính. 13.Cấu trúc hệ thống tài chính, mối quan hê giữa các tụ điểm tài chính trong hệ thống tài chính. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH TỔ CHỨC TÀI CHÍNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THỊ TRƯỜNG VỐN TT CỔ PHIẾU CÔNG CỤ TÀI CHÍNH TT TIỀN TỆ KHÔNG KỲ HẠN TT HỐI PHIẾU TT VAY NỢ TT VAY NỢ TT TRÁI PHIẾU TT PHI CHÍNH THỨC NHTM TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NH Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 7 +) Mối quan hê giữa các tụ điểm tài chính trong hệ thống tài chính. * Trước hết là tụ điểm tài chính doanh nghiệp. Chính ở đây nguồn tài chính xuất hiện và cũng chính ở đây thu hút trở về phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Nguồn tài chính của doanh nghiệp – doanh thu do tiêu thụ sản phẩm được phân phối cho các tụ điểm vốn tiếp theo. Trước hết, một phần được sử dụng trực tiếp mua tư liệu sản xuất (TLSX) trên thị trường TLSX. Một phần trả công cho người lao động và chủ doanh nghiệp và lợi tức cổ phần cho người góp vốn, phần này kết hợp với tiền lương của công nhân viên và tài trợ của thân nhân ở nước ngoài hình thành tụ điểm vốn hộ gia đình. Một phần nộp thuế cho Nhà nước hình thành tụ điểm vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN). Một phần mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm hay gửi ở các tổ chức tín dụng hình thành tụ điểm vốn các tổ chức tài chính trung gian. Phần còn lại bổ sung vào các quĩ của doanh nghiệp và có thể tham gia khu vực tài chính quốc tế. Bên cạnh luồng phân phối ra, tài chính doanh nghiệp còn thu hút các nguồn vốn khác để bổ sung nguồn vốn của doanh nghiệp: Vay ngân hàng, phát hành cổ phiếu, liên doanh - Quá trình phân phối các nguồn tài chính trên đây của TCDN làm nảy sinh hàng loạt các mối quan hệ tài chính, trong đó có những quan hệ sẽ tiếp tục phát triển, thay đổi ở các tụ điểm vốn tiếp theo có những quan hệ kết thúc và nguồn tài chính đi vào tiêu dùng cho sản xuất và phi sản xuất. * Thứ hai là tụ điểm vốn NSNN. NSNN có vai trò là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường, và để thục hiện được vai trò đó NSNN phải có các nguồn vốn được động viên từ các khu vực kinh tế, từ dân cư và từ các nguồn tài chính nước ngoài. - Quá trình phân phối tài chính qua tụ điểm này như sau: Nguồn thu của NSNN được hình thành từ các thuế của các doanh nghiệp và dân cư và từ việc phát hành công trái, vay nợ và nhận viện trợ nước ngoài. Đồng thời NSNN sử dụng (phân phối) nguồn tài chính của mình thông qua các khoản chi tiêu thường xuyên và đầu tư phát triển của Chính phủ. Hoạt động thu chi của NSNN làm nảy sinh các mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế và dân cư, giữa Nhà nước với các tổ chức tài chính quốc tế. Mặt khác, chi NSNN làm tăng nguồn vốn tài chính ở các tụ điểm nhận vốn khác nhau. * Thứ ba là tụ điểm tài chính hộ gia đình. Ở các nước kinh tế phát triển, nguồn tài chính này rất được chú trọng. Thực tế ở nước ta cũng cho thấy rằng: Tài chính gia đình là một tụ điểm vốn quan trọng. Trong điều kiện thu nhập của đại bộ phận dân cư cao, rõ ràng đây là nguồn tài chính quan trọng. Việc khai thác Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 8 nguồn này không chỉ đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh tế, mà còn định hướng tích luỹ và tiêu dùng. Nguồn tài chính dân cư được hình thành từ thu nhập của các thành viên trong gia đình, tiền thừa kế, tiền tài trợ từ nước ngoài. Nó sẽ chi phí cho những mục đích khác nhau, kết quả sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ cung cầu trên thị trường và tình hình phát triển kinh tế xã hội của quốc gia. Một phần vốn tài chính của hộ gia đình được phân phối cho tiêu dùng trực tiếp (ăn, mặc, giải trí, học hành, chữa bệnh) ở thị trường vật phẩm tiêu dùng (VPTD) một phần dành dự trữ cho tiêu dùng trong tương lai. Khoản dự trữ này, nếu được khai thác biến thành những nguồn vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng cường tình hình tài chính cho các tụ điểm vốn khác. * Thứ tư là tụ điểm vốn các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian bao gồm: Các NHTM (Ngân hàng thương mại), các công ty bảo hiểm và các tổ chức tài chính trung gian khác chuyên làm nhiệm vụ môi giới để biến những nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi trong xã hội thành những nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế. Do hoạt động đa dạng và phong phú, các tố chức tài chính có khả năng cạnh tranh với nhau và bổ sung cho nhau tạo nên nguồn tiềm năng to lớn cung cấp vốn cho các nguồn tài chính khác với nhiều hình thức phong phú. Chúng ta sẽ xem xét sâu hơn trong phần các tổ chức tài chính trung gian và thị trường tài chính. * Một tụ điểm khác của hoạt động tài chính, là hoạt động tài chính đối ngoại. Hiện nay, tất cả các lĩnh vực hoạt động tài chính trong