TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOẽC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOẽC THUÛY LễẽI MIEÀN NAM 231
Phần II
CHặNH TRề SOÂNG - BAÛO VEÄ Bễỉ SOÂNG,
Bễỉ BIEÅN - PHOỉNG CHOÁNG THIEÂN TAI
– XAÂY DệẽNG COÂNG TRèNH
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOẽC & COÂNG NGHEÄ 2016
232 VIEÄN KHOA HOẽC THUÛY LễẽI MIEÀN NAM
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOẽC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOẽC THUÛY LễẽI MIEÀN NAM 233
TỔNG QUAN VỀ Mễ HèNH THỦY ĐỘNG LỰC VÀ VẬN CHUYỂN BÙN
CÁT, KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ ĐÀO TẠO
GENER
13 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 648 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giáo trình Đĩa kĩ thuật - Phần 2: Chỉnh trị sông-Bảo vệ bờ sông, bở biển-Phòng chống thiên tai-Xây dựng công trình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AL INFORMATION OF SEDIMENT MOVEMENT AND HYDRO-
MOTIVE MODELS FOR TRAINING AND APPLICATION SOFWARE
TS. Hồ Trọng Tiến, NCS. Lê Ngọc Anh
Đại học Tài Nguyên và Môi Trường TP.HCM
TÓM TẮT
Quản lý hiệu quả tài nguyên nước mặt là một trong những nhiệm vụ quan trọng
và trong bối cảnh biến đổi khí hậu cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các
loại hình thời tiết cực đoan thì điều đó càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Để
có thể quản lý hiệu quả tài nguyên nước mặt thì cần phải có những công cụ dự
báo nhanh với độ tin cậy cao. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông
tin, nhiều mô hình toán thủy động lực và vận chuyển bùn cát ra đời và trở thành
công cụ hổ trợ tích cực cho các nhà hoạch định chiến lược trong quản lý tài
nguyên nước. Bài báo này sẽ tổng quan một số mô hình thủy động lực phổ biến
trong nước và trên thế giới và khả năng ứng dụng của nó trong nghiên cứu và
đào tạo.
Từ khóa: Mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát, Telemac, mô hình toán.
1. GIỚI THIỆU
Sự phát triển nhanh chóng của mô hình toán trong thời gian qua có sự đóng góp
tích cực của điều kiện về khoa học công nghệ và điều kiện kinh tế xã hội. Với điều kiện
về khoa hoc công nghệ, đó là sự phát triển của ngành khoa máy tính, sự ra đời của các
siêu máy tính đã tạo ra khả năng tính toán vượt trội. Với điều kiện kinh tế - xã hội, đó là
do yêu cầu về sự phát triển kinh tế - xã hội làm nảy sinh các vấn đề phức tạp về quản lý
tài nguyên nước mà con người phải đối mặt giải quyết. Trong điều kiện đó, đó mô hình
toán thủy động lực và vận chuyển bùn cát cũng có những bước phát triển dài.
Nhìn chung, các mô hình toán thủy động lực và vận chuyển bùn cát đều ứng
dụng phương pháp số để giải các phương trình vi phân chủ đạo của phương trình liên
tục, phương trình động lượng cùng với phương trình vi phân liên tục của bùn cát. Một
trong những ưu điểm của mô hình toán là chúng có thể ứng dụng cho các miền tính vật
lý khác nhau, tiết kiệm thời gian và chi phí hơn nhiều so với mô hình vật lý vốn chỉ ứng
dụng trong những trường hợp đặt biệt và phạm vi nhỏ. Hơn nữa, mô hình toán không
phụ thuộc vào các điều kiện ràng buộc về các điều kiện khắc khe về thủy lực như số
Reynolds, số Froude, tỷ lệ hình học như đối với mô hình vật lý.
Hòa chung sự phát triển đó, các nhà khoa học trong nước đã không ngừng học
hỏi và nắm bắt những công nghệ mới của thế giới và đã xây dựng nhiều mô hình thủy
động lực và đã áp dụng khá thành công tại Việt Nam.
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
234 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
Mục tiêu của bài báo này gồm hai mục tiêu chính: (1) tổng quan lại một số mô
hình trong nước và thế giới; (2) giới thiệu mô hình trong đào tạo và nghiên cứu.
2. TỔNG QUAN MỘT SỐ MÔ HÌNH THỦY ĐỘNG LỰC VÀ VẬN CHUYỂN
BÙN CÁT PHỔ BIẾN
2.1. Trong nước
Mô hình VRSAP
Theo [1], đây là mô hình thủy lực được xem là khởi đầu cho quá trình áp dụng
mô hình toán để giải quyết các bài toán thủy lực kênh hở ở Việt Nam trên các mạng
máy lớn (main frame) trước kia. Mô hình xuất phát chỉ có phần dòng chảy và được cố
Pgs. Nguyễn Như Khuê du nhập từ Hà Lan vào năm 1978 qua quá trình học tập và công
tác. Trong quá trình áp dụng, VRSAP được cải tiến, phát triển liên tục và được thêm
phần tính mặn vào năm 1988 dựa trên thuật toán sai phân trung tâm tương tự thuật toán
của MEKSAL. VRSAP được nhóm mô hình của VQHTLMN liên tục phát triển và bổ
xung các tiện ích và chuyển sang Visual Basic để tận dụng bộ nhớ mở rộng của máy
tính cũng như sự phát triển của công nghệ thông tin. Mô hình VRSAP cho đến bây giờ
vẫn được đánh giá là mô hình mô phỏng khá tốt chế độ thủy lực cho khu vực đồng bằng
sông Cửu Long.
Mô hình SAL và VRSAP-SAL
Do GS.TSKH. Nguyễn Tất Đắc phát triển từ năm 1980 và sau đó được nâng cấp
và kết hợp với mô hình VRSAP để tạo thành mô hình mang tên VRSAP-SAL hoàn
thiện hơn về thuật toán và chương trình. SAL là một mô hình được xây dựng chặt chẽ
về mặt toán học, dựa trên sơ đồ sai phân ẩn 4 điểm của Preissman, nhưng lấy trọng số
bằng 2/3 để giảm thiểu sai số trong phép sai phân. Lan truyền chất trong SAL dựa trên
thuật toán phân rã, giải phương trình tải thuần túy dùng phương pháp đường đặc trưng
ẩn với cách nội suy spline bậc 3. Mô hình đã được ứng dụng rộng rãi cho hệ thống sông
Đồng Nai và Đồng bằng sông Cửu Long [2].
Mô hình KOD1
Do GS.TSKH. Nguyễn Ân Niên phát triển. Đây là mô hình giải phương trình
Saint – Venant bằng phương pháp sai phân hiện phục vụ cho việc tính toán dự báo lũ.
Nhược điểm chính của mô hình là hạn chế bước thời gian, nhưng do không phải khử
đuổi, tính lặp nên khối lượng tính toán nhỏ. Mặt khác sơ đồ hiện chỉ bảo đảm tính bảo
toàn cục bộ địa phương và đôi khi gặp khó khăn trong bảo toàn toàn cục.
Mô hình HydroGIS
Do TS. Nguyễn Hữu Nhân phát triển có sử dụng bộ công cụ GIS để kết nối dữ
liệu và trình bày kết quả. HydroGIS cũng giải hệ phương trình Saint-Venant 1D bằng sơ
đồ sai phân Preissmann, tuy nhiên khả năng tính toán chậm và chưa được áp dụng
nhiều. Gần đây, mô hình được bổ xung thêm tính toán đối với trường hợp dòng chảy
xiết bằng phương pháp sóng động học.
Mô hình MK4
Do PGS.TS. Lê Song Giang, Đại học Bách Khoa TP.HCM phát triển. Đây là
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 235
phần mềm mang tính học thuật và dùng nhiều cho mục đích giảng dạy và nghiên cứu,
chưa thấy áp dụng phổ biến trong thực tế và các dự án. Phần mềm cũng đang trong giai
đoạn hoàn thiện và phát triển.
2.2. Mô hình ngoài nước
Hiện nay, trên thế giới đang có rất nhiều mô hình toán ứng dụng cho việc dự báo
thủy động lực và vận chuyển bùn cát gồm cả mô hình một chiều (1D), mô hình hai
chiều (2D), mô hình ba chiều (3D). Một số các mô hình 1D, 2D, 3D có thể nói đến sau:
Nhóm mô hình 1D
Sớm xuất hiện từ những năm 1980, và đã thành công trong nhiều ứng dụng thực tế
và nghiên cứu. Hầu hết các mô hình 1D được xây dựng trong hệ tọa độ thẳng, giải phương
trình Saint – Venant cho dòng chảy và quá trình vận chuyển bùn cát sử dụng phương trình
của Exner bằng sơ đồ sai phân hữu hạn. Một số mô hình 1D có thể kể đến như:
Mô hình MOBED được phát triển bởi Krishnappan (1981) giải phương trình
Saint – Venant viết dưới dạng bảo toàn cho dòng không ổn định và phương trình liên
tục bùn cát [3]. MOBED có thể dự báo được đặc tính bùn cát của đáy sông như là một
hàm số của thời gian và khoảng cách đối với dòng chảy đơn vị khác nhau.
IALLUVIAL được phát triển bởi Karim and Kennedy (1982), mô hình này chỉ
ứng dụng trong trường hợp đối với dòng chảy ổn định [4].