nước (NSNN, tài chính doanh nghiệp, các tổ chức tài chính trung gian, tài chính hộ gia đình) đều có quan hệ trực tiếp tới hoạt động tài chính đối ngoại. Đứng trên góc độ vĩ mô, thì đây là mối quan hệ giữa tài chính quốc gia với tài chính quốc tế. Quan hệ này sẽ tạo được luồng di chuyển vốn từ bên ngoài để cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong điều kiện kinh tế mở, chúng ta nhận thức điều đó và vận dụng trong việc thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài, để tăng cường nguồn lực cho nền kinh tế đất nước. * Tài chính của các hội, đoàn thể cũng là một tụ điểm vốn quan trọng. Hoạt động của các hội và đoàn thể, trước hết là dựa trên nguồn kinh phí đóng góp của hội viên. NSNN cho hỗ trợ một phần. Chi tiêu của các hội cho nhiều mục đích tiêu dùng khác nhau, trong đó có một số hoạt động sản xuất kinh doanh, một mặt tạo ra nguồn tài chính, mặt khác chính nguồn tài chính của các tổ chức này cũng góp phần hỗ trợ cho các tụ điểm Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 9 tài chính khác. Ngoài ra, nó còn tham gia vào nguồn vốn của các tổ chức tài chính trung gian ( gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư khác). NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CHƯƠNG 3: NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC. CÂU 17: Vai trò của ngân sách nhà nước. - Ngân sách nhà nước (ngân sách chính phủ), là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. +) Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. +) Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. - Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước. - Ngân sách nhà nước bao gồm: Ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 10 quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân. - Vai trò của Ngân sách nhà nước: Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội. +) Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền. Trước hết, Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững. Thông qua hoạt động chi Ngân sách, Nhà nước sẽ cung cấp kinh phí đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế (có thể thấy rõ nhất tầm quan trọng của điện lực, viễn thông, hàng không đến hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp). Bên cạnh đó, việc cấp vốn hình thành các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những biện pháp căn bản để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo. Và trong những điều kiện cụ thể, nguồn kinh phí trong ngân sách cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đảm bảo tính ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị cho việc chuyển sang cơ cấu mới hợp lý hơn. Thông qua hoạt động thu, bằng việc huy động nguồn tài chính thông qua thuế, ngân sách nhà nước đảm bảo thực hiện vai trò định hướng đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh +) Giải quyết các vấn đề xã hội: Trợ giúp trực tiếp dành cho những người có thu nhập thấp hay có hoàn cảnh đặc biệt như chi về trợ cấp xã hội, trợ cấp gián tiếp dưới hình thức trợ giá Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 11 cho các mặt hàng thiết yếu, các khoản chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách việc làm, chống mù chữ, hỗ trợ đồng bào bão lụt. +) Góp phần ổn định thị trường, chống lạm phát, bình ổn giá cả thị trường hàng hoá Nhà nước chỉ điều tiết những mặt hàng quan trọng những mặt hàng mang tính chất chiến lược. Cơ chế điều tiết thông qua trợ giá, điều chỉnh thuế suất thuế xuất nhập khẩu, dự trữ quốc gia. Thị trường vốn sức lao động: thông qua phát hành trái phiếu và chi tiêu của chính phủ. Kiềm chế lạm phát: Cùng với ngân hàng trung ương với chính sách tiền tệ thích hợp NSNN góp phần điều tiết thông qua chính sách thuế và chi tiêu của chính phủ. 2. Liên hệ với Việt Nam: - Ở nước ta, vai trò quản lý của nhà nước với nền kinh tế trong nước là rất lớn và nhà nước sử dụng NSNN để thực hiện vai trò điều tiết nền kinh tế. - Thu ngân sách nhà nước đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, theo tính toán của bộ Tài chính, tương ứng 28,6% năm 2006, 26% năm 2007 và khoảng 26,6% năm 2008 so với GDP. = >> Như vậy, số thu ngân sách hàng năm đã vượt tương đối cao so với mục tiêu là 21 – 22% GDP mà Chính phủ đặt ra khi xây dựng kế hoạch năm năm, và đương nhiên lớn hơn nhiều so với các giai đoạn trước. Một điều không thể phủ nhận là, sự cải thiện trong thu ngân sách chứng tỏ tính ổn định của nền tài chính quốc gia, cũng như sự đúng đắn của các chính sách thuế đã ban hành. Tuy vậy, cán cân thu chi ngân sách đang bộc lộ nhiều vấn đề lớn. Bộ Kế hoạch và đầu tư nhận định, dù tăng thu trong mấy năm gần đây, nhưng ngân sách nhà nước “chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu chi cần thiết tối thiểu”. Điều này có nghĩa là, nguồn thu vẫn không tăng kịp với tốc độ chi, dẫn đến tình trạng chi ngân sách luôn vượt dự toán kế hoạch và chi năm sau tăng hơn năm trước. Theo tính toán của bộ Kế hoạch và Đầu tư, tỷ trọng chi ngân sách so với GDP trung bình là 32,2% trong giai đoạn 2006 – 2008, tăng cao so với trung bình 28,7% trong giai đoạn 2001 – 2005 trước đó. Theo uỷ ban Kinh tế quốc hội, tổng thu ngân sách 2008 ước đạt 399nghìn tỷ đồng, vượt dự toán 76nghìn đồng; bội chi ngân sách trong năm 2008 là 66,2 ngàn tỉ đồng, tương ứng với 4,95% GDP. Trong khi đó, bộ Tài chính cho biết, năm 2009 dự toán thu ngân sách là Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 12 389.900 tỉ đồng (giảm 2% so với năm 2008), thấp hơn dự toán chi 491.300 tỉ đồng. Như vậy, tốc độ tăng thu chậm hơn tốc độ tăng chi đã làm thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức khoảng 5% GDP. Ngoài ra, bộ Kế hoạch và đầu tư cho biết, còn có những khoản chi ngoài ngân sách mà nếu đưa hết vào chi ngân sách thì mức bội chi có thể lên đến 10%. “Đây là một tỷ lệ quá cao, dẫn đến rủi ro lớn về khả năng trả nợ trong tương lai”, bộ này nhận định. Gần đây, thâm hụt ngân sách được bù đắp bằng các khoản vay trong và ngoài nước chủ yếu dưới hình thức phát hành trái phiếu, và vốn huy động từ nguồn này thường được dùng để xây dựng các công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Mặc dù còn nhiều hạn chế trong việc sử dụng NSNN vào việc thực hiện các chính sách và chiến lược quốc gia,nhưng nhà nước ta đã có những chính sách điều tiết nền kinh tế hợp lý,linh hoạt, kịp thời đạt được những kết quả khả quan trong việc định hướng nền phát triển kinh tế trong nước,đảm bảo an sinh ,trật tự xã hội, củng cố nền nền quốc phòng. NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CÂU 23: Các giải pháp xử lý bội chi ngân sách. - Vấn đề thiếu hụt ngân sách thường làm đau đầu các chính trị gia giữa một bên là phát triển bền vững, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế với một bên là nguồn lực có hạn. Đòi hỏi các chính trị gia phải lựa chọn để phù hợp với yêu cầu phát triển thực tế và sự phát triển trong tương lai. Từ sự lựa chọn đó họ đưa ra mức bội chi "hợp lý", bảo đảm nhu cầu tài trợ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 13 cho chi tiêu cũng như đầu tư phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm cho nợ quốc gia ở mức hợp lý. Bội chi NSNN được hiểu một cách chung nhất là sự vượt trội về chi tiêu so với tiền thu được trong năm tài khóa hoặc thâm hụt NSNN do sự cố ý của chính phủ tạo ra nhằm thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như tăng th...o đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường. Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính, nhân mạng,... Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm. Các khái niệm: Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ...) Định nghĩa 1: Bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít Định nghĩa 2: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho một người thứ 3 trong trường hợp xẩy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 27 Định nghĩa 3: Bảo hiểm có thể định nghĩa là một phương sách hạ giảm rủi ro bằng cách kết hợp một số lượng đầy đủ các đơn vị đối tượng để biến tổn thất cá thể thành tổn thất cộng đồng và có thể dự tính được Các định nghĩa trên thường thiên về một góc độ nghiên cứu nào đó (hoặc thiên về xã hội - định nghĩa 1, hoặc thiên về kinh tế, luật pháp - định nghĩa 2, hoặc thiên về kỹ thuật tính - định nghĩa 3). Theo các chuyên gia , một định nghĩa vừa đáp ứng được khía cạnh xã hội (dùng cho bảo hiểm xã hội) vừa đáp ứng được khía cạnh kinh tế (dùng cho bảo hiểm thương mại) và vừa đầy đủ về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý có thể phát biểu như sau: Bảo hiểm là một hoạt động qua đó một cá nhân có quyền được hưởng trợ cấp nhờ vào một khoản đóng góp cho mình hoặc cho người thứ 3 trong trường hợp xảy ra rủi ro. Khoản trợ cấp này do một tổ chức trả, tổ chức này có trách nhiệm đối với toàn bộ các rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê Đặc điểm của bảo hiểm  Bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt;  Bảo hiểm vừa mang tính bồi hoàn, vừa mang tính không bồi hoàn; Vai trò của bảo hiểm  Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo hiểm;  Đề phòng và hạn chế tổn thất;  Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;  Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. Các Hình thức bảo hiểm: Bảo hiểm kinh doanh Khái niệm bảo hiểm kinh doanh Trên góc độ tài chính, bảo hiểm kinh doanh là một hoạt động dịch vụ tài chính nhằm phân phối lại những tổn thất khi rủi ro xảy ra. Trên góc độ pháp lý, bảo hiểm kinh doanh thực chất là một bản cam kết mà một bên đồng ý bồi thường cho bên kia khi gặp rủi ro nếu bên Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 28 kia đóng phí bảo hiểm. Do đó, bảo