SEDICOUP được phát triển bởi Holly và Rahuel (1990), đây là mô hình mô
phỏng biến đổi đáy dựa vào phương trình Saint – Venant tính cho bùn cát hỗn hợp,
thành phần bùn cát lơ lửng và bùn cát đáy được xử lý riêng biệt [5].
Mô hình 3ST1D được phát triển bởi Papanicolaou et al. (2004); nó có khả năng
tính được nước nhảy thủy lực và mô phỏng được dòng chảy tới hạn; vì thế nó có khả
năng ứng dụng trong điều kiện dòng không ổn định, biến đổi nhanh như dòng chảy
trong các sông miền núi [6]. Tuy nhiên, mô hình 3ST1D chỉ tính cho vận chuyển bùn
cát tổng mà không tách biệt được giữa bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng.
HEC-6 do Thomas và Prashum (1977) phát triển, sử dụng sơ đồ sai phân hữu
hạn trong hệ tọa độ thẳng, giải phương trình vi phân ở dạng bảo toàn năng lượng thay
cho phương trình động lượng [7]. HEC-6 không áp dụng được đối với dòng chảy không
ổn định.
FLUVIAL 11 được phát triển bởi Chang (1984), sử dụng hệ tọa độ cong để giải
phương trình Saint – Venant 1D đối với dòng chảy. FLUVIAL 11 có tính đến dòng
chảy thứ cấp trong sông cong bằng cách biến đổi độ lớn của vận tốc theo chiều dòng
chảy [8].
GSTARS được phát triển bởi Molinas và Yang (1986), mô hình được phát triển
trong hệ tọa độ cong. Molinas và Yang đã bổ xung lý thuyết dòng năng lượng nhỏ nhất
để xác định chiều rộng và hình dạng tối ưu để ổn định điều kiện thủy lực và bùn cát [9].
OTIS được phát triển bởi Runkel và Broshears (1991) [10], sử dụng hệ tọa độ
cong. Runkel và Broshears đã biến đổi phương trình tải và khuếch tán với số hạn thêm
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
236 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
vào gồm dòng chảy nhập bên, số hạng phân rã bậc 1, sự thấm hút của các chất hòa tan
không kết dính và sự tích trữ trong thời gian ngắn của các chất hòa tan.
Phần lớn các mô hình 1D đại diện ở trên đều có thể dự báo các thông số đơn
giản trong sông như: vận tốc, mực nước, biến đổi đáy sông và vận chuyển bùn cát.
Chúng có thể dự báo được tổng lượng vận chuyển bùn cát và phân phối kích thước hạt
không đồng nhất. Mô hình 1D yêu cầu về dữ liệu đầu vào và khả năng xử lý của máy
tính ít hơn nhiều so với mô hình 2D hay 3D nên nó tỏ ra hiệu quả cho việc dự báo
nhanh mà không cần độ chính xác cao
Nhóm mô hình 2D
Mô hình 2D có xu hướng phát triển bắt đầu từ những năm 1990. Phần lớn các
mô hình 2D hiện nay được xây dựng hướng đến việc xây dựng giao diện một cách trực
quan và dễ dàng sử dụng. Điều đó làm cho nó trở nên thân thiện với người sử dụng và
phổ biến rộng rãi. Mô hình 2D (trung bình theo chiều sâu) có thể cung cấp các thông tin
biến đổi theo không gian về chiều sâu nước, các thành phần vận tốc trung bình theo
hướng dòng chảy và hướng ngang, cao trình đáy sông, hồ và cửa sông... Hầu hết các mô
hình 2D đều giải phương trình liên tục và phương trình Navier-Stokes trung bình theo
phương đứng cùng với phương trình cân bằng khối lượng bùn cát bằng phương pháp sai
phân hữu hạn, phần tử hữu hạn, hoặc thể tích hữu hạn.
SERATRA: là mô hình vận chuyển bùn cát và chất ô nhiễm được phát triển bởi
Onishi và Wise (1982), giải bằng phương pháp phần tử hữu hạn cho dòng chảy không
ổn định. Mô hình có khả năng dự báo được sự di chuyển của thuốc trừ sâu trên mặt đất
và trong sông và có thể đánh giá được khả năng tác động đến quần thể ngập nước trong
thời gian ngắn hoặc dài [11].
SUTRENCH-2D: Mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát do van Rijn và
Tan phát triển (1985) [12], mô phỏng vận chuyển bùn cát và sự biến đổi đáy trong điều
kiện kết hợp của dòng chảy xem như ổn định với sóng trên bùn cát đáy. Mô hình giả
thuyết vận tốc dòng chảy và nồng độ bùn cát cục bộ là hằng số theo phương Y, vận
chuyển bùn cát lơ lửng trong dòng chảy phân tán và hội tụ bên bằng cách đưa vào thông
số chiều rộng (b) của dòng chảy. Mô hình giải phương trình tải và khuếch tán kết hợp
với hệ số trễ đối với bùn cát lắng đọng.