hiểm kinh doanh là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm. Đặc điểm của bảo hiểm kinh doanh  Người tham gia bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm;  Là một biện pháp hiệu quả nhất cho nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và an toàn với đời sống cộng đồng. Nguyên tắc của bảo hiểm kinh doanh  Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia bảo hiểm cũng như doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tuân theo luật pháp quy định cho doanh nghiệp nói chung, và cho doanh nghiệp bảo hiểm nói chung;  Doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít;  Doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ nguyên tắc an toàn tài chính. Hình thức của bảo hiểm kinh doanh Căn cứ vào đối tượng bảo hiểm 1. Bảo hiểm tài sản: o Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu; o Bảo hiểm thân tàu, thuyền, ô tô,...; o Bảo hiểm hỏa hoạn. 2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự; 3. Bảo hiểm con người: o Bảo hiểm nhân thọ; o Bảo hiểm phi nhân thọ. Căn cứ vào tính chất hoạt động 1. Bảo hiểm tự nguyện; Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 29 2. Bảo hiểm bắt buộc. Cơ chế, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh Cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm kinh doanh  Vốn kinh doanh;  Doanh thu và thu nhập. Phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm kinh doanh  Ký quỹ;  Quỹ dự trữ bắt buộc;  Bồi thường tổn thất và trả tiền bảo hiểm;  Dự phòng nghiệp vụ;  Nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước;  Chế độ phân phối lợi nhuận. Bảo hiểm xã hội Khái niệm bảo hiệm xã hội Bảo hiểm xã hội là loại hình bảo hiểm do nhà nước tổ chức và quản lý nhằm thỏa mãn các nhu cầu vật chất ổn định cuộc sống của người lao động và gia đình họ khi gặp những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động Quốc tế ILO tại Công ước Giơnevơ năm 1952  Chăm sóc y tế;  Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thất nghiệp;  Trợ cấp tuổi già;  Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp gia đình;  Trợ cấp sinh sản; Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 30  Trợ cấp tàn phế;  Trợ cấp cho người bị mất người nuôi dưỡng. Ở Việt Nam, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam thực hiện 5 chế độ  Trợ cấp ốm đau;  Trợ cấp thai sản;  Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp;  Trợ cấp hưu trí;  Trợ cấp tử tuất. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội  Người sử dụng lao động đóng góp;  Người lao động đóng góp một phần tiền lương của mình;  Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội Chi các khoản trợ cấp và chi phí cho người tham gia bảo hiểm xã hội trong các trường hợp:  Gặp phải các biến cố đã quy định trong chế độ bảo hiểm xã hội;  Người được bảo hiểm là thành viên của bảo hiểm xã hội;  Đóng bảo hiểm xã hội đều đặn;  Chi khác: chi quản lý, nộp bảo hiểm y tế theo quy định, chi hoa hồng đại lý, v.v... Bảo hiểm y tế Khái niệm bảo hiểm y tế Bảo hiểm y tế là các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn tài lực từ sự đóng góp của những người tham gia bảo hiểm để hình thành quỹ bảo hiểm, và sử dụng quỹ để thanh toán các chi phí khám chữa bệnh cho người được bảo hiểm khi ốm đau. Đặc điểm của bảo hiểm y tế Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 31  Vừa mang tính chất bồi hoàn, vừa mang tính chất không bồi hoàn;  Quá trình phân phối quỹ bảo hiểm y tế gắn chặt với chức năng giám đốc bằng đồng tiền đối với mục đích tạo lập và sử dụng quỹ. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm y tế  Vì quyền lợi của người tham gia bảo hiểm và bảo đảm an toàn sức khỏe cho cộng đồng;  Chỉ bảo hiểm cho những rủi ro không lường trước được, không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra;  Hoạt động dựa trên nguyên tắc số đông bù số ít. Đối tượng của bảo hiểm y tế Đối tượng của bảo hiểm y tế là sức khỏe của người được bảo hiểm (rủi ro ốm đau, bệnh tật,...). Hình thức của bảo hiểm y tế  Bảo hiểm y tế bắt buộc;  Bảo hiểm y tế tự nguyện. Phạm vi của bảo hiểm y tế  Bảo hiểm y tế là một chính sách xã hội của mọi quốc gia trên thế giới do chính phủ tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của mọi tầng lớp trong xã hội để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm;  Người tham gia bảo hiểm y tế khi gặp rủi ro về sức khỏe được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức khác nhau tại các cơ sở y tế;  Một số loại bệnh mà người đến khám bệnh được ngân sách nhà nước đài thọ theo quy định; cơ quan bảo hiểm y tế không phải chi trả trong trường hợp này. Cơ chế hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm y tế Hình thành quỹ bảo hiểm y tế  Ngân sách nhà nước cấp; Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 32  Tài trợ của các tổ chức xã