MOBED2D: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát được Spasojevic và
Holly phát triển (1990) [13], giải bằng phương pháp sai phân hữu hạn. Mô hình có khả
năng tính toán dòng chảy, vận chuyển bùn cát, biến đổi đáy trong hồ chứa, cửa sông và
khu vực ven biển.
ADCIRC-2D: được phát triển bởi Luettich et al. (1992) [14]. Đây là mô hình
thủy động lực và vận chuyển bùn cát sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn trong hệ
tọa độ thẳng, có khả năng ứng dụng cho miền tính lớn bằng cách giải phương trình nước
nông 2D đối với phương thức bên ngoài "external mode" nhưng sử dụng phương thức
bên trong "internal mode" để thu được vận tốc chi tiết và ứng suất tại những khu vực
được xác định. Phương thức bên trong nhận được bằng cách xác định sự phân tán động
lượng và ứng suất đáy trong các số hạng vận tốc theo phương thẳng đứng.
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 237
Mike 21: do DHI (Danish Hydraulic Institute) (1993) phát triển ứng dụng cho
việc mô phỏng dòng chảy, sóng, vận chuyển bùn cát, chất lượng nước và hệ sinh thái
trong sông, hồ, cửa sông, vịnh, các khu vực ven biển và đại dương. Mike 21 giải hệ
phương trình nước nông bằng phương pháp phần tử hữu hạn hoặc sai phân hữu hạn, sử
dụng lưới tam giác hoặc lưới chữ nhật, cũng có thể kết hợp cả lưới chữ nhật (mô tả cho
sông) và lưới tam giác (mô tả cho khu vực ngoài biển). Mike21 có 4 module chính: thủy
động lực, sóng, vận chuyển bùn cát, chất lượng nước và sinh thái học. Module thủy
động lực và sóng tính có khả năng cung cấp các thông tin về các yếu tố thủy lực dòng
chảy (mực nước, vận tốc trung bình theo hai phương) và sóng (chiều cao sóng, chu kỳ,
hướng sóng, ứng suất sóng). Module vận chuyển bùn cát có khả năng mô phỏng diễn
biến đường bờ và vận chuyển cát. Module chất lượng nước dùng để mô phỏng quá trình
lan truyền của các chất ô nhiễm trong sông. Đây là sản phẩm thương mại được sử dụng
nhiều trong các nghiên cứu tại Việt Nam. Tuy nhiên, chúng có giá thành khá đắt và
thường chỉ dùng cho các tổ chức có đủ khả năng về tài chính.
UNIBEST-TC2: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát được phát triển
bởi Bosboom et al. (1997) [15], giải bằng phương pháp sai phân hữu hạn trong hệ tọa
độ thẳng. Nó có khả năng mô phỏng quá trình thủy động lực của sóng và dòng có hướng
ngang bờ bằng cách giả thuyết có sự xuất hiện của dòng chảy dọc bờ trung bình. Quá
trình bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng được mô hình hóa bằng cách giả thuyết các điều
kiện cân bằng cục bộ (bỏ qua độ trể giữa dòng chảy và bùn cát).
FAST2D: là một mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát sử dụng phương
pháp thể tích hữu hạn trong hệ tọa độ đường cong với lưới bám khớp với biên [16].
Module vận chuyên bùn cát sử dụng các mô hình bán kinh nghiệm đối với bùn cát lơ
lửng và bùn cát đáy. Mô hình có xét một cách gián tiếp đến ảnh hưởng của dòng chảy
thứ cấp trong sông cong.
FLUVIAL 12: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát sử dụng phương
pháp sai phân hữu hạn trong hệ tọa độ đường cong do Chang phát triển (1998) [17]. Nó
xét đến các ảnh hưởng của chế độ thủy lực, vận chuyển bùn cát, và sự thay đổi của lòng
sông đối với từng thời đoạn của dòng chảy. Đây là mô hình đáy biến đổi nhanh có khả
năng mô phỏng sự biến đổi đáy sông, độ rộng, thành phần bùn cát đáy bao gồm cả trong
sông cong.
DELFT-2D: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát sử dụng phương pháp
sai phân hữu hạn có khả năng mô phỏng sóng và dòng chảy. Mô hình có thể mô phỏng
quá trình vận chuyển bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng bằng cách sử dụng phương pháp cả
trạng thái cân bằng hoặc không cân bằng cục bộ. Mô hình cũng có thể cho thấy ảnh
hưởng của chuyển động sóng lên độ lớn và hướng vận chuyển bùn cát [18].