hội, từ thiện;  Phí bảo hiểm y tế của người tham gia bảo hiểm, đối với người nghỉ hưu, mất sức: do bảo hiểm xã hội đóng góp;  Phí bảo hiểm của tổ chức sử dụng người lao động. Sử dụng quỹ bảo hiểm y tế  Thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm theo định mức;  Chi dự trữ, dự phòng;  Chi cho đề phòng hạn chế tổn thất;  Chi phí quản lý;  Chi trợ giúp cho hoạt động nâng cấp các cơ sở y tế. NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CHƯƠNG 7: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CÂU 43:. Lịch sử ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại. a/ Lịch sử ra đời : Nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với quan hệ thương mại. Trong thời kỳ cổ đại đã xuất hiện việc giao lưu thương mại giữa các lãnh địa với các loại tiền khác nhau thì nghề kinh doanh tiền tệ xuất hiện để thực hiện việc nghiệp vụ đổi tiền. Lúc đầu nghề kinh doanh tiền tệ do Nhà Thờ đứng ra tổ chức vì là nơi tôn nghiêm được dân chúng tin tưởng, là nơi an toàn để ký gửi tài sản và tiền bạc của mình sau đó nó phát triển ra cả 3 khu vực : Các nhà thờ, tư nhân, nhà nước với các nhiệp vụ đổi tiền, nhận tiền gửi, bảo quản tiền, cho vay và chuyển tiền. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 33 Đến thế kỷ XV, đã xuất hiện những tổ chức kinh doanh tiền tệ có những đặc trưng gần giống ngân hàng, đầu tiên gồm ngân hàng Amstexdam ( Hà lan năm 1660 ) Ham Bourg ( Đức năm 1619 ) và Bank của England ( Anh năm 1694 ) b/ Các giai đoạn phát triển : Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng đa dạng hơn, và đa đại diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền. Từ thế kỷ XV đến nay, ngành ngân hàng đã trải qua những bước tiến dài và góp nhiều phát minh vĩ đại vào lịch sử phát triển của loài người. có thể chia ra các giai đoạn phát triển làm 3 giai đoạn : - Giai đoạn I : ( Từ thế kỷ XV - cuối XVIII ) Hoạt động của những giai đoạn này có những đặc trưng sau : + Các ngân hàng hoạt động độc lập chưa tạo một hệ thống chịu sự ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau. + Chức năng hoạt động của mỗi ngân hàng giống nhau, gồm nhận ký thác của khách hàng, chiết khấu và cho vay, phát hành giấy bạc vào lưu thông, thực hiện các dịch vụ tiền tệ khác như đổi tiền, chuyển tiền ... - Giai đoạn II : ( Từ thế kỷ XVIII - XX ) Mọi ngân hàng đều phát hành giấy bạc ngân hàng làm cản trở quá trình phát triển của nền kinh tế, vì vậy từ đầu thế kỷ XVIII nghiệp vụ này được giao cho một số ngân hàng lớn và sau đó tập trung vào một ngân hàng duy nhất gọi là Ngân hàng phát hành, các ngân hàng còn lại chuyển thành Ngân hàng thương mại. - Giai đoạn III : ( Từ đầu thế kỷ XX đến nay ) Ngân hàng phát hành vẫn thuộc sở hữu tư nhân không cho nhà nước can thiệp thường xuyên vào các hoạt động kinh tế thông qua các tác động của nền kinh tế, các nước đã quốc hữu hoá hàng loạt các Ngân hàng phát hành từ sau cuộc khủng khoảng kinh tế năm 1929 đến năm Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 34 1933. Khái niệm Ngân hàng trung ương đã thay thế cho Ngân hàng phát hành với chức năng rộng hơn ngoài nghiệp vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng vay tiền của người gửi và cho các công ty và cá nhân vay lại. Tiền huy động được của người gửi gọi là tài sản “nợ” của ngân hàng. Tiền cho công ty và cá nhân vay lại cũng như tiền gửi ở các ngân hàng khác và số trái phiếu ngân hàng sở hữu gọi là tài sản “có” của ngân hàng. Phần chênh lệch giữa số tiền huy động được và số tiền đem cho vay, gửi ngân hàng và mua trái phiếu gọi là vốn tự có của ngân hàng thương mại. Phần tài sản có tính thanh khoản được giữ để đề phòng trường hợp tiền gửi vào ngân hàng bị rút ra đột ngột gọi là tỷ lệ dự trữ của ngân hàng. Toàn bộ số vốn của ngân hàng được chia làm hai loại: vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Vốn cấp 1, còn gọi là vốn nòng cốt, về cơ bản bao gồm vốn điều lệ cộng với lợi nhuận không chia cộng với các quỹ dự trữ được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 2 về cơ bản bao gồm: (i) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản của tổ chức tín dụng (ii) nguồn vốn gia tăng hoặc bổ sung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số công cụ nợ thứ cấp nhất định) và (iii) dự phòng chung cho rủi ro tín dụng. CHƯƠNG 8: NHTW VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA. CÂU 50: nghiệp vụ phát hành tiền của ngân hàng trung ương. 1. Phát hành qua nghiệp vụ tín dụng. -Với chứ năng là Ngân hàng của các Ngân hàng thì Ngân hàng Trung ương đóng vai trò là người cho vay cuối cùng đối với Ngân hàng thương mại. Việc cho vay của Ngân hàng Trung ương sẽ là tăng khối lượng tiền tệ đồng thời là cơ sở cho các Ngân hàng thương mại tạo ra tiền. - Việc phát hành tiền qua kênh tín dụng vừa làm tăng lượng tiền cơ bản, vừa tăng khả năng tạo tiền của hệ thống