CCHE2D: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát sử dụng phương pháp
phần tử hữu hạn do Jia và Wang phát triển (1999) [19]. Các nút khô và ướt trên biên đã
được xử lý một cách tự động trong trong trường hợp mô phỏng đối với dòng chảy
không ổn định với sự thay đổi của mực nước. Mô hình mô phỏng quá trình bùn cát lơ
lửng bằng cách giải phương trình tải và khếch tán, quá trình bùn cát đáy sử dụng các
công thức kinh nghiệm. Mô hình có xét đến dòng chảy thứ cấp trong sông cong.
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
238 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
Tất các mô hình nói trên đều ứng dụng cho dòng chảy không ổn định trừ mô
hình SUTRENCH-2D và UNIBEST-TC2. Các mô hình đều dự báo được bùn cát tổng,
chỉ có MOBED2, USTARS, FLUVIAL 12, và CCHE2D có thể tính toán cho nhiều cấp
hạt và có thể tách biệt bùn cát tổng ra hai thành phần bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng.
DELFT-2D và FAST2D có thể tách ra hai thành phần bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng,
nhưng chúng chỉ ứng dụng được cho các hạt có kích thước đồng nhất.
Nhóm mô hình 3D
Trong nhiều nghiên cứu về thủy động lực học, mô hình 3D được lựa chọn trong
trường hợp cần mô tả chi tiết hơn các quá trình vật lý tại những nơi có điều kiện thủy
động lực phức tạp mà mô hình 2D không phù hợp. Ví dụ như mô phỏng dòng chảy qua
trụ cầu hoặc tại nơi gần các công trình. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin
như: kỹ thuật máy tính, tốc độ máy tính, khả năng tính toán song song, khả năng lưu trữ
dữ liệu làm cho khả năng ứng dụng mô hình 3D phổ biến hơn. Phần lớn các mô hình
thủy động lực và vận chuyển bùn cát ở dạng ba chiều đều giải phương trình liên tục và
Navier – Stokes kết hợp với phương trình cân bằng khối lượng bùn cát bằng phương
pháp sai phân hữu hạn, phần tử hữu hạn hoặc thể tích hữu hạn. Phương trình Navier –
Stokes được giải bằng phương pháp trung bình hóa của Reynolds. Phương trình
Reynolds có thể chia thành hai dạng: dạng thủy tĩnh và phi thủy tĩnh. Mô hình dạng
thủy tĩnh có độ chính xác không cao khi tính toán dòng chảy ở những nơi có sự thay đổi
ứng suất lớn. Ngược lại, mô hình dạng phi thủy tĩnh có độ chính xác cao hơn và có khả
năng mô tả những đặc tính phức tạp của dòng chảy thứ cấp trong một miền tính phức
tạp. Một số các mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát chính được sử dụng trên
thế giới có thể kể đến như.
ECOMSED: mô hình thủy động lực, sóng và vận chuyển bùn cát sử dụng
phương pháp sai phân hữu hạn trong hệ tọa độ đường cong trực giao, được phát triển
bởi Blumberg và Mellor (1987) [20]. Mô hình giả thuyết ứng suất tuân theo quy luật
thủy tĩnh, có khả năng dự báo các yếu tố thủy lực dòng chảy và vận chuyển bùn cát
trong một khối nước lớn như hồ và đại dương.
RMA-10: mô hình thủy động lực sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn, có thể
tính toán mực nước và các thành phần vận tốc theo phương nằm ngang đối với dòng
chảy tầng [21]. Nó được xây dựng với giả thuyết gia tốc dòng chảy theo phương thẳng
đứng rất nhỏ và có thể bỏ qua (áp suất theo quy luật thủy tĩnh). Mô hình giải phương
trình chuyển tải đối với độ mặt, nhiệt độ và bùn cát lơ lửng và kết hợp với ảnh hưởng
của khối lượng lên khối lượng riêng của chất lỏng. Mô hình thích hợp cho việc tính toán
chế độ thủy động lực cho vùng ngập triều và vùng đầm lầy. Mô hình chỉ có thể ứng
dụng đối với bùn cát đồng nhất.
GBTOXe: là một mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát, giải bằng
phương pháp sai phân hữu hạn trong hệ tọa độ đường thẳng [22]. Thành phần thủy động
lực của mô hình (GBHYDRO) giả thuyết dòng chảy theo quy luật thủy tĩnh và có tính
đến quá tình xáo trộn và lưu thông của cột nước; thành phần vận chuyển bùn cát
(GBSED) chỉ tính đối với bùn cát kết dính.
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 239
EFDC3D: là mô hình thủy động lực và chất lượng nước, sử dụng phương pháp
sai phân hữu hạn trong trong hệ tọa độ lưới đường cong trực giao hoặc lưới đường
thẳng với phép xấp xỉ sigma trên phương đứng [23]. Mô hình giải phương trình 3D,
dòng chảy theo quy luật thủy tĩnh, có xét đến sự thay đổi khối lượng riêng của chất
lỏng. Mô hình có thể ứng dụng trong các khu vực cửa sông, hồ và ven biển. Nó có thể
mô phỏng được chất ô nhiễm và chất lượng nước.