các Ngân hàng thương mại do đó để ổn định tiền tệ hàng năm căn cứ vào tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và cân đối mà Ngân hàng Trung ương phải phân vốn dành cho Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 35 các Ngân hàng thương mại và chỉ thực hiện cho vay đối với các Ngân hàng thương mại trong phạm vi, hạn mức được xác định. 2. Phát hành qua thị trường vàng và ngoại tệ. - Thông qua hoạt động mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, Ngân hàng Trung ương cũng tác động trực tiếp đến cơ số tiền và tác động gián tiếp đến lượng tiền cung ứng. - Hoạt động phát hành tiền và lưu thông qua thị trường vàng và ngoại tệ bị giới hạn bởi lượng dự trữ của Nhà nước, mặt khác việc can thiệp của Ngân hàng Trung ương vào thị trường vàng và ngoại tệ sẽ có tác động đến tỷ giá, đến hoạt đông xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Do đó, hàng năm Ngân hàng Trung ương phải căn cứ vào tình trạng của cán cân thanh toán ngoại tệ, nhu cầu ngoại tệ của các tổ chức tín dụng và chính sách quản lý ngoại hối để xác định lượng tiền cơ bản thông qua kênh này. 3. Phát hành tiền qua nghiệp vụ thì trưởng mở. - Nghiệp vụ thì trường mở là nghiệp vụ mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do Ngân hàng Trung ương thực hiện trên thị trường tiền tệ thông qua hoạt động mua bán các giấy tờ có giá, Ngân hàng Trung ương tác động trực tiếp đến dữ trữ của hệ thống các tổ chức tín dụng đến lượng tiền cơ bản và tác động gián tiếp đến lượng tiền cung ứng. - Thị trường mở là một kênh phát hành tiền hiệu quả và linh hoạt của Ngân hàng Trung ương. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở Ngân hàng Trung ương có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ thì trường mở là công cụ chủ yếu của các Ngân hàng Trung ương ở các nước trên thế giới sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. 4. Phát hành qua kênh ngân sách. - Để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước, Chính phủ có thể thực hiện biện pháp vay nợ hoặc phát hành thêm tiền để chi tiêu. - Ngân hàng Trung ương vay ngắn hạn để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ Ngân sách Nhà nước. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 36 Phát hành tiền và lưu thông tiền tệ: *Những truờng hợp phát hành tiền của ngân hàng trung ương: • Phát hành tiền qua chính phủ: đối với cộng đồng, chính phủ là một định chế quản lý hành chính và bảo vệ sự vẹn toàn của cộng đồng. Trong nền kinh tế chính phủ là một chủ thể kinh tế, như mọi chủ thể kinh tế khác là các hộ gia đình, các xí nghiệp, công ty, vừa có số thu, vừa có số chi. Tình trạng thu chi của chính phủ được thể hiện cụ thể qua công cụ ngân sách quốc gia. Ngân sách thường rơi vào một trong 3 trường hợp sau: +Nều tổng thu lớn hơn tổng chi được gọi là ngân sách thặng dư.+Nếu tổng thu bằng tổng chi thì gọi là ngân sách thăng bằng.+Nếu tổng thu nhỏ hơn tổng chi thì gọi là ngân sách thâm hụt. Khi ngân sách quốc gia rơi vào hai trường hợp đầu thì họat động của ngân sách không ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng trung ương. Nhưng khi ngân sách thâm hụt, hoạt động ngân sách sẽ tác động đên chính sách tiền tệ. Bởi lẽ chính phủ với tư cách là chủ thể kinh tế, như mọi chủ thể kinh tế khác thì thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay tiền để bù đắp thiếu hụt. Hoạt động vay của ngân sách sẽ rơi vào một hoặc kết hợp hay đồng thời 3 phương thức sau: o Vay của công chúng thông qua việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc, công trái. o Vay của nước ngoài. o Vay của ngân hàng trung ương. Phương thức thứ nhất không ảnh hưởng đến mức cung ứng tiền của ngân hàng trung ương. Bởi vì, khi chính phủ phát hành các công cụ nợ, công chúng bỏ tiền ra mua các công cụ đó tức là đã cho chính phủ vay. Chính phủ dùng lại số tiền đó để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của mình và thế là tiền lại ra thị trường. Khi đến kỳ hạn, chính phủ thu thuế, có tiền để trả lại cho công chúng, chính phủ lại thu hồi các công cụ nợ về. Như vậy ngân hàng trung ương không phải phát hành thêm tiền. Phương thức thứ hai và thứ ba buộc ngân hàng trung ương phải phát hành thêm tiền. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 37 Bằng phương pháp thứ hai, khi chính phủ vay của nước ngoài, lượng tiền vay được thông thường dưới các hình thức hàng hóa, vàng hoặc ngoại tệ. Những loại tài sản này khi đem về nước thường cũng phải ký quỹ ở ngân hàng trung ương để chuyển đổi thành tiền mặt. Như thế, có nghĩa là ngân hàng trung ương phải phát hành thêm tiền. Về phương thức thứ ba, khi chính phủ vay của ngân hàng trung ương. Lúc này lượng tiền mặt trong lưu thông sẽ tăng lên thông qua chi tiêu của chính phủ. Chính phủ vay trực tiếp của ngân hàng trung ương có 3 dạng: Vay ứng trước tạm thời: trường hợp này thường thời hạn 3 tháng hoặc 6 tháng, xảy ra do số thu ngân sách vào chậm không đáp ứng kịp thời nhu cầu chi tiêu trong tài khóa. Vay ứng trước có kỳ hạn, trường hợp này xảy ra khi sự thâm hụt đã được chính phủ dự kiến trước vì những mục tiêu nhất định. Vay ứng trước vĩnh viễn, xảy ra khi sự thâm hụt không lường trước được diễn ra trong tài khóa ngân sách. Nếu số ứng trước bất thường trở thành món nợ không hoàn trả được. • Phát hành tiền qua ngân hàng thương mại: Hoạt động của ngân hàng thương mại, đặc biệt là đối với ngân hàng ký thác chủ yếu nhận tiền gửi của công chúng và cho vay. Phần lớn số tiền cho vay của ngân hàng này lấy từ nguồn tiền gửi của dân chúng. Bản thân ngân hàng phải cho vay tới mức mà ngân hàng trung ương cho phép để tối đa hóa doanh lợi, ngoài việc trang trãi các chi phí, tiển trả lãiTuy nhiên, không phải lúc nào hoạt động của NHTM đều diễn ra một cách trôi chảy, thuận lợi. Có những lúc, người gửi tiền đến đòi rút tiền ra quá nhiều làm cho NHTM lâm vào tình trạng kẹt vốn. Trong tình huống này NHTW có khả năng vô biên, lúc nào ở hầm dự trữ của NHTW cũng có một khối tiền in sẵn dự trữ. Do vậy việc cứu sống một hai NHTM thoát khỏi tình hình mất khả năng chi trả là điều dễ dàng. Nếu không cứu chữa kịp thời, ngọn lửa này sẽ lan rộng ra cả hệ thống ngân hàng.Như vậy nhờ có NHTW, khi bị kẹt vốn NHTM có thể đến vay ở NHTW, ở đây được xem là chỗ dựa vững chắc của NHTM. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các NHTM chủ yếu dưới 2 hình thức: o Chiết khấu hoặc tái chiết khấu o Thế chấp hay ứng trước. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 38 Trong cả hai trường hợp trên, NHTW đều thực hiện việc phát hành tiền tệ. Kết quả là làm cho số lượng tiền tệ trong lưu thông gia tăng. Theo các nhà kinh tế học xem việc làm này là một nghiệp vụ thanh khiết, vì nó có khả năng tự thanh toán và theo đúng nguyên tắc tín dụng. • Phát hành tiền qua thị trường mở: Lúc đầu việc phát hành tiền thông qua tái chiết khấu có một tầm quan trọng đặc biệt. Song lần theo thời gian, người ta thấy rõ dần mặt hạn chế của nó, đó là NHTW muốn phát hành thêm tiền thì phải đợi chờ NHTM có nhu cầu vay lại ở mình, bằng cách đem thương phiếu đến xin tái chiết khấu. Mặt khác, về sau này NHTM một là không muốn đến vay ở NHTW do những thủ tục của nó, hai là do NHTM không cảm thấy có nhu cầu đi vay. Với thị trường mở, NHTM có thể tìm cho mình nguồn tài trợ cần thiết vì những thủ tục nhanh chóng. Chính vì thế, hoạt động của thị trường mở ngày một quan trọng hơn, thu hẹp phạm vi họat động tái chiết khấu. Từ đấy cơ hợi phát hành tiền ở thị trường mở gia tăng nhanh chóng.Thông qua việc mua bán các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường mở, NHTW điều chỉnh lưu lượng tiền mặt trong lưu thông.Với nghiệp vụ bán NHTW thu hẹp lượng cung tiền mặt trong lưu thông, lãi suất lại tăng lên.Bằng nghiệp vụ mua, tức là bơm tiền vào lưu thông. Lúc này lượng tiền lưu hành trên thị trường xã hội tăng lên tạo ra các động lực gây giảm lãi suất • Phát hành tiền thông qua thị trường vàng và ngoại tệ: Mỗi quốc gia trên thế giới đều có khả năng tạo lập cho mình một dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính thức nằm trong kho bạc của chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không phải để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của công chúng, mà chúng nhằm thực hiện 3 công dụng chính: o Nó là một công cụ để chính phủ (cụ thể là NHTW) can thiệp vào thị trường vàng, ngoại tệ o Nó là một công cụ để chống lại lạm phát o Nó là công cụ đo lường sức khỏe của nền kinh tế. Nếu khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 39 o của một nước tăng từ năm này sang năm khác, biểu hiện nền kinh tế đó phát triển vững mạnh. Ngược lại, khi dự trữ vàng, ngoại tệ giảm thiểu từ năm này sang năm khác, nó báo hiệu những khó khăn trong nền kinh tế. Ngoài ra, khối lượng dự trữ vàng và ngoại tệ của một nước còn là tiêu chuẩn để đánh giá khả năng hoàn trả của một nước đối với nước ngoài. Một nước không tích lũy được khối dự trữ vàng và ngoại tệ hoặc khối dự trữ đó giảm xuống số âm sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt kinh tế. Trên trường quốc tế bị cô lập, vì không nước nào dám quan hệ khăng khít với nước này, các nguồn trợ giúp quốc tế dần dần bị mất đi nếu không có chương trình tái cấu trúc nền kinh tế hữu hiệu. Mặt khác, về mặt quốc nội, hoạt động kinh tế bất ổn triền miên. Do vậy, mặt dù dự trữ vàng và ngoại tệ của một nước, tuy không phải là nguyên nhân gây nên giá trị tiền tệ quốc nội, nhưng nó là cơ sở để tạo niềm tin nơi giá trị đồng tiền quốc nội và đảm bảo giá trị tiền tệ quốc ngoại. Bên cạnh dự trữ chính thức là dự trữ không chính thức nằm rài rác ở các NHTM, ở các tổ chức kinh tế và trong dân chúng. Vàng hoặc ngoại tệ đến tay các chủ thể này bằng nhiều con đường