ROMS: Đây là mô hình sử dụng phương pháp sai phân hữu hạn trong hệ tọa độ
lưới cong trực giao với phép xấp xỉ sigma theo phương đứng [24]. Mô hình có thể mô
phỏng dòng chảy mặt thủy tĩnh tuần hoàn trên đại dương và các thông số ảnh hưởng của
sóng mặt lên ứng suất và độ nhám ở đáy.
CH3D-SED: mô hình sai phân hữu hạn trên hệ tọa độ không trực giao với đường
cong khớp với biên, sử dụng phép biến đổi xấp xỉ sigma theo phương thẳng đứng [25].
Vận chuyển bùn cát sẽ được tính toán dựa trên phương trình cân bằng khối lượng bùn cát
đối với bùn cát đáy và kết hợp với phương trình tải – khuếch tán đối với bùn cát lơ lửng.
SSIIM: mô hình thủy động lực và vận chuyển bùn cát, sử dụng phương pháp thể
tích hữu hạn giải phương trình Navier – Stokes và mô hình rối k – ε trên lưới phi cấu
trúc [26]. Mô hình có khả năng mô phỏng vận chuyển bùn cát trên đáy sông biến đổi
với dạng địa hình phức tạp. Nó có thể ứng dụng cho các dạng đáy trong sông, vận
chuyển bùn cát đáy và bùn cát lơ lửng của các hạt không đồng dạng. Mô hình cũng có
thể ứng dụng trong mô phỏng chất lượng nước trong sông.
MIKE3: là mô hình thủy động lực sử dụng phương pháp sai phân hữu hạn được
phát triển bởi Danish Hydraulic Institute (1993) [27]. Nó bao gồm các thành phần tải –
khuếch tán, chất lượng nước, trao đổi nhiệt độ với áp suất không khí, xử lý ngập và khô
trong khu vực ảnh hưởng triều và quá trình vận chuyển bùn cát. Mike3 được ứng dụng
trong việc mô phỏng dòng chảy tại cửa sông, vịnh và khu vực bờ biển cũng như đại dương.
FAST3D: là mô hình thủy động lực, sử dụng phương pháp thể tích hữu hạn với
giả thuyết phi thủy tĩnh [28]. Mô hình có thể ứng dụng cho các miền tính phức tạp do bổ
xung thêm thuật toán có khả năng tính toán song song. Thành phần bùn cát của mô hình
DELFT3D: Mô hình Delft3D được phát triển bởi Delft Hydraulics
(www.wldelft.nl), nó có khả năng mô phỏng quá trình thủy động lực trong sông và vùng
ven biển, quá trình vận chuyển bùn cát, sóng, chất lượng nước, biến đổi hình thái lòng
dẫn, dòng chảy biển. Module Delft3D-Flow là hạt nhân của hệ thống mô hình Delft3D
tính toán dòng chảy dựa trên phương trình nước nông đối với dòng không ổn định.
Nhiều báo cáo, nghiên cứu khoa học về hình thái cửa sông, ven biển đã ứng dụng mô
hình Delft3D.
TELEMAC-3D: Đây là một trong những mô hình thủy động lực hình thái sông
hàng đầu trên thế giới có thể đáp ứng cho việc dự báo quá trình biến đổi hình thái cho
vùng cửa sông, ven biển. TELEMAC-3D sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn hoặc
thể tích hữu hạn, giải phương trình Navier – Stokes dạng phi thủy tĩnh hoặc thủy tĩnh
với lưới phi cấu trúc, đặc biệt rất mạnh với khả năng tính toán song song. Module
SISYPHE dùng để mô phỏng quá trình vận chuyển bùn cát, module TOMAWAC tính
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
240 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
toán sóng và module TELEMAC-3D/2D là hạt nhân của mô hình có khả năng kết nối
với các module khác.
3. KẾT LUẬN VÀ THẢO LUẬN
Nhiều mô hình trong nước đã được các nhà khoa học trong nước phát triển, và
đã ứng dụng được rộng rãi và thành công. Tuy nhiên, phần lớn các mô hình trong nước
chỉ tập trung vào giải quyết bài toán thủy động lực và lan truyền chất mà chưa/ hoặc ít
mô hình đề cập đến vận chuyển bùn cát. Các mô hình trong nước do các cá nhân phát
triển nên về mặt thương mại còn hạn chế ở khả năng linh hoạt trong xây dựng sơ đồ
toán cũng như tổ chức số liệu đầu vào, trình bày kết quả mặc dù tính học thuật không
kém gì các mô hình thương mại khác.