khác nhau. Dự trữ không chính thức hình thành một thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả trên thị trường này hết sức nhạy bén và ảnh hưởng sâu sắc đến thị trường hàng hóa cũng như hoạt động chung của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì thế ngân hàng trung ương với tư cách là cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước phải can thiệp vào thị trường vàng, ngoai tệ khi cần thiết.Cách làm phổ biến nhất là thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị trường này. Bằng việc tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua một số ngoại tệ nào đó và ngân hàng trung ương một mặt làm tăng dự trữ quốc gia, mặt khác nó làm tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính là phương thức phát hành tiền thông qua thị trường vàng và ngoại tệ. • Phát hành cân đối: Mỗi khi có sự gia tăng một cách không chủ động của các khoản mục bên tài sản có, buộc NHTW phải phát hành thêm tiền để cân đối nợ có trong bảng quyết toán của mình.Thông thường những hình thức gia tăng tài sản, sản phẩm một cách thụ động trong nền kinh tế và trong tài khoản của ngân hàng trung ương xuất phát từ các nguyên nhân sau: o Chính phủ nhận được viện trợ phát triển của nước ngoài dưới dạng hàng hóa, vàng và ngoại tệ. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 40 o Chính phủ vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế. o Các tổ chức kinh tế, các ngân hàng trong nước vay nợ nước ngoài. o Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào tăng mạnh. o Nền kinh tế tăng trưởng nhanh hơn mức bình thường. Từ những nguyên nhân trên đã dẫn đến sự tăng lên của USD, SDR, ngoại tệ khác, tài sản khác và các loại sản phẩm dịch vụ trong nền kinh tế bắt buộc NHTW phải phát hành thêm tiền mặt để giữ cho giá cả hàng hóa ổn định. Mặt khác, một bộ phận lớn SDR, ngoại tệ và tài sản khác sau khi từ nước ngoài tràn vào trong nước sẽ được CP, các NHTM hoặc các tổ chức kinh tế sử dụng dưới dạng ký quỹ cho vay tiền ở NHTW. Đây chính là lý do để vụ phát hành phải đưa thêm một lượng tiền mặt vào lưu thông. NX: ...................................................................................................................................... ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. ............................................................................................................................................. CÂU 51. Những mục tiêu chung của chính sách tiền tệ quốc gia 1. Mục tiêu về tiền tệ: Mục tiêu tiền tệ là một hệ thống các mục tiêu về phương diện tiền tệ, cần đạt được đó là: - Điều hòa khối tiền tệ: là giữ vững mối quan hệ cân đối giữa tiền và hàng. Nguyên tắc chung để đạt được mục tiêu này là giữ nguyên, tăng hay giảm khối tiền tệ tùy theo tình hình các nền kinh tế tăng trưởng hay suy thoái. - Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền: việc kiểm soát giá cả thiếu cơ sở vững chắc vì ngoài yếu tố khối tiền tệ (M) còn có yếu tố tốc độ lưu thông tiền tệ (V) tác động đến vật giá. Bởi vậy cần thiết phải kiểm soát tổng số thanh toán hay tổng số lượng tiền tệ dùng để chi trả trong các cuộc giao dịch và trong một khoảng thời gian nhất định. Bài chuẩn bị môn Lý thuyết tài chính – tiền tệ. 41 - Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền: Chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu ổn định giá nói chung. Sự gia tăng hay sụt giảm quá mức của vật giá điều có tác hại đến sự ổn định giá trị quốc nội của đồng tiền và là biểu hiện của sự thăng trầm kinh tế. - Ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền: Sự biến động của tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến sức mua của đông tiền, từ đó tác động ít hay nhiều đến hoạt động của nền kinh tế tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tế đó. 2. Mục tiêu kinh tế: Tăng trưởng kinh tế: sự tăng trưởng kinh tế thông qua hai yếu tố: lãi suất và số cầu tổng quát. Khối tiền tệ tăng hay giảm đều có tác động mạnh đến lãi suất và số cầu tổng quát, từ đó tác động đến sự gia tăng đầu tư sản xuất và cuối cùng là tác động lên tổng sản lượng quốc gia, tức là tác động lên sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bởi vậy chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế thông qua việc tăng hay giảm khối tiền tệ thích hợp. Giảm thiểu những thăng trầm chu kỳ kinh tế: + Mở rộng khối tiền tệ trong giai đoạn suy thoái để sớm chuyển sang giai đoạn phát triển. + Điều tiết khối tiền tệ để đảm bảo vừa chống lạm phát vừa không xảy ra tình trạng ngưng trệ. + Sớm chuyển sang giai đoạn tăng trưởng kinh tế với một tỷ lệ lam phát có thể chấp nhận được. Mối quan hệ giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ: - Giảm lạm phát và thất nghiệp. -

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te_nguyen_thi_lan_anh.pdf
Tài liệu liên quan