Các mô hình khác nhau về các điều kiện sử dụng, yêu cầu về số liệu đầu vào cho
mô hình, mức độ phức tạp, tốc độ tính toán và độ chính xác Tuy nhiên, nói chung không
có mô hình nào được xem là tốt nhất mà chỉ có mô hình phù hợp và những yếu tố ảnh
hưởng nhiều đến việc lựa chọn mô hình có thể được kể đến như sau: (1) số liệu đầu vào và
đầu ra của mô hình; (2) khả năng ứng dụng; (3) mục đích của người sử dụng; (4) khả năng
đáp ứng về phần cứng máy tính; (5) chi phí mua phần mềm; (6) khả năng cập nhật. Gần
đây, xu hướng mã nguồn mở đem đến cho người sử dụng những trãi nghiệm mới mẻ. Tuy
nhiên, mã nguồn mở thường khó sử dụng hơn so với các mô hình thương mại.
Nếu xem xét đến sáu yếu tố lựa chọn mô hình ở trên thì TELEMAC có thể xem
là mô hình rất thích hợp trong nghiên cứu, đặc biệt thích hợp cho các cá nhân hay tổ
chức không có khả năng về kinh phí. Ưu điểm lớn của mô hình Telemac là: (1) hổ trợ
rất mạnh cho khả năng tính toán song song cho phép vận hành trên các máy chủ lớn có
nhiều vi xử lý, do đó có thể rút ngắn được thời gian tính toán khi giải quyết bài toán lớn;
(2) đây là mô hình mã nguồn, qua đó người sử dụng có thể dễ dàng thay đổi mã nguồn
để có thể đưa vào những ý tưởng hay thay đổi một số các công thức cho phù hợp với
thực tế; (3) có khả năng tính toán cho trường hợp bùn cát hỗn hợp bao gồm kết dính và
không kết dính (bùn – cát); (4) hoàn toàn miễn phí; (5) được cập nhật thường xuyên; (6)
được sự hổ trợ đắc lực của nhóm tác giả phát triển mô hình và cộng đồng TELEMAC
trên khắp thế giới.
Có thể nói trong giai đoạn trước đây khái niệm tính toán song song ứng dụng
trong mô hình toán chưa phát triển nhiều nên một trong những khó khăn cho việc thiết
lập mô hình là giới hạn số lượng phần tử do khả năng giới hạn của phần cứng máy tính,
điều này cũng làm giảm chất lượng của mô hình. Đến năm 2000 kỹ thuật tính toán song
song đã bắt đầu xuất hiện, Hervouet J.-M đã phát triển phương pháp tính toán song song
(parallel) với độ chính xác rất cao và áp dụng vào mô hình TELEMAC để mô phỏng
trường hợp vỡ đập Malpasset tại Pháp vào năm 1959 [29]. Đến năm 2012, Riadh Ata.
đã bổ xung thêm sơ đồ toán giải phương trình Saint-Venant bằng phương pháp thể tích
hữu hạn vào mô hình TELEMAC [30]; nghiên cứu cho thấy, phương pháp thể tích hữu
hạn cho kết quả rất tốt về chiều sâu nước, bảo toàn khối lượng, số hạng rối rất nhỏ và
khả năng xử lý khô/ướt. Những kết quả cũng mở ra những triển vọng mới trong việc
ứng dụng mô hình thủy động lực trong mô phỏng quá trình vật lý đòi hỏi sự chính xác
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM 241
cao. Sau đó nhiều nghiên cứu đã bắt đầu ứng dụng Telemac2d trong mô phỏng vỡ đập
tại Việt Nam như [31], [32], [33], [34], [35]...
Như vậy, có thể thấy rằng xu hướng mã nguồn mở đang và sẽ trở thành xu
hướng mới trong việc ứng dụng công cụ mô hình toán trong đánh giá, dự báo tài nguyên
nước. Do tính mở nền Telemac kích thích sự sáng tạo và sự hứng thú trong nghiên cứu.
Điều đó đã được chứng minh trong thời gian gần đây thông qua các chương trình hợp
tác và chuyển giao của AFD với Viện Khoa học Thủy lợi Miền Nam. Chính vì vậy,
Telemac là một trong những công cụ có khả thi trong ứng dụng công cụ mô hình toán
trong đào tạo và nghiên cứu khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tất Đắc (2009), Về các mô hình thủy lực và chất lượng nước phục vụ cho công tác
quy hoạch các hệ thống sông/kênh, Tập san Khoa học và Công nghệ Quy hoạch thủy lợi,
Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam.
2. Nguyễn Tất Đắc (2005), Mô hình toán cho dòng chảy và chất lượng nước trên hệ thống
sông kênh, NHÀ XUẤT BẢN NÔNG NGHIỆP, Tp. Hồ Chí Minh, pp. 149-150.
3. KRISHNAPP B. G. (1985), " Comparison of MOBED and HEC-6 river flow models",
Can. J. Civ.Eng. 12 (3), pp. 464-471.
4. Karim M.F. and Kennedy J.F. (1982), IALLUVIAL : a commuter based flow and
sediment routing for alluvial treams and its application to the Missouri River, Iowa Institute
of Hydraulic Research, The University of Iowa.
5. Holly F. M. and Rahuel J. L. (1990), "New numerical/physical framework for mobile-bed
modelling", Journal of Hydraulic Research. 28 (4), pp. 401-416.
6. PAPANICOLAOU A. N., BDOUR A., et al. (2004), "One-dimensional
hydrodynamic/sediment transport model applicable to steep mountain streams", Journal of
Hydraulic Research. 00 (0), pp. 1 - 19.
7. Thomas W. A. and Prashum A. I (1977), "Mathematical model of scour and deposition", J.
Hydr. Div. 110 (11), pp. 1613–1641.
8. Chang Howard H. (1984), "Modeling of River Channel Changes", Journal of Hydraulic
Engineering. 110 (2), pp. 157-172.
9. Molinas A. and Yang J. C. (1986), Computer program user’s manual for GSTARS, U.S.
10. Runkel R. L. and Broshears R. E. (1991), OTIS: One-dimensional transport with inflow
and storage: A solute transport model for small streams, CADSWES Technical Rep.
11. Onishi Y. and Wise S. E. (1982), SERATRA: User’s manual for the instream sediment-
contaminant transport model, Technical Rep.
12. van Rijn L. C. and Tan G. L. (1985), Sutrench model: Two dimensional vertical
mathematical model for sedimentation in dredged channels and trenches by currents and
waves, Rijskwaterstaat communications, pp. 11.
13. Spasojevic M. and Holly F. M. (1990), MOBED2: Numerical simulation of two-
dimensional mobile-bed processes, Iowa Institute of Hydraulic Research.
TUYEÅN TAÄP KEÁT QUAÛ KHOA HOÏC & COÂNG NGHEÄ 2016
242 VIEÄN KHOA HOÏC THUÛY LÔÏI MIEÀN NAM
14. Luettich R. A., Westerink J. J., et al. (1992), ADCIRC: An advanced three-dimensional
circulation model for shelves, coasts, and estuaries: Report 1, theory and methodology of
ADCIRC-2DDI and ADCIRC-3DL, US Army Corps of Engineers.
15. Bosboom J., Aarninkhof S. G., et al. UNIBEST TC-2.0 model: Overview of formulations,
Delft Hydraulics.
16. Bùi Minh Đức (1998), Depth-average numerical modeling of flow and sediment transport
in the Elbe River, 3rd Int. Conf. on Hydroscience and Eng., Berlin.
17. Chang H. H. (1998), Generalized computer program: Users’ manual for FLUVIAL-12:
Mathematical model for erodible channels, San Diego.
18. Walstra D. J., van Rijn L. C., et al. (1998), Sand transport at the lower shoreface of the
Dutch coast, delft hydraulics.
19. Jia Y. and Wang S. (1999), "Numerical model for channel flow and morphological change
studies", Journal of Hydraulic Engineering. 125 (9), pp. 924-933.
20. Blumberg A. F. and Mellor G. L. (1987), "A description of a threedimensional coastal
ocean circulation model", Coastal and Estuarine Sciences. 4, pp. 1-16.
21. King I. P. (1988), A finite element model for three dimensional hydrodynamic systems,
U.S. Army Corps of Engineers.
22. Bierman V. J. (1992), Development and validation of an integrated exposure model for
toxic chemicals in Green Bay, Lake Michigan, Environmental Research Laboratory,
Duluth, Minn.
23. Hamrick J. H. (1992), A three-dimensional environmental fluid dynamics computer code:
Theoretical and computational aspects, Marine Science and Ocean Engineering, Virginia
Institute of Marine Science, Gloucester Point, Va.
24. Song Y. T. and Haidvogel D. (1994), "A semi-implicit primitive equation ocean circulation
model using a generalized topographyfollowing coordinate system.", Journal of
computational physics. 115, pp. 228-244.
25. Spasojevic M. and Holly F. M. (1994), Three-dimensional numerical simulation of mobile-
bed hydrodynamics, U.S. Army Engineer Waterways Experiment Station, Vicksburg, Miss.
26. Olsen N.R.B. (1994), "SSIIM - a three-dimensional numerical model for simulation of
water and sediment flow", Transactions on Ecology and the Envir
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_dia_ki_thuat_phan_2_chinh_tri_song_bao_ve_bo_